|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:48:19 GMT -6
Chương 15
Buổi sáng trong veo và lấp lánh trên những đồng cỏ. Pat và tôi ngồi ở bìa một khoảnh rừng thưa, ăn điểm tâm. Tôi nghĩ phép hai tuần và đang trên đường du lịch với Pat. Chúng tôi đi ra biển.
Một chiếc Citroen nhỏ, cũ đậu ở ven đường. Chúng tôi mua trả góp nhờ chiếc Ford, và Koster cho tôi mượn đi chơi. Nó như một con lừa nhẫn nại, thồ đầy hòm xiểng trên lưng.
"Hy vọng nó không hư bất tử dọc đường," tôi nói.
"Không đâu," Pat trả lời.
"Sao em biết?"
"Tất nhiên. Đây là cuộc du ngoạn của chúng ta, Robby."
"Có lẽ," tôi đáp. "Nhưng anh biết cái trục sau của nó. Nhìn thảm lắm. Nhất là phải chở nặng như thế."
"Nó là anh em của Karl. Nó sẽ chịu đựng được."
"Người anh em mắc bệnh còi xương trầm trọng."
"Đừng chê bai nó, Robby. Nó là chiếc xe đáng yêu nhất đối với em, lúc này."
"Em qua đây," tôi nói.
"Để làm chi?"
"Khó nói."
Trên đồng cỏ, chúng tôi nằm song song bên nhau thêm một lúc. Gió từ cánh rừng thổi ra, ấm áp và dịu dàng. Gió thơm hương nhựa thông và hoa dại.
"Robby," một lát sau Pat hỏi, "những bông hoa đàng kia, bên dòng suối, tên gì hở anh?"
"Cỏ Chân Ngỗng," tôi trả lời, không cần nhìn lên.
"Nhưng anh yêu! Không phải Cỏ Chân Ngỗng, hoa Cỏ Chân Ngỗng nhỏ hơn nhiều; ngoài ra, chúng chỉ nở vào mùa xuân."
"Đúng," tôi nói. "Rau Tề."
Nàng lắc đầu. "Em biết Rau Tề. Hoa này trông khác hẳn."
"Vậy là Độc Cần."
"Nhưng Robby! Hoa Độc Cần không đỏ, mà trắng."
"Vậy anh không biết. Từ nào đến giờ, nếu bị hỏi, anh cứ nói đại ba cái tên ấy là xong. Các cô thường tin vào một trong ba cái tên ấy."
Nàng cười to. "Tội thì thôi. Nếu biết thế, em đã bằng lòng với tên Cỏ Chân Ngỗng."
"Độc Cần," tôi nói. "Anh thành công nhất với tên Độc Cần."
Nàng ngồi dậy. "Phấn khởi nhỉ. Vậy anh thường được hỏi lắm sao?"
"Không thường lắm. Và trong những trường hợp hoàn toàn khác."
Nàng chống tay trên mặt đất. "Thật xấu hổ khi người ta chạy loanh quanh khắp nơi trên trái đất, thế nhưng lại không biết gì về nó. Ngay cả mấy cái tên vặt."
"Em đừng buồn," tôi nói, "có một nỗi xấu hổ lớn hơn, đó là người ta lại còn không biết người ta loanh quanh chạy khắp trái đất để làm gì. Và biết thêm nhiều hay ít hơn một vài cái tên thì có quan trọng gì đâu."
"Anh cứ nói vậy. Nhưng em tin anh chỉ nói như thế bởi lười nhác."
Tôi trở mình. "Dĩ nhiên. Nhưng ta cũng không chiêm nghiệm đủ về sự lười nhác. Lười nhác là nền tảng của tất cả hạnh phúc và kết thúc của mọi triết lý. Đến đây em, nằm xuống. Người ta nằm quá ít. Người ta lúc nào cũng đứng, hoặc ngồi. Như vậy thể xác không được dễ chịu. Chỉ khi người ta nằm xuống, họ mới hoàn toàn hòa thuận với bản thân."
Một chiếc xe hơi rầm rù chạy ngang rồi biến mất.
"Mercedes nhỏ," tôi nói mà không ngồi dậy. "Bốn xy-lanh."
"Có xe khác đến nữa," Pat trả lời.
"Vâng, anh có nghe. Một chiếc Renault. Phải đầu xe trông giống mỏ heo không?"
"Vâng."
"Vậy đúng là Renault. Nhưng hãy lắng nghe, một chiếc xe chính hiệu sắp chạy đến. Một chiếc Lancia. Anh dám cá, nó sẽ đuổi theo hai cái xe kia như một con sói đuổi theo đôi cừu. Chỉ cần lắng nghe tiếng máy nổ. Như tiếng đàn ống nhà thờ."
Chiếc xe lao vút qua. "Em đoán, anh biết nhiều hơn ba hiệu xe ?" Pat hỏi.
"Dĩ nhiên. Và biết đúng, còn muốn gì hơn?"
Nàng cười to. "Như vậy buồn lắm, hay không buồn?"
"Không buồn gì hết. Thuận lẽ tự nhiên. Anh chuộng một chiếc xe đẹp hơn là hai mươi cánh đồng hoa."
"Đứa con ngỗ nghịch của thế kỷ hai mươi! Em đoán, anh không phải là người đa cảm."
"Ô, anh đa cảm chứ, em vừa nghe đấy: với xe hơi."
Nàng nhìn tôi. "Em cũng thế," nàng nói.
Từ tàng cây linh san, một con chim cu cất tiếng. Pat bắt đầu đếm.
"Tại sao em làm thế?"
"Anh không biết ư? Nó gáy bao nhiêu tiếng thì ta sẽ sống thêm bấy nhiêu năm."
"Ach, vậy à, đúng rồi. Nhưng có một con khác đang gáy nữa kìa. Khi nó gáy, hãy lắc tiền. Tiền sẽ sinh sôi nảy nở."
Tôi móc mấy đồng lẽ trong túi ra và bụm tay lại, lắc thật mạnh.
"Đúng là anh," Pat cười nói. "Em muốn cuộc sống, còn anh muốn tiền."
"Để có thể sống," tôi trả lời. "Một người duy tâm chân chính phải phấn đấu để có tiền. Tiền bạc cho ta tự do về mặt tinh thần. Và tự do là cuộc sống."
"Mười bốn," Pat đếm. "Trước đây, em nghe anh nói khác."
"Đấy là thời kỳ đen tối của anh. Ta không nên chê bai tiền bạc. Chính tiền là thứ làm cho nhiều người đàn bà say tình. Mặt khác, tình làm cho nhiều người đàn ông tham lam. Do đó, tiền sẽ thúc đẩy lý tưởng --tình yêu chống lại vật chất."
"Hôm nay là ngày tốt của anh," Pat nói. "Ba mươi lăm."
"Đàn ông," tôi tiếp tục nói, "trở thành tham lam vì dục vọng của người đàn bà. Nếu không có đàn bà, sẽ không có tiền, và đàn ông sẽ là một sắc tộc anh hùng. Dưới chiến hào, không có đàn bà -- nơi ấy, cũng thế, người đàn ông có nhiều tiền đến đâu cũng không kể. Nơi ấy, anh ta chỉ được coi như một người đàn ông mà thôi. Và không nói tới chiến hào đâu nhé; anh chỉ mô tả tình yêu dưới ánh sáng thực của nó. Nó khơi dậy bản năng xấu xa của con người -- thôi thúc được sở hữu, địa vị, lợi nhuận, an nhàn. Không phải vô cớ mà những nhà độc tài muốn thuộc cấp của họ có gia đình -- vì như thế, những người ấy sẽ ít nguy hiểm hơn. Cũng không phải tự dưng mà các linh mục Thiên Chúa Giáo sống độc thân -- nếu có vợ, họ sẽ không bao giờ là những nhà truyền giáo can trường."
"Hôm nay thật là một ngày tuyệt vời của anh," Pat nói một cách biết ơn. "Năm mươi hai."
Tôi cất tiền vào túi và châm thuốc.
"Em sắp ngừng đếm`hay chưa?" Tôi hỏi. "Nếu không coi chừng, em sẽ đếm hơn bẩy mươi cho xem."
"Một trăm mới được, Robby. Một trăm là con số đẹp. Em muốn sống lâu ngần ấy."
"Bái phục em! Em can đảm thật. Nhưng em sẽ làm gì với tất cả những năm ấy?"
Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân. "Em có những suy nghĩ khác với anh về chuyện ấy."
"Hẳn vậy, Nhưng bẩy mươi năm đầu là những năm gian khổ. Sau đó, chắc phải dễ dàng hơn."
"Một trăm!" Pat tuyên bố, và chúng tôi lại lên đường.
Biển đến với chúng tôi như một cánh buồm bạc mênh mông. Trước khi nhìn thấy biển rất lâu, chúng tôi đã ngửi được vị mặn trong gió; chân trời tươi sáng hơn và xa vời hơn; và đột nhiên, trước mắt chúng tôi, biển trải dài, cuồn cuộn, huy hoàng và vô tận.
Con đường uốn một khúc cong gần biển. Rồi đến một cánh rừng và đàng sau rừng là một ngôi làng. Chúng tôi hỏi thăm căn nhà nơi chúng tôi dự định ở trọ. Căn nhà ấy nằm bên ngoài làng một khoảng khá xa. Koster cho chúng tôi biết địa điểm này. Anh đã ở đây cả năm trời, sau chiến tranh.
Đó là một căn nhà nhỏ, biệt lập. Tôi lượn hai vòng, rồi đậu chiếc Citroen cạnh nhà và bóp kèn. Từ rèm cửa sổ, một gương mặt trèn trẹt nhô ra, há hốc mồm nhìn chúng tôi trong giây lát rồi biến đi. "Hy vọng đó không phải là Fraulein Muller," tôi nói.
"Diện mạo của bà ấy ra sao, cũng không ăn nhằm chi," Pat trả lời.
Cửa mở. May quá, người ấy không phải là Fraulein Muller mà là một bà giúp việc. Fraulein Muller, chủ nhân của căn nhà, xuất hiện một phút sau. Bà là một cô gái lỡ thời, chải chuốt, với mái tóc hoa râm. Bà mặc một chiếc áo đen che kín cổ và kim cài áo là một chiếc thánh giá vàng.
"Mang vớ vào đi, Pat, cẩn thận vẫn hơn," tôi thì thào với Pat, sau khi thấy cái kim cài áo, và bước xuống xe.
"Herr Koster có nói với bà về chúng tôi, phải không ạ?" tôi nói.
"Vâng, chú ấy có đánh điện báo cho tôi rằng cô cậu sắp đến," bà cẩn thận quan sát tôi. "Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
"Ach, khỏe lắm -- trong thời buổi này."
Bà gật đầu và lại chú tâm tra hỏi. "Cậu quen với Koster bao lâu rồi?"
Đã đến giờ thẩm cung, tôi nghĩ, và nói số năm tôi đã quen biết anh. Bà ra vẻ hài lòng. Pat xuất hiện. Nàng đã mang vớ. Ánh mắt của Fraulein Muller dịu lại. Dường như Pat dễ chiếm được cảm tình của người khác, hơn là tôi.
"Vậy bà đã để dành phòng cho chúng tôi?" tôi hỏi.
"Nếu Herr Koster gởi điện tín đặt phòng cho cậu," Fraulein Muller nhìn tôi đầy khiển trách và nói, "thì cô cậu sẽ có căn phòng đep nhất," bà nói với Pat.
Pat mỉm cười. Fraulein Muller cũng mỉm cười. "Tôi dẫn cô đi xem nhé," bà nói.
Hai người đi trên một lối hẹp băng qua một khu vườn nhỏ. Tôi đủng đỉnh theo sau và cảm thấy thừa thãi, bởi Fraulein Muller chỉ nói chuyện với Pat mà thôi.
Căn phòng mà bà cho chúng tôi xem nằm ở tầng trệt, có cửa riêng mở ra vườn hoa. Tôi thích nó lắm. Phòng khá rộng, sáng sủa và ấm cúng. Nằm một bên, gần như trong một cái hốc nhỏ, là hai chiếc giường đơn.
"Thế nào?" Fraulein Muller hỏi.
"Đẹp lắm," Pat nói.
"Thực ra, phải nói là tuyệt vời," tôi nói, cố lấy lòng bà. "Còn phòng kia ở đâu ạ?"
Fraulein Muller chậm rãi quay lại. "Phòng kia? Phòng nào cơ? Cậu muốn một phòng khác à? Cậu không thích phòng này sao?"
"Phòng tuyệt đẹp," tôi nói, "nhưng --"
"Nhưng?" Fraulein Muller nói, hơi gắt. "Chẳng may, tôi không còn phòng nào đẹp hơn nữa."
Tôi sắp sửa giải thích rằng chúng tôi cần hai phòng đơn, thì bà đã nói: "Nhưng vợ cậu đã nói, phòng này được lắm mà."
Vợ cậu -- tôi có cảm giác như té lùi hai bước. Nhưng tôi vẫn còn nguyên ở vị trí cũ. Tôi len lén nhìn Pat, nàng đang tựa mình vào cửa sổ, cố nén cười khi nhìn tôi. "Nhà tôi, hẳn thế --" tôi dán mắt vào cái thánh giá vàng trên cổ áo Fraulein Muller. Tôi không dám liều lĩnh giải thích. Bà ấy sẽ rú lên và té xỉu. "Chỉ có điều, chúng tôi quen ngủ hai phòng," tôi nói."Mỗi người một phòng, ý của tôi là thế."
Fraulein Muller lắc đầu phản đối. "Hai phòng ngủ, khi đã cưới nhau -- hẳn là phong trào hiện nay."
"Không phải thế," tôi nói trước khi bà bắt đầu nghi ngờ. "Chả là nhà tôi rất khó ngủ. Chẳng may, tôi lại ngáy khá to."
"Ach, phải rồi, cậu ngáy," Fraulein Muller nói, như thể đã đoán biết từ lâu.
Tôi đang lo, không hiểu bà sẽ cho tôi một phòng trên lầu hay không, nhưng rõ ràng, hôn nhân rất mực thiêng liêng với bà. Bà mở cửa sang một phòng nhỏ bên cạnh, trong ấy không bày biện món gì, ngoại trừ một cái giường.
"Hay tuyệt," tôi nói, "thế thì tuyệt hảo. Nhưng liệu tôi có làm phiền ai không?" tôi muốn biết, nếu chỉ có một mình chúng tôi ở tầng trệt này.
"Cậu sẽ không làm phiền ai," Fraulein Muller nói, vẻ oai vệ biến mất. "Ngoại trừ cô cậu ra, không có một mống nào. Tất cả mọi phòng đều trống khách." Bà đứng lặng một chốc, rồi lấy lại uy nghi cũ. "Cô cậu muốn ăn tại đây hay ở ngoài phòng ăn?"
"Tại đây," tôi nói.
Bà gật đầu và đi ra.
"Úi, bà Lohkamp ơi," tôi nói với Pat. "Thế cũng xong. Nhưng anh không bao ngờ được, cái ngữ ấy lại mộ đạo đến thế. Dường như bà ta không thích anh thì phải. Cũng lạ, bởi anh thường được mấy bà già quý mến."
"Không phải bà già, Robby. Một cô gái già dễ thương."
"Dễ thương?" tôi nhún vai. "Bà ấy không biết thẹn -- cao cả, kiêu kỳ đến thế, mà lại chẳng có con ma nào ở trọ!"
"Bà ấy có kiêu kỳ đâu."
"Không có với em."
Pat cười to. "Em thích bà ấy. Nhưng bây giờ, ta nên khuân hành lý vào và lấy quần áo tắm ra chứ?
Tôi bơi chừng một tiếng rồi lên phơi nắng trên bờ. Pat vẫn tắm dưới biển. Cái nón trắng của nàng nhấp nhô trên những ngọn sóng xanh. Vài con hải âu lượn tròn trên không. Phía chân trời, một chiếc tàu chậm chạp đi tới, một làn hơi nước kéo theo sau.
Mặt trời cháy bỏng. Nó làm chảy mềm từng chống đối, khiến chúng trở thành buông thả, hời hợt và ngầy ngật. Tôi nhắm mắt, xoãi chân tay. Cát nóng lèo xèo. Tiếng sóng vỗ bờ xào xạc bên tai, khiến tôi nhớ lại một điều gì đó, một ngày đã xa, tôi cũng nằm như thế ...
Đó là mùa hè, 1917. Đại đội của chúng tôi lúc ấy đóng tại Flanders và thình lình chúng tôi được mấy ngày phép ở Ostend -- Meyer, Holthoff, Bryer, Lutgens, tôi và vài người khác. Hầu hết mọi người chưa từng thấy biển, và những ngày hiếm hoi ấy -- một khoảng lặng không ngờ giữa hai đầu nỗi chết -- đã được tận hiến cho mặt trời, cát và biển. Chúng tôi ở lỳ suốt ngày trên bãi, phơi trần dưới nắng -- để có cảm giác nhẹ nhõm, không quân nhu, không súng trường, không áo trận, và hầu như đạt đến bình an. Chúng tôi đuổi bắt nhau trên cát và nhảy ùm xuống nước; chúng tôi ý thức về tay chân, về hơi thở, về những cử động, với tất cả sức sống mãnh liệt đang có -- bởi trong những giờ phút ấy, chúng tôi quên tất cả, và chúng tôi muốn quên. Nhưng buổi tối, khi hoàng hôn xuống, khi mặt trời đã lặn và bóng xám từ chân trời lan ra khắp mặt nước xanh xao, tuần tự pha trộn ở đấy cùng với tiếng gầm của sóng một tiếng động khác, lớn dần và cuối cùng nhấn chìm nó -- một âm thanh ầm ì, đáng sợ: trận mưa bom ngoài Tiền Tuyến. Rồi đột ngột, sự im lặng tím tái cắt ngang câu chuyện, người ta ngước lên trời nghe ngóng, và từ gương mặt tươi vui của các cậu học trò, mệt mỏi vì chơi đùa, bỗng lộ ra bộ mặt cứng rắn của người lính, sững sờ trong phút chốc, một nỗi buồn ẩn tàng những điều không bao giờ thổ lộ --lòng can đảm, nỗi cay đắng và tham lam của cuộc đời, ý chí tuân hành nhiệm vụ, niềm tuyệt vọng, lòng hy vọng và nỗi buồn bí ẩn của những người đã sớm được chỉ định cho cái chết. Rồi, vài ngày sau, cuộc Tổng Tấn Công bắt đầu, và đến mùng ba tháng Bảy, đại đội chỉ còn lại ba mươi hai người, và Meyer, Holthoff và Lutgens đã chết...
"Robby!" Pat gọi.
Tôi mở mắt. Trong một thoáng, tôi phải định thần xem mình ở đâu. Lúc nào cũng vậy, khi kỷ niệm của chiến tranh ùa về, hồn ta cứ lâng lâng nơi nao. Với những kỷ niệm khác, thì lại không như thế.
Tôi ngồi dậy, Pat từ dưới nước đi lên. Nàng gần như lọt trong luồng nắng từ mặt trời rọi xuống nước, huy hoàng phủ trên bờ vai, và nàng ngập sâu trong ánh sáng đến nỗi có vẻ đen sậm so với nó. Theo từng bước chân, nàng nhô cao dần cho đến khi mặt trời buổi chiều khuất sau đầu nàng như một vòng hào quang.
Tôi nhảy cẫng lên, thật siêu thực, thật rõ ràng đến đổi bức tranh trước mắt tôi như đến từ một thế giới khác --nền trời bao la, xanh ngát, bọt trắng viền ngọn sóng, và thân hình yêu kiều mảnh khảnh của nàng bên trên đó -- như chỉ có một mình tôi ở trái đất và từ dưới biển bước lên người đàn bà đầu tiên. Trong một chốc, tôi cảm thấy sức mạnh lộng lẫy im lìm của cái đẹp, và tôi biết nó mạnh hơn tất cả quá khứ nhuộm máu, nó phải mạnh hơn, nếu không thế giới sẽ sụp đổ, đắm chìm và hủy diệt trong mớ bòng bong của chính nó. Hơn thế, tôi còn có cảm tưởng rằng, chỉ đơn giản là, tôi ở đó, và Pat ở đó, rằng tôi đang sống, rằng tôi đã thoát khỏi chốn kinh hoàng, rằng tôi có đầy đủ mắt mủi tay chân và tư tưởng và nhiệt huyết, và rằng tất cả những thứ ấy quả thật là một phép mầu ngoài tầm hiểu biết của con người.
"Robby!" Pat lại gọi và vẫy tay.
Tôi nhặt manh áo choàng của nàng và bước nhanh đến. "Em ngâm nước quá lâu," tôi nói.
"Em vẫn thấy ấm," nàng nói, thở dốc.
Tôi hôn bờ vai ướt. "Em cần phải điều độ ngay từ đầu."
Nàng lắc đầu và rạng rỡ nhìn tôi. "Em đã sống điều độ quá đủ."
"Em nghĩ vậy?"
"Dĩ nhiên. Quá đủ. Em định em sẽ không giữ điều độ nữa, thử thay đổi xem sao."
Nàng cười và áp một bên má ướt lên mặt tôi. "Chúng ta sẽ không thèm sống chừng mực nữa, Robby. Không nghĩ ngợi về một điều gì, tuyệt đối không, chỉ bản thân chúng ta và mặt trời, mùa lễ và biển cả."
"Em nói đúng," tôi nói, và cầm cái khăn tắm. "Nhưng trước hết anh phải lau cho em. Thế nhưng, em đi đâu mà da đã nâu hồng?"
Nàng kéo áo choàng lên. "Đó là những năm sống điều độ, khi em phải phơi nắng ở ban -công mỗi ngày một giờ. Và lên giường mỗi tối đúng tám giờ. Tám giờ tối nay, em sẽ tắm nữa."
"Để xem," tôi nói. "Con người luôn có những dự tính lớn lao. Khi thực hành lại không bằng. Cái duyên của họ nằm ở đó."
Không tắm biển buổi tối. Chúng tôi đi bộ vào làng và lái chiếc Citroen trong ánh chiều tà -- đột nhiên Pat thấy mệt và muốn về. Tôi đã để ý thấy chuyện đó thường xảy ra cho nàng -- sức sống rạng ngời nhanh chóng kiệt quệ. Nàng yếu ớt và dễ mệt - tuy nhiên khi nhìn nàng, ta không hề có cảm tưởng ấy. Nàng luôn luôn tận dụng từng sớ nhỏ nguồn sinh lực của mình và với vẻ thanh xuân, trông như không thể nào kiệt sức; rồi thình lình đến một lúc, gương mặt của nàng trở nên xanh xao và đôi mắt trũng sâu với quầng đen -- thế là xong. Nàng không mệt mỏi từ từ, mà trong một giây.
"Chúng mình lái về nhà đi, Robby," nàng yêu cầu, và giọng nói u buồn của nàng trầm hơn bình thường.
"Về nhà? Về Fraulein Muller với cái thánh giá vàng trên ngực? Ai mà biết cái bà già quỷ quái ấy đang âm mưu gì?"
"Nhà, Robby," Pat nói và mệt mỏi ngã vào vai tôi. "Đó là nhà của chúng ta."
Tôi lái bằng một tay, còn tay kia choàng qua vai nàng. Và cứ thế chúng tôi lái chầm chậm trong hoàng hôn xanh, mù sương, và cuối cùng khi nhìn thấy những cửa sổ sáng đèn của ngôi nhà nhỏ, thu mình trong khoảng trống của thung lũng như một con thú buồn, quả tình có một điều gì đó giống như ta quay trở về tổ ấm.
Fraulein Muller chờ sẳn. Bà đã thay y phục và thay vì chiếc áo đen bằng len, bà mặc một chiếc áo lụa đen, cắt cùng một kiểu thanh giáo. Và thay cho cái thánh giá vàng là một huy hiệu gồm ba thứ: trái tim, mỏ neo và thánh giá -- biểu tượng tôn giáo của niềm tin, hy vọng, và tình yêu.
Rõ ràng bà tỏ ra thân thiện hơn chiều nay và bà hỏi rằng món trứng, thịt nguội và cá hun khói mà bà chuẩn bị cho bửa ăn tối có đúng ý chúng tôi không.
"Chắc là có," tôi nói.
"Cậu không thích sao? Cá bơn vừa hun khói." Bà nhìn tôi, khá lo ngại.
"Dĩ nhiên," tôi nói, lạnh nhạt.
"Cá bơn vừa hun khói nghe ngon lắm," Pat nói, nhìn tôi trách móc. "Một bửa ăn tối tuyệt hảo, đúng như ý muốn của người ta sau ngày đầu tiên ở biển, Fraulein Muller ạ. Và nếu như có thêm trà nóng nữa thì ---"
"Vâng, hẳn rồi. Trà ngon nóng. Hân hạnh. Tôi sẽ cho người mang ra ngay, " Fraulein Muller, bớt lo âu, vội vàng đi ra, tà áo lụa sột soạt.
"Anh không thích ăn cá sao?" Pat hỏi.
"Anh mà không thích? Lại là cá bơn nữa chứ! Anh đã mơ tưởng tới chúng nhiều ngày qua."
"Vậy tại sao anh lại hành động như vậy? Có phần quá đáng!"
"Anh phải trả thù cách bà ấy đón tiếp chúng ta lúc chiều, phải không?"
"Choáng thật!" Pat cười. "Anh không bao giờ tha thứ cho ai sao? Em đã quên chuyện ấy từ lâu."
"Anh chưa quên," tôi nói. "Anh không quên dễ dàng như thế."
"Vậy anh cần phải quên," Pat đáp.
Bà giúp việc mang khay thức ăn đến. Những con cá bơn da vàng như hoàng ngọc và thơm mùi biển và khói. Lại có cả tôm tươi.
"Anh bắt đầu quên rồi đó," tôi hăm hở nói. "Anh nhận thấy, ngoài ra, anh lại còn đói bụng khủng khiếp."
"Em cũng thế. Tuy nhiên trước tiên, cho em xin, mau lên, trà nóng. Lạ lắm, nhưng em đang lạnh cóng người. Mà bên ngoài trời vẫn ấm."
Tôi nhìn nàng. Nàng xanh xao, dù mỉm cười. "Anh không nói một tiếng nào hết, về chuyện em tắm quá lâu," tôi nói, và hỏi bà giúp việc: "Chị có rum không?"
"Cái gì?"
"Rum. Một thứ thức uống đóng chai."
"Rum?"
"Vâng."
"Hả?"
Bà ấy há hốc mồm nhìn, gương mặt phì phị, tròn vành vạnh như trăng.
"Hả?" bà ấy hỏi, một lần nữa.
"Tốt," tôi trả lời. "Thôi đừng để ý. Chào chị. Xin Chúa ban phước lành cho chị."
Bà ấy biến mất. "Thật may, Pat, chúng ta có một người bạn biết lo xa," tôi nói. "Sáng nay khi khởi hành, Lenz đã thẩy vào xe một cái gói khá nặng. Hãy xem coi trong ấy có gì."
Tôi ra xe lấy gói quà. Đó là một thùng nhỏ đựng bốn chai rum, một chai cognac và một chai port. Tôi dơ chúng lên cao. "Rum hiệu St. James nữa cơ! Các cậu ấy thật xứng đáng với lòng tin của ta."
Tôi khui các chai rượu và rót khá nhiều vào tách trà của nàng. Tay nàng run rẩy. "Em lạnh đến mức đó à?" tôi hỏi.
"Tạm thời thôi. Đã khá hơn lúc nãy. Rum ngon lắm. Nhưng em sẽ lên giường sớm."
"Ngay bây giờ, Pat ạ," tôi nói. "Mình có thể đẩy cái bàn vào và ăn tại đó."
Nàng bằng lòng. Tôi đem đến cho nàng một cái mền khác, lấy từ giường của tôi. Và tôi đẩy cái bàn vào đúng vị trí. "Có lẽ em cần một ly Grog, Pat? Như thế vẫn tốt hơn. Anh có thể pha một ly rất nhanh."
Nàng lắc đầu. "Em thấy khỏe lại rồi."
Tôi liếc nàng. Quả thực nàng trông khỏe hẳn. Mắt long lanh trở lại, môi đỏ au và làn da tươi sáng.
"Không thể ngờ kết quả nhanh thế," tôi nói. "Nhờ rum, chắc vậy."
Nàng mỉm cười. "Nhờ cái giường nữa, Robby. Trên giường, em hồi phục nhanh. Giường là chỗ an trú của em."
"Tuyệt vời. Anh sẽ phát điên nếu anh phải lên giường sớm. Một mình, ý của anh là vậy."
Nàng cười. "Với phụ nữ, lại khác."
"Đừng nói là với một phụ nữ. Em không phải là một người đàn bà."
"Vậy em là ai?"
"Anh không biết. Nhưng không phải là một người đàn bà, Nếu em là một người đàn bà chuẩn mực, anh sẽ không thể yêu em."
Nàng nhìn tôi. "Dù sao đi nữa, anh có thể yêu không?"
"Ơ," tôi nói, "đó là một câu hỏi rất hay trong giờ ăn tối. Em còn câu hỏi nào tương tự nữa không?"
"Có lẽ có. Nhưng câu này thì sao?"
Tôi rót cho mình một ly rum. "Pros't, Pat. Có lẽ em đúng. Có lẽ không một ai trong chúng ta có thể yêu. Không như ngày xưa, anh muốn nói thế. Nhưng không phải vì vậy mà tệ hơn. Chỉ là khác biệt. Chúng ta không còn thấy như thế nữa."
Có tiếng gõ cửa. Fraulein Muller đi vào. Bà cầm một cái bình thủy tinh bé như ngón tay chỉ có một giọt chất lỏng sóng sánh dưới đáy. "Tôi đem rum đến cho cô cậu."
"Cám ơn," tôi nói, vô cùng xúc động và ngắm cái đê thủy tinh. "Thật quý hóa, nhưng chúng tôi đã tự lo liệu."
"Trời ơi!" Bà mất hồn, trố mắt nhìn bốn chai rượu trên bàn. "Cô cậu uống hết ngần ấy sao?"
"Để chửa bệnh thôi," tôi nhẹ nhàng nói và tránh nhìn vào mắt Pat. "Uống theo toa bác sĩ. Gan của tôi khô quá, Fraulein Muller ạ. Nhưng cho tôi hân hạnh được mời bà nhé?"
Tôi khui chai port. "Mừng sức khỏe của bà! Xin chúc nhà trọ được đông khách."
"Rất cảm ơn." Bà thở dài, khẻ cúi chào và nhấp từng chút rượu, nhỏ nhẹ như một con chim. "Ngày lễ vui nhé!" Rồi bà mỉm cười nhìn tôi, ra vẻ hiểu biết. "Rượu mạnh. Và ngon lắm."
Ly rượu trong tay tôi suýt nữa rơi tuột trước chuyển biến này. Gò má Fraulein Muller ửng hồng, mắt long lanh và bà bắt đầu chỉ dạy những chuyện mà chúng tôi chẳng mấy quan tâm. Với bà, Pat có lòng nhẫn nại của một thiên thần. Cuối cùng, Fraulein quay lại tôi.
"Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
Tôi gật đầu.
"Thuở đó, cậu ấy rất lặng lẽ," bà nói. "Có khi suốt ngày chẳng nói một tiếng nào. Bây giờ cậu ấy vẫn như thế?"
"Thỉnh thoảng anh ấy có trò chuyện."
"Cậu ấy sống ở đây gần một năm. Một mình --"
"Vâng," tôi nói. "Lúc đó người ta có khuynh hướng nói ít hơn."
Bà long trọng gật đầu, rồi nhìn qua Pat. "Chắc cô mệt lắm."
"Hơi mệt ạ," Pat nói.
"Mệt vô cùng," tôi xen vào.
"Vậy, tất nhiên tôi sẽ lui ra," bà giật mình đáp. "Tạm biệt cô cậu, ngủ ngon nhé."
Bà ngập ngừng bước đi.
"Anh nghĩ bà ấy còn muốn ngồi lại," tôi nói. "Lạ nhỉ, đột nhiên thay đổi, tại sao?"
"Tội nghiệp bà ấy," Pat trả lời. "Đêm đêm cô đơn trong phòng, em chắc vậy, lo âu."
"Ach, thế đấy, vâng --" tôi nói. "Nhưng anh vẫn nghĩ rằng, nói chung, anh đối xử khá tử tế với bà ấy, phải không?"
"Vâng," nàng vuốt tóc tôi. "Hé cửa dùm em, Robby."
Tôi ra mở cửa. Ngoài kia, trời trong hơn và một mảng trăng rơi trên lối đi, len vào phòng. Như thể vườn hoa đã chờ sẳn đến khi cửa mở -- hương đêm của những loài hoa lập tức ùa vào, mùi quế trúc, mộc tê và hồng hoa thơm ngát.
"Nhìn kìa em," tôi nói, trỏ tay.
Dưới ánh trăng ta có thể thấy trọn vẹn lối đi trong vườn. Những thân hoa gục đầu hai bên lề, lá ánh màu bạc cũ, và những bông hoa tươi thắm lúc ban ngày nay ngã sang màu phấn tiên, óng ánh, ma quái và nhàn nhạt. Đêm và trăng đã đánh cắp sức mạnh của sắc màu của chúng -- nhưng bù lại, hương nồng hơn, ngọt hơn.
Tôi nhìn qua Pat. Tóc huyền xõa trên nền gối trắng, Pat mềm mại, thanh nhã và mong manh. Nàng không có nhiều sức mạnh -- nhưng nàng cũng có sự bí ẩn của một thứ gì dễ tàn phai, bí ẩn của những bông hoa trong hoàng hôn và dưới ánh trăng lung linh.
Nàng nhỏm người lên. "Em mệt vô cùng, Robby. Tệ quá anh nhỉ?"
Tôi ngồi trên giường, cạnh nàng. "Không đâu. Em sẽ ngủ yên."
"Nhưng anh đâu đã muốn đi ngủ?"
"Anh sẽ đi dạo ở bãi biển trước vậy."
Nàng gật đầu và ngã mình xuống. Tôi ngồi đó một lúc.
"Anh cứ để cửa mở suốt đêm nhé," nàng nói, đã say ngủ. "Như thế giống như ngủ trong vườn."
Hơi thở của nàng sâu dần và tôi nhẹ nhàng đứng lên và đi ra vườn. Tôi đứng bên hàng rào gỗ và hút một điếu thuốc. Ở đó, tôi có thể nhìn vào phòng. Áo tắm của Pat móc trên ghế, áo đầm và mấy thứ đồ lót vứt trên đấy, và dưới đất phía trước ghế là đôi giày của nàng. Một chiếc lật nghiêng. Tôi có cảm giác như đang ở nhà khi nhìn quang cảnh ấy, và nghĩ rằng, it nhất bây giờ cũng có ai đó ở đó và sẽ ở đó, rằng tôi chỉ cần bước vài bước là có thể gặp nàng và được ở bên nàng, hôm-nay, ngày-mai, và có lẽ cả một đời --
Có lẽ, tôi nghĩ, có lẽ -- lúc nào cũng hai chữ đó, người ta không thể tránh được. Chúng ta thiếu sự chắc chắn, mọi người và mọi thứ đều thiếu sự chắc chắn.
Tôi ra bãi biển, đến với đại dương và gió, đến với âm thanh ầm ì với tiếng dội như tiếng bom từ xa vọng lại.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:49:18 GMT -6
Chương 16
Tôi ngồi ở bãi biển, ngắm mặt trời lặn. Pat không ra. Cả ngày hôm nay, nàng không khỏe lắm.
Trời tối dần, tôi đứng dậy đi về. Vừa khi ấy, qua rừng cây, tôi nhìn thấy bà giúp việc đang lúp xúp chạy tới. Bà huơ tay ra dấu và la hét một điều gì đó. Tôi không hiểu; tiếng gió và biển quá lớn. Tôi vẫy tay cho bà ấy đứng lại; tôi sẽ chạy tới chỉ trong một phút. Nhưng bà ấy tiếp tục, tay chụm quanh miệng.
"Vợ ông ..." tôi nghe. "Nhanh lên ..."
Tôi phóng tới. "Chuyện gì thế?"
Bà ấy thở hào hển. "Nhanh lên ...vợ ông ... tai nạn ..."
Tôi cuống cuồng chạy thục mạng trên con đường cát xuyên qua cánh rừng thưa dẫn về nhà trọ. Cổng rào gỗ bị kẹt; tôi nhảy qua và ào vào phòng. Pat nằm đó, ngực đẫm máu, tay nắm chặt, máu trào ra từ miệng. Fraulein Muller đứng cạnh, với khăn lông và một chậu nước.
"Cái gì thế?" tôi la lên, đẩy bà sang một bên.
Bà nói một câu gì đó. "Đem bông băng lại!" tôi khóc. "Vết thương ở chỗ nào?"
Bà nhìn tôi, môi run rẩy. "Không có vết thương ..."
Tôi cứng người. "Thổ huyết," bà nói.
Tôi có cảm giác bị búa bổ. "Thổ huyết?" Tôi đứng lên, giật thau nước khỏi tay bà. "Đem nước đá tới, mau lên, nước đá."
Tôi nhúng khăn vào chậu nước, và trải trên ngực Pat.
"Nhà không có nước đá," Fraulein Muller nói.
Tôi quay ngoắt lại. Bà thụt lùi. "Nước đá, khổ quá bà ơi! Chạy ra quán rượu gần nhất. Và gọi điện cho bác sĩ ngay lập tức."
"Nhưng chúng tôi không có điện thoại ..."
"Quỷ thần ơi! Chỗ nào gần đây có điện thoại?
"Nhà Massmann."
"Đi ngay. Nhanh lên! Gọi điện cho bác sĩ gần nhất. Bác sĩ tên gì? Nhà ở đâu?"
Trước khi bà kịp trả lời, tôi đẩy bà. "Mau lên, mau lên, cố chạy thật mau. Bao xa vậy?"
"Ba phút," bà nói và lật đật đi ra.
"Đem nước đá về nhé," tôi gọi vói theo.
Bà gật đầu và chạy đi.
Tôi lấy thêm nước và một lần nữa nhúng khăn vào. Tôi không dám động tới Pat. Tôi không biết nàng nằm như thế là đúng cách hay không; tôi tuyệt vọng vì tôi không biết điều tôi cần biết -- nên lót gối dưới đầu nàng, hay để nàng nằm thẳng.
Nàng nấc nghẹn, rồi trỗi dậy và phun ra một bụm máu. Hơi thở eo éo như tiếng khóc, đôi mắt hoảng loạn, nàng nuốt và nghẹn và ho, và máu lại phún ra. Tôi ôm chặt nàng, một tay luồn dưới vai. Tôi cảm nhận phiến lưng rung giật, vật vã-- thời gian như kéo dài vô tận. Rồi nàng lả ra, mềm nhũn.
Fraulein Muller bước vào. Bà nhìn tôi, và trông như một bóng ma.
"Chúng ta phải làm sao bây giờ?" tôi gào lên.
"Bác sĩ sẽ đến ngay," bà thì thầm."Nước đá ... đặt lên ngực cô ấy -- và trong miệng, nếu cậu có thể ..."
"Dựng cô ấy dậy hay để cô ấy nằm? Chúa ơi, bà làm ơn nói nhanh hơn một chút được không?"
"Y như thế, để cô ấy nằm -- bác sĩ tới liền bây giờ."
Tôi chườm đá vụn lên ngực Pat, và bớt lo âu, vì rồi ra tôi cũng làm được một điều gì. Tôi đập cho đá vỡ, bọc trong gạc thưa và đặt chúng lên, nhưng lúc nào tôi cũng chỉ nhìn thấy hình ảnh của đôi môi yêu dấu, đôi môi thống khổ, đôi môi, đôi môi ứa máu ...
Kìa, tiếng nổ bành bạch của một chiếc mô tô. Tôi nhảy lên. Bác sĩ.
"Tôi có thể giúp gì không?" tôi hỏi. Bác sĩ lắc đầu và mở túi cứu thương. Tôi đứng bên giường cạnh ông, tay nắm cứng cọc giường. Ông nhìn lên. Tôi lùi lại, mắt vẫn dán chặt vào ông. Ông khám lồng ngực Pat. Pat rên khẻ.
"Có nguy hiểm không bác sĩ ?" tôi hỏi.
"Vợ cậu điều trị ở đâu vậy?" ông trả lời.
"Cái gì? Điều trị?" tôi lắp bắp.
"Ai là bác sĩ của cô ấy?" ông ta nóng nẩy hỏi.
"Tôi không biết ..." tôi trả lời. "Không, tôi không biết gì cả ... tôi không tin là ..."
Ông nhìn tôi. "Nhưng cậu phải biết."
"Nhưng tôi không biết. Cô ấy không bao giờ nói cho tôi biết gì cả."
Ông cúi xuống, hỏi Pat. Nàng cố trả lời. Nhưng một lần nữa, cơn ho đỏ thắm lại bật ra. Bác sĩ nâng nàng lên. Nàng hớp từng ngụm không khí và thở khò khè, mệt nhọc.
"Jaffé," nàng hổn hển nói, ồng ộc.
"Felix Jaffé? Giáo sư Felix Jaffé?" bác sĩ hỏi. Đôi mắt nàng xác nhận. Ông quay lại tôi. "Cậu gọi điện thoại cho giáo sư được không? Có thể mời giáo sư đến không?"
"Vâng, vâng," tôi trả lời. "Tôi sẽ gọi ngay. Rồi tôi sẽ đi đón ... Jaffé?"
"Felix Jaffé," bác sĩ nói. "Hỏi nhân viên tổng đài số điện thoại của ông ấy."
"Liệu cô ấy có qua khỏi không, bác sĩ ?" tôi tiếp tục hỏi.
"Cần phải ngừng thổ huyết," bác sĩ nói.
Tôi tìm thấy bà giúp việc và khởi chạy trên đường làng. Bà chỉ tôi căn nhà có điện thoại. Tôi hộc tốc chạy đến, gõ cửa. Một nhóm người đang quây quần uống cà phê và bia. Tôi liếc nhìn họ và không thể hiểu vì sao người ta lại có thể uống bia trong khi Pat đang xuất huyết. Tôi xin tổng đài gọi khẩn và đứng chờ bên điện thoại. Trong khi lắng nghe tiếng u u của bóng tối, tôi nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ, sống động qua phần kính lắp trên cánh cửa đi vào một căn phòng khác. Một cái đầu hói nhấp nhô tới lui, vàng vọt dưới ánh đèn, một cái kim cài áo trên lớp gấm đen của một cái áo đăng ten thít chặt, một cái càm đôi với cặp kính kẹp mủi và búi tóc cao ngất ngưởng -- một bàn tay già nua xương xẩu gân thô gõ nhịp trên bàn ... tôi không muốn nhìn, nhưng chẳng đặng đừng; nó cứ xoáy vào mắt tôi như một nguồn ánh sáng chói lòa.
Cuối cùng tôi cũng được trả lời. Tôi xin gặp giáo sư. "Rất tiếc," bà y tá nói. "Giáo sư Jaffé đã ra ngoài."
Tim tôi ngừng đập, rồi nện thình thịch như búa tạ. "Giáo sư đang ở đâu? Tôi cần phải nói chuyện với giáo sư ngay bây giờ."
"Tôi không biết. Giáo sư có thể đang ở bệnh viện."
"Xin sơ làm ơn gọi đến bệnh viện. Tôi sẽ đợi. Sơ có điện thoại khác, hẳn thế?"
"Xin chờ một chút." Tiếng gầm rú lại bắt đầu, bóng tối không đáy, bên trên là một sợi kim loại mỏng đong đưa. Tôi giật nảy mình. Trong lồng chim phủ khăn bên cạnh tôi, một con hoàng yến ríu rít. Lại có tiếng của bà sơ. "Giáo sư Jaffé vừa rời bệnh viện."
"Đi đâu?"
"Tôi không thể nói, thưa ông."
Thua. Tôi dựa lưng vào vách.
"A-lô!" bà sơ hỏi. "Ông vẫn còn đó?"
"Vâng. Xin hãy nghe -- sơ không biết khi nào giáo sư trở lại?"
"Không thể biết."
"Giáo sư không dặn dò gì sao? Hẳn giáo sư phải nói cho ai biết chứ! Nhỡ có chuyện gì xảy ra, ta mới có thể tiếp xúc với giáo sư, phải không?"
"Có bác sĩ trực ở bệnh viện."
"Sơ có thể nào ... không, như thế cũng chẳng ích gì, bác sĩ ấy cũng chẳng biết gì ... Thôi được, sơ ạ," tôi nói, rã rời như chết. "Nếu giáo sư Jaffé trở lại, xin giáo sư vui lòng gọi liền cho tôi, khẩn cấp." Tôi đọc cho sơ y tá số điện thoại. "Tối khẩn, xin sơ làm ơn nói dùm. Một vấn đề sống chết."
"Ông có thể tin tưởng nơi tôi, thưa ông. " Bà lập lại số điện thoại rồi cúp máy.
Tôi đứng đó, một mình. Những cái đầu đung đưa, mảng trán hói, cái kim cài áo, căn phòng kia, tất cả nhẳn thín như cao su, xa diệu vợi. Tôi nhìn quanh. Tôi không thể làm gì thêm, ở đây. Chỉ còn nói với họ, xin nhắn tôi nếu có ai gọi. Nhưng tôi không đành lòng rời khỏi điện thoại. Như thể buông bỏ dây cứu hộ. Bỗng nhiên tôi hiểu ra. Tôi cầm ống nghe và xin số của Koster. Chắc anh ấy đang có mặt ở đó. Không thể nào khác hơn.
Và rồi, trong cơn náo nhiệt đêm nay, giọng nói trầm lặng của Koster vang lên. Và tôi lập tức bình tỉnh, và tôi kể tất cả cho anh nghe. Tôi biết anh ghi chép lại.
"Được rồi," anh nói. "Tớ sẽ đi tìm ông ấy ngay. Tớ sẽ gọi lại. Đừng lo, tớ sẽ tìm được ông ấy."
Đã xong? Trái đất ngừng quay. Lời nguyền đã giải. Tôi chạy về.
"Sao?" ông bác sĩ hỏi, "cậu tìm được ngài giáo sư chứ?"
"Không," tôi nói, "nhưng tôi nói chuyện với Koster."
"Koster? Chưa bao giờ nghe đến tên này. Ông ấy nói gì? Cách chữa trị của ông ấy ra sao?"
"Chữa trị? Anh ấy có chữa chạy gì đâu. Anh ấy đi tìm một người."
"Tìm ai?"
"Jaffé."
"Lạy Chúa tôi -- vậy Koster là ai?"
"Ach so -- xin lỗi! Koster là bạn tôi. Anh ấy đi tìm giáo sư Jaffé. Tôi không gặp được Jaffé."
"Thật đáng tiếc!" ông bác sĩ nói, và quay lại Pat.
"Anh ấy sẽ tìm được ông ta," tôi nói. "Nếu ông ta chưa chết, anh ấy sẽ tìm được."
Ông bác sĩ nhìn tôi như thể tôi điên lắm, rồi nhún vai.
Ánh đèn bao phủ căn phòng. Tôi hỏi tôi có thể làm được gì không. Bác sĩ lắc đầu. Tôi chăm chú nhìn ra cửa sổ. Pat lại mắc nghẹn. Tôi đóng cửa sổ và đứng ở ngạch cửa. Tôi canh chừng con đường.
Bất thình lình tôi nghe tiếng la. "Có điện thoại!"
Tôi quay ngoắt lại. "Điện thoại! Tôi có nên đi không?"
Bác sĩ nhảy lên. "Không, để tôi đi. Tôi nói chuyện với ông ấy dễ hơn. Cậu ở đây. Đừng làm gì nhé. Tôi sẽ sớm trở lại."
Tôi ngồi trên giường, cạnh Pat. "Pat," tôi âu yếm nói, "có bọn anh. Bọn anh sẽ chăm sóc em! Không để em bị hại. Không để cho thứ gì xâm phạm đến em. Giáo sư đang nói chuyện. Ông ấy sẽ chỉ dẫn chúng ta. Ngày mai ông ấy sẽ tới đây. Bọn anh đã lo liệu xong. Ông ấy sẽ giúp em. Em sẽ lành bệnh. Sao em không bao giờ nói cho anh biết là em mắc bệnh? Một chút xíu máu không ăn thua gì, Pat. Bọn anh sẽ đền lại. Koster đã tìm được giáo sư, Pat. Chúng ta sẽ ổn thôi."
Bác sĩ trở lại. "Không phải giáo sư."
Tôi đứng lên.
"Một người bạn của cậu -- Lenz."
"Koster chưa tìm được ông ấy?"
"Tìm được rồi. Jaffé đã dặn cậu ấy những việc cần làm. Lenz, bạn của cậu, chuyển lời lại cho tôi. Rõ ràng và chính xác lắm. Thế bạn cậu là bác sĩ à?"
"Không ạ. Anh ấy muốn thành bác sĩ. Còn Koster thì sao?"
Bác sĩ nhìn tôi. "Lenz nhờ tôi nói với cậu, Koster đã lên đường mấy phút trước. Với ngài giáo sư. Hai giờ nữa, ông ấy sẽ tới."
Tôi dựa vào thành giường. "Otto," tôi nói.
"Vâng," bác sĩ đáp, "đó là điều sai lầm của cậu ấy. Tôi biết đường xá ở đây. Nhanh lắm cũng phải hơn ba giờ. Tuy thế ..."
"Nếu anh ấy nói hai giờ, thì bác sĩ có thể tin được, anh ấy sẽ có mặt ở đây trong hai giờ."
"Không thể nào. Đường ngoằn ngoèo, và hơn nữa, trời đã tối."
"Bác sĩ sẽ thấy," tôi nói.
"Dù sao chăng nữa ... nếu ông ấy đến được ... thì tốt lắm ..."
Cuối cùng tôi không chịu nỗi. Tôi đi ra ngoài đồng trống. Trời đã có sương mù. Sóng biển vỗ ì ầm đàng xa. Sương móc rơi từ cành lá. Tôi nhìn quanh. Tôi không còn cô độc nữa. Về hướng nam, xa tít ngoài chân trời, đâu đó có một động cơ đang gầm rú. Xa vút ngoài màn sương, sự giúp đỡ đang bon bon trên những nẽo đường nhợt nhạt, đèn pha quét hai luồng sáng về phía trước, lốp xe xiết như tiếng huýt sáo và hai tay ai cứng như gọng kìm nắm chặt bánh lái, đôi mắt ai soi thủng màn đêm, sắc lạnh, hẳn nhiên rồi -- đôi mắt của một chiến hữu của tôi ...
Về sau Jaffé kể lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra.
Sau khi nói chuyện qua điện thoại với tôi, Koster gọi ngay Lenz để anh ấy chuẩn bị trước. Rồi anh và Lenz hộc tốc lái Karl đến bệnh viện của Jaffé. Y tá trực tin rằng ông ấy đã đi ăn tối. Bà cho Koster tên của vài tiệm ăn mà ông ấy thường lui tới. Koster lập tức lái đi. Anh không đếm xỉa gì đến tín hiệu lưu thông -- anh phe lờ đám cảnh sát dang tay múa chân. Anh luồn lách trong dòng xe cộ như một con ngựa sổng chuồng. Đến quán thứ tư, anh tìm được giáo sư. Jaffé nhớ ngay ra Pat. Ông bỏ dở bửa ăn và đi với anh. Họ về nhà ông lấy những vật dụng cần thiết. Và đó là chặng đường duy nhất mà Koster lái nhanh nhưng không lạng lách. Anh không muốn giáo sư hốt hoảng lúc ban đầu. Trên đường, Jaffe hỏi Koster chỗ Pat đang ở. Koster nói tên một nơi, cách đó khoảng bốn mươi kí lô mét. Anh muốn giáo sư chịu lên xe trước đã. Sau đó chuyện gì cần xảy ra, sẽ xảy ra. Trong lúc sắp xếp hành lý, Jaffe chỉ dẫn cách sơ cứu để Lenz nhắn lại chúng tôi. Rồi ông ngồi vào xe với Otto.
"Có nguy kịch không?" Koster hỏi.
"Nguy lắm," Jaffé nói.
Từ lúc ấy trở đi, Koster biến thành một con quỷ trắng biết bay. Anh cho xe nhảy chồm lên và phóng vút đi. Anh lái xe táo tợn, leo hai bánh trên lề, chạy vào đường một chiều, tìm con đường ngắn nhất để ra khỏi thành phố.
"Cậu có điên không vậy?" giáo sư rú lên khi Koster luồn ngay dưới cái cảng cao của một chiếc xe buýt, chựng lại một giây, rồi tiếp tục rồ máy hết ga.
"Lái chậm lại," giáo sư rên, "có ích gì nếu ta gặp tai nạn?"
"Ta sẽ không gặp tai nạn."
"Chúng ta sẽ có tai nạn, trong hai phút, nếu cậu cứ lái theo kiểu này."
Koster lạng sang trái, qua mặt một chiếc xe điện. "Không!" Giờ anh lái trên một con đường dài. Anh nhìn giáo sư. "Tôi biết tôi phải đưa giáo sư tới nơi an toàn. Giáo sư hãy tin tưởng vào tôi."
"Nhưng chạy đua như thế để làm gì? Cậu chỉ đến sớm vài phút thôi."
"Không," Koster nói, né một chiếc xe tải chở đầy đá; "chúng ta còn phải đi hai trăm bốn mươi kí lô mét nữa."
"Cái gì, cậu nói sao?"
"Đúng vậy ..." Xe chui tọt qua một khoảng trống giữa xe giao thư và xe buýt ... "Tôi không dám nói trước với giáo sư chuyện đó."
"Có nói cũng không sao," Jaffé gầm lên. "Tôi đâu có tính tiền công theo số kí lô mét. Lái ra nhà ga. Xe lửa chạy nhanh hơn."
"Không." Koster đã ra tới ngoại ô. Gió thổi bạt tiếng của anh. "Tôi đã hỏi dò -- xe lửa khởi hành rất trễ." Anh lại nhìn Jaffé.
Có lẽ giáo sư nhận ra một điều gì đó trên mặt anh. "Cô ấy là người của cậu hả?" ông hét.
Koster lắc đầu. Anh không trả lời thêm câu hỏi nào nữa. Anh bỏ lại những khu vườn nhỏ và lái vào miền quê trống trải. Xe chạy với vận tốc tối đa. Giáo sư co ro nép sau tấm kính chắn gió hẹp. Koster nhường cái mũ da của mình cho ông.
Còi rú không ngừng. Rừng cây dội lại âm thanh nức nở của nó. Koster chỉ chậm lại khi băng qua những thôn làng khi cần. Đàng sau tiếng vọng như sấm của động cơ nổ, những dãy nhà tiếp nối vào nhau như bóng của một dây phơi quần áo, và xe phóng vút qua chúng, móc vội chúng vào trong vũng ánh sáng chói lòa và với tia đèn pha của nó, rồi biến mất vào màn đêm xa kia.
Lốp xe bắt đầu gầm, rít, rên, huýt; máy xe vẫn cống hiến sức lực của nó. Koster cúi rạp người, dồn hết tâm trí vào những thứ ở phía trước, toàn thân của anh là một cái tai vĩ đại, một cái lọc lược tiếng sấm và những tiếng sột soạt rất khẻ, bởi lẽ mỗi tiếng gừ gừ hay nổ đánh độp hay kéo lê thê, có nghĩa là xâm lốp bị thủng và sự chết.
Mặt đường trở nên trơn ướt. Trên một đoạn đầy đất sét, xe trượt đảo. Koster bắt buộc phải bớt tốc độ. Sau đó, để bù lại, anh chạy nhanh hơn ở những khúc ngoặt. Anh không lái bằng lý trí nữa, mà bằng trực giác. Đèn pha soi hai mảng ở khúc quanh; nhưng khi ta lái đến nơi thì khúc cong tối đen như mực. Koster phải phụ thêm đèn rọi, nhưng chùm tia quá nhỏ.
Giáo sư im thin thít.
Bất thình lình không khí lóng lánh trong ánh đèn pha; ánh sáng như nhuộm -- một màu bạc tái, một lớp voan đục. Đó là lần duy nhất, Jaffé nghe Koster chửi thề. Một phút sau, họ đã ở trong vùng sương mù dày đặc.
Koster hạ tầm đèn. Họ bơi trong một khối bông nõn, bóng tối lặng lẽ lùi ra sau, những con ma trong biển sữa; không còn đường lộ nữa, chỉ là đoán chừng và may mắn, bóng tối lù lù nhô ra rồi nhỏ dần theo tiếng nổ của máy xe.
Mười phút sau, khi đã ra khỏi chỗ ấy, gương mặt Koster hốc hác hẳn. Rồi một lần nữa, anh lại xả hết tốc độ, rạp người, lạnh lùng và tự chủ ...
Trong phòng, không khí nỏng rin rít và nặng như chì.
"Máu đã ngừng chảy chưa, thưa bác sĩ?" tôi hỏi.
"Chưa," bác sĩ đáp.
Pat nhìn tôi. Tôi mỉm cười. Nụ cười trở thành cái nhăn mặt đau thương. "Nửa giờ nữa," tôi nói.
Bác sĩ nhìn đồng hồ tay. "Một giờ rưỡi, hoặc hai giờ. Trời đang mưa."
Mưa nhỏ giọt tí tách trên các phiến lá của cành cây, bụi kiểng trong vườn. Tôi gương mắt cố nhìn qua màn đêm. Bao lâu rồi, từ khi chúng tôi, Pat và tôi, thức giấc giữa đêm, ra vườn, ngồi giữa các bụi hoa và dây leo và Pat khẻ hát một khúc ru em? Bao lâu rồi, từ khi ánh nguyệt bạch soi trên lối đi và Pat, như một con thú uyển chuyển, len lách theo, giữa những lùm cây?
Dễ có đến lần thứ một trăm tôi đi ra cửa. Tôi biết làm như thế là vô ích; nhưng nó thâu ngắn đợi chờ. Trời mù sương. Tôi chửi thề; tôi biết điều ấy có nghĩa gì với Koster. Một con chim hót ngoài kia, trong bóng tối.
"Nín đi," tôi gầm. Trong đầu tôi, một ý nghĩ nhoáng lên, loài chim mang điềm gỡ! "Mình nghĩ nhãm," tôi nói to. Một con bọ cánh cứng rè rè đâu đây -- nhưng nó không đến gần -- nó không đến gần. Tiếng kêu của nó đều đều; lúc ngừng -- lúc trở lại -- và trở lại lần nữa. Tôi bỗng run rẩy. Không phải bọ cánh cứng; đó là tiếng động của một chiếc xe đang chạy ở xa, quẹo ở các khúc ngoặt với tốc độ rất nhanh. Tôi đứng im như tượng -- tôi nín thở và há mồm ra để nghe cho rõ. Một lần nữa ... một lần nữa ... ánh đèn, tiếng u u the thé, như tiếng vo ve của một con ong bắp cày giận dữ ... Và bây giờ, rõ hơn, tôi có thể phát hiện tiếng máy ép -- và rồi đường chân trời, kéo dãn đến điểm tới hạn, bỗng vỡ thành một vô cực mềm mại, chôn vùi dưới nó sức mạnh và sợ hãi và kinh hoàng ...
Tôi chạy vào. Bám lên cửa cho vững, "Họ sắp tới!" tôi kêu. "Bác sĩ, Pat, họ sắp tới! Tôi có thể nghe tiếng xe của họ!"
Suốt đêm, bác sĩ đối xử với tôi như một người dở điên dở khùng. Nhưng ông cũng đi ra, nghe ngóng. "Có thể là xe của người khác," sau cùng, ông nói.
"Không, tôi quen với tiếng máy xe."
Ông nhìn tôi, bực dọc. Rõ ràng, ông nghĩ ông cũng là một người ái mộ xe hơi. Với Pat, ông kiên nhẫn và tận tụy như một người mẹ; nhưng mỗi lần tôi nhắc đến xe cộ, ông lại gườm gườm nhìn tôi qua cặp kính và chứng tỏ là ông thông thạo hơn. "Không thể được," ông nói cụt lủn và quay vào nhà.
Tôi vẫn ở ngoài sân. Tôi rung lên vì kích động. "Karl! Karl!" tôi gọi. Tiếng ồm ồm, tiếng nỉ non liên tiếp xen nhau -- chiếc xe hẳn đã vào trong làng, chạy với vận tốc cực nhanh giữa những ngôi nhà. Tiếng rên rĩ yếu dần; nó ở đàng sau cánh rừng -- và bây giờ nó lại kêu lớn lên, dồn dập, chiến thắng -- một ngọn đèn pha qua sương mù: cặp đèn trước đầu xe; một tiếng động như sấm nổ ... Không thể nào tin được, bác sĩ ra đứng cạnh tôi. Thình lình ánh đèn chói đến nỗi lóa mắt chúng tôi và với tiếng thắng ren rét, xe ngừng lại trước cổng vườn.
Tôi chạy ào ra. Giáo sư bước xuống xe lập tức. Ông không để ý đến tôi, mà đi thẳng tới bác sĩ. Koster theo sau.
"Cô ấy ra sao rồi?" anh hỏi.
"Vẫn còn thổ huyết."
"Cô ấy sẽ ổn thôi," anh nói. "Cậu đừng lo nữa."
Tôi không nói gì, chỉ nhìn anh ...
"Cậu có thuốc lá không?" anh hỏi.
Tôi đưa anh một điếu. "Thật tốt, cậu đã tới đây, Otto."
Anh rít mấy hơi dài. "Tớ cũng hy vọng là thế."
"Chắc cậu lái nhanh lắm?"
"Cũng không tệ. Chỉ có một khúc sương mù."
Chúng tôi ngồi cạnh nhau, trên ghế trong vườn và chờ.
"Cậu có nghĩ rằng cô ấy sẽ qua khỏi không?"
"Dĩ nhiên cô ấy sẽ sống sót. Thổ huyết không nguy hiểm đâu."
"Cô ấy chẳng hề nói một lời về chuyện ấy với tớ."
Koster gật đầu.
"Cô ấy phải sống, Otto," tôi nói.
Anh không nhìn lên. "Chúng ta hút thêm một điếu nữa," anh nói, "Tớ quên đem thuốc của tớ."
"Cô ấy phải sống," tôi nói, "nếu không, tất cả chỉ là rác rưởi."
Giáo sư đi ra. Tôi đứng dậy. "Tôi thề sẽ không bao giờ ngồi xe của cậu lái nữa," ông nói với Koster.
"Xin giáo sư tha lỗi," anh nói, "nhưng cô ấy là vợ của bạn tôi."
"Vậy thì?" Jaffé nói, nhìn tôi.
"Cô ấy khỏe chưa, thưa giáo sư ?" tôi hỏi.
Ông lạnh lùng nhìn tôi. Tôi lẫn tránh mắt ông.
"Thế cậu nghĩ, tôi có thể đứng đây nếu cô ấy chưa khỏe hay sao?"
Tôi cắn môi. Tôi nắm chặt hai bàn tay. Lệ dâng đầy mắt tôi.
"Xin giáo sư thứ lỗi," tôi nói, "nhưng giáo sư xong việc quá nhanh."
"Không bao giờ đủ nhanh cho loại việc đó," Jaffé nói, mỉm cười.
"Tớ không thể không lo lắng, Otto," tôi nói.
Anh nắm hai vai tôi, xoay người tôi lại, và đẩy nhẹ tôi về phía cửa. "Giáo sư cho phép chứ?"
"Tôi ổn rồi," tôi nói. "Tôi có thể vào trong đó, được không?"
"Được lắm, nhưng đừng trò chuyện," Jaffé trả lời. "Và thăm nhanh thôi. Cô ấy cần sự yên tịnh."
Tôi chỉ thấy ánh sáng lờ mờ bơi lội trong làn nước. Tôi chớp mắt. Ánh sáng chập chờn, lung linh. Tôi không dám lau khô dòng lệ, tôi sợ Pat nghĩ rằng tôi khóc bởi tình hình xấu tệ. Tôi chỉ liều lĩnh mang một nụ cười vào phòng. Rồi tôi trở ra ngay.
"Đưa giáo sư tới đây là đúng, phải không?" Koster hỏi vị giáo sư.
"Phải," Jaffé nói.
"Tôi có thể đưa giáo sư trở về, sáng sớm mai."
"Tôi nghĩ, tôi chưa nên về," Jaffé nói.
"Ở lượt về, dĩ nhiên tôi sẽ lái đàng hoàng hơn."
"Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại một ngày để phòng hờ bất trắc. Tôi có thể ngủ trên giường của cậu, được chứ?" ông hỏi. Tôi gật đầu.
"Tốt. Vậy tôi sẽ ngủ ở đây. Các cậu có thể tìm chỗ trú qua đêm trong làng không?"
"Dạ được. Giáo sư cần bàn chải đánh răng và áo ngủ không?"
"Không cần. Tôi có đủ. Tôi luôn luôn chuẩn bị cho những trường hợp khẩn cấp -- tuy chẳng phải chuyện đua xe."
"Tôi xin lỗi," Koster nói. "Giáo sư có bực mình lắm không?"
"Không," Jaffé nói.
"Và tôi rất tiếci đã không nói hết mọi thứ cho giáo sư rõ."
Jaffé cười lớn. "Cậu đánh giá giới y sĩ quá tệ. Ôi giào, thôi các cậu đi nghĩ đi. Tôi ở lại đây."
Tôi quơ đại vài món vật dụng cần dùng cho Koster và tôi. Chúng tôi đi bộ vào trong làng.
"Cậu mệt không?" tôi hỏi.
"Không," anh nói. "Chúng ta ngồi chơi đâu đây một lát đã."
Sau một giờ, tôi bắt đầu băn khoăn. "Nếu ông ấy ở lại, có nghĩa là còn nguy kịch, Otto," tôi nói. "Bằng không ông ấy ..."
"Tớ nghĩ đó chỉ là dự phòng," Koster trả lời. "Ông ấy rất quý mến Pat. Ông ấy bảo với tớ như thế, khi đi với tớ. Ông ấy cũng là bác sĩ săn sóc cho mẹ Pat."
"Có phải bà ấy ... "
"Tớ không biết," Koster trả lời, thật nhanh. "Cũng có thể do một căn bệnh khác hẳn. Cậu chưa buồn ngủ à?"
"Cậu đi đi, Otto. Tớ muốn, một lần nữa thôi .... Cậu biết mà, nhìn từ xa ..."
"Được. Tớ sẽ cùng đi với cậu."
"Nghe này, Otto. Đừng bận tâm -- tớ thích ngủ ngoài trời --khi thời tiết ấm áp. Tớ đã làm như thế mấy lần rồi, mới đây."
"Trời ướt mưa."
"Chẳng sao cả. Tớ sẽ dựng mui xe lên và ngồi trong đó một lúc."
"Tốt lắm. Tớ cũng thích ngủ ngoài trời như thế."
Tôi thấy mình không tài nào trốn được anh ấy. Chúng tôi lấy vài tấm chăn, nệm và quay trở lại Karl. Chúng tôi tháo then cài tấm đậy và đẩy ghế ra sau. Ta có thể nằm thoải mái ở đó.
"Còn dễ chịu hơn những đêm ở Tiền Tuyến," Koster nói.
Cửa sổ ngôi nhà sáng ngời qua màn sương. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bóng của Jaffe di chuyển qua lại. Chúng tôi chia nhau một gói thuốc. Cuối cùng, đèn cũng tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn đêm nhỏ.
"Tạ ơn Chúa," tôi nói.
Mưa rỉ rả rơi trên nóc xe. Một cơn gió nhẹ thoảng qua. Trời trở lạnh. "Nếu muốn, cậu có thể lấy cái mền của tớ, Otto," tôi nói.
"Không -- cậu nghĩ sao chứ? Tớ đủ ấm mà."
"Jaffé, một người có tinh thần thượng võ, hén?"
"Vâng. Lại còn khôn ngoan. Tớ tin như vậy."
Tôi ngồi dậy, lưng cứng đơ như que củi sau một đêm chập chờn không ngủ. Ngoài kia, trời xám và lạnh. Koster đã dậy từ lúc nào.
"Cậu không ngủ sao, Otto?"
"Có chứ."
Tôi trèo khỏi xe và len lén theo con đường nhỏ trong vườn đến gần cửa sổ. Ngọn đèn đêm vẫn thắp sáng. Tôi thấy Pat nằm trên giường, nhắm mắt. Trong một giây, tôi lo rằng nàng đã chết. Rồi tôi thấy cánh tay mặt của nàng nhúc nhích. Nàng xanh mướt như tàu lá. Nhưng máu đã thôi chảy. Rồi tay nàng lại động đậy. Cùng một lúc, Jaffé, trong giường của tôi, mở mắt. Tôi lùi lại. Tôi cảm thấy an lòng; ông ấy biết rõ việc làm của mình.
"Tớ nghĩ chúng ta nên rút lui, Otto," tôi nói với Koster; "đừng để cho ông ấy biết là chúng ta theo dõi."
"Trong nhà ổn cả?" Otto hỏi.
"Dựa vào những gì tớ trông thấy, ổn cả. Giáo sư ngủ say đúng mức. Trong trận oanh kích vẫn ngon giấc; nhưng nếu có một con chuột gậm nhấm ba-lô, sẽ choàng tỉnh lập tức."
"Cậu tắm biển không?" Koster nói. "Không khí trong lành." Anh vươn vai.
"Cậu tắm đi," tôi nói.
"Tắm đi mà," anh kèo nài.
Bầu trời xám rẽ ra, lộ những vệt cam - đỏ long lanh. Dọc theo chân trời, bức màn mây vén lên, ngoài xa kia là màu xanh da táo trong sáng.
Chúng tôi nhảy tòm xuống nước và bơi. Biển xám và đỏ.
Rồi chúng tôi trở vào. Fraulein Muller đã thức. Bà đang hái rau mùi tây trong vườn. Bà bắt đầu khi tôi trò chuyện. Một cách vụng về, tôi cố lựa lời xin lỗi, hôm qua tôi đã văng tục quá nhiều.
Bà rấm rức khóc. "Tội nghiệp. Cô ấy đẹp quá, và trẻ quá."
"Cô ấy sẽ sống tới một trăm tuổi," tôi nói, phật ý vì bà khóc lóc như thể Pat sắp chết tới nơi. Pat nào có sắp chết. Buổi sáng lạnh, sức sống mà biển nhanh chóng quất vào tôi, nói với tôi như thế. Pat không thể chết. Nàng chỉ chết nếu tôi đánh mất trái tim. Koster có mặt ở đây -- tôi có mặt tại đây: là chiến hữu của Pat ... chúng tôi sẽ chết trước nàng. Chừng nào chúng tôi còn sống, nàng sẽ qua khỏi. Trong quá khứ, đã như thế. Nếu Koster còn sống, tôi sẽ sống. Và do đó, nếu chúng tôi còn sống, Pat không thể nào chết.
"Con người phải tuân theo số mạng," bà già nói, và gương mặt nâu, nhăn nhúm như quả táo khô nhìn tôi, trách móc. Rõ ràng, bà muốn trả lời câu chửi thề của tôi.
"Tuân theo?" tôi nói. "Tại sao lại phải tuân theo? Chẳng ích gì. Ta phải trả giá đắt cho mọi thứ trong đời, hai lần, ba lần. Vậy cớ sao ta phải tuân theo?"
"Vâng, tuân theo -- là điều tốt nhất."
Tuân theo! còn lâu tôi mới tuân theo, tôi thầm nghĩ. Có nhiều thứ hỗ trợ cho ta. Tranh đấu, tranh đấu, là điều duy nhất trong cuộc chiến này, nơi mà, dù sao chăng nữa, cuối cùng ta cũng sẽ đến. Tranh đấu cho những gì bé bỏng mà ta yêu quý. Khi nào được bẩy mươi tuổi, họa may ta có thể tính tới việc đầu hàng.
Koster trò chuyện với bà. Chẳng mấy chốc, bà đã mỉm cười và hỏi anh muốn ăn trưa món gì.
"Cậu thấy chưa," Otto nói. "Đó là phần thưởng của tuổi già. Nước mắt và nụ cười -- mau thay đổi nhau. Không tiếc hận. Một điều đáng cho ta học hỏi," anh trầm ngâm nói.
Chúng tôi đi vòng quanh nhà. "Cô ấy ngủ thêm phút nào hay phút đó," tôi nói. Chúng tôi trở lại vườn. Fraulein Muller đã dọn điểm tâm. Chúng tôi uống cà phê đen nóng. Mặt trời dâng cao, và không khí ấm áp. Những phiến lá ướt lấp lánh trong nắng. Từ biển vọng lại tiếng kêu của bầy hải âu.
Fraulein Muller đặt một bó hoa hồng lên bàn. "Chúng ta sẽ tặng cho cô ấy," bà nói. Hoa hồng thơm mùi thơ ấu và những bức vách trong vườn.
"Cậu biết không, Otto," tôi nói, "tớ có cảm tưởng như chính tớ đã mắc bệnh ... Tớ không còn là mình nữa. Lẽ ra tớ phải bình tĩnh hơn. Điềm đạm hơn. Một người càng bình tĩnh càng được việc."
"Người ta không thể lúc nào cũng giữ được bình tĩnh, Bob. Tớ cũng bị một vài lần như thế. Càng lớn tuổi người ta càng sợ hãi. Như một tay cờ bạc, luôn luôn sẽ thua những canh bài mới."
Cửa mở. Jaffe bước ra trong bộ pyjamas. "Ổn cả rồi," ông ra hiệu, khi thấy tôi lóng ngóng sắp làm ngã bàn ăn. "Tốt như đã mong mỏi."
"Tôi có thể vào chưa?"
"Chưa. Bà giúp việc còn ở trong ấy. Lau rửa và những chuyện lặt vặt khác."
Tôi rót cà phê cho giáo sư. Dưới nắng, ông hấp háy đôi mắt và quay sang Koster. "Thực ra, tôi phải cám ơn cậu mới đúng. Nhờ cậu, ít ra tôi cũng được một ngày sống ở thôn quê."
"Nhưng giáo sư có thể về quê thường xuyên mà," Koster nói. "Xa thành phố một đêm, sáng hôm sau quay về."
"Có thể, có thể," Jaffé đáp. "Thế cậu chưa nhận ra rằng chúng ta đang sống trong thời đại tự - ngược đãi? Có nhiều thứ người ta có thể làm, thế nhưng lại không -- và vì sao, chỉ có trời mới biết. Hiện thời, công việc đã trở nên quan trọng một cách khiếp đảm, tôi đoán, có lẽ vì có quá nhiều người thất nghiệp, đến mức công việc tiêu diệt hết mọi thứ. Địa điểm này đáng yêu làm sao! Thế mà đã nhiều năm tôi chưa trở lại. Tôi có hai chiếc xe, một căn nhà mười phòng và rất nhiều tiền để phung phí ... và tôi đã làm gì với số tiền ấy? Nó có nghĩa lý gì so với buổi sáng mùa hè thôn dã này? Công việc, công việc, công việc... một nỗi ám ảnh kinh hoàng -- và luôn luôn với ảo tưởng rằng cuối cùng tình huống sẽ thay đổi. Và chẳng bao giờ có thay đổi. Kỳ cục quá, phải không, có người lại sống một cuộc đời như thế?"
"Bác sĩ y khoa, theo tôi, là một trong số rất ít những người biết sống để làm gì," tôi nói. "Lấy thí dụ, một thư ký ngân hàng, thì sao?"
"Anh bạn thân mến," Jaffé trả lời, "là một sai lầm nếu ta cho rằng tất cả mọi người đều có sở thích giống nhau."
"Vâng," Koster nói. "Nhưng chẳng mấy khi người ta lại có một nghề nghiệp như ý."
"Thật vậy," Jaffé đáp. "Rất khó." Ông gật đầu với tôi. "Bây giờ, cậu vào được rồi. Nhưng nương nhẹ một chút, -- đừng chạm tới cô ấy và đừng để cô ấy nói nhiều nhé ... "
Nàng nằm giữa mấy cái gối, yếu ớt, như bị thương. Gương mặt trắng bệch; quầng mắt trũng sâu, thâm và làn môi tái nhợt. Chỉ có cặp mắt to và sáng. Rất to và rực sáng ...
Tôi cầm tay nàng. Lạnh và dịu oặt.
"Pat thương," tôi vụng về nói và suýt nữa đã ngồi xuống cạnh nàng khi tôi bất chợt nhìn thấy bên cửa sổ, gương mặt bì bì của bà giúp việc đang lom lom nhìn vào.
"Chị đi chỗ khác, được không?" tôi nói, bực tức.
"Tôi phải đóng màn cửa," bà nói.
"Được rồi, vậy kéo màn xong rồi đi đi."
Bà kéo hai cánh màn vàng khép lại. Tuy thế bà vẫn chưa chịu bỏ đi. Bà chậm chạp dùng kẹp, ghim chúng khít vào nhau.
"Này chị," tôi nói, "đây không phải là kịch trường. Làm ơn biến đi."
Bà quay lại, cao ngạo. "Chừng nào kẹp xong tôi mới đi --- mà lúc đó, chưa chắc nữa."
"Em có nhờ bà ấy kéo màn không?" tôi hỏi Pat.
Nàng gật đầu.
"Ánh sáng làm đau mắt em không?" tôi hỏi.
Nàng lắc đầu. "Tốt nhất, hôm nay anh đừng nhìn em rõ quá ..."
"Pat," tôi hoảng hốt, "em không được nói! Nhưng nếu đó là điều em muốn ..."
Tôi mở cửa ra ngoài, bà giúp việc rồi cũng biến mất. Tôi trở vào. Tôi không còn bực bội nữa. Tôi lại hài lòng với bà giúp việc; chính vì bà, tôi đã trải qua những giây phút đầu tiên an lành. Bởi nhìn Pat nằm ở đó như thế, quả thật chẳng dễ dàng.
Tôi ngồi cạnh giường. "Em sẽ sớm bình phục, Pat ạ."
Nàng mấp mấy đôi môi. "Ngày mai, anh có nghĩ như thế không?"
"Có lẽ ngày mai chưa được đâu, phải thêm vài ngày nữa. Rồi em sẽ ngồi dậy và chúng mình sẽ lái về nhà. Đáng lẽ chúng mình đừng nên tới đây, không khí quá khắc nghiệt với em --"
"Vâng," nàng thì thào. "Nhưng em không có bệnh, Robby. Chỉ là một tai nạn thôi --"
Tôi nhìn nàng. Có thực là nàng không biết, vừa rồi, nàng đã đỗ bệnh? Hay nàng không muốn biết? Tròng mắt của nàng đưa qua đưa lại không ngừng. "Anh không cần phải e sợ --" nàng khẻ nói.
Thoạt tiên tôi không hiểu nàng muốn nói gì và tại sao lại đặc biệt quan trọng là tôi không cần phải lo sợ. Tôi chỉ nhận thấy rằng nàng đang bức rức khó chịu, ánh mắt chứa đựng một vẻ phiền muộn, cấp bách lạ lùng. Rồi một ý nghĩ thình lình nảy ra. Tôi hiểu nàng đang nghĩ gì; nàng tưởng rằng tôi gớm sợ nàng vì nàng đang có bệnh.
"Trời ơi, Pat," tôi nói, "có phải đó là lý do, có lẽ thế, khiến em không bao giờ nói cho anh biết điều gì?"
Nàng không trả lời, nhưng tôi thấy đúng như tôi nghĩ.
"Thật bậy bạ," tôi nói; "thế em cho anh là hạng người gì, hở?"
Tôi cúi xuống. "Em nằm im một chút; không được cử động." Tôi hôn nàng. Môi nàng khô và nóng.
Khi đứng lên, tôi thấy nàng khóc. Lặng lẽ không thành tiếng, với đôi mắt vẫn mở to, và gương mặt bất động. Chỉ nước mắt trào ra, ướt đẫm.
"Trời ơi, Pat ---"
"Em sung sướng lắm," nàng nói.
Tôi đứng đó, nhìn nàng. Chỉ một chữ thôi, nhưng tôi chưa bao giờ nghe ai nói lên chữ ấy theo cách đó. Tôi đã biết phụ nữ, nhưng họ chỉ là những mối tình thoảng qua, những cuộc phiêu lưu, đôi khi là một giờ vui vẻ, một đêm cô đơn, chạy trốn bản thân, chạy trốn tuyệt vọng, chạy trốn trống vắng. Và tôi chẳng mong muốn một điều gì khác hơn, bởi tôi đã học được rằng, ta không thể tin tưởng vào bất cứ điều gì ngoại trừ bản thân, và chiến hữu, có lẽ. Giờ đây bỗng nhiên tôi hiểu ra, với một người, tôi có thể là một thứ gì đó, đơn giản chỉ vì tôi có mặt ở đấy, và người ấy hạnh phúc vì sự hiện diện của tôi. Diễn tả như thế nghe đơn sơ mộc mạc; nhưng nếu nghĩ kỹ, ta sẽ thấy đó là một cái gì mênh mông, bao la vô cùng tận. Cái đó có thể bẻ gẩy và biến đổi một người. Cái đó là tình yêu và tuy thế, lại còn là một điều khác hơn-- một điều dựa vào đó, người ta có thể sống. Một người không thể sống chỉ vì tình yêu. Nhưng sống cho một người khác, có lẽ ...
Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng không thể. Thật khó tìm lời diễn đạt khi chúng ta thật sự có một điều để nói. Cho dù chúng ta có biết những từ ngữ thích hợp, chúng ta cũng e thẹn không thốt nên lời. Tất cả chữ nghĩa này thuộc về các thế kỷ khác, đã qua. Thời đại của chúng ta không có ngôn từ để mô tả cảm xúc của nó. Chúng ta chỉ có thể nói năng cụt ngủn, thô thiển -- mọi cách khác đều như giả tạo.
"Pat," tôi nói, "cô bé can đảm thương mến --"
Ngay lúc đó Jaffé bước vào. Ông lập tức hiểu hết sự tình. "Hạnh kiểm tốt dữ a," ông gầm gừ. "Tôi đoán mò vậy mà."
Tôi sắp sửa viện vài lý do để bào chữa, nhưng ông đã đuổi tôi khỏi phòng mà không cần phải làm ầm ỷ gì hơn.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:50:14 GMT -6
Chương 17
Hai tuần sau, Pat đã hồi phục đến mức chúng tôi có thể lên đường. Chúng tôi đóng gói hành lý, sẳn sàng chờ Gottfried Lenz. Anh sẽ lái xe về. Còn Pat và tôi, đi bằng xe lửa.
Hôm ấy là một ngày ấm, trắng đục màu sữa. Mây như những cuộn bông nõn bất động trên bầu trời, không khí nóng rung rinh trên những đụn cát và biển nhác lười nằm dưới lớp hơi mù óng ánh.
Gottfried đến, sau bửa ăn trưa. Tôi thấy từ xa, mái tóc của anh vàng óng trên bờ dậu. Cho đến lúc anh rẽ vào con đường dẫn đến biệt thự của Fraulein Muller, tôi mới nhận ra rằng không phải chỉ có một mình anh -- đàng sau anh là hình mẫu thu nhỏ của một tay đua, với cái nón kẻ ô lùm xùm đội ngược, cặp kính chắn bụi to đùng, bộ áo liền quần trắng và đôi tai ngoại khổ, bóng và đỏ rực như hồng ngọc.
"Nón của tôi, nhưng lại là Jupp!" tôi nói, sững sờ.
"Chính là cháu, Herr Lohkamp!" Jupp đáp, cười toe toét.
"Và trang phục đua xe! Để làm gì?"
"Cậu chưa bao giờ thấy ai ăn mặc như thế sao?" Lenz vui vẻ nói, bắt tay tôi. "Thằng bé đang học lái xe đua. Tớ đã dạy nó tám hôm rồi. Bửa nay nó nài nỉ xin theo. Đây là cơ hội tốt để tập lái đường xa."
"Cháu sẽ phá kỷ lục, Herr Lohkamp," Judd hớn hở nói.
"Và cách nó sẽ phá kỷ lục!" Gottfried cười nhạo. "Tớ chưa bao giờ thấy ai cuồng như nó. Ngay bài học đầu tiên, nó đã cố qua mặt một chiếc Mercedes-Compressor bằng cái taxi cà khổ của chúng ta. Thằng quỷ sứ!"
Jupp sung sướng đến toát mồ hôi và nhìn Lenz, ngưỡng mộ.
"Cháu cứ tưởng mình có thể ăn đứt thằng cha cà chớn ấy, Herr Lenz. Cháu định sẽ qua mặt nó ở khúc quanh, như là Herr Koster."
Tôi không nhịn được cười. "Cháu khởi sự như vậy là khá rồi, Jupp."
Gottfried nhìn học trò của mình, hãnh diện như một ông bố. "Trước hết, chộp mớ hành lý kia và đem ra nhà ga."
"Cháu tự lái?" Jupp gần như nổ tung lên vì kích động. "Cháu được lái ra nhà ga, Herr Lenz?"
Gottfried gật đầu và Jupp chạy ù vào nhà.
Chúng tôi chất hành lý lên mui. Rồi chúng tôi đưa Pat vào xe và lái ra nhà ga. Chúng tôi đến nơi, sớm mười lăm phút. Sân ga vắng ngắt, chỉ có vài lon sửa bò nằm lăn lóc.
"Cháu nên khởi hành ngay thì hơn," tôi nói. "Nếu không, chẳng biết khi nào mới về đến nhà."
Jupp ngồi trước tay lái, nhìn tôi, phật ý ra mặt.
"Cháu không thích những câu nói như thế, hả?" Lenz hỏi nó.
Jupp ngồi thẳng lên. "Cháu đã tính đâu vào đấy cả rồi, Herr Lohkamp," thằng bé nói, trách móc. "Bọn cháu dư sức có mặt ở xưởng sửa xe trước tám giờ."
"Được lắm," Lenz vỗ vai thằng bé. "Cá với chú Lohkamp đi. Một chai nước suối."
"Không chơi nước suối," Jupp trả lời, "nhưng cháu sẳn sàng cá một gói thuốc lá."
Thằng bé nhìn tôi đầy thách thức.
"Thế cháu đã biết rằng đường đi rất xấu, phải không?" tôi hỏi.
"Đã ước lượng rồi, Herr Lohkamp."
"Những khúc quanh gắt, cháu cũng có nghĩ đến rồi chứ?"
"Khúc quanh gắt chẳng có nghĩa gì với cháu. Cháu chẳng dễ bị mất tinh thần."
"Tốt lắm, Jupp," tôi nói. "Vậy chú bằng lòng đánh cá. Nhưng Herr Lenz không được lái dùm đâu."
Lenz đặt tay lên tim. "Hứa danh dự."
"Giỏi lắm, giỏi lắm. Nhưng, trên tay cháu có cái gì thế?"
"Đồng hồ bấm giờ của cháu. Cháu sẽ canh giờ. Chỉ là muốn biết cái xe trượt tuyết này có khả năng ra sao."
Lenz nhăn răng cười. "Vâng, cậu ơi. Jupp đã võ trang đầy mình. Tớ dám nói là từng ống xy- lanh của chiếc Citroen thân thương đang run rẩy đợi chờ."
Jupp phe lờ đi lời nói châm chọc. Nó bồn chồn nắm, rứt vành mũ. "Vậy chúng ta khởi hành chứ, Herr Lenz? Mình có đánh cá mà."
"Dĩ nhiên, cái máy nén bé con. Au revoir, Pat. Gặp lại cậu sau nhé, Bob." Gottfried nhảy phóc vào xe. "Nào, Jupp, cháu hãy cho tiểu thư xem, một hiệp sĩ và quản trị gia thế giới trong tương lai khởi hành như thế nào."
Jupp kéo cặp kính chắn bụi xuống mắt, vẫy tay như dân kỳ cựu, và gài số một, từ lề khéo léo lao vút ra đường.
Trong một lúc, Pat và tôi ngồi ở hàng ghế đầu ở nhà ga. Ánh nắng chói chang, trắng xóa trên bức tường gỗ ngăn sân ga. Có mùi nhựa cây và muối. Pat ngã đầu ra sau và nhắm mắt. Nàng ngồi im phăng phắc, mặt nghiêng về phía mặt trời.
"Em mệt đấy à?" tôi hỏi.
Nàng lắc đầu. "Không, Robby."
"Tàu đến rồi," tôi nói.
Đầu máy xình xịch chạy đến, đen, nhỏ và bơ vơ giữa trời đất hoang vu, run rẩy. Chúng tôi lên tàu. Tàu vắng, gần như không có ai. Tàu hì hục khởi chạy. Khói từ đầu máy bốc lên, đen, cuồn cuộn trong không khí. Phong cảnh chầm chậm lùi ra sau -- thôn làng với những ngôi nhà lợp lá nâu, những cánh đồng cỏ tha thẩn bò và ngựa, cánh rừng, và rồi, an bình và ngủ ngoan trong cái hốc trống phía sau những đụn cát, căn nhà của Fraulein Muller.
"Fraulein Muller kia kìa," Pat nói.
"Vâng, đúng thế."
Bà đứng trước cửa nhà, vẫy tay từ biệt. Pat rút khăn tay ra, để gió thổi phất phơ bên cửa sổ.
"Bà ấy không thấy đâu," tôi nói, "nó nhỏ và mỏng quá. Đây, lấy khăn của anh."
Nàng cầm khăn của tôi và vẫy vẫy. Fraulein Mulleer vẫy lại, cuồng nhiệt.
Con tàu dần dần chạy đến vùng quê bát ngát. Nhà cửa biến mất và những đồi cát bỏ lại phía sau. Bên ngoài dãy rừng đen, biển thỉnh thoảng lại hiện ra nhìn -- cái liếc mắt canh thức mỏi mòn. Rồi đến màu lục vàng óng, êm ả của cánh đồng và những tai bắp rập rờn uốn theo làn gió nhẹ tận chân trời.
Pat đưa trả tôi chiếc khăn tay, rồi thu mình trong góc. Tôi đóng cửa sổ. Đã qua rồi, tôi nghĩ, cám ơn Chúa, đã qua rồi. Chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ bất hạnh.
Khi chúng tôi về đến thành phố, đã gần sáu giờ. Tôi đón tắc xi và chất hành lý lên xe. Rồi chúng tôi về nhà Pat.
"Anh có lên không?" nàng hỏi.
"Dĩ nhiên."
Tôi đưa nàng lên, rồi trở xuống lấy hành lý cùng với người tài xế. Khi tôi quay lại, Pat vẫn còn ở tiền sảnh. Nàng đang trò chuyện với Trung Tá Hake và vợ.
Chúng tôi bước vào phòng nàng. Bên ngoài, chiều xuống nhưng trời vẫn sáng. Trên bàn là một lọ thủy tinh với hoa hồng đỏ nhạt. Pat đến bên cửa sổ, nhìn ra. Rồi nàng quay lại, "Chúng mình đã vắng nhà bao lâu rồi, Robby?"
"Đúng mười tám ngày."
"Mười tám ngày. Dường như lâu hơn thế."
"Anh cũng nghĩ vậy. Nhưng khi vừa xong, lúc nào ta cũng cảm thấy như thế."
Nàng lắc đầu. "Em không có ý đó."
Nàng mở cửa, bước ra bao lơn. Một cái ghế xếp dài trắng, thứ đặt trong vườn, dựa vào vách. Nàng kéo nó ra, im lặng nhìn.
Khi trở vào phòng, nét mặt của nàng đã thay đổi và đôi mắt buồn hiu hắt.
"Ngắm hoa hồng đi em," tôi nói. "Của Koster tặng. Thiệp của anh ấy để kế bên."
Nàng cầm tấm thiệp lên, rồi lại bỏ xuống. Nàng nhìn hoa hồng, nhưng tôi có thể nói, nàng không chú ý tới chúng một mảy may. Tâm trí của nàng vẫn còn vương vấn tới cái ghế dài trắng. Nàng tưởng mình đã thoát khỏi, và giờ đây, một lần nữa, có lẽ nó sẽ lại là một phần của đời nàng.
Tôi để yên, không nói thêm câu nào. Cố gắng làm cho nàng nghĩ đến chuyện khác cũng chẳng ích gì. Nàng sẽ phải đối diện với nó, và tốt nhất hãy để cho việc ấy xảy ra lúc này, khi tôi còn ở đây. Người ta có thể trì hoản bằng lời nói; nhưng chẳng sớm thì muộn, nó sẽ trở lại, và có lẽ còn tai hại hơn.
Nàng đứng cạnh bàn, hơi cúi mặt, tay đặt trên bàn. Rồi nàng ngẫng lên, nhìn tôi. Tôi không nói gì. Nàng chậm rãi bước quanh bàn, rồi đặt hai tay lên vai tôi.
"Em thương," tôi nói.
Nàng tựa vào tôi. Tôi ôm chặt nàng. "Bây giờ chúng ta sẽ giải quyết vấn đề, hở em?"
Nàng gật đầu. Rồi nàng vuốt mái tóc ra sau. "Chỉ là trong giây phút mà thôi, Robby."
"Anh biết."
Có tiếng gỏ cửa. Cô hầu gái đẩy xe trà vào. "Tốt lắm," Pat nói.
"Em uống trà nhé?" tôi hỏi.
"Không, cà phê. Ngon và thật đậm."
Tôi ở lại nửa giờ. Rồi nàng thấm mệt; tôi nhận ra điều ấy trong mắt nàng.
"Em cần ngủ một giấc ngắn," tôi nói.
"Còn anh?'
"Anh sẽ về và cũng đánh một giấc. Trong hai giờ, anh sẽ tới, đưa em đi ăn."
"Anh mệt sao?" nàng hỏi, nghi ngờ.
"Vâng, một tị thôi. Trên tàu nóng quá. Và sau đó, anh còn phải đến xưởng sửa xe."
Nàng không hỏi câu nào nữa. Nàng mệt nhoài và suy sụp. Tôi đưa nàng lên giường, đắp chân thật chu đáo. Nàng thiếp đi tức thì. Tôi đặt bình hoa hồng gần bên và tấm thiệp của Koster cạnh đó, để khi tỉnh dậy, nàng có một cái gì để mà nghĩ đến. Rồi tôi ra về.
Trên đường đi, tôi ngừng lại ở buồng điện thoại công cộng. Tôi quyết định gọi giáo sư Jaffé. Gọi từ nhà sẽ khó khăn, vì toàn thể nhà trọ sẽ lắng nghe.
Tôi nhắc máy, xin số của bệnh viện. Một lúc sau, Jaffé đến ở đầu dây bên kia.
"Lohkamp đây," tôi hắng giọng, nói. "Hôm nay chúng tôi đã về đến nhà. Được hơn một giờ."
"Cậu đi bằng xe hơi?" Jaffé hỏi.
"Không, bằng xe lửa."
"Thế à, tình hình ra sao?"
"Cũng ổn," tôi nói.
Ông suy nghĩ một lúc. "Tôi muốn ngày mai khám bệnh cho Fraulein Hollmann. Xem nào, lúc mười một giờ. Cậu làm ơn nói cho cô ấy nhé."
"Không được," tôi nói. "Tôi không muốn cô ấy biết tôi đã liên lạc với giáo sư. Ngày mai, chắc chắn cô ấy sẽ gọi. Có lẽ, lúc đó giáo sư nói với cô ấy thì tốt hơn."
"Được rồi, tôi sẽ nói."
Một cách máy móc, tôi xê dịch quyển niên giám điện thoại dầy cộp, bẩn thỉu. Nó nằm trên một bục gỗ nhỏ. Các số điện thoại ghị bằng bút chì, chằng chịt trên vách.
"Vậy tôi có thể gặp giáo sư chiều mai?" tôi hỏi.
Jaffé không trả lời.
"Tôi muốn biết bệnh tình của cô ấy," tôi nói.
"Chiều mai, không thể được." Jaffé đáp. "Tôi cần phải quan sát cô ấy ít nhất một tuần. Khi ấy tôi sẽ nói cho cậu biết."
"Cám ơn giáo sư." Tôi chăm chú nhìn cái bục gỗ trước mặt. Một người nào đó đã vẽ lăng nhăng một bức hình trên ấy. Hình một cô gái béo tròn với cái nón rơm to tướng. Bên dưới có chua dòng chữ, Ella là con dê. "Trong thời gian này, cô ấy có cần làm gì đặc biệt không ạ?" tôi hỏi.
"Ngày mai tôi mới biết. Nhưng tôi tưởng, cô ấy được người ở nhà trọ cô ấy chăm chút cẩn thận mà."
"Tôi không rõ. Tôi nghe nói họ định đi xa một tuần. Lúc đó, ngoài người tớ gái ra, chỉ còn có một mình cô ấy."
"Vậy sao? Thôi được, ngày mai tôi sẽ bàn với cô ấy."
Tôi lại đẩy quyển niên giám điện thoại che đi bức vẽ trên bục gỗ. "Giáo sư có nghĩ rằng cô ấy -- sẽ bị xuất huyết, giống như lần trước?"
Jaffé ngần ngừ một thoáng. "Dĩ nhiên, chuyện ấy có thể xảy ra," ông nói, "tuy nhiên, khả năng không cao lắm. Tôi chỉ có thể nói cho cậu biết, sau khi khám kỹ. Tôi sẽ gọi điện cho cậu sau."
"Cám ơn, giáo sư."
Tôi gác ống nghe. Bên ngoài buồng điện thoại, tôi đứng tần ngần một lúc trên phố. Đường xá bụi bậm và ngột ngạt. Rồi tôi trở về nhà.
Tôi gặp Frau Zalewski ở cửa. Từ phòng Frau Bender, bà phóng ra, nhanh như một viên đạn đại bác. Khi nhìn thấy tôi, bà dừng lại.
"Sao thế? Về rồi đấy à?"
"Như bác thấy. Thời gian vừa qua có chuyện gì lạ không ạ?"
"Không có chuyện nào dính dáng tới cậu. Cũng không có thư từ. Nhưng Frau Bender đã dọn ra."
"Thật ư? Tại sao?"
Frau Zalewski chống hai tay lên hông. "Tại vì thế giới đầy dẫy những tên lưu manh. Chị ấy đã dọn đến viện tế bần Cơ đốc. Với con mèo và hai mươi sáu marks."
Bà giải thích rằng nhà nuôi trẻ mồ côi, nơi Frau Bender là y tá cho lũ trẻ, đã bất thần đóng cửa. Giám đốc phạm những sai lầm trong việc đầu tư chứng khoán. Frau Bender bị sa thải và bị quỵt mất hai tháng lương còn thiếu.
"Bà ấy kiếm được việc làm mới chưa?" tôi hỏi mà không suy nghĩ.
Frau Zalewski chỉ nhìn tôi.
"Không, không, dĩ nhiên là chưa," tôi nói.
"Tôi có bảo chị ấy rằng, chị cứ ở đây nếu muốn. Tiền nhà để thư thả rồi trả cũng được. Thế nhưng chị ấy không chịu."
"Người nghèo thường chân thật," tôi nói. "Vậy ai sẽ dọn vào phòng của bà ấy?"
"Gia đình Hasse. Rẻ hơn căn phòng mà họ đang ở lâu nay."
"Còn phòng của gia đình Hasse thì sao?"
Bà nhún vai. "Đành phải chờ xem. Bác không hy vọng là sẽ có khách thuê."
"Chừng nào phòng ấy trống?"
"Ngày mai. Gia đình Hasse đang dọn."
"Tiền thuê phòng, bác nói thật đi, bao nhiêu?" tôi hỏi. Một ý tưởng vừa bất thần nảy ra trong đầu tôi.
"Bẩy mươi marks."
"Đắt quá," tôi nói, tỉnh ngủ hẳn.
"Có cà phê, hai ổ bánh mì nhỏ, và rất nhiều bơ mỗi sáng mà đắt đỏ ư?"
"Bác nói đúng. Nhưng nếu không uống cà phê sáng thứ sáu -- năm mươi marks, không hơn một xu, được không?"
"Cậu định thuê phòng ấy?" Frau Zalewski hỏi.
"Có lẽ."
Tôi đi về căn phòng tồi tàn của mình và nghĩ mãi tới cánh cửa thông qua phòng của gia đình Hasse. Không, đó không phải là một ý nghĩ hạnh phúc.
Nhưng sau một lúc, tôi lại đổi ý và gõ cửa.
Frau Hasse có ở nhà. Trong gian phòng đã trống gần nửa, bà ngồi trước gương, đội mũ, và tô phấn.
Tôi chào bà, vừa nhìn quanh. Phòng rộng hơn tôi nghĩ. Một số bàn ghế đã được dọn đi khiến ta có thể nhận ra điều đó. Thảm trải sàn đơn giản, sáng sủa và tương đối còn mới, cửa ra vào và cửa sổ vừa được sơn phết, ban công khá rộng và đẹp.
"Chắc cháu đã biết ông ấy đối xử với bác ra sao rồi," Frau Hasse nói."Bác phải dọn qua phòng của mụ ấy. Có nhục không chứ?"
"Nhục?" tôi hỏi.
"Vâng, nhục nhã," bà xổ một tràng. "Cháu biết là bác không ưa con mụ ấy, thế mà Hasse bắt bác phải dọn qua phòng của mụ ấy, không ban công, và có độc một cửa sổ. Chỉ vì tiền phòng rẻ hơn một chút! Thử nghĩ xem, mụ ấy, đang ở viện tế bần Cơ Đốc, sẽ đắc ý biết bao."
"Cháu không cho là bà ấy đang đắc ý."
"Dĩ nhiên, mụ ấy, y tá dởm của trẻ con, đang hí hửng! Cháu phải biết, người lù đù vác cái lu mà chạy! Lại còn ở sát vách với cái con ngựa Erna Bonig! Và mùi mèo hôi thối!"
Tôi ngượng ngập nhìn lên. "Nhưng mèo là những con vật rất xinh đẹp và sạch sẽ," tôi nói. "Ngoài ra, cháu vừa mới vào xem phòng ấy. Có hôi mèo đâu nào."
"Thế à?" Frau Hasse tức giận trả lời tôi, lấy tay sửa lại mũ. "Dĩ nhiên, chuyện đó còn tùy vào thính giác của từng người. Nhưng bác sẽ không mó tay vào. Ông ấy cứ việc còng lưng khuân đồ đạc qua bên ấy. Bác đi đây. Bác muốn nói là, ít nhất, ra khỏi cuộc đời khổ như chó này."
Bà đứng lên. Gương mặt với làn da sần sùi rung lên vì giận dữ đến đỗi bụi phấn rơi lả tả như mưa phùn. Tôi thấy bà đã tô đôi môi đỏ chót như máu, và ăn vận như sẳn sàng để giết. Bà thơm lừng như một xưởng nước hoa, khi lướt khỏi phòng.
Tôi ngơ ngẫn nhìn. Rồi tôi xem xét căn phòng một lần nữa. Tôi thử đoán bàn ghế của Pat sẽ sắp xếp ra sao. Nhưng tôi đành chịu. Pat ở đây, luôn luôn ở đây, bên tôi ... tôi không thể hình dung được. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ có ý kiến ấy, nếu như nàng vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên ... Tôi mở cửa và bước ra ban công. Nhưng rồi tôi lắc đầu và quay trở lại phòng mình.
Nàng vẫn còn ngủ khi tôi bước vào. Tôi rón rén ngồi xuống cái ghế bành bên cạnh giường, nhưng nàng mở mắt ngay tức thì.
"Xin lỗi đã đánh thức em," tôi nói.
"Anh ở đây từ nãy giờ?" nàng hỏi.
"Không. Anh mới trở lại."
Nàng vươn tay và ấp má vào tay tôi. "Tốt. Em không thích người ta nhìn em ngủ."
"Anh hiểu. Anh cũng không thích như vậy. Anh không muốn nhìn em ngủ. Anh chỉ không muốn đánh thức em. Em có muốn chợp mắt thêm một chút nữa?"
"Không, em ngủ đủ rồi. Em dậy liền bây giờ."
Tôi đi qua phòng bên cạnh, trong khi nàng thay áo. Bên ngoài trời tối dần. Ở cửa sổ phòng đối diện, một cái máy hát đang ong ỏng phát bài Hành khúc Hohenfriedberg. Một gã đầu hói, mang cặp dây đeo quần, lúi húi bên máy hát. Rồi hắn đi tới đi lui, tập thể dục kiểu Thụy Điển theo điệu nhạc. Cái đầu trọc láng bóng nổi trên nền tối lờ mờ như một vầng trăng bực tức. Tôi nhìn hắn, vô cảm giác. Tôi cảm thấy chán nản và u sầu.
Pat bước vào. Trông nàng xinh đẹp, tươi tắn, không một chút mệt mỏi.
"Em đẹp lộng lẫy," tôi ngạc nhiên nói.
"Em cũng thấy khỏe, Robby. Như thể em đã có nguyên một đêm an giấc. Em hồi phục rất nhanh."
"Vâng, trời ạ. Nhanh đến nỗi người ta theo không kịp."
Nàng dựa vào vai tôi và ngước lên. "Nhanh lắm sao, Robby?"
"Không. Chỉ là anh quá chậm. Anh thường hơi chậm chạp, Pat ạ."
Nàng mỉm cười. "Chậm thì chắc. Và chắc thì tốt."
"Chắc như nút bần trên nước."
Nàng lắc đầu. "Anh vững chắc nhiều hơn anh tưởng. Trên thực tế, anh hoàn toàn khác với những gì anh nghĩ. Hiếm khi nào em gặp một người có nhiều nhận định sai lầm về bản thân như anh."
Tôi bỏ tay khỏi vai nàng.
"Vâng, anh yêu," nàng nói, gật đầu. "Quả tình là thế. Còn bây giờ, mình đi kiếm món gì ăn nhé."
"Chúng ta nên đi đâu?" tôi hỏi.
"Quán của Alfons. Em phải ghé lại. Em có cảm giác như mình đã đi vắng từ muôn kiếp."
"Tốt," tôi nói. "Nhưng em có đói bụng không? Em không thể đến quán Alfons nếu em không đói. Anh ấy sẽ tống cổ em ra khỏi quán."
Nàng cười to. "Nhưng em đang đói khủng khiếp."
"Vậy mình đi thôi." Bỗng nhiên, tôi rất vui.
Vào quán của Alfons, chúng tôi được đón tiếp hậu hĩnh. Anh chào chúng tôi rồi biến mất ngay và sau đó trở lại, ngột ngạt trong chiếc áo cổ cồn cứng nhắc và cái cà vạt đốm xanh lục. Vị tất anh đã ăn vận như thế với Hoàng đế nước Phổ. Anh lại có vẻ ngượng ngập vì sự suy thoái chưa từng thấy này.
"Alfons, có món nào ngon không ạ?" Pat hỏi, tựa khủy tay trên mặt bàn.
Alfons cười khì, chúm môi lại và nheo mắt. "Cô may mắn đấy. Hôm nay có món cua hấp."
Anh lùi một bước để quan sát hiệu quả. Hiệu quả hạng nhất.
"Dọn kèm với rượu vang mới cất Moselle," anh khẻ nói, vui thích, lùi thêm một bước nữa.
Một tràng pháo tay tán thưởng -- đặc biệt từ cửa, nơi mà cùng với mái tóc vàng hoang dại và cái chóp mủi rám nắng, xuất hiện gương mặt tươi cười của chàng trai lãng mạn cuối cùng.
"Gottfried!" Alfons reo lên. "Cậu? Chính cậu đấy ư? Trời ơi, ngày vui quá! Đến đây cho tớ ôm một cái!"
"Em sắp chứng kiến một cảnh tượng," tôi nói với Pat.
Hai người lao vào vòng tay nhau. Alfons vỗ thùm thụp lên lưng Lenz như có một lò rèn kéo bễ ở cạnh quán. "Hans," anh kêu người hầu bàn, "đem chai Napoleon ra."
Anh lôi Gottfried tới quầy. Anh bồi mang đến một chai lớn, vỏ còn đóng bụi. Alfons rót rượu ra hai ly.
"Pros't, Gottfried, con lợn quay già dịch."
"Pros't, Alfons, lão cai tù tốt bụng."
Hai người ực một hớp, cạn ly.
"Hạng nhất," Gottfried khen. "Loại cognac dành cho thánh mẫu."
"Đáng tiếc chúng ta đã nuốt trộng như thế," Alfons nói. "Nhưng làm sao có thể uống chậm khi ta quá sung sướng. Làm thêm một ly nữa, nào."
Anh rót thêm và nâng cốc. "Nè cậu, tên cà chua vô tín ngưỡng."
Lenz cười to. "Alfons thân quý của tớ."
Mắt Alfons ươn ướt. "Một lần nữa, Gottfried," anh nói, cảm động.
"Tới luôn bác tài." Lenz chìa ly của anh ra. "Tớ chỉ nói Không với cognac, khi nào tớ lăn kềnh không ngóc đầu lên nỗi mà thôi."
"Nói như thế mới là sành điệu." Alfons rót thêm ly thứ ba.
Lenz đi đến bàn, còn thở gấp. Anh lấy đồng hồ ra. "Về đến ga ra với chiếc Citroen lúc tám giờ kém mười. Cậu nghĩ sao?"
"Đạt kỷ lục," Pat trả lời. "Hoan hô Jupp! Em sẽ đích thân trao cho chú ấy một hộp thuốc lá."
"Còn cậu, có phần cua làm thêm cho cậu," Alfons, bám sát Gottfried, nói. Anh đưa mỗi người một thứ gì giống như khăn trải bàn. "Các cậu cởi áo lớn ra, cột khăn vào. Tiểu thư bằng lòng cho chúng tôi làm như vậy không?"
"Em cũng thấy cần phải làm như thế," Pat nói.
Alfons gật đầu, hài lòng. "Cô là một phụ nữ hợp tình hợp lý, tôi biết. Ta phải thưởng thức món cua thoải mái. Không sợ vấy bẩn quần áo." Ông tươi cười. "Dĩ nhiên, cô sẽ có một thứ còn hay hơn thế nữa."
Người hầu bàn, Hans, đem ra một cái tạp dề của đầu bếp, trắng tinh như tuyết. Alfons tháo ra, giúp nàng choàng vào. "Hợp với cô lắm," anh khen.
"Thế mới đúng," nàng trả lời, cười to.
"Tôi vui vì cô thích nó," Alfons thân ái nói."Làm ấm áp cõi lòng."
"Alfons!" Goffried thắt tấm khăn quanh cổ, để các góc khăn chìa ra. "Tớ phải nói, hiện thời chỗ này trông không khác gì một tiệm cắt tóc."
"Chúng ta sẽ thay đổi ngay. Nhưng, một ít nghệ thuật trước đã."
Alfons đến cạnh máy quay dĩa, và lập tức bài Pilgrims' Chorus của Tannhauser vang lên. Chúng tôi im lặng lắng nghe.
Bài ca chưa dứt hẳn thì cửa nhà bếp đã mở và người bồi bàn, Hans, bước ra với một cái chậu to như cái thau tắm em bé. Chậu đựng đầy cua hấp, nghi ngút khói. Vừa ho, anh ta vừa đặt chậu cua lên bàn.
"Lấy dùm tôi một cái khăn ăn nữa, nhé," Alfons nói.
"Bạn cũng ăn với chúng tôi hay sao?" Lenz kêu lên. "Hân hạnh quá."
"Nếu tiểu thư không phản đối?"
"Trái lại là khác, Alfons."
Pat nhích ghế qua và anh ngồi xuống bên cạnh.
"Cô cứ tự nhiên," anh nói, như xin lỗi. "Thực ra tôi có thể bóc vỏ cua sẳn dùm cô. Phụ nữ phải bóc vỏ cua thì hơi cực đấy."
Anh thò tay vào chậu, nhanh nhẹn bóc vỏ và bẻ cua ra cho nàng. Bàn tay thô to của anh lại khéo léo và lịch lãm đến nỗi nàng chẳng phải làm gì, ngoại trừ thưởng thức những miếng thịt cua xiên sẳn trên cái nĩa anh đưa ra.
"Ngon không?" anh hỏi.
"Ngon tuyệt." Nàng nâng ly rượu. "Chúc sức khỏe anh, Alfons."
Alfons vui vẻ chạm cốc với nàng rồi chầm chậm uống. Tôi nhìn nàng. Tôi ước phải chi đó là một thức uống khác, không chứa rượu.
Nàng cảm thấy cái nhìn của tôi. "Salut, Bob," nàng nói.
Nàng đẹp, rạng ngời hạnh phúc.
"Salut, Pat," tôi nói, và uống cạn ly.
"Nơi đây đáng yêu quá, phải không?" Nàng hỏi, nhìn tôi một lần nữa.
"Quá đáng yêu." Tôi rót rượu thêm cho mình. "Pros't, Pat!"
Mặt nàng thoáng ửng hồng. "Pros't, Bob; Pros't, Gottfried!"
Chúng tôi uống. "Rượu ngon," Lenz nói.
"Graacher Abtsberg mùa năm trước," Alfons giải thích. "Mình hài lòng là cậu nhận ra."
Anh kéo con cua thứ nhì từ trong chậu, đưa cho Pat cái càng cua đã lột.
Nàng từ chối. "Anh phải ăn đi chứ, Alfons. Không thôi, anh chẳng còn gì để ăn đâu."
"Anh sẽ ăn sau. Anh bóc vỏ cua nhanh hơn họ nhiều."
"Tốt lắm." Nàng nhận cái càng cua. Alfons hân hoan ra mặt và bóc thêm nữa. Anh như một con cú già bự xự, chăm chút mớm thức ăn cho một con chim trắng bé bỏng mới ra ràng.
Để kết thúc, chúng tôi uống thêm một lượt Napoleon và từ biệt Alfons. Pat rất hạnh phúc.
"Tuyệt vời," nàng nói. "Cám ơn anh Alfons. Thật tuyệt vời." Nàng chìa tay ra cho Alfons.
Alfons lẩm bẩm gì đó và hôn tay nàng. Mắt của Lenz như sắp rớt ra, vì kinh ngạc. "Sớm quay lại đây nhé," Alfons nói. "Cả cậu nữa, Gottfried."
Chiếc Citroen nhỏ bé, lạc loài đậu bên ngoài, dưới ngọn đèn đường.
"Ô," Pat kêu lên, đứng chựng lại. Một thoáng co giật lướt qua trên mặt nàng.
"Sau thành tích biểu diễn của nó hôm nay, tôi đã đặt cho nó cái tên cúng cơm là Hercules," Gottfried vừa nói, vừa mở cửa xe. "Tôi có thể đưa cô về không?"
"Không ạ," Pat nói.
"Tôi cũng nghĩ thế. Vậy chúng ta đi đâu?"
"Ta đi quán 'The Bar' không, vậy Bob?" Nàng quay sang tôi.
"Tất nhiên," tôi nói; "tất nhiên chúng ta sẽ đi quán 'The Bar'."
Chúng tôi lái thật chậm trên đường phố. Trời ấm và trong. Người người ngồi trước quán cà phê. Âm nhạc êm đềm vẳng ra. Pat ngồi cạnh tôi. Bỗng dưng, tôi không thể tin rằng nàng đang ốm; người của tôi nóng lên vì cố gắng, nhưng trong một thoáng, tôi vẫn không thể nào tin.
Trong quán "The Bar" chúng tôi gặp Ferdinand và Valentin. Ferdinand trông khỏe mạnh. Anh đứng lên, đón Pat.
"Diana," anh nói, "từ rừng thẳm về --" Nàng mỉm cười. Anh quàng tay lên vai nàng. "Nữ thần săn bắn với cây cung bạc, làn da sạm nắng và can trường -- cô uống gì đây?'
"Gottfried gỡ tay anh ta. "Thương nhân thường không khéo cư xử," anh nói. "Tiểu thư đây đã có hai công tử theo hộ tống; bộ anh không nhìn thấy hay sao, hở con bò rừng?"
"Người lãng mạn chỉ là cái đuôi bám theo -- không phải là hộ tống viên," không một chút nao núng, Ferdinand nói.
Lenz cười tươi và quay sang Pat. "Tôi sẽ pha cho cô một món rất đặc sắc. Cocktail Kolibri. Đặc sản của Ba Tây."
Anh đến quầy rượu, pha lắc nhiều thứ, rồi mang về.
"Cô thấy thế nào?" anh hỏi.
"Hơi loãng, nhưng đậm tính chất Ba Tây," Pat trả lời.
Gottfried cười to. "Nó cũng mạnh nữa. Pha với rum và vodka."
Chỉ cần liếc sơ qua tôi cũng thừa biết, không có rum mà cũng chẳng vodka -- nó là nước ép trái cây, chanh, cà chua, và có lẽ một giọt Angostura. Một thứ cocktail không rượu. Nhưng Pat, cám ơn trời, không phân biệt được.
Nàng uống ba ly Kolibris lớn, và tôi để ý thấy nàng rất vui vì không bị đối xử như người bệnh. Một giờ sau, chúng tôi ra về, chỉ còn Valentin ở lại. Lenz đã dàn xếp tất cả. Anh mời Ferdinand ngồi vào chiếc Citroen và lái đi. Như thế, Pat và tôi không có vẻ gì là bỏ về sớm. Thật chu đáo, tuy thế, trong một thoáng, tôi có cảm giác khổ sở của một con cún.
Pat khoác tay tôi. Với những bước yểu điệu, duyên dáng, nàng đi bên cạnh; tôi cảm nhận được hơi ấm của cánh tay nàng, tôi thấy ánh đèn đường mờ ảo soi trên gương mặt linh động của nàng -- Không, tôi không thể tin rằng nàng đang ốm; tôi có thể tin ở điều ấy giữa ban ngày, còn khi đêm về, khi cuộc sống dịu dàng hơn, ấm áp hơn, và đầy hứa hẹn, thì không.
"Chúng mình ghé qua nhà anh một chút, nhé?" tôi hỏi.
Nàng gật đầu.
Hàng lang của nhà trọ sáng đèn. "Chết rồi," tôi nói. "Không biết có chuyện gì xảy ra vậy? Em chờ anh một chút, được không?"
Tôi mở cửa và ngó vào. Hành lang dài nằm trơ trẻn dưới đèn, như một đường hẻm nhỏ hẹp ở ngoại ô. Cửa phòng của Frau Bender mở toang, và bên trong cũng sáng. Như một con kiến đen nhỏ xíu, Hasse đang lần mò trong hành lang, một cây đèn chân dài có chụp lụa hồng đè trên vai. Ông từ từ quay lại.
"Chào bác," tôi nói. "Khuya rồi còn gì?"
Ông ngước bộ mặt xanh xao với chùm ria mép đậm và quặp xuống. "Bác mới ra khỏi sở làm cách đây một tiếng. Và bác chỉ có thì giờ dọn nhà vào buổi tối."
"Bác gái không có ở nhà sao?"
Ông lắc đầu. "Bà ấy đi với cô bạn nào rồi. Cảm ơn Chúa, cuối cùng bà ấy cũng có bạn -- bà ấy dành rất nhiều thời gian cho cô bạn đó." Ông mỉm cười, hồn nhiên và mãn nguyện, và tập tễnh bước đi. Tôi đưa Pat vào.
"Anh nghĩ mình không nên thắp đèn, hở em?" tôi hỏi, khi chúng tôi đã vào trong phòng.
"Vâng, anh yêu. Chỉ bật lên một giây, rồi anh có thể tắt đi."
"Em thật tham lam," tôi nói, và cái ghế bành đỏ hiện ra huy hoàng trong giây lát dưới ánh điện chói chang, rồi cũng nhanh như thế, biến đi.
Các cửa sổ mở ra và không khí ban đêm từ rặng cây đối diện lùa vào, tươi mát như đến từ một cánh rừng.
"Tuyệt vời," Pat nói và cuộn mình trong góc của băng ghế cửa số.
"Em thực sự thích chỗ này sao?"
"Vâng, Robby. Như thể ta đang ở trong một công viên lớn, vào mùa hè. Tuyệt vời."
"Anh không biết em có nhìn ngó căn phòng kế bên, khi đi ngang qua?" tôi hỏi.
"Không, tại sao thế?"
"Phần bên trái của cái bao lơn to đẹp này cũng thuộc về phòng ấy. Nó tương đối biệt lập, và không có vật gì đối diện. Nếu em ở phòng đó, em không cần áo tắm khi phơi nắng."
"Vâng, nếu em được ngụ ở đó --"
"Có thể lắm," tôi lơ đãng nói. "Em thấy mà, mấy hôm nữa, căn phòng ấy sẽ bỏ trống."
Nàng nhìn tôi, mỉm cười. "Anh nghĩ, như thế sẽ thích hợp với chúng ta sao? Luôn luôn ở gần nhau?"
"Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng sống bên nhau," tôi trả lời. "Ban ngày anh sẽ không có mặt ở đấy, này nhé. Và cũng không thường xuyên, vào ban đêm. Một mặt khác, nếu chúng ta có thể sống ở đây với nhau, chúng ta sẽ không cần phải đi ra tiệm ăn, ngồi ở đó, rồi luôn luôn vội vã chia tay, như thăm viếng."
Nàng cựa mình trong góc. "Có vẽ như anh đã suy nghĩ cặn kẽ về chuyện này, anh yêu?"
"Đúng vậy," tôi nói. "Cụ thể là cả đêm hôm qua."
Nàng nhổm dậy. "Anh thực lòng nghĩ như thế, một cách nghiêm chỉnh, Bobby?"
"Trời ạ, đúng thế," tôi nói. "Em không bao giờ nhận thấy như vậy hay sao?"
Nàng im lặng trong giây lát. "Robby, nói cho em biết," giọng nàng sâu lắng hơn bao giờ hết, "thế nhưng vì sao bây giờ anh mới nói?"
"Anh vừa nói tới," tôi trả lời, hăng hái còn hơn ý tôi muốn, bởi thình lình tôi cảm thấy cái quyết định sắp đến có liên quan đến nhiều thứ hơn chỉ là căn phòng, "anh nhắc đến, bởi vì trong mấy tuần qua, anh thấy tuyệt vời làm sao khi chúng ta hoàn toàn bên nhau. Anh không thể chịu đựng được nữa sự chia tay thường xuyên. Anh muốn có em nhiều hơn. Anh muốn luôn luôn có em bên anh; anh không còn ham thích chi nữa trò chơi ú tim phức tạp của tình yêu; anh chỉ muốn một mình em và một mình em, anh không bao giờ có đủ em, và anh không muốn từ bỏ một giây phút nào bên em."
Tôi nghe hơi thở của nàng. Nàng ngồi trong góc bên cửa sổ, tay đặt hững hờ quanh đầu gối, và không nói gì. Ánh đèn đỏ của tấm biển quảng cáo từ từ nhô cao, quá ngọn cây đối diện và ấm áp chiếu trên đôi giày màu sáng của nàng. Rồi nó lang thang trên chiếc áo đầm và trên đôi tay nàng. "Em cứ cười anh, nếu em muốn," tôi nói.
"Tại sao lại cười?"
"Ơ, bởi vì, lúc nào anh cũng nói, anh muốn. Nói cho cùng, em cũng phải muốn, như anh."
Nàng nhìn lên. "Anh có biết không, Robby, anh đã thay đổi?"
"Không."
"Vâng, có mà. Anh vừa thú nhận. Anh muốn. Anh không hỏi hay yêu cầu nữa. Anh chỉ muốn mà thôi."
"Như thế có khác biệt gì lớn đâu. Em vẫn có thể nói Không, cũng y như thế, dù anh có muốn nhiều cách mấy."
Bất ngờ, nàng nghiêng người tới trước, lại gần tôi. "Nhưng tại sao em lại nói Không, hở Bobby?" giọng của nàng ấm áp, nhu mì. "Dĩ nhiên, em cũng muốn."
Kinh ngạc, tôi choàng tay quanh nàng. Những sợi tóc của nàng phơn phớt trên mặt tôi. "Thật thế ư, Pat?"
"Vâng, anh yêu, thật đấy."
"Bậy thiệt," tôi nói. "Vậy mà anh cứ ngỡ là phải khó khăn lắm."
Nàng lắc đầu. "Tại anh nghĩ thế mà thôi, Bobby."
"Anh hầu như tin chắc như vậy mà," tôi nói, ngạc nhiên.
Nàng quàng tay qua cổ tôi. "Đôi khi lại tốt, nếu ta không phải nghĩ ngợi gì. Không phải một mình làm tất cả mọi thứ. Có thể học hỏi. Ach, anh yêu, thật ra cũng khá dễ dàng -- ta chỉ cần không làm cho nó trở thành khó khăn."
Tôi phải nghiến răng để không trả lời. Không ai khác, chính nàng lại là người nói với tôi điều đó.
"Đúng," tôi đành nói, "đúng đó, Pat." Không đúng thật chút nào.
Chúng tôi đứng bên cửa sổ một lúc. "Chúng ta sẽ mang về đây tất cả vật dụng của em," tôi nói. "Em không phải thiếu thốn một thứ gì. Chúng ta có thể tìm mua một cái xe đẫy. Frida sẽ học cách dọn trà."
"Nhưng em có đã có một cái rồi, anh yêu. Xe của em mà."
"Như thế lại càng tốt. Ngày mai, anh sẽ huấn luyện Frida."
"Nàng ngã đầu lên vai tôi. Tôi cảm thấy nàng mệt mỏi.
"Bây giờ anh đưa em về nhé?" tôi hỏi.
"Chút nữa đi. Em cần nằm nghĩ một lát."
`Nàng nằm im trên giường, không chuyện trò, như đã ngủ. Nhưng mắt nàng vẫn mở và thỉnh thoảng lại lấp lánh trong ánh đèn của tấm biễn quảng cáo, dâng cao trên vách và di chuyển trên tấm khăn trải giường như ánh sáng vui tươi phương bắc. Bên ngoài, mọi thứ đều yên tĩnh. Từ phòng bên cạnh, thỉnh thoảng ta lại nghe tiếng Hasse lu bu giữa đống hoang tàn của những niềm hy vọng, của mối hôn nhân, và có lẽ của chính cuộc đời anh.
"Em cần phải ở lại," tôi nói.
Nàng ngồi dậy. "Đêm nay không được, anh yêu."
"Anh mong em ở lại."
"Ngày mai."
Nàng đứng dậy và nhẹ nhàng di chuyển trong căn phòng tăm tối. Tôi nhớ lần đầu tiên nàng đã ở lại với tôi, và cũng đã đi quanh phòng, không một tiếng động, mặc y phục vào trong chút nắng đầu ngày.Tôi không biết cái đó là gì, nhưng có một điều nào đó, vô cùng cảm động, thực thế, gần như gây choáng váng; như một cử chỉ thuộc về một thời kỳ đã rất xa, đã chôn vùi; như sự tuân phục thầm lặng một mệnh lệnh, như một lý do không ai còn nhớ.
Nàng từ bóng tối bước ra, trở lại với tôi và ấp ủ mặt tôi trong đôi tay của nàng. "Bên anh thật tuyệt diệu làm sao, anh yêu. Tuyệt diệu, có anh ở đây."
Tôi không trả lời. Tôi không thể trả lời.
Tôi đưa nàng về nhà, đoạn quay lại "The Bar." Koster có mặt tại đó.
"Ngồi xuống," anh nói. "Thế nào rồi?"
"Chẳng có gì đặc biệt, Otto."
"Cậu muốn uống gì không?"
"Nếu uống, tớ phải uống thật nhiều. Tớ không muốn làm vậy. Nhưng tớ có thể làm vài chuyện khác. Gottfried đang lái tắc xi?
"Không."
"Tốt. Vậy tớ sẽ chạy tắc xi vài ba tiếng."
"Tớ đi ra đó với cậu," Koster nói.
Tôi nhận xe tắc xi và chia tay Otto. Rồi tôi lái ra bến. Trước tôi, đã có hai chiếc chờ sẳn. Sau tôi là Gustav và Tommy, chàng kịch sĩ. Rồi hai xe trước tôi rời bến, và chỉ một lát sau, tôi cũng có khách -- một thiếu nữ, muốn đi tới Vineta.
Vineta là một khiêu vũ trường rất được ưa chuộng, với điện thoại để bàn, hệ thống giao thư bằng ống khí nén, và những thứ tân kỳ tương tự của tỉnh lẻ. Nó nằm tách biệt, trên một con đường nhỏ.
Chúng tôi dừng xe. Cô gái lục mãi túi xách rồi đưa tôi một tờ giấy năm mươi marks. Tôi nhún vai. "Xin lỗi, tôi không có tiền thối."
Người gác cửa đi tới. "Bao nhiêu?" cô gái hỏi tôi.
"Một đồng bẩy mươi."
Cô gái quay sang người gác cửa. "Anh giúp được không? Đi với tôi tới quầy thu tiền, tôi sẽ đưa tiền lẻ để anh trả dùm."
Hắn đẩy cửa, theo cô ta vào quầy thu tiền. Rồi hắn trở ra. "Đây nè --"
Tôi đếm. "Một đồng năm mươi xu, thế thì --"
"Đừng có nói nhảm, chẳng nhẽ chú mày là tay mơ sao? Hai mươi xu nộp cho gác cửa, nếu còn muốn trở lại đây. Thôi cút đi."
Có những nơi ta phải trả hoa hồng cho người gác cửa, nhưng đó là khi họ đem khách đến cho ta, chứ không phải khi ta đem khách đến cho họ.
"Tôi không hẳn là người mới đâu," tôi nói. "Đưa tôi một đồng bẩy mươi xu."
"Đưa cái khỉ khô," hắn gầm lên. "Chú mày phải tuân lệnh ông, nhóc tì; đây là giang sơn của ông."
Hai mươi xu với tôi không đáng gì cả. Tôi chỉ không muốn để hắn chơi bẩn. "Đừng gáy nữa, đưa tôi phần tiền còn thiếu," tôi nói.
Tên gác cửa vung tay lên đánh bất ngờ, khiến tôi không thể chống đỡ, hoặc ngồi trong xe, né tránh. Đầu tôi đập mạnh vào tay lái. Choáng váng, tôi có gượng dậy. Hắn sừng sững đứng trước mặt tôi: "Muốn ăn một đấm nữa không, cái thằng cứng đơ?"
Trong một giây, tôi tính toán khả năng ăn thua. Chẳng có mấy. Gã mạnh hơn tôi nhiều. Hy vọng duy nhất của tôi là tấn công thình lình. Nhưng ngồi trong xe, tôi không thể đấm, vì không có thế. Đợi đến khi tôi mò ra khỏi xe, thì hắn dư sức đập tôi mấy trận nhừ tử. Tôi nhìn hắn. Hơi thở sặc mùi bia của hắn phả vào mặt tôi: "Nói thêm một tiếng, con vợ của chú mày sẽ thành gái góa."
Tôi nhìn hắn. Tôi không cử động. Tôi chăm chăm nhìn cái bản mặt mạnh khỏe ấy. Tôi muốn nuốt trửng hắn bằng cái nhìn của mình. Tôi biết chính xác chỗ tôi sẽ đấm; tôi lạnh băng vì điên tiết. Nhưng tôi không cựa quậy. Tôi nhìn gương mặt ấy, quá gần, quá rõ, như nhìn bằng một cái kính lúp, quá to, từng cọng râu lồ lộ, làn da đỏ ké thô nhám, lỗ chân lông toang toác ...
Một chiếc mũ sắt của cảnh sát lóe sáng. "Có chuyện gì không đó? "
Tên gác cửa khúm núm. "Không có gì hết, Herr Constable."
Người cảnh sát ngó tôi. "Có gì đâu," tôi nói.
Ông đưa mắt nhìn tên gác cửa rồi nhìn tôi. "Anh chảy máu?"
"Tôi vấp té."
Tên gác cửa lùi lại một bước. Một nụ cười toe toét hiện lên trong ánh mắt của hắn. Hắn nghĩ rằng tôi không dám tố cáo.
"Vậy ư. Thôi đi đi," người cảnh sát nói.
Tôi nhấn ga, lái về bến.
"Trời ơi, ông anh đẹp trai thế," Gustav nói.
"Chỉ có cái mũi ăn trầu," tôi trả lời, và kể lại câu chuyện.
"Đi tới quán rượu," Gustav nói. "Dù gì tớ cũng từng là trung sĩ tản thương. Đánh một người đang ngồi, hèn quá."
Ở quán rượu, anh dẫn tôi vào bếp, lấy một ít nước đá và săn sóc tôi suốt nửa giờ. "Sẽ không bầm nhiều đâu," anh giải thích.
Cuối cùng anh ngừng lại. "Còn cái đầu của cậu thì sao? Ổn chứ? Vậy ta sẽ không để phí thời gian."
Tommy bước vào. "Có phải thằng cha gác cửa to con ở quán Vineta không? Hắn nổi tiếng với những quả đấm hung hãn. Nhưng rủi thay, tớ chưa thử qua lần nào."
"Ừ, cũng sắp được thử rồi đó." Gustav nói.
"Đúng, nhưng phải để chính tớ ra tay," tôi trả lời.
Gustav nhìn tôi, không đồng ý. "Cậu sẽ không kịp bước xuống xe --"
"Tớ đã nghĩ ra một kế hay. Nhưng nếu tớ thất bại, các cậu vẫn có thể nhào vô đánh tiếp."
"Được."
Tôi đội nón của Gustav và chúng tôi lái xe của anh, để tên gác cửa không nghi ngờ. Hắn cũng chẳng nhìn thấy gì đâu, đường xá nơi ấy tối mò.
Chúng tôi lái đến nơi. Chẳng có ma nào lai vãng. Gustav nhảy xuống xe, cầm một tờ hai mươi marks.
"Chết cha. Không có tiền lẻ. Anh gác cửa, đổi dùm tôi nhé? Một đồng bảy mươi xu, phải không? Trả dùm tôi."
Anh làm như đi về hướng quầy thu ngân. Người gác cửa tiến tới, vừa ho vừa đưa tôi một đồng năm mươi xu. Tôi vẫn chìa tay ra. "Cút đi," hắn gầm gừ.
"Đưa thêm cho đủ, đồ con heo bẩn thỉu!" tôi hét to.
Hắn sững người trong một giây, như hóa đá.
"Cha nội," rồi hắn nói, nhỏ nhẹ, liếm môi, "cha nội sẽ hối hận về chuyện này cả tháng cho coi."
Hắn vung tay lên. Quả đấm có lẽ đã làm tôi bất tỉnh. Nhưng tôi có chuẩn bị; tôi xoay mình tránh, và nắm tay của hắn tống vào phần thép bén của cái tay quay xe mà tôi cầm dấu trong tay trái. Hắn rú lên, nhảy lùi lại, rẫy tay. Hắn rên xiết đau đớn như tiếng rít của một cái máy hơi nước, và hắn đứng đó, hớ hênh.
Tôi vọt khỏi xe. "Nhận ra ai chưa?" tôi nhổ phẹt một bãi và thụi vào bụng gã. Gã té nhào.
"Một!" Gustav đứng ở cửa, bắt đầu đếm.
Đến tiếng thứ năm, gã loạng choạng đứng lên, đôi mắt lạc thần. Cũng như lần trước, tôi thấy thật rõ trước mặt tôi, gương mặt của gã -- cái bản mặt khỏe mạnh, to bự, đần độn và tầm thường; cái con người cục mịch có một sức khỏe tuyệt vời; cái con lợn ỉ có hai lá phổi không bao giờ đau ốm; và thình lình, tôi thấy một bức màng mỏng đỏ thắm phủ chụp lên não bộ và đôi mắt của tôi, tôi nhảy tới và đấm lấy đấm để vào cái bản mặt ấy; tôi trút lên đó tất cả những gì đã hành hạ tôi trong mấy tháng vừa qua, tôi đấm mãi cho đến khi bị kéo ra.
"Trời đất, cậu giết hắn mất!" Gustav gào lên.
Tôi nhìn lại. Tên gác cửa, máu me bê bết, đứng dựa vách. Rồi hắn té sụm xuống, và như một con côn trùng khổng lồ trong bộ đồng phục bóng lộn, bò chầm chậm về phía cửa.
"Hắn sẽ không còn sức đấm đá nữa," Gustav nói. "Chúng ta phải chuồn ngay, trước khi có người tới. Gần như là tội tấn công, và tội gây thương tích trí mạng."
Chúng tôi quăng mớ tiền xuống vĩa hè, lên xe và lái đi.
"Tớ bị chảy máu hả?" Tôi hỏi, "hay là máu của thằng cha gác cửa?"
"Cậu lại bị đấm vào mũi," Gustav giải thích. "Thằng chả móc trái một cú đẹp lắm."
"Tớ có hay biết gì đâu."
Gustav cười to.
"Cậu biết không," tôi nói, "tớ cảm thấy khỏe hơn nhiều."
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:51:16 GMT -6
Chương 18
Tắc xi của chúng tôi đậu trước cửa "The Bar." Tôi đi vào, tìm Gottfried, lấy chìa khóa xe và giấy tờ để thay thế anh. Gottfried bước ra ngoài với tôi.
"Làm ăn khá không?" Tôi hỏi.
"Tàm tạm," anh trả lời. "Hoặc có quá nhiều tắc xi, hay quá ít khách. Còn cậu thì sao?'
"Tệ lắm. Chầu chực cả đêm vẫn không kiếm quá hai mươi marks."
"Chán nhỉ." Gottfried nhướng cặp chân mày. "Vậy hôm nay, có lẽ cậu cũng không gấp gáp gì lắm?"
"Không, tại sao?"
"Đi với tớ một chút nhé."
"Được." Chúng tôi lên xe. "Đi đâu?" tôi hỏi.
"Nhà thờ."
"Cái gì?" tôi hỏi. "Tớ không nghe nhầm chứ? tớ nghe 'nhà thờ.'"
"Không nhầm đâu, con trai. Chính là nhà thờ."
Tôi nhìn anh, kinh ngạc.
"Nhìn cái gì; lo lái đi," Gottfried nói.
"Tốt lắm." Chúng tôi khởi hành.
Nhà thờ nằm ở một khoảng đất trống thuộc khu vực xưa của thành phố, nhà các giáo sĩ bao quanh. Tôi ngừng ở cửa trước.
"Cứ lái tiếp," Gottfried nói; "vòng qua bên phải."
Anh bảo tôi lái đến cửa sau nhà thờ, và anh bước xuống xe.
"Chúc cậu vui," tôi nói. "Cậu sắp sửa xưng tội đấy à?"
"Đi theo tớ," anh trả lời.
Tôi cười lớn. "Không. Sáng nay tớ đọc kinh rồi. Với tớ, như thế đã đủ cho một ngày."
"Đừng nói nhảm, em cưng. Đi nào. Để tỏ lòng rộng rãi, tớ chỉ cho cậu cái này."
Hiếu kỳ, tôi đi theo. Qua khỏi cửa, chúng tôi lập tức lọt vào những hành lang tu viện. Chúng họp thành một khối to vuông, với các vòm cung dựa trên những cột hoa cương xám; và bao quanh một khu vườn. Giữa vườn, vươn cao một thập giá to, với tượng chúa Giê Su, đã bạc màu sương gió. Trên bốn vách có những phù điêu khắc chìm, mô tả Các Chặng Đàng Thánh Giá. Trước mỗi phù điêu có một băng ghế cũ để cầu nguyện. Trong vườn, hoa lá um tùm, mọc tràn lan.
Gottfried trỏ vào mấy bụi rất to hoa hồng trắng và đỏ. "Tớ muốn chỉ cho cậu cái ấy. Cậu nhận ra không?"
Ngạc nhiên, tôi dừng chân. "Dĩ nhiên," tôi nói. "Vậy đây là chỗ cậu lượm mót hoa, thằng ăn trộm nhà thờ."
Tuần trước, khi Pat dọn vào nhà trọ của Frau Zelewski, Gottfried đã gửi tặng nàng, Jupp mang tới, một bó hồng khổng lồ. Nhiều đến nỗi Jupp phải xuống lầu hai lượt, mỗi bận trở lên, hai tay ôm đầy hoa. Tôi suy nghĩ nát óc, vẫn không hiểu Gottfried tìm chúng ở đâu; tôi biết quy tắc của anh, không bao giờ mua hoa. Tôi chưa hề thấy hoa hồng trong công viên thành phố.
"Đây là một ý tưởng hết sức độc đáo," tôi nói, biết ơn. "Phải một đấng nam nhi mới có thể nghĩ ra."
Gottfried rạng rỡ. "Vườn này là một mỏ vàng riêng tư." Anh vui vẻ đặt tay lên vai tôi. "Vì lẽ đó, tớ nhận cậu làm người đồng sở hữu. Tớ nghĩ rằng ngay bây giờ, cậu đã có dịp dùng đến."
"Sao lại ngay bây giờ?" tôi hỏi.
"Bời vì công viên hầu như trơ trụi. Và công viên là chỗ cậu vẫn hái trộm lâu nay, phải không?"
Tôi gật đầu.
"Ngoài ra," Gottfried nói tiếp, "cậu đang tiến vào giai đoạn mà sự khác biệt giữa một anh trọc phú với một hiệp sĩ bắt đầu biểu hiện. Càng quen biết người yêu, anh nhà giàu càng lơ là. Còn hiệp sĩ vẫn chăm chút cho nàng như cũ." Anh giang tay ra. "Với tất cả những thứ này, cậu có thể trở thành một hiệp sĩ hào hoa khiến ai cũng trầm trồ."
Tôi cười to. "Nghe hay lắm, Gottfried," tôi nói. "Nhưng nếu ta bị bắt quả tang thì sao? Coi bộ nơi này không dễ trốn, và các tín đồ sẽ nghĩ đó là một việc làm xấu xa, ô nhiễm chốn thiêng liêng."
"Bé yêu ơi," Lenz trả lời, "cậu có thấy người nào ở đây không? Từ chiến tranh đến nay, người ta toàn đi họp chính trị, không đi nhà thờ nữa."
Điều này đúng. "Nhưng còn cha xứ thì sao? Tôi hỏi.
"Hoa hoét chẳng có nghĩa gì với các linh mục, bởi nếu có, vườn đã được chăm sóc cẩn thận rồi. Và Đấng Toàn Năng sẽ vui, nếu ta dùng nó mang lại hạnh phúc cho người khác. Ngài không như ta tưởng. Ngài là một người lính già."
"Vâng, cậu nói chí phải." Tôi trầm ngâm trước những bụi hoa khổng lồ. "Đủ dùng cho vài tuần nữa, Gottfried."
"Còn lâu hơn thế. Cậu may mắn lắm. Đây là một giống hồng lâu tàn, và nở hoa trong một thời gian dài. Cậu sẽ có hoa đến tận tháng Chín. Lúc ấy lại có thúy cúc và hoàng cúc nữa. Đến đây, tớ chỉ cho."
Chúng tôi đi khắp vườn. Hoa hồng thơm điếc mũi. Bầy ong như một áng mây vi vu, từ hoa này vờn sang hoa khác.
"Nhìn chúng kìa," tôi nói và đứng im. "Chúng từ đâu bay đến chỗ này, giữa thành phố? Không thấy tổ ong nào quanh đây. Trừ phi các linh mục giữ những tổ ong dưới mái nhà."
"Không, bạn ơi," Lenz trả lời. "Chúng từ một traị nuôi ong nào đó bay thẳng tới. Có điều, chúng biết rõ đường đi của chúng." Anh nháy mắt. "Còn chúng ta, thì không?"
Tôi nhún vai. "Có lẽ chúng ta cũng biết chứ. Nhưng dù sao, một phần thôi. Chúng ta cố hết sức. Còn cậu thì không?"
"Không. Cũng không muốn biết làm gì. Mục tiêu khiến cho cuộc đời trở thành tư sản."
Tôi nhìn lên tháp nhà thờ. Lục như lụa trên nền trời xanh, ngọn tháp cổ kính muôn đời và tĩnh lặng, với lũ chim nhạn chao quanh.
"Ở đây yên tịnh quá," tôi nói.
Lenz gật đầu. "Vâng, con ơi, nơi đây người ta nhận thức rằng, chỉ khi thiếu thốn thời gian, người ta mới không thể là con người tốt?"
"Thời gian và im lặng. "Tôi trả lời. "Cả sự im lặng."
Anh cười to. "Đã quá muộn," người đại úy năm xưa nói, ứa nước mắt, cay đắng. Đã đến lúc chúng tôi không chịu được sự yên lặng nữa . . . Nên chúng tôi đi ra. Trở về chốn ồn ào.
Tôi thả Gottfried xuống và lái về bến. Trên đường, tôi lái ngang nghĩa trang. Tôi biết Pat đang nằm trên chiếc ghế dài trắng của nàng ngoài ban công, và tôi bóp kèn mấy lần. Nhưng chẳng có ai thò mặt ra, và tôi lái đi luôn. Bù lại, tôi có thấy, xa hơn một quãng, Frau Hasse trong chiếc khăn choàng lụa, lướt trên hè phố, rồi biến mất ở khúc quanh. Tôi bám theo, định hỏi bà có muốn tôi chở đi đâu hay không. Nhưng ở lằn ranh đi bộ, tôi thấy bà chui vào một chiếc xe hơi đã chờ sẳn ở góc đường. Đó là một chiếc Mercedes xập xệ, đời 1923, máy nổ khành khạch. Một thằng cha mũi dài ngoằng như mỏ vịt, vận một bộ đồ lớn kẻ ô lòe loẹt ngồi sau tay lái. Tôi trông theo một lúc rất lâu. Đó là kết cục của một người đàn bà đơn độc ở nhà, trong một thời gian quá lâu. Lòng nặng nề, tôi lái về bến, sắp hàng đón khách.
Mặt trời chói chang trên nóc nhà. Xe chúng tôi chầm chậm nhích tới. Tôi ngồi bần thần trong xe và cố dỗ giấc ngủ. Nhưng tôi không thể xóa đi hình ảnh của Frau Hasse. Tình huống có khác biệt, nhưng nói cho cùng, Pat cũng ở nhà một mình cả ngày.
Tôi bước ra và đi đến xe của Gustav. "Đây nè, cậu uống đi," anh nói, đưa tôi một cái bình thủy nhỏ. "Lạnh ác. Phát minh của tớ. Cà phê đá. Giữ lạnh được mấy tiếng đồng hồ khi trời nóng. Vâng, Gustav này hữu dụng lắm."
Tôi rót một ly, uống sạch. "Nếu anh hữu dụng như thế," tôi nói, "làm ơn mách cho tôi, một người đàn ông phải làm gì để một người đàn bà rất lẻ loi được vui?"
"Chỉ có thế thôi sao?" Guvstav nhìn tôi, cao ngạo. "Ông bạn Robert, -- tưởng gì, một đứa bé hay một con chó con là xong. Hỏi tớ một câu gì khó hơn."
"Một con chó!" tôi ngạc nhiên. "Trời ạ, lẽ dĩ nhiên, một con chó. Cậu nói đúng. Với con chó, người ta không bao giờ cảm thấy cô đơn."
Tôi mời anh một điếu thuốc. "Này, cậu có biết gì về chúng không? Chó tạp chắc không đắt tiền lắm, phải không?"
Gustav lắc đầu, phật ý. "Robert! Cậu không biết là cậu có một kho tàng trong tớ. Ông nhạc tương lai của tớ là thơ ký phụ tá của Hiệp hội Dobermann Terrier. Dĩ nhiên, cậu có thể được một con cún nhỏ; rặc giống nữa là khác. Bọn tớ đang có một bầy: bốn đôi, bà ngoại của chúng là vô địch Hertha von Toggenburg."
Gustav là một người may mắn. Bố vợ sắp cưới của anh, không những là một tay chuyên gây giống Dobermann, lại còn điều hành và là chủ nhân quán rượu Neuerklaus; và vợ chưa cưới của anh có một tiệm giặt ủi. Gustav khá hãnh diện. Anh ăn uống ở quán của "cha vợ" và nàng giặt giũ cho anh. Anh không vội cưới xin. Vì lúc ấy, đến lượt anh là người phải lo toan.
Tôi giải thích với Gustav, Dobermann không phải là ý tưởng tốt nhất. Nó to lớn quá đối với tôi và không luôn luôn dễ dạy.
Gustav suy nghĩ một lát. Từng là lính chiến, anh đã quen với cách ứng phó trong những tình huống bất ngờ.
"Cứ đi theo tớ," anh nói. "Chúng ta sẽ tính toán. Tôi biết ít nhiều. Chỉ cần cậu đừng xen vào."
"Vâng."
Anh dẫn tôi đến một cửa hàng nhỏ. Cửa kính phía trước có vài chậu cá đầy rong. Vài con bọ đáng thương lỗm nhỗm trong thùng giấy. Hai bên tường treo nhiều lồng chim, những con sẻ ức đỏ, sẻ cánh vàng và bạch yến lao xao, ríu rít không ngừng.
Một người đàn ông thấp bé, chân vòng kiềng, áo gi lê nâu thêu ra đón. Đôi mắt kèm nhèm, làn da bủng và cái mũi như một quả cầu lửa -- ông ta đích thị là một đệ tử Lưu Linh.
"Anton, " Gustav nói, "Asta thế nào rồi?"
"Đoạt giải nhì và bằng danh dự tại Cologne," Anton trả lời.
"Bậy quá," Gustav nói. "Sao không được giải nhất?"
"Udo Blankenfels được hạng nhất," Anton gầm lên. "Nhưng tôi không phàn nàn đâu."
Ở cuối tiệm có tiếng chó con rên rĩ và kêu ủng oẳng. Gustav đi tới đó. Anh trở lại, xách cổ hai con terriers nhỏ, tay trái một con lông đen và trắng, tay phải một con nâu đỏ. Cánh tay với con chó nâu đỏ giật rất khẻ. Tôi nhìn nó: vâng.
Đó là một sinh vật bé bỏng, lý lắc, và đáng yêu. Chân thẳng, thân hình vuông vắn, đầu hình thuỗn, thông minh, dạn dĩ. Gustav thả chúng xuống.
"Thằng chó thấy ghét này," anh nói và chỉ vào con nâu đỏ. "Anh tìm nó ở đâu vậy?"
Anton nói, một bà dọn xuống Nam Mỹ để lại. Gustav cười ngặt ngoẽo. Tự ái, Anton đưa ra một gia phả đi ngược đến tận thời kỳ đại hồng thủy. Gustav khoác tay từ chối và tỏ ý thích con trắng đen. Anton đòi một trăm marks cho con nâu đỏ. Gustav trả giá năm marks. Anh không thích ông tổ của nó. Đuôi của nó trông kỳ kỳ sao ấy. Và đôi tai của nó cũng thế, có một điều gì không ổn. Vậy mà, con trắng đen thì lại -- tuyệt hảo.
Tôi đứng trong góc, lắng nghe. Thình lình một vật gì đó khều khều cái mũ của tôi. Ngạc nhiên, tôi quay lại. Một con khỉ nhỏ chênh vênh trên cao, hơi co rúm, da vàng và gương mặt u buồn. Nó có cặp mắt đen, tròn và đôi môi phiền muộn của một bà lão. Chung quanh bụng nó, một cái thắt lưng da nối với một sợi xích sắt. Bàn tay nhỏ, đen và giống tay người một cách đáng sợ.
Tôi đứng yên, tại chỗ cũ. Trên cái băng của nó, con khỉ từ từ nhích lại. Trong lúc đó, nó vẫn không ngừng quan sát tôi, không phải một cái nhìn nghi ngại, mà mệt mỏi không cùng. Cuối cùng, nó thận trọng đưa tay. Tôi chìa một ngón tay cho nó. Nó rút lại, nhưng rồi nắm lấy. Thật kỳ dị, cảm giác tiếp xúc với một bàn tay lạnh và nhỏ như tay trẻ con -- cách nó bíu chặt ngón tay tôi. Như thể có một người khờ khạo đáng thương nào đó, bị giam hãm trong cơ thể méo mó ấy, đang cố gắng tự giải thoát. Ta không thể nhìn vào đôi mắt buồn não ruột ấy.
Gustav khịt mũi, thoát khỏi cánh rừng phả hệ rối rắm. "Đồng ý, Anton; tôi sẽ bù cho anh một con cún Dobermann, dòng dõi Hertha. Cuộc đổi chác tốt nhất đời anh." Rồi anh quay sang tôi. "Cậu muốn đem con chó về bây giờ không?'
"Con chó giá bao nhiêu?"
"Không tốn xu nào cả. Đổi con Dobermann mà tớ đã tặng cậu. Vâng, cậu cứ để mặc Gustav lo liệu. Nghề của chàng."
Chúng tôi thỏa thuận là sau khi tan ca, tôi sẽ trở lại nhận con chó.
"Cậu có biết cậu được gì không?" Gustav hỏi, khi chúng tôi đã ra ngoài. "Một giống chó hiếm quý: Irish terrier. Primissima. Không một tỳ vết. Và gia phả của nó nữa, trời ạ, cậu không nên xem, vì nếu không, mỗi lần nói chuyện với ông mãnh, cậu sẽ phải cúi chào."
"Gustav," tôi nói, "cậu đã giúp tôi tận tình. Nào, chúng ta hãy đi nhậu một bữa cognac ngon nhất."
"Hôm nay không được," Gustav nói. "Hôm nay tớ phải giữ cho tay không run. Tớ sẽ chơi môn ky ở câu lạc bộ của tớ tối nay. Hứa với tớ là sẽ có lúc cậu ghé qua. Đầy đủ các bậc tai to mặt lớn, có cả ông giám đốc bưu điện."
"Tớ sẽ đến," tôi nói. "Cho dù không có ông ấy."
Gần sáu giờ chiều, tôi lái về ga-ra. Koster đang chờ tôi. "Hồi chiều, Jaffé có điện thoại cho cậu. Cậu gọi lại ông ấy nhé."
Trong một giây, tôi nín thở.
"Giáo sư có nói gì không, Otto?"
"Không, không nói gì đặc biệt. Chỉ nói rằng ông ấy sẽ có mặt ở phòng khám đến năm giờ. Sau đó, sẽ là bệnh viện Dorothee. Vậy, cậu nên gọi đến đó."
"Vâng."
Tôi vào văn phòng. Không khí nóng và rít, nhưng tôi lạnh và cái ống nghe run rẩy trong tay tôi. "Vô lý," tôi nói và tỳ tay lên bàn cho vững.
Một lúc lâu sau, Jaffé mới đến nghe.
"Cậu có rảnh không?" ông hỏi.
"Có ạ."
"Vậy, đến đây ngay. Tôi còn ở đây trong một giờ."
Tôi muốn hỏi, có chuyện gì xảy ra cho Pat hay không. Nhưng tôi không thể. "Tốt, tôi sẽ có mặt tại đó trong mười phút." Tôi đặt ống nghe xuống, rồi lập tức gọi về nhà. Chị giúp việc trả lời. Tôi hỏi Pat. "Tôi không biết cô ấy có ở nhà không," Frida nói, chẳng lễ độ tí nào. "Tôi phải đi tìm cô ấy."
Tôi chờ. Đầu tôi đặc cứng và nóng hổi. Thời gian như vô tận. Rồi tôi nghe tiếng răng rắc của đường dây và giọng nói của Pat. "Robby?"
Tôi nhắm mắt trong một giây. "Em khỏe không, Pat?"
"Dạ khỏe. Em ngồi ngoài ban công đọc sách từ nãy đến giờ. Sách hay lắm."
"Thế à, sách hay lắm hở em," tôi nói. "Được. Anh chỉ muốn báo cho em biết, tối nay anh sẽ về trễ. Em đọc xong chưa?"
"Chưa, em đang đọc nửa chừng. Phải mấy tiếng nữa mới xong."
"Anh sẽ về trước khi ấy. Vậy em cố đọc nhanh hơn nhé."
Tôi ngồi nán lại một lúc. Rồi đứng lên. "Otto," tôi nói, "cho tớ mượn thằng Karl một chút, được chứ?"
"Dĩ nhiên. Tớ có thể đưa cậu đi, nếu muốn. Tớ không bận gì cả."
"Không dám làm phiền cậu. Chẳng có chuyện gì. Tớ vừa gọi về nhà."
"Đèn đẹp quá," tôi thầm nghĩ khi Karl phóng ra đường, "ánh sáng buổi chiều trên những mái nhà! Đời phong phú biết bao!"
Tôi phải đợi Jaffé mấy phút. Cô y tá dẫn tôi vào một căn phòng nhỏ, có nhiều tạp chí cũ để rải rác khắp nơi. Vài chậu dây leo đặt trên bệ cửa sổ. Luôn luôn cùng một thứ tạp chí bọc trong giấy nâu, luôn luôn cùng một thứ dây leo buồn tẻ; ta chỉ gặp chúng trong phòng mạch bác sĩ hay bệnh viện.
Jaffé đi vào. Ông khoác một bộ áo liền quần trắng như tuyết, hãy còn nguyên nếp gấp. Nhưng khi ông ngồi đối diện với tôi, tôi trông thấy một vết máu đỏ tươi ở mặt trong cánh tay áo bên phải. Trong đời, tôi đã thấy cơ man là máu -- thế nhưng giọt máu nhỏ xíu này bỗng khiến tôi phát ốm, còn hơn tất cả những bông băng đẫm máu. Tâm trạng lạc quan của tôi lịm tắt.
"Tôi có hứa sẽ cho cậu biết bệnh tình của Fraulein Hollmann," Jaffé nói.
Tôi gật đầu, nhìn tấm trải bàn. Nó có những mẫu sáng, mềm mại. Tôi chăm chú nhìn những hình lục giác giao kết với nhau, và tôi có cảm giác điên rồ rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, nếu tôi đừng chớp mắt trước khi Jaffe nói tiếp.
"Hai năm trước, cô ấy phải điều trị ở một dưỡng đường trong sáu tháng, cậu có biết không?"
"Không," tôi nói và tiếp tục nhìn tấm trải bàn.
"Sau đó, bệnh ngừng lại. Tôi vừa khám rất kỹ. Cô ấy phải trở lại dưỡng đường mùa đông năm nay. Không thể ở thành phố."
Tôi vẫn chăm chú nhìn những hình lục giác. Chúng trôi bềnh bồng vào nhau, và bắt đầu nhảy múa.
"Khi nào cô ấy phải đi?" Tôi hỏi.
"Mùa thu. Trễ nhất là cuối tháng Mười."
"Vậy, cơn thổ huyết không phải tạm thời?"
"Không."
Tôi ngước mắt lên.
"Có lẽ, tôi không cần nói với cậu," Jaffe tiếp tục nói, "rằng rất khó tiên liệu diễn tiến của căn bệnh này. Một năm về trước, bệnh đã ngừng, vết thương đã lành, và ai cũng nghĩ nó sẽ giữ yên. Thế nhưng mới đây, nó lại bộc phát, và vì thế, nó cũng có thể lành lại một cách bất ngờ. Tôi không nói suông -- thực tế, tôi đã gặp nhiều trường hợp ngoạn mục như vậy."
"Và cũng có những trường hợp trở nặng?"
Ông nhìn tôi. "Dĩ nhiên, cũng có."
Ông bắt đầu đi vào chi tiết. Cả hai lá phổi đều nhiễm trùng, lá bên mặt nhẹ hơn bên trái. Rồi ông ngừng nói, bấm chuông gọi y tá. "Làm ơn đem hồ sơ bệnh lý vào."
Cô y tá mang hồ sơ đến. Jaffé lấy ra hai tấm hình lớn. Ông rút chúng khỏi phong bì và đưa cao, hướng về cửa sổ. "Như thế, cậu sẽ nhìn rõ hơn. Đây là hai tấm phim quang tuyến."
Tôi nhìn thấy một cột xương sống trên nền phim trong mờ xam xám, xương đòn gánh, xương cổ, ổ xương vai trái và bẹ sườn. Nhưng tôi nhìn thấy nhiều hơn nữa -- tôi nhìn thấy một bộ xương người. Tối tăm, ma quái, nó trỗi dậy từ những cái bóng mờ ảo, nhợt nhạt của tấm phim. Tôi thấy bộ xương của Pat. Xương khô của Pat.
Jaffé lần cái kẹp dò theo đường nét và màu sắc trên phim và giải nghĩa. Ông không biết là tôi đã thôi nhìn. Tính tỉ mỉ, cẩn thận của một nhà khoa học khiến ông chỉ tập trung vào công việc. Cuối cùng, ông quay sang tôi. "Cậu hiểu chứ?"
"Vâng," tôi nói.
"Vậy, có vấn đề gì không?" ông hỏi.
"Không có gì," tôi trả lời. "Chỉ là tôi không thể theo dõi quá lâu."
"Thế à," Ông đeo kính lên. Rồi cất phim vào phong bì, ông nhìn tôi, dò hỏi. "Cậu không đóng góp ý kiến nào sao?"
"Không ạ," tôi nói. "Nhưng con tạo thật trớ trêu. Có hàng triệu triệu con người khỏe mạnh. Tại sao cô ấy lại mắc bệnh?"
Jaffé im lặng một lúc.
"Không ai có câu trả lời," ông nói.
"Vâng," tôi đáp, và bỗng dưng, tôi thấy lòng cay đắng và tê dại vì giận dữ: "không ai có thể trả lời. Dĩ nhiên. Không ai có câu trả lời về sự đau khổ và cái chết. Không, khốn nạn quá; ngoài ra, ta lại chẳng có thể làm được gì."
Jaffé nhìn tôi rất lâu.
"Xin lỗi giáo sư," tôi nói. "Nhưng tôi thấy mình bất lực. Khốn nạn bởi lẽ đó."
Ông vẫn nhìn tôi. "Cậu có dư chút thì giờ?"
"Có," tôi nói. "Có đủ."
Ông đứng lên. "Tôi sắp làm một vòng thăm bệnh buổi tối. Tôi muốn cậu đi theo. Y tá sẽ đưa cậu một bộ quần áo trắng. Bệnh nhân sẽ nghĩ cậu là phụ tá của tôi."
Tôi không hiểu ý định của ông, nhưng tôi cầm bộ quần áo cô y tá đưa cho.
Chúng tôi đi theo một hành lang dài. Qua những khung cửa sổ rộng, màu hồng óng ả của buổi tối lọt vào -- một thứ ánh sáng dai dẳng, gần như siêu thực, kín đáo, êm đềm. Một vài cửa sổ còn mở, và hương hoa chanh nhè nhẹ thoảng đưa.
Jaffé mở cửa. Một mùi hôi thối xộc vào mũi chúng tôi. Một thiếu phụ với mái tóc tuyệt đẹp, màu vàng cũ, trong đó ánh sáng phản chiếu sáng ngời, đang yếu ớt đưa tay lên. Vầng trán cao quý và hẹp lại ở thái dương, nhưng dưới đôi mắt, một lớp bông băng che đến tận miệng. Jaffé cẩn thận tháo ra. Người đàn bà không có mũi -- thay vào đó, một vết thương đỏ hỏn, nhày ướt, đóng mài, với hai lổ thủng ở giữa. Jaffé quấn băng lại.
"Tốt," ông nói, giọng thân thiện và quay đi.
Ông đóng cửa. Tôi đứng im một chốc và nhìn vào ánh sáng dịu êm của buổi chiều.
"Đi nào," Jaffé nói và dẫn đường, vào phòng bên cạnh.
Một tràng ho sùng sục, òng ọc nóng sốt trong cơn mê sảng chào đón chúng tôi. Đó là một người đàn ông mặt xám như chì, trên đó nổi bật những đốm đỏ son. Miệng há to, mắt lồi, và đôi tay quờ quạng tứ tung trên tấm khăn phủ giường. Coi như anh không còn ý thức. Biểu đồ nhiệt độ ghi mãi con số một trăm lẻ bốn. Một cô y tá ngồi bên giường, đọc sách. Cô bỏ sách xuống và đứng dậy khi Jaffé đi vào. Ông liếc mắt qua biểu đồ và lắc đầu. "Sưng phổi và tràn dịch màn phổi cùng một lúc. Đã cật lực như một con trâu mộng chống lại căn bệnh trong hai tuần. Bịnh tái phát. Trước đó hầu như đã lành. Đi làm quá sớm. Một vợ, bốn con. Vô vọng." Ông nghe phổi và đếm mạch. Cô y tá phụ một tay. Khi ấy, sách của cô rơi xuống đất. Tôi nhặt lên, nhận ra đó là một quyển sách dạy nấu ăn. Người bệnh vẫn tiếp tục cào sướt với bàn tay dài lêu khêu như nhện trên tấm phủ giường. Đó là tiếng động duy nhất trong phòng. "Y tá, cô trực ở đây đêm nay," Jaffé ra lệnh.
Chúng tôi đi ra. Ánh hồng của hoàng hôn biến đổi thành nhiều sắc màu. Nó lấp đầy hành lang như một vầng mây. "Ánh sáng khốn nạn," tôi nói.
"Tại sao?" Jaffé hỏi.
"Chúng không phù hợp. Cái này và cái kia."
"Ô, có chứ," Jaffé nói, "chúng phù hợp với nhau."
Trong phòng kế bên, một người đàn bà nằm, thở một cách khó nhọc. Bà được đưa vào đây lúc chiều vì ngộ độc thuốc ngủ. Hôm qua, chồng của bà bị tai nạn và được chở về nhà cho bà, cột sống gãy, ông la hét thảm thiết, và vẫn tỉnh táo. Ông chết ở nhà, đêm qua.
"Liệu bà ấy có qua khỏi không?" tôi hỏi.
"Có thể lắm."
"Để làm gì?"
"Tôi đã gặp năm trường hợp tương tự trong vài năm gần đây," Jaffé nói. "Chỉ có một người tìm cách tự tử lần thứ nhì. Bằng hơi ga. Bà ấy chết. Số còn lại, có hai người về sau tái hôn."
Ở phòng kế là một người đàn ông bại liệt đã mười hai năm. Ông ta có nước da vàng như sáp, bộ râu đen thưa thớt, và một cặp mắt to, bất động.
"Ông khỏe chứ?" Jaffé hỏi.
Người đàn ông làm một cử chỉ mơ hồ. Rồi ông ta chỉ ra cửa sổ -- "Hãy nhìn trời. Sắp có mưa, tôi cảm thấy thế." Ông cười to. "Ta luôn luôn ngủ ngon hơn khi trời mưa." Trước mặt ông, trên tấm chăn là một bàn cờ bọc da, với những con cờ có thể cắm vào mà không tuột ngã. Một chồng tạp chí và vài cuốn sách đặt bên cạnh.
Chúng tôi đi tiếp. Tôi gặp một cô gái trẻ với cặp mắt kinh hoàng và đôi môi tím ngắt, tinh thần suy sụp vì sinh khó -- một đứa trẻ tàn tật với đôi chân què quặt, mềm nhũn và có bướu nước trong não -- một người đàn ông không dạ dầy -- một bà già tóc bạc, như chim cú, khóc than vì bị người thân bỏ rơi; bà sống dai quá chẳng chịu chết cho họ nhờ -- một người đàn ông mù, tin rằng ông ta sẽ nhìn lại được -- một đứa trẻ bị nhiễm giang mai, cha nó ngồi canh bên giường -- một người đàn bà vừa được giải phẩu sáng nay, cắt bỏ cái vú thứ nhì -- một bà khác dị dạng vì thấp khớp -- bà thứ ba bị cắt bỏ hai buồng trứng -- một công nhân với đôi thận hư nát -- hết phòng này qua phòng kia đều có chung một mẫu số: rên xiết, đau đớn, bất động, tàn phế; một đường dài vô tận của sự bất hạnh, sợ hãi, đầu hàng, đau đớn, tuyệt vọng, hy vọng, khó khăn; và mỗi lần, khi cửa khép lại, bỗng ở hành lang lại có thứ ánh sáng hồng nhạt, siêu nhiên của chiều tà; lúc nào cũng thế, tiếp theo sự khủng khiếp của những căn phòng nhỏ là vầng mây huy hoàng, vàng óng pha xám, êm đềm mà ta không thể nào biết đó là một điều mĩa mai khủng khiếp hay là một niềm an ủi thiêng liêng.
Jaffé ngừng lại trước cửa phòng mỗ. Ánh sáng chói chang xuyên qua những ô kính trên cửa. Hai người y tá đẫy xe tới. Một người đàn bà nằm trên đó. Tôi bắt gặp cái nhìn của bà. Bà không thấy tôi; bà nhìn vào một nơi vô định. Tuy thế tôi phải chớp mắt trước cái nhìn ấy, chan chứa can đảm, tự chủ và bình thản.
Jaffé đột nhiên lộ vẻ mệt mỏi. "Tôi không biết đúng không," ông nói, "nhưng tôi nghĩ, không thể dùng lời để an ủi cậu. Cậu sẽ chẳng tin tôi. Bây giờ cậu đã nhìn thấy, hầu hết những người ấy đều bệnh nặng hơn Pat Hollmann; một vài người không còn gì hết, ngoại trừ hy vọng. Tuy nhiên, đa số sẽ vượt qua khó khăn, và tốt đẹp hơn. Đó là những gì tôi muốn cho cậu thấy."
Tôi gật đầu. "Giáo sư đúng lắm," tôi nói.
"Chín năm trước vợ tôi qua đời. Cô ấy mới có hai mươi lăm. Chưa hề bị bệnh. Cúm." Ông im lặng một lát. "Cậu có biết tại sao tôi nói ra chuyện ấy?"
Tôi gật đầu lần nữa.
"Ta không thể biết trước tương lai. Người bệnh trầm kha có khi lại sống dai hơn người khỏe mạnh. Cuộc đời là một hiện tượng lạ kỳ." Trên mặt ông bây giờ lộ ra khá nhiều vết nhăn. Một người y tá đi đến, nói thầm vào tai ông. Ông đứng thẳng lên, gật đầu về phía phòng mỗ. "Tôi phải vào mỗ. Đừng để Pat biết cậu lo lắng. Đó là điều chính yếu. Cậu có làm được không?"
"Có ạ," tôi nói.
Ông bắt tay tôi và cùng với người y tá nhanh chóng đi qua cửa kính, vào căn phòng có ngọn đèn trắng như vôi.
Tôi chầm chậm bước xuống lầu. Càng xuống thấp, càng tối dần, và ở lầu một, đèn điện đã bật lên. Rồi tôi ra ngoài đường. Tôi nhìn thấy hoàng hôn hồng nhạt lóa lên một lần nữa ở chân trời như dưới một tiếng thở dài. Rồi lập tức nó lụi tàn và biến thành màu xám.
Tôi ngồi trong xe một lúc lâu, nhìn về phía xa xôi. Rồi tôi lấy lại bình tĩnh và lái về ga-ra. Koster đã chờ sẳn trước cổng.
"Cậu đã biết cả rồi?" tôi hỏi.
"Vâng, anh trả lời. "Nhưng Jaffé muốn đích thân nói với cậu."
Tôi gật đầu.
Koster nhìn tôi.
"Otto," tôi nói, "tớ không còn là một đứa bé và tớ biết là chưa thực sự mất mát gì. Nhưng có lẽ tối nay tớ sẽ khó tự chủ nếu chỉ có một mình tớ với Pat. Ngày mai thì không sao. Tớ sẽ không còn xúc động mạnh. Vậy đêm nay, bọn mình đi chơi chung với nhau, được không?"
"Sao lại không, Bob. Tớ đã tính trước và sắp xếp với Gottfried."
"Vậy cho tớ mượn lại Karl. Tớ lái về nhà, đón Pat và, trong một giờ, đón cậu."
"Vâng."
Tôi lái đi. Đến Nicholaistrasse, tôi chợt nhớ mình đã quên bẵng con chó. Tôi trở đầu xe, quay lại rước nó.
Tiệm không còn thắp đèn nhưng cửa vẫn mở. Anton ngồi trên chiếc giường cắm trại ở cuối phòng. Tay ông cầm một cái chai. "Gustav, hắn gạt tôi," ông nói, hơi men nồng như một lò nấu rượu.
Con terrier chạy ra, ngửi ngửi và liếm tay tôi. Mắt của nó xanh lục, phản chiếu ánh đèn đường. Anton đứng lên. Ông lảo đảo đi tới và thình lình bật khóc.
"Cún ơi, bây giờ con cũng bỏ đi. Mọi thứ đều bỏ đi --Thilda chết -- Minna không còn -- nói cho tôi biết, cậu ơi, những người như chúng ta sống để làm gì?"
Giọt nước cuối cùng! Bóng điện nhỏ xíu, tẻ nhạt mà ông vừa bật lên, mùi hư hoại của nước trong bồn nuôi cá, âm thanh sột soạt của bầy rùa và chim, và người đàn ông thấp bé béo phệ trong gian hàng này . . .
"Đám côn trùng, dĩ nhiên chúng thừa biết -- còn, cậu ơi, nói cho tôi nghe, những người như chúng ta có gì để sống, tôi muốn biết? Chúng ta, những con chó lai khốn nạn, có gì để sống, thưa cậu?" Con khỉ ré lên như tiếng khóc và lăng xăng như người điên trên băng ghế. Bóng của nó trên tường cũng chập chờn nhảy múa theo. "Koko," người đàn ông thấp bé, uống rượu một mình trong đêm tối, khóc thút thít, "con duy nhất của ta, đến đây!" Ông đưa chai rượu cho nó. Con khỉ với lấy.
"Ông giết nó mất, nếu ông đưa cái đó cho nó uống."
"Thì đã sao, thưa cậu? ông lắp bắp nói. "Thêm vài năm trong xích xiềng hay không -- cũng vậy -- cũng vậy thôi -- thưa cậu."
Tôi bế con chó đang nép vào tôi, ấm áp, và đi ra. Với những bước chân dài duyên dáng, nó lon ton chạy bên cạnh tôi, ra xe hơi.
Tôi lái về nhà, dẫn con chó với dây xích, và cẩn thận lên lầu. Trong hành lang, tôi đứng lại soi gương. Nét mặt của tôi có vẻ bình thường. Tôi gõ cửa phòng của Pat, hé cửa và thả con chó vào.
Tôi vẫn đứng bên ngoài, nắm cứng dây xích và chờ đợi. Nhưng không ngờ, thay vì giọng nói của Pat, tôi lại nghe giọng nam trầm của Frau Zalewski. "Ối trời, cái gì thế này!"
Lấy lại hơi thở, tôi len lén nhìn. Tôi đã e sợ giây phút ban đầu chỉ một mình tôi với Pat. Bây giờ mọi chuyện dễ dàng hơn; Frau Zalewski là một cái vách chắn không thấm nước mà tôi có thể dựa vào.
Bà chễm chệ ngồi ở bàn. Một ly cà phê bên cạnh, một cỗ bài tây trải ra theo một thứ tự huyền bí trước mặt. Pat, mắt sáng long lanh, nằm cuộn tròn kế bên, hóng chuyện tương lai.
"Chào mọi người," tôi nói, thình lình rất hài lòng.
"Hắn đến kìa," Frau Zalewski long trọng tuyên bố, "theo con đường tắt vào buổi chiều, bên một quý ông da sậm ở chỗ cao nhất trong nhà."
Con chó kéo tuột dây xích, và, sủa ầm ỉ, lách giữa hai chân tôi, chạy bổ vào.
"Trời ơi!" Pat kêu. "Một con Irish terrier!"
"Phục em thật," tôi nói. "Một giờ trước đây, anh không biết nó là giống chó gì."
Nàng cúi xuống, và con chó nhảy phóc vào lòng nàng. "Vậy nó tên gì, hở Robby?"
"Anh không biết. Có lẽ Cognac hay Whiskey hay một cái tên tương tự, đặt theo ông chủ cũ."
"Nó thuộc về chúng ta?"
"Như một sinh vật có thể thuộc về một sinh vật khác, vâng."
Nàng vui quá, gần như nghẹt thở. "Vậy chúng ta đặt tên nó là Billy, Robby nhé. Khi còn bé, mẹ em cũng có một con chó. Mẹ em thường kể lại. Nó cũng có tên là Billy."
"Vậy là anh may mắn," tôi nói.
"Nó đã được huấn luyện cách ăn ở trong nhà chưa?" Frau Zalewski hỏi.
"Nó có dòng dõi quý phái như một quận công," tôi trả lời, "mà tất cả quận công đều được huấn luyện."
"Nếu chúng còn nhỏ quá thì không đâu. Nó bao lớn rồi?"
"Tám tháng. Tương đương với mười sáu tuổi người."
"Trông nó không có vẻ gì đã được huấn luyện," Frau Zaleski nói.
"Nó chỉ cần tắm cho sạch, mà thôi."
Pat đứng dậy, vòng tay qua vai Frau Zalewski. Tôi nhìn nàng, bối rối. "Cháu luôn luôn muốn có một con chó," nàng nói. "Bác cho phép chúng cháu được giữ nó ở đây, bác nhé? Chắc bác không phiền đâu nhỉ?"
Lần đầu tiên từ khi quen biết, tôi thấy Frau Zalewski đờ ra, không thể đối đáp. "Ơ, trong trường hợp này -- bác nghĩ," bà trả lời. "Dĩ nhiên, bài đã cho thấy. Có một ngạc nhiên với người đàn ông trong nhà."
"Thế bài có báo là chúng ta sẽ đi ăn tối không?"
Pat cười to. "Chưa đến lúc đó, Robby. Chúng em mới bói đến anh mà thôi."
Frau Zalewski đứng lên, gom bài lại. "Cô có thể tin, hay có thể không tin, hay có thể tin một cách nhầm lẫn như Zalewski nhà tôi. Với ông ấy, con chín bích luôn luôn là điềm xấu cảnh báo chuyện nước nôi. Ông ấy hiểu là phải thận trọng với nước. Thế nhưng, chính ra lại là các thứ rượu schnapps và Pilsner."
"Pat," tôi gọi nàng, sau khi bà ấy đi ra, và tôi ôm nàng. "Thật tuyệt vời khi anh về nhà và được nhìn thấy em. Lúc nào cũng là một nỗi ngạc nhiên không ngừng cho anh. Mỗi khi leo những nấc thang cuối và mở cửa, tim anh vẫn đập loạn, vì anh sợ đó không phải là sự thật."
Nàng nhìn tôi, mỉm cười. Gần như không bao giờ nàng trả lời khi tôi nói những câu như thế. Tôi không thể tưởng tượng, và tôi cũng sẽ đau khổ nếu nàng nói một câu tương tự -- dường như với tôi, một người đàn bà không nên nói với một người đàn ông rằng nàng yêu hắn. Đôi mắt của Pat chỉ sáng ngời và chứa chan hạnh phúc, vậy mà, lại chuyện chở biết bao chữ nghĩa.
"Có thực chúng ta sẽ đi chơi không, Robby?" nàng hỏi, mặt sát bên tôi.
"Tất cả chúng ta," tôi đáp."Có Koster và Lenz nữa. Karl đậu ngay trước cửa."
"Còn Billy?"
"Dĩ nhiên, Billy cũng được đi theo. Thức ăn tối nay chưa đụng tới, chúng ta sẽ làm gì bây giờ? Hay là em đã ăn?"
"Không, em chưa ăn. Em chờ anh mà."
"Nhưng em không nên chờ anh. Không bao giờ. Đợi chờ khủng khiếp lắm."
Nàng lắc đầu. "Anh không hiểu, Robby. Chỉ khủng khiếp khi ta không có gì để đợi chờ."
Nàng bật ngọn đèn bên trên tấm gương. "Nhưng em cần thay y phục bây giờ, nếu không chẳng biết khi nào mới xong. Anh có thay áo không?"
"Chút nữa," tôi nói. "Anh sẽ thay rất nhanh. Cho anh ngồi đây một lát."
Tôi gọi con chó lại và ngồi trên ghế bành cạnh cửa sổ. Tôi thích ngồi im, ngắm Pat khi nàng thay áo. Chưa bao giờ tôi biết đến sự bí ẩn, lạ lùng vô tận của một người đàn bà cho bằng lúc tôi ngắm nhìn thứ ánh sáng lượn lờ này trước gương soi, sự trầm ngâm thưởng thức, say sưa miệt mài nơi bản thân, trôi tuột trở về cái khôn ngoan sắc sảo trong vô thức về phái tính. Tôi không thể hình dung một người đàn bà nói cười khi thay áo -- và nếu cô ấy làm thế, cô ấy sẽ đánh mất đi tính cách bí ẩn và quyến rũ không thể giải thích của một điều gì mơ hồ lãng đãng. Tôi yêu nét duyên dáng và những cử động mềm mại của Pat trước gương; thật tuyệt vời khi ta ngắm cách nàng đưa tay lên mái tóc; hay cách nàng khéo léo và thận trọng cầm cây bút chì kẻ mắt lên gần trán. Khi ấy nàng có một vẻ gì đó của một con nai và của một con báo mảnh dẻ, và cũng có một chút gì đó của một thiếu nữ Amazon sắp ra trận. Nàng quên tất cả mọi chuyện chung quanh, nét mặt của nàng nghiêm trang,chăm chú, nàng nhẹ nhàng và cẩn thận đưa nó đến gần bóng của nó trong gương, và, khi nàng nghiêng mình tới, dường như không còn là bóng của nàng phản chiếu trong gương nữa, mà là hai người đàn bà đang ngắm nhau với ánh mắt già dặn, từng trải, -- táo bạo và thẩm định giá trị của nhau trong hoàng hôn của hiện thực và thế kỷ.
Hơi thở tươi mát của buổi tối lùa qua cửa sổ. Tôi im lìm ngồi đó, tôi không quên điều gì của buổi chiều hôm ấy; tôi hiểu hết -- nhưng khi tôi nhìn sang Pat, tôi cảm thấy một nỗi buồn rười rượi, chìm đắm trong tôi như một hòn đá, bắt đầu bao phủ bởi một hy vọng mãnh liệt; thay đổi và bằng một cách lạ lùng nào đó, trộn lẫn với hy vọng; cái này biến thành cái kia; sự tiếc thương, niềm hy vọng, cơn gió, buổi tối, và cô gái xinh đẹp giữa tấm gương sáng và ánh đèn; vâng, trong một khoảnh khắc, tôi đã có một trực giác lạ lùng rằng, chỉ có điều này, trong ý nghĩa thực tế và sâu đậm của nó, là cuộc sống; và có lẽ cả hạnh phúc -- tình yêu với một hỗn hợp của nỗi buồn, lòng tôn kính và kiến thức giữ kín.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:52:17 GMT -6
Chương 19
Tôi đang đứng chờ ở bến tắc xi. Gustav lái đến, đậu ngay đàng sau xe tôi.
"Con cún ra sao rồi, Robert?" anh hỏi.
"Nó khỏe lắm," tôi nói.
"Còn cậu thì sao?"
Tôi chán nản phẩy tay. "Tớ cũng khỏe, nếu có thể kiếm thêm chút ít tiền. Cậu nghĩ xem, cả ngày nay chỉ thu vào hai đồng năm mươi xu thôi."
Anh gật đầu. "Càng lúc càng tệ. Tất cả mọi thứ càng lúc càng tệ. Nhưng nào đã hết đâu."
"Vâng, và tớ lại cần một số tiền lớn," tôi nói. "Cần gấp. Thật nhiều."
Gustav gãi cầm.
"Một số tiền lớn." Rồi anh nhìn tôi."Thực tình không còn chỗ nào để kiếm tiền dễ dàng. Ngoại trừ cá độ. Cậu nghĩ sao về cá ngựa? Hôm nay có mấy trận đua. Tớ biết một tiệm đánh cá được lắm. Tớ vừa thắng độ con Aida, hai mươi tám ăn một, ở chỗ ấy."
"Tớ chả cần biết cá kiếc là gì cả. Quan trọng ở chỗ là tớ có dịp may không?"
"Cậu đã bao giờ chơi cá ngựa chưa?"
"Chưa bao giờ."
"Vậy cậu sẽ may mắn, bởi Tổ thường đãi người mới -- chúng ta cần làm một cái gì đó." Anh nhìn đồng hồ. "Ta đi ngay nhé? Hy vọng còn kịp."
"Vâng." Sau vụ con chó, tôi rất tin tưởng vào Gustav.
Chỗ cá độ là một gian phòng khá rộng; nửa bên phải là quầy bán xì gà, nửa bên trái đặt máy tổng hợp. Cửa kính treo đầy tin tức thể thao, tin cá độ màu xanh lá cây và hồng. Dọc theo vách, có một quầy trên đó bày la liệt giấy bút. Ba người đàn ông đứng sau quầy, bận tíu tít. Một người nói như quát vào điện thoại, một người chạy tới chạy lui với một cọc phiếu trên tay, người thứ ba, mũ quả dưa đội lệch ra sau đầu, một điếu xì gà Ba Tây tròn đen nhấm nhá trong miệng, không mặc áo lớn, tay áo xắn cao, đứng sau quầy ghi chép số tiền cá. Áo sơ mi của ông ta có màu tím chói chang nhất.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, nơi đây rất đông khách. Hầu hết họ là những người thuộc giai cấp bình dân, thợ thủ công, thợ thuyền công xưởng, thơ ký, vài cô gái điếm và đủ loại ma cô.
Một gã đàn ông, áo mưa xám bẩn, mũ quả dưa xám, áo lớn màu xám kiểu thể thao đã sờn chỉ, chặn chúng tôi tại cửa. "Von Bieling. Các ông mua tin đặc biệt không? Bảo đảm trúng."
"Kêu bà ngoại ông mua đi," Gustav trả lời, vẻ mặt thay đổi khá bất ngờ.
"Chỉ năm mươi pfennigs thôi," Bieling nài nỉ. "Tôi quen với một người huấn luyện. Từ khi còn bé," anh ta vừa nói vừa liếc tôi.
Gustav đã nghiên cứu kỹ danh sách ngựa đua. "Khi nào đến lượt Auteuil?" Anh réo mấy người đàng sau quầy.
"Năm giờ," người phụ tá réo lại.
"Philomene, cùng một duộc," Gustav gầm lên. "Thứ ngựa kéo xe trong thời tiết nóng ẩm. Anh vã mồ hôi vì kích động. "Kế đến là con nào nhỉ?" Anh hỏi.
"Hoppegarten," có ai đó sau lưng anh lên tiếng.
Gustav nghiên cứu thêm. "Để bắt đầu, mỗi đứa chúng ta đặt hai đồng cho con Tristan nhé," anh nói. "Chắc ăn lắm."
"Mà cậu có biết gì về nó không?" tôi hỏi.
"Biết gì à?" Gustav trả lời. "Tớ biết rõ từng cái móng chân của chúng."
"Thế mà anh lại đi cá con Tristan?" một người bên cạnh chúng tôi nói. "Cá con Slippery Liz đi, ông ơi, cơ hội duy nhất của ông đấy. Tôi là bạn của Johnny Burns."
"Còn tôi," Gustav nói móc," tôi là ông chủ chuồng Slippery Liz. Tôi biết nhiều hơn anh."
Anh réo người đàn ông ở quầy để đặt cược. Chúng tôi nhận biên lai và đến ngồi ở tiền sảnh, nơi bày lơ thơ dăm ba bộ bàn ghế. Mọi người rôm rả kháo chuyện với nhau, nêu lên đủ thứ tên của những con ngựa đua. Mấy ông thợ bàn thảo về cuộc đua ở Nice, hai ông phát thư xem xét bản tin thời tiết của Paris, một người trước kia hành nghề đánh xe ngựa nhớ lại thời gian đã tham gia các cuộc thi nước kiệu. Chỉ có một người đàn ông béo mập, râu ria lởm chởm, dửng dưng ngồi ở một bàn riêng, tì tì ăn hết ổ bánh mì nhỏ này đến ổ bánh mì nhỏ kia. Hai người đàn ông khác đứng dựa vách, thèm thuồng nhìn ông ta. Mỗi người cầm một mẩu biên lai trong tay, nhưng gương mặt của họ hốc hác tiều tụy như nhiều ngày không có chút thức ăn nào dằn bụng.
Chuông điện thoại reo inh ỏi. Mọi người dỏng tai nghe. Người phụ tá xướng lên nhiều cái tên ngựa đua. Chẳng hề nghe nhắc đến Tristan.
"Mẹ kiếp," Gustav nói, mặt đỏ bừng. "Solomon thắng. Ai mà ngờ được, anh à?" anh hỏi người bắt con Slippery Liz. "Anh cũng thua đậm như ai."
Von Bieling chen vào giữa chúng tôi. "Nếu các ông chịu nghe tôi -- có lẽ tôi đã đưa tên Solomon. Một mình Solomon mà thôi. Nếu các ông muốn, trận tới --"
Gustav chẳng thèm nghe. Anh đã bớt buồn và bàn bạc về kỹ thuật với anh chàng Slippery Liz.
"Ông có sành ngựa không?" Bieling hỏi tôi.
"Chả biết một tí gì, " tôi nói.
"Vậy ông hãy đánh cá. Đánh cá. Nhưng chỉ ngày hôm nay mà thôi," ông ta thầm thì nói tiếp, "và sau đó, đừng bao giờ chơi nữa. Nghe tôi nè. Ông cứ cá bừa đi --con gì cũng được --con King Lear hay Silver Moth -- hay L'Heure Bleue, cũng thế. Tôi không lấy tiền của ông đâu. Nhưng nếu thắng, xin thưởng cho tôi một ít, vậy thôi." Càm của hắn rung lên trong nỗi đam mê của một tay nghiền cờ bạc. Đã từng chơi Xì phé, tôi biết quy tắc cũ xưa này: người mới đánh bạc thường thắng cuộc.
"Được rồi," tôi nói. "Cá con gì đây?"
"Bất cứ con nào ông muốn -- bất cứ con nào --"
"Tên L'Heure Bleue nghe cũng không tệ lắm," tôi nói, "vậy đặt mười marks cho con L'Heure Bleue."
"Cậu có điên không?" Gustav hỏi.
"Không," tôi nói.
"Cá mười đồng mồ hôi nước mắt cho cái con ngựa già yếu ấy? Đáng lẽ nó phải thành xúc xích từ lâu."
Slippery Liz, người mà Gustav gọi là thằng khờ tội nghiệp, nhảy vào, huênh hoang nói: "Cái gì thế? Anh ấy cá con Laura Blaue hở? Thưa ngài, nó không phải là ngựa đâu, nó là bò đấy. May Dream, nếu muốn, có thể thắng nó dễ dàng chỉ bằng hai chân thôi. Compris?"
Bieling nhìn tôi cầu khẩn, tay ra dấu. "Compris," tôi nói.
"Ach, cậu ơi." Gustav nhìn tôi như thể tôi đã biến thành Hottentot, một chú mọi Phi châu. "Gypsy II, con nít chưa đẻ cũng biết thế."
"Tôi nhất định bắt cá con L'Heure Bleue," tôi nói. Và nếu lúc này đổi ý, tôi phải chống trả lại tất cả những quy luật huyền bí của cờ bạc.
Người đàn ông áo sơ mi màu oải hương đưa tôi biên nhận. Gustav và Slippery Liz nhìn tôi như tôi mắc dịch hạch. Họ bỏ rơi tôi, chen vai thích cánh đi tới quầy, ở đó với những tiếng cười nhạo báng cho nhau, tuy vẫn ẩn chứa một niềm tương kính, họ đặt cược cho Gypsy II và May Dream.
Ngay lúc ấy, một người đột ngột ngã quỵ. Đó là một trong hai người đàn ông gầy gò, vừa mới đây còn đứng cạnh mấy cái bàn. Ông ta chùi theo vách rồi ngã đùng xuống đất. Hai người phát thư đỡ ông ta dậy, đặt lên ghế. Mặt ông ta trắng bạch. Mồm há hốc.
"Lạy Chúa!" một cô gái điếm, thân hình đầy đặn, nước da sậm, tóc óng mượt và trán thấp, kêu to. "Ai đó làm ơn đem lại một ly nước."
Tôi ngỡ ngàng, chẳng mấy ai quan tâm đến người ngất xỉu. Phần lớn họ chỉ liếc mắt nhìn qua, rồi quay về chuyện cá cược của họ.
"Xảy ra thường lắm," Gustav nói. "Thất nghiệp. Đánh đến xu cuối cùng. Luôn luôn cá với tỉ lệ cao nhất. Một trăm trên một."
Người lái xe ngựa từ quầy bán xì gà đi ra với một cốc nước. Cô điếm tóc đen nhúng khăn tay của mình vào đó rồi lau lên trán và thái dương của người bệnh. Ông ta thở dài và thình lình mở mắt. Có một điều bí ẩn nào đó, cách chúng đột nhiên trở lại, không một tiếng động, trên gương mặt mờ mịt chìm sâu -- như có một sinh vật nào, xa lạ, ghé mắt nhìn, tò mò và tìm hiểu, qua những kẻ nứt của cái mặt nạ cứng đờ, trắng bệch.
Cô gái cầm ly nước và cho ông ta uống. Cô ôm ông ta trong tay như một đứa trẻ. Rồi cô với lấy một miếng sandwich trên bàn của người khách vô tình, râu ria lởm chởm. "Nào, ăn đi -- nhưng từ từ, từ từ nhé. Đừng cắn ngón tay của tôi chứ -- đúng rồi, và bây giờ, uống nước đi."
Người đàn ông ngồi ở bàn đưa mắt nhìn miếng sandwich, nhưng không nói gì. Màu hồng dần dà trở lại trên gương mặt của người đàn ông kia. Ông ta ăn thêm một chập, rồi loạng choạng đứng dậy. Cô gái dìu ông ta, đẩy ra cửa. Rồi, liếc thật nhanh ra sau, cô nàng mở ví. "Đây nè -- chuồn đi, và mua cái gì ăn, đừng đánh cá nữa."
Một trong những tay ma cô, tự nãy giờ vẫn giả lơ, nay quay lại. Hắn có gương mặt của một con chim săn mồi, đôi tai vểnh ngược, mang giày da bóng và đội nón kết.
"Mày cho nó bao nhiêu?" hắn hỏi.
"Mấy xu thôi."
Hắn thúc cùi chỏ vào ngực cô. "Phải nhiều hơn thế chứ. Lần sau nhớ xin phép tao."
"Thôi mà, Ede," gã kia nói. Cô gái điếm lấy hộp phấn ra, và tô lại son môi. "Nhưng tôi đúng," Ede nói. Cô gái không trả lời.
Điện thoại reo. Tôi nhìn Ede, và không tài nào hiểu hắn. "Đó chính là thứ mà ta gọi là con lợn," thình lình tôi nghe Gustav nói. "Thưa quý ông quý bà, còn hơn là lợn, đó là một con heo nái xồ xề với hai mươi đứa con ủn ỉn." Anh vỗ bình bịch lên vai tôi. "Vớ được một trăm tám mươi marks rồi, con trai ơi. Con lạc đà với cái tên buồn cười của cậu đã thắng đậm."
"Cái gì, thiệt hả?" tôi hỏi.
Người đàn ông ngậm xì gà và mặc áo sơ mi chói gắt, gật đầu cay đắng và đưa tay nhận tấm biên lai của tôi. "Ai mách cho cậu vậy?"
"Tôi," Bieling nói, với nụ cười nhẫn nhục và hy vọng, tiến ra, cúi rạp mình chào. "Chính tôi, tôi dám nói rằng --sự quen biết của tôi --"
"Ach, bạn ơi --" Rồi chẳng buồn nhìn hắn, ông ta phát tiền cho tôi. Trong phút chốc, cả phòng im phăng phắc. Mọi người chăm chú theo dõi.. Ngay cả người khách vốn hết sức thờ ơ cũng phải ngước mắt nhìn.
Tôi nhét tiền vào túi. "Thôi chứ," Bieling thầm thì. "Đủ rồi." Có nhiều đốm đỏ trên gò má anh ta. Tôi dúi mười marks vào tay hắn.
Gustav cười toe, đấm vào cạnh sườn tôi. "Thấy chưa, tớ đã nói với cậu những gì? Cậu chỉ cần nghe lời Gustav này là đủ đào được một đống tiền"
Tôi cố nhịn, không nhắc tới cựu trung sĩ tải thương của Gypsy II. Dường như anh cũng đang tự vấn về chuyện ấy. "Ta đi thôi," anh nói. "Hôm nay không phải là ngày tốt cho những người nghệ sĩ."
Ở cửa, có ai nắm tay áo tôi kéo lại. Đó là Slippery Liz. "Anh sẽ cá con nào trong trận Maslowski Benefit?" anh ta hỏi, giọng kính cẩn, ao ước.
"O Tannenbaum," 1 tôi nói, và đi với Gustav tới quán rượu gần nhất, uống một ly mừng sức khỏe L'Heure Bleue.
Một giờ sau, tôi thua ba mươi marks. Tôi không thể giữ trọn số tiền thắng. Nhưng rồi tôi cũng dừng lại được. Khi tôi ra về, Bieling ấn một tấm thiệp vào tay tôi. "Nếu anh cần bất cứ chuyện gì ... Hay bạn anh. Tôi là người đại diện của họ." Đó là mẩu quảng cáo các trang thiết bị chiếu phim tư gia. "Tôi cũng thương thảo giá bán quần áo cũ," anh ta nói theo. "Trả tiền mặt."
Bẩy giờ chiều, tôi quay lại xưởng sửa xe. Karl đậu trong sân, máy nổ ầm ỉ.
"May quá cậu đã về, Bob," Koster nói. "Tụi tớ sắp sửa chạy thử. Đến đây."
Cả xưởng đang ở tư thế chuẩn bị. Otto đã thay và sửa nhiều chi tiết cho Karl, anh muốn đưa Karl dự cuộc thi leo núi trong hai tuần tới. Sắp sửa có cuộc tập dợt lần thứ nhất.
Chúng tôi leo vào xe. Jupp ngồi cạnh Koster, cặp kính đua ngoại khổ choán trọn gương mặt. Nó sẽ tan nát cõi lòng nếu không được đi theo. Lenz và tôi ngồi ở băng sau.
Karl lao vun vút. Chúng tôi ra đến vành đai xa lộ và chạy với tốc độ một trăm bốn mươi kí lô mét. Lenz và tôi rạp mình sau lưng hàng ghế trước; gió mạnh như thổi bay đầu. Hai hàng bạch dương bên đường lao ngược về sau và tiếng nổ tuyệt vời của máy xe làm chúng tôi đê mê như lời réo gọi thống thiết của tự do.
Mười lăm phút sau, chúng tôi nhìn thấy ở phía trước một chấm đen đang lớn thật nhanh. Đó là một chiếc xe khá nặng, vận tốc từ tám mươi đến một trăm khí lô mét. Nó không chạy thẳng mà hơi sàng qua sàng lại trên đường. Đường khá hẹp. Koster giảm tốc độ cho thích hợp. Khi còn cách một trăm mét và sắp sửa bóp còi, thình lình chúng tôi thấy bên tay phải, một người cưỡi mô tô từ một đường nhánh phóng tới; hắn lập tức biến mất sau một ụ rơm ngay tại giao lộ. "Lạy Chúa! chết mất thôi," Lenz kêu.
Cùng lúc ấy, người cưỡi mô tô xuất hiện trên đường, hai mươi mét đàng trước xe hơi. Rõ ràng hắn đánh giá sai vận tốc của xe và đang cố gắng vượt qua bằng cách lạng ngay trước đầu xe. Xe lách qua trái để tránh, nhưng chiếc mô tô cũng nháng sang bên trái. Một lần nữa, xe bẻ gắt qua phải, và tấm chắn bùn của nó quệt trúng và hất tung chiếc mô tô. Người cưỡi mô tô văng ra, đầu đập xuống đất. Xe hơi trượt về bên phải, bẽ gãy cột chỉ đường, cột đèn đường và cuối cùng đâm sầm vào một gốc cây.
Tất cả chỉ xảy ra trong tíc tắc. Còn chúng tôi, với tốc độ cao, trờ tới ngay sau đó; bánh xe nghiến rào rạo, Koster lái Karl như cưỡi ngựa lách qua người lái mô tô, mô tô, và chiếc xe còn nổ máy hồng hộc chắn ngang đường; bên trái, anh tránh được cánh tay của người cưỡi mô tô, bên phải, tránh được khung ràng hành lý của xe hơi; rồi động cơ gầm lên, Karl chạy thẳng, thắng rít ken két, và đứng chựng lại. "Lái cừ quá, Otto," Lenz nói.
Chúng tôi chạy ngược lại và mở cửa xe. Máy vẫn nổ. Koster thò vào bảng đồng hồ, rút chìa khóa. Động cơ tắt ngúm và chúng tôi nghe tiếng người rên rỉ.
Tất cả kính cửa sổ của chiếc limousine đều vỡ nát. Dưới ánh sáng lờ mờ trong lòng xe, chúng tôi thấy một gương mặt phụ nữ máu chảy thành dòng. Bên cạnh bà, một người đàn ông, kẹt giữa tay lái và ghế ngồi. Việc đầu tiên là chúng tôi khiêng người đàn bà ra khỏi xe, đặt trên đường. Mặt bà đầy vết cắt, vài mảnh kính vụn còn ghim trên đó, nhưng máu chảy đều. Cánh tay mặt của bà tệ hơn. Tay áo trắng sũng máu đỏ thắm và nhỏ giọt. Lenz xé toạt tay áo. Một dòng máu phụt ra, rồi phun từng ngụm. Động mạch bị đứt. Lenz xoắn khăn tay của anh thành một vòng cầm máu. "Khênh ông ấy ra, một phút nữa tớ sẽ xong," anh nói. "Chúng ta phải chở họ tới bệnh viện ngay tức thì."
Để đem người đàn ông ra, chúng tôi phải vặn ốc vít của ghế xe. May mắn thay, chúng tôi có đủ dụng cụ và tháo gỡ thật nhanh. Người đàn ông cũng chảy máu như bà kia, và có lẽ bị gẩy vài cái xương sườn. Khi chúng tôi dìu ra, ông quỵ xuống với một tiếng kêu đau đớn. Đầu gối của ông cũng bị thương thì phải. Nhưng trong lúc này, chúng tôi không thể giúp gì hơn.
Koster lùi Karl về gần chỗ tai nạn. Người đàn ba gào thét vì khiếp sợ khi thấy Koster lui đến, dù anh lái chậm như đi bộ. Chúng tôi hạ chỗ dựa của một cái ghế trước và có thể đặt người đàn ông vào đó. Chúng tôi cho người đàn bà ngồi ở băng sau. Tôi ngồi ở bục bước lên xe cạnh bà, còn Lenz ôm người đàn ông, phía bên kia.
"Cháu ở lại trông xe, Jupp nhé," Lenz nói.
"Nhân tiện, người cưỡi mô tô đâu rồi?" tôi hỏi.
"Chuồn mất, khi chúng ta đang bận," Jupp đáp.
Chúng tôi lái thật chậm. Cách ngôi làng kế tiếp không xa mấy là một dưỡng đường nhỏ. Chúng tôi thường nhìn thấy nó mỗi khi đi ngang. Nó thấp và trắng, nằm dưới chân đồi. Chúng tôi biết nó là chỗ an dưỡng dành cho những người khá giả, bệnh tương đối không nặng-- nhưng thế nào ở đó cũng có bác sĩ và một căn phòng có thể dùng làm trạm băng bó.
Chúng tôi lái lên đồi và bấm chuông. Một nữ y tá xinh đẹp đi ra. Cô tái mặt khi nhìn thấy máu và chạy trở vào. Lập tức một người khác, lớn tuổi hơn, xuất hiện.
"Rất tiếc, nhưng chúng tôi không được trang bị cho tai nạn. Các ông cần đi đến Bệnh viện Virchow. Cách đây không xa."
"Cách đây cả tiếng đồng hồ," Koster nói.
Bà y tá khăng khăng từ chối. "Chúng tôi không có dụng cụ dành cho những trường hợp như thế. Ngoài ra, không có bác sĩ --"
"Vậy bà đang phạm luật," Lenz nói. "Dưỡng đường tư nhân kiểu này phải có bác sĩ thường trực. Bà cho phép tôi dùng điện thoại chứ? Tôi muốn gọi cảnh sát và một trong những tòa báo."
Người nữ y tá bắt đầu nao núng. "Bà không cần lo lắng," Koster lạnh lùng nói. "Những việc bà làm sẽ được đền đáp hậu hĩnh. Chúng tôi cần một cái cáng. Tôi nghĩ bà có thể liên lạc với bác sĩ được mà."
Nữ y tá vẫn do dự. "Một cái cáng," Lenz giải thích, "cũng là quy định pháp lý, và là dụng cụ sơ cứu cần thiết --"
"Vâng, phải rồi," bà hấp tấp trả lời, rõ ràng bối rối vì quá nhiều tin tức. "Tôi sẽ cho người đem ra ngay."
Bà biến mất.
"Hơi dữ dằn," tôi nói.
"Tớ đã gặp những thứ tương tự ở bệnh viện công," Lenz ôn tồn nói. "Trước hết là tiền, kế đến là thủ tục hành chánh, sau đó mới được giúp đỡ."
Chúng tôi trở lại xe, dìu người đàn bà vào. Bà không nói gì, chỉ nhìn xuống đôi tay mình. Chúng tôi đưa bà vào một phòng khám bệnh nhỏ gần cửa ra vào. Rồi cáng được đem ra cho người đàn ông. Chúng tôi nhấc ông lên.
Ông rên. "Khoan đã --"
Chúng tôi nhìn ông. Ông nhắm mắt lại.
"Tôi không muốn gặp khó khăn nào," ông khó nhọc nói.
"Ông không có lỗi," Koster đáp. "Chúng tôi đã chứng kiến tai nạn và sẳn sàng làm chứng cho ông."
"Không phải thế," người đàn ông nói. "Vì lý do khác, tôi không muốn ai biết chuyện. Cậu hiểu chứ --"ông ta liếc nhìn cánh cửa, nơi người đàn bà được mang vào.
"Vậy ông đang ở đúng nơi," Lenz giải thích. "Một cuộc trình diễn riêng tư. Chỉ cần phi tang xe của ông trước khi cảnh sát tới."
Người đàn ông gượng dậy."Cậu giúp tôi nhé. Điện thoại cho ga ra xe hơi nào đó. Và làm ơn cho tôi xin địa chỉ của cậu -- tôi muốn -- tôi rất mang ơn cậu --"
Koster khoát tay từ chối.
"Nhưng mà," người đàn ông nói, "tôi muốn."
"Khá đơn giản," Lenz đáp. "Chúng tôi có một ga ra sửa xe, và chuyên môn về loại xe của ông. Chúng tôi sẽ mang nó về, nếu ông đồng ý, sửa lại tốt như xưa. Như thế hai bên đều có lợi."
"Tốt lắm," người đàn ông nói. "Các cậu cần địa chỉ của tôi không -- tôi sẽ đến nhận xe. Hoặc nhờ ai đấy."
Koster cất danh thiếp vào túi và chúng tôi khiêng ông vào trong. Bác sĩ, một người trẻ tuổi, khi ấy đã đến. Bác sĩ rửa sạch máu cho người đàn bà, và nay ta thấy rõ những vết cắt sâu trên mặt. Người đàn bà nhỏm dậy trên cánh tay lành của mình, nhìn chầm chầm vào cái chậu bằng kền bóng lộn trên xe đựng bông băng. "Chao ôi," bà khe khẻ nói và nằm vật xuống, đôi mắt hoảng loạn.
Chúng tôi lái vào làng và hỏi tìm một ga ra sửa xe. Đó là một lò rèn, và chúng tôi mượn của ông chủ một bộ cứu cấp và dây cáp, và hứa sẽ trả hai mươi marks. Nhưng ông ta nghi ngờ và muốn tận mắt nhìn. Chúng tôi chở ông ta trở lại chỗ xảy ra tai nạn.
Jupp đứng giữa đường, vẫy tay lia lịa. Tuy nhiên, không cần thằng bé chúng tôi vẫn nhận ra chuyện rắc rối. Một xe Mercedes cũ, nóc nặng nề, đậu ở lề đường và bốn người đang chuẩn bị kéo chiếc Stutz đi.
"Chúng ta tới đúng thời đúng lúc," Koster nói.
"Đó là anh em nhà Vogt," người thợ rèn đáp. "Một nhóm người nguy hiểm. Sống gần đây. Một khi họ đã dính dáng vào chuyện gì, họ sẽ không bỏ cuộc."
"Rồi ta sẽ thấy," Koster nói.
"Cháu đã giải thích với họ, Herr Koster ạ," Jupp thì thào. "Cạnh tranh bất chính. Muốn kéo xe về xưởng của họ."
"Tốt lắm, Jupp. Bây giờ cháu hãy đứng yên ở đây."
Koster lại gần người đàn ông cao to nhất trong bọn và nói. Anh giải thích, chiếc xe thuộc về chúng tôi.
"Cậu có mang theo món gì cứng không?" tôi hỏi Lenz.
"Chỉ có một xâu chìa khóa, mà tớ muốn giữ riêng cho tớ. Cậu hãy lấy cái khóa vặn ốc nhỏ."
"Không nên," tôi nói, "có thể gây thương tích. Tiếc quá, tớ đi giày mềm. Nếu không, sẽ đá ngon lành."
"Tham gia chứ?" Lenz hỏi người thợ rèn. "Như thế, chúng ta sẽ có bốn chọi bốn."
"Tôi đứng ngoài. Không muốn tiệm của tôi ngày mai bị đập phá. Tôi tuyệt đối trung lập."
"Đúng thôi," Lenz nói.
"Cho cháu theo với," Jupp nói.
"Đừng vội," tôi nói. "Chỉ cần cháu trông chừng không cho ai đến, thế là đủ."
Người thợ rèn tách ra khỏi chúng tôi để nhấn mạnh tính cách trung lập của hắn.
"Đừng nói bậy," thình lình tôi nghe tên cao lớn nhất nạt nộ Koster. "Ai đến trước, hưởng trước. Không nói lôi thôi gì cả. Tránh ra chỗ khác."
Karl giải thích một lần nữa là chiếc xe thuộc về chúng tôi. Anh đề nghị chở Vogt tới dưỡng đường để tìm hiểu. Vogt cười khi dễ. Lenz và tôi tiến lại gần. "Cha nội muốn đi nhà thương hả?" Vogt hỏi.
Koster không đáp, mà đi tới chiếc xe. Ba đứa Vogt kia đứng thẳng lên. Chúng nhích sát vào nhau.
"Đưa cho tớ cái ròng rọc," anh nói với chúng tôi.
"Ê, cha nội --" thằng anh cả Vogt nói. Hắn cao hơn Koster một cái đầu.
"Xin lỗi," Koster nói, "nhưng chúng tôi phải kéo xe về."
Lenz và tôi thong thả đi tới, tay đút trong túi. Koster cúi xuống chiếc xe. Ngay lúc ấy, Vogt tung một cước vào anh. Otto đã dự trù; anh bắt giò và quật hắn xuống đất. Rồi anh nhảy lên, đấm vào bụng thằng kế bên, đang cầm cái tay quay dơ cao, khiến hắn lảo đảo và cũng té nhào. Tiếp đó, Lenz và tôi nhảy xổ vào hai đứa kia. Tôi nhận một cú vào mặt. Không tệ lắm nhưng mũi tôi bắt đầu đỗ máu, quả đấm của tôi hụt mục tiêu và trợt lên cái cầm trơn nhẫy của thằng kia, rồi tôi bị móc xướt trên mắt và tôi thủ thế hớ hênh nên một thằng Vogt hạ tôi bằng một cú đấm vào dạ dầy. Hắn đè tôi xuống đường và bóp cổ tôi. Tôi cố gồng bắp thịt cổ để không bị nghẹt thở và cố nhỏm dậy và lăn tròn để đẫy hắn ra bằng chân hay đá vào bụng hắn. Nhưng Lenz và đối thủ Vogt của anh đang quần nhau, đè cứng trên chân tôi và tôi không thể cục cựa. Mặc dù đã gồng bắp thịt cổ lên tôi vẫn khó thở; tôi không hít được không khí vì mũi tôi đang chảy máu. Cảnh vật chung quanh mờ ảo như ở đàng sau một lớp kính, mặt thằng Vogt rung rinh như một khối thạch, và tôi thấy phía sau não tôi một mảng tối đen. Cái liếc mắt cuối cùng cho thấy Jupp thình lình đang ở bên cạnh -- thằng bé quỳ trong rãnh nước bên đường, bình tĩnh và chăm chú quan sát cuộc vật lộn, và khi lần tạm ngưng cuối cùng dường như cho thấy đã sẳn sàng, nó dùng một cây búa nhỏ gõ lên cổ tay của Vogt. Khi nó gõ lần thứ nhì, Vogt buông tôi ra và từ mặt đất gắng sức chụp Jupp, nhưng nó đã nhảy lùi ra sau mấy tấc và bình thãn nện thêm một búa lên những ngón tay của Vogt, rồi một búa nữa lên đầu hắn. Tôi vùng dậy, lăn lên mình Vogt, và đến lượt tôi, sắp sửa xiết cổ hắn.
Ngay lúc ấy, có tiếng rống đau đớn của con thú rừng và tiếng rên xiết: "Buông ra -- buông ra!"
Đó là anh cả Vogt. Koster đã bẻ tay hắn ra sau lưng. Vogt gục đầu sát đất, Koster quỳ trên mình hắn và bẻ vẹo cánh tay hắn. Vogt thét lên, nhưng Koster biết anh phải làm đến nơi đến chốn, nếu chúng tôi muốn yên thân. Anh bất ngờ giật, xoắn tay hắn một cái trước khi thả ra. Vogt nằm liệt trên mặt đất một lúc. Tôi ngước lên. Một đứa trong bọn Vogt vẫn đứng, nhưng tiếng rên la của thằng anh đã làm hắn chùn bước. "Cút ngay, nếu không tôi sẽ đánh tiếp," Koster nói với hắn.
Tôi dộng đầu thằng Vogt của tôi xuống đường để từ giã rồi buông ra. Lenz đã đứng cạnh Koster. Áo khoác của anh rách toạc, máu chảy từ một góc miệng. Có vẻ như cuộc chiến của anh không phân thắng bại, vì thằng Vogt của anh, dù cũng chảy máu, vẫn còn đứng. Sự đầu hàng của anh cả Vogt đã quyết định. Chúng không dám hó hé một câu nào. Chúng giúp thằng anh đứng dậy và dìu ra xe. Đứa không bị thương quay lại, nhặt cái tay quay xe hơi. Hắn nhìn Koster như thể anh là con quỷ dữ. Rồi chiếc Mercedes lạch cạch chạy đi.
Thình lình người thợ rèn xuất hiện. "Đáng kiếp," ông ta nói. "Đã lâu lắm chưa có chuyện như thế xảy ra với họ. Thằng anh cả đã ngồi tù vì tội sát nhân."
Không ai trả lời. Koster chợt rùng mình. "Hành nghề bẩn thỉu," anh nói. Rồi anh quay lại. "Nào, làm việc đi chứ."
"Cháu đã bắt đầu," Jupp nói, kéo cái ròng rọc lên.
"Chờ một phút," tôi nói. "Từ nay trở đi, cháu được thăng chức Cai và được hút thuốc lá."
Chúng tôi câu chiếc xe lên và buộc chặt phía sau Karl bằng giây cáp.
"Chắc sẽ không làm hư hại Karl, phải không?" tôi hỏi Koster. "Dù sao, Karl chỉ là xe đua mà thôi, không phải là xe thồ."
Anh lắc đầu. "Không xa lắm. Và đường bằng."
Lenz ngồi trong chiếc Stutz và chúng tôi chầm chậm lái đi. Tôi cầm khăn tay ấn vào mũi và nhìn ra ngoài, ngắm những cánh đồng chiều và mặt trời lặn. Có một niềm an lạc, mênh mông và vững chãi trong đó, và ta cảm thấy thiên nhiên hoàn toàn dửng dưng với bất cứ điều gì mà cái tổ kiến tàn ác gọi là nhân loại đang chọn lựa để làm trong thế gian này. Quan trọng hơn nhiều, với nó là những áng mây dần biến đổi thành một dãy núi vàng óng, là bóng tối tím ngắt của hoàng hôn trôi dạt không tiếng động từ chân trời, là những con chiền chiện từ bầu trời vô tận quay về tổ trong các luống cày, là buổi chiều chầm chậm vào đêm.
Chúng tôi lái vào sân trong. Lenz bước xuống, hân hoan ngã mũ chào. "Chào cưng, em yêu dấu! Em đến với chúng tôi vì một tai nạn buồn, nhưng với một chút may mắn, em có thể đem về cho chúng tôi, ước lượng khiêm nhường, ba ngàn đến ba ngàn năm trăm marks. Và bây giờ cho tớ một ly lớn cherry brandy và một bánh xà phòng -- tớ phải gột rửa hơi hám của nhà Vogt."
Ai cũng uống một ly rồi lập tức bắt tay vào việc, tháo gỡ chiếc Stutz càng nhanh càng tốt. Một mình chủ xe cho phép ta sửa chữa không đủ -- đôi khi sau đó, công ty bảo hiểm sẽ tìm đến và lấy xe giao cho một tiệm khác, có liên hệ với họ. Do đó, xe càng bị tháo gỡ nhiều chừng nào, càng tốt cho chúng tôi chừng đó. Tiền công lắp ráp khi ấy sẽ cao đến nỗi, để xe cho chúng tôi sửa, còn rẻ hơn là lấy đi.
Khi chúng tôi dừng tay, trời đã tối.
"Cậu có chạy tắc xi đêm nay không?" tôi hỏi Lenz.
"Không," Gottfried đáp. "Ta không nên lao lực quá đáng để kiếm tiền. Hôm nay, với tớ, có chiếc Stutz như thế đã đủ."
"Tớ thì chưa," tôi nói. "Nếu cậu không đi, tớ sẽ lái nó lượn quanh các hộp đêm từ mười một giờ đến hai giờ sáng."
"Tớ xin can," Gottfried cười. "Cậu thử soi gương mà xem. Dạo này cậu không được may với cái mũi của cậu. Ai mà chịu lên xe với cái củ cải đường ấy? Về nhà, ngoan và chườm đá."
Anh nói đúng. Không thể nào đón khách với cái mũi của tôi. Nên tôi nghĩ sớm và về nhà. Trên đường đi, tôi gặp Hasse và cuốc bộ với anh một đoạn ngắn. Trông anh bệ rạc và khổ sở.
"Anh gầy đi," tôi nói.
Anh gật đầu, và nói rằng hiện nay anh không có bửa tối nào ra hồn. Hầu như chiều nào vợ anh cũng ra ngoài với những người bạn mới quen và về nhà trễ. Anh vui vì vợ anh được đi chơi nhưng anh không muốn nấu ăn một mình mỗi đêm khi về nhà. Dù sao, anh cũng không đói mấy; anh quá mệt để mà thấy đói.
Tôi nhìn anh bước đi bên cạnh, đôi vai còm rũ thấp. Có lẽ anh thực lòng tin vào những điều anh nói, nhưng thật tội nghiệp khi ta lắng nghe. Vì thiếu thốn một chút an sinh, một chút tiền nong mà cuộc hôn nhân này, cuộc đời hiền lành khiêm tốn này phải đảo điên. Tôi nghĩ đến hàng triệu người như anh, cũng luôn luôn chỉ vì một chút an toàn, một chút vật chất mà ra nông nỗi. Phẫn uất, cuộc đời co rút lại thành một chiến trường đáng thương chỉ để tồn tại. Tôi nghĩ đến vụ đánh nhau giành mối chiều nay; tôi nghĩ đến tất cả những gì tôi đã chứng kiến mấy tuần qua; tôi nghĩ đến tất cả những chuyện tôi đã thử; rồi tôi nghĩ đến Pat và đột nhiên tôi có cảm tưởng là không bao giờ có thể bắt được nhịp cầu nối kết hai bên bờ vịnh. Khoảng cách quá rộng, cuộc đời quá dơ bẩn để mà hạnh phúc; hạnh phúc không thể tồn tại, người ta không còn tin tưởng vào nó nữa; nó chỉ là một không gian để hít thở, không phải một hải cảng để ẩn trú.
Chúng tôi leo cầu thang và mở cửa. Ở đầu cầu thang, Hasse dừng lại. "Au revoir --"
"Tối nay anh cố ăn uống một chút gì nhé," tôi nói.
Anh lắc đầu với một nụ cười yếu ớt, như thể xin lỗi, và đi vào căn phòng trống rỗng, tối đen. Tôi nhìn theo anh. Rồi tôi đi trên hành lang dài hẹp như cái ống. Tôi bỗng nghe một tiếng hát nhẹ nhàng. Tôi ngừng lại và lắng nghe. Không phải âm nhạc từ máy hát của Erna Bornig, như tôi lầm tưởng, mà là giọng hát của Pat. Nàng hát một mình trong phòng. Tôi nhìn qua bên kia, cánh cửa phòng nơi Hasse biến mất. Tôi cúi xuống lắng nghe, rồi bất ngờ tôi nắm chặt hai tay. Kệ bố nó, có khoảng cách hít thở hay không có khoảng cách hít thở, có nơi trú ẩn hay không có nơi trú ẩn, dù cách xa đến mức không bao giờ nối đươc nhịp cầu, không bao giờ được tin tưởng -- chính vì lý do đó, vì không ai có thể tin được, chính vì lý do đó mà nó -- hạnh phúc -- luôn luôn mới lạ và ngây ngất không cùng.
Pat chưa biết tôi về. Nàng ngồi trên sàn nhà, trước gương và đang thử mũ, một cái mũ vành đen. Bên cạnh nàng, trên thảm là cây đèn. Căn phòng ngập ánh hoàng hôn ấm áp nâu vàng, và chỉ có gương mặt nàng được ngọn đèn chiếu sáng. Một chiếc ghế kéo gần, một tấm lụa phủ lên. Trong lòng ghế, cây kéo sáng bóng.
Tôi vẫn đứng im ở cửa, ngắm nàng bận bịu với cái mũ. Nàng thích ngồi bệt dưới sàn, và tôi thường bắt gập nàng ngủ quên trong một góc phòng, với một quyển sách bên cạnh, và con chó.
Con chó ngồi kế bên và bắt đầu kêu ủng oẳng. Pat nhìn lên, thấy tôi trong gương. Nàng mỉm cười, và đối với tôi, toàn thế giới dường như sáng bừng lên vì nụ cười ấy. Tôi băng ngang phòng đến bên nàng, quỳ xuống và, sau tất cả những nhơ nhớp của một ngày, áp môi lên làn da mềm mại, ấm áp trên cổ của nàng.
Nàng cầm cái mũ đen đưa lên. "Em sửa cái mũ, anh yêu. Anh thích không?"
"Cái mũ đẹp tuyệt," tôi nói.
"Nhưng anh có thấy gì đâu. Em cắt một chút vành phía sau và bẻ vành phía trước cong lên."
"Anh thấy rõ mà, " tôi nói, vùi mặt trong mái tóc của nàng, "đó là một cái nón có thể làm cho mấy bà thợ nón ở Paris phải điên lên vì ghen tức, nếu được nhìn thấy."
"Robby này!" Nàng cười to, xô tôi ra. "Anh chẳng biết gì hết. Đôi khi, em tự hỏi, không hiểu anh có biết em ăn mặc ra sao không."
"Anh biết từng chi tiết," tôi nói, ngồi trên sàn nhà, sát bên nàng, tuy có lùi một chút vào bóng tối để dấu đi cái mũi.
"Thế à? Vậy tối hôm qua em mặc gì?"
"Tối hôm qua?" tôi suy nghĩ. Thật tình tôi có biết gì đâu!
"Đúng như em nghĩ, anh yêu! Anh chẳng biết một tí ti nào về em."
"Đúng," tôi nói; nhưng chính như thế mới hay. Càng biết rõ về nhau, chúng ta càng hiểu lầm. Và càng gần nhau, chúng ta càng trở nên xa cách. Cứ nhìn gia đình ông Hasse thì rõ -- họ biết hết mọi thứ về nhau, thế nhưng họ lại cách biệt với nhau còn hơn người xa lạ."
Nàng đội cái mũ đen vào và ngắm nghía trong gương. "Những gì anh vừa nói chỉ đúng một nữa thôi, Robby."
"Tất cả mọi sự thật đều giống như thế," tôi trả lời. "Chúng ta không bao giờ đi xa hơn. Điều đó làm chúng ta mang đậm tính người. Và Chúa cũng biết chúng ta đã gặp biết bao khó khăn với một nửa sự thật. Làm sao chúng ta sống nỗi với trọn vẹn sự thật cơ chứ?"
Nàng bỏ mũ ra và đem cất. Rồi nàng quay lại, và, khi đó, nhìn thấy cái mũi thê thảm của tôi. "Có chuyện gì vậy anh?" nàng hỏi, lo lắng.
"Không có chi trầm trọng. Tuy trông đáng sợ thật. Lúc làm việc dưới gầm xe, anh bị cái gì đó rơi trúng mặt."
Nàng nhìn tôi lộ vẻ nghi ngờ. "Ai mà biết anh ở đâu cơ chứ. Anh chẳng bao giờ nói cho em biết gì cả, phải không nào? Em biết rất ít về anh, cũng như anh không biết mấy về em."
"Và như thế càng hay," tôi nói.
Nàng đem ra một chậu nước, một mảnh vải và làm một miếng gạc đấp cho tôi. Rồi nàng lại ngắm nghía tôi rất kỹ.
"Giống như bị ai đấm vậy. Và cổ cũng bị trầy. Anh lại phiêu lưu ở đâu đó, anh yêu."
"Cuộc phiêu lưu lớn nhất của hôm nay vẫn chưa xảy ra," tôi nói.
Nàng nhìn tôi, ngạc nhiên. "Muộn thế sao, Bob? Vậy, anh sắp đi?"
"Anh ở lại," tôi nói, quẳng bỏ miếng gạc và ôm nàng trong tay. "Anh sẽ ở đây với em suốt buổi tối này." -------------------------------- 1 O Tannenbaum: Ôi Cây Giáng Sinh, tên một bài hát
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:53:13 GMT -6
Chương 20
Tháng Tám ấm và trong, và ngay cả trong tháng Chín, khí hậu vẫn còn như mùa hè --nhưng rồi, vào những ngày cuối, trời bắt đầu mưa. Suốt ngày, mây giăng chùng trên thành phố, mái hiên tí tách nước, rồi những trận bão bắt đầu và, một Chúa Nhật kia, khi dậy sớm, đến bên cửa sổ, tôi trông thấy những chấm lưu huỳnh vàng úa trên vòm lá ở nghĩa trang và những cành khô đầu tiên.
Tôi đứng bên cửa sổ thêm một lát. Thật lạ lùng, những ngày tháng sau khi chúng tôi từ chỗ nghĩ mát ở biển trở về; tôi luôn luôn, hàng giờ, ý thức rằng đến mùa thu Pat sẽ phải đi xa, thế nhưng tôi nghĩ đến chuyện ấy như người ta nghĩ đến nhiều thứ khác -- rằng ngày tháng trôi qua, rằng con người phải già đi, rằng con người không thể sống muôn đời. Hiện tại được coi trọng; lúc nào nó cũng đánh bại những ý nghĩ khác, và chừng nào Pat còn đây, chừng nào cây lá còn xanh, những từ ngữ như "mùa thu", "đi xa" và "chia ly" chẳng khác gì hơn cái bóng nhợt nhạt ở chân trời, khiến ta cảm thấy đậm đà thêm niềm vui vẫn được gần gụi, chung sống bên nhau.
Tôi nhìn xuống nghĩa trang ẩm thấp, đẫm nước, nhìn những mộ bia phủ đầy lá nâu bẩn thỉu.
Như một con quái vật kiệt máu, sương giá đêm qua đã hút cạn nhựa xanh của lá; chúng yếu ớt, mềm rũ, bám víu lên cành; mỗi cơn gió thoảng qua lại làm rơi rụng thêm vài chiếc bay bay trước gió --và bỗng dưng lần thứ nhất trong đời, tôi ý thức được nỗi đau nhức nhối của cuộc sinh ly sắp xảy ra, sắp trở thành hiện thực, và mùa thu đang len lén bò trên ngọn cây ngoài kia để lại dấu chân vàng vọt phía sau, cũng đã là hiện thực.
Tôi nghe ngóng phòng bên cạnh. Pat vẫn ngủ. Tôi đến cửa phòng, đứng đó một lát. Nàng ngủ yên, không ho. Trong thoáng chốc, một hy vọng bất thần nảy sinh: tôi vẽ ra trước mắt cảnh tượng hôm nay hay ngày mai hay vài ngày sắp tới, Jaffé sẽ gọi điện báo cho tôi biết, nàng không phải đi xa. Rồi tôi chợt nhớ đến những đêm nghe hơi thở lào xào của nàng, âm thanh đều đều, nghèn nghẹn, kẽo kẹt, đến rồi đi như một lưỡi cưa mỏng kéo nơi xa --và niềm hy vọng ấy lịm tắt cũng nhanh như khi bùng dậy.
Tôi quay lại cửa sổ và một lần nữa, nhìn mưa rơi. Rồi tôi ngồi xuống bàn, bắt đầu đếm tiền. Tôi tính toán xem số tiền đó sẽ kéo dài được bao lâu cho Pat, nhưng việc ấy làm tôi khổ sở, và tôi lại cất tiền đi.
Tôi nhìn đồng hồ. Gần bẩy giờ sáng. Ít nhất hai giờ nữa Pat mới thức dậy. Nên tôi vội mặc quần áo để ra khỏi nhà và lái một chút. Như thế còn hơn là ngồi rịt trong phòng, suy nghĩ vẩn vơ.
Tôi đến ga-ra, lấy chiếc tắc xi và lái chầm chậm. Đường thưa người. Trong khu vực lao động, những dãy chung cư xếp hàng, trọc lóc và tiêu điều, như những cô gái điếm già nua buồn bã, trong mưa. Mặt tiền xuống cấp và dơ bẩn, các cửa sổ tối tăm gương những cặp mắt u sầu dưới ánh sáng ban mai, và lớp vôi tường đã tróc lở nhiều chỗ để lộ những lỗ sâu, xám vàng như đậu mùa.
Tôi lái qua Phố Cổ, đến giáo đường. Tôi đậu xe gần cửa nhỏ và bước xuống. Qua lớp gỗ sồi dày, tiếng organ văng vẳng đưa ra. Đó là giờ cử hành lễ Misa buổi sáng, và tôi lắng nghe tiếng đàn, bắt đầu nghi thức dâng bánh -- nghĩa là ít nhất hai mươi phút nữa mới tan lễ và con chiên mới ra về.
Tôi đi vào vườn hoa nơi hành lang. Vườn nằm dưới vũng sáng xám lờ mờ. Những bụi hồng sũng nước, nhưng đa số vẫn nở hoa. Áo mưa của tôi khá rộng và tôi có thể dấu trong áo những chùm hoa mới cắt. Mặc dù Chúa Nhật, nhưng không ai lui tới, và tôi đem một ôm hoa hồng ra xe mà không trở ngại. Rồi tôi trở vào để hái thêm. Khi tôi vừa an toàn dấu chúng dưới áo, tôi nghe tiếng chân ai từ hành lang đi đến. Tôi kẹp hoa dưới nách và đứng im trước một trong những Chặng Đàng Thánh Giá, làm như say sưa cầu nguyện.
Tiếng chân đến gần hơn; chúng không qua luôn, mà dừng lại. Người tôi bắt đầu hực nóng. Tôi chăm chú ngắm bức phù điêu đá, ra vẻ mơ màng sâu lắng, tay làm dấu thánh giá, và từ từ bước qua bức phù điêu kế tiếp, gần cửa ra vào. Tiếng chân đi theo rồi cũng ngừng lại. Tôi không biết làm sao. Tôi không thể bỏ đi ngay, tôi cần đứng lại đủ lâu để đọc mười bài kinh Kính Mừng Đức Mẹ và một bài kinh Lạy Cha -- nếu không, tôi sẽ bại lộ mà thôi. Do đó tôi tiếp tục đứng im và thận trọng ngước lên để tìm hiểu sự tình, với bộ mặt bất mãn vì việc sùng kính bị quấy nhiễu.
Tôi nhìn thấy gương mặt tròn trịa, thân thiện của một linh mục, và tôi thở đều lại. Tôi biết ngài sẽ để yên cho tôi cầu nguyện, và tôi tưởng mình đã thoát khi tôi nhận thấy, chẳng may, tôi đã chọn Chặng Đàng cuối cùng. Dù cầu kinh rề rà tới đâu chăng nữa, chỉ trong vài phút tôi cũng phải xong, và rõ ràng là ngài chờ đợi giây phút đó. Không có lý do nào kéo dài hơn nữa. Vì thế, tôi chậm rãi bỏ đi và thản nhiên tiến ra cửa.
"Chào con," linh mục nói. "Sáng danh Thiên Chúa."
"Đời đời, amen," tôi đáp ứng. Đó là cách chào hỏi của bổn đạo.
"Thật hiếm gặp ai ở đây, vào giờ này," ngài hiền hòa nói, nhìn tôi với đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, sáng láng.
Tôi ấp úng trong họng.
"Chẳng may, ít có khi," ngài nói tiếp, hơi phiền muộn. "Đặc biệt là phái nam, chẳng mấy ai đến chiêm bái Các Chặng Đường. Vì lý do ấy, cha thật vui và cha muốn gợi chuyện với con. Cha tin là con có một lời khấn đặc biệt nào đó, nên con mới đi sớm trong thời tiết này."
Vâng, đó là, cha hãy biến mau cho con nhờ, tôi nghĩ, gật đầu và bớt lo. Dường như ngài vẫn không thấy chùm hoa dưới áo. Cần phải ứng đối nhanh chóng để ngài không nhận ra.
Ngài lại mỉm cười với tôi. "Cha sắp sửa dâng lễ Misa. Cha sẽ cầu nguyện cho con."
"Cảm ơn Cha," tôi nói, ngạc nhiên và xấu hổ.
"Cho linh hồn của một người vừa quá vãng, phải không?" ngài hỏi.
Tôi chầm chập nhìn ngài trong giây lát, và chùm hoa tuột dần xuống. "Không ạ," tôi nói nhanh, ép chặt tay vào thân áo khoác.
Đôi mắt xanh trong vắt của ngài ngây thơ, nhìn thẳng mặt tôi, cố tìm hiểu. Rõ ràng ngài muốn nghe một lời tâm sự. Nhưng ngay lúc ấy, tôi thấy không có điều gì thích hợp để kể cho ngài nghe, và ngoài ra, tôi không muốn nói dối với ngài, nếu không cần thiết. Nên tôi lặng thinh.
"Vậy Cha sẽ cầu nguyện cho một người nào đó đang cần giúp đỡ," cuối cùng ngài nói.
"Vâng ạ," tôi trả lời, "nếu Cha có thể làm điều ấy. Và con xin cám ơn Cha, thật nhiều."
Ngài mỉm cười. "Con không cần cám ơn Cha. Tất cả chúng ta đều nằm trong bàn tay Chúa." Ngài nhìn tôi một lát, đầu hơi nghiêng sang một bên, và như thể có một điều gì đó đang lướt qua mặt ngài. "Chỉ có sự phó thác," ngài nói. "Đức Thánh Cha sẽ cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp, dù cho đôi khi chúng ta không thể hiểu." Rồi ngài gật đầu với tôi và bỏ đi.
Tôi đưa mắt nhìn theo cho đến lúc tôi nghe tiếng cửa đóng sầm sau lưng ngài. Vâng, tôi nghĩ, nếu đơn giản có thế thì nói làm gì. Chúa cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp -- nhưng Ngài có cứu Bernhard Wiese không, khi anh ấy bị thương ở bụng, nắm kêu la ở cánh rừng Houthoulst? Ngài có cứu Katczinsky, đã gục ngã ở Handzaeme, để lại cô vợ bệnh hoạn và đứa con mà anh ấy chưa hề gặp mặt? Ngài có cứu thằng bé Friedmann và Jurgens và Berger và hàng triệu người nữa? Không, khốn nạn thật, đã có quá nhiều máu chảy trên thế gian vì thứ niềm tin như thế nơi Đức Thánh Cha.
Tôi mang hoa về nhà, rồi lái ra xưởng trả xe lại, đi bộ về. Mùi cà phê mới pha thơm ngào ngạt, và Frida lục đục trong bếp. Kỳ thật, nhưng mùi cà phê làm tôi khoan khoái hẳn lên. Tôi đã hiểu điều đó từ thời chiến tranh; một thứ có thể an ủi ta, không bao giờ to tát -- mà chính ra, nó thường là những điều nhỏ nhặt.
Tôi chưa kịp đóng cửa hành lang, Hasse đã ló ra khỏi phòng của anh. Mặt anh vàng và sưng, mắt đỏ quạch và có vẻ như anh đã để nguyên quần áo lên giường đêm qua. Khi thấy tôi, một nỗi thất vọng não nề hiện trên mặt anh.
"Ach, té ra là cậu," anh thì thào.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh. "Giờ này mà anh trông ngóng ai vậy?"
"Vâng," anh nói khẻ, "nhà tôi. Cô ấy chưa về. Cậu có gặp nhà tôi ở đâu không?"
Tôi lắc đầu. "Tôi mới thức dậy chừng một giờ."
Anh gật đầu. "Tôi cứ nghĩ -- biết đâu cậu đã gặp nhà tôi ở đâu đó."
Tôi nhún vai. "Có lẽ chị ấy sắp về. Chị ấy không gọi điện thoại sao?"
Anh nhìn tôi, hơi thẹn. "Tối qua, nhà tôi đến nhà mấy người bạn. Tôi không biết họ ở đâu."
"Vậy anh biết tên những người ấy không? Nếu biết, anh có thể gọi tổng đài."
"Tôi đã gọi. Họ không biết tên đó."
Trông anh tiu nghĩu như một con chó phải đòn. "Nhà tôi luôn luôn giữ bí mật về những người đó; và nếu tôi gặng hỏi, nhà tôi sẽ đùng đùng nổi giận. Vì thế tôi đành làm lơ. Nhà tôi có được chỗ để lui tới, là tôi vui rồi. Nhà tôi cứ luôn mồm nói thế, chứ tôi có tức tối gì đâu."
"Có lẽ chị ấy chưa về," tôi nói. "Thật tình, tôi nghĩ chị ấy sắp về. Anh có hỏi các bệnh viện hay là bót cảnh sát chưa? Không bao giờ biết được."
Anh gật đầu. "Đã gọi khắp nơi. Chẳng ai biết."
"Vậy, trong trường hợp này, anh không cần lo lắng thái quá. Có lẽ chị ấy không khỏe nên nghĩ qua đêm ở nhà bạn. Những chuyện như thế cũng hay xảy ra. Chừng một hay hai giờ nữa, chị ấy sẽ lại có mặt ở nhà."
"Cậu nghĩ thế ư?'
Cửa bếp mở và Frida xuất hiện, bưng một cái khay. "Khay của ai vậy?" tôi hỏi.
"Của Fraulein Hollmann," bà ta trả lời, hơi cáu vì cái liếc mắt của tôi.
"Cô ấy đã dậy rồi à?
"Tất nhiên cô ấy đã dậy," Frida bốp chát, "nếu không, cô ấy đã không gọi điện thoại bảo tôi dọn điểm tâm."
"Chúa ban phước lành cho chị," tôi trả lời. "Nhiều buổi sáng, chị là một thiên thần toàn hảo, Frida ạ. Chị nghĩ, chị có thể dọn cà phê cho tôi ngay bây giờ không?"
Bà ta càu nhàu một câu gì đó rồi sảii bước trên hành lang, cái bàn tọa lắc qua lắc lại một cách miệt thị. Bà ta rất giỏi làm như vậy. Tôi chưa bao giờ thấy ai diễn đạt được nhiều tình cảm trên đó cho bằng.
Hasse vẫn chờ. Tôi chợt xấu hổ khi quay lại, nhìn thấy anh bên cạnh, cam chịu và yên lặng.
"Trong vài giờ nữa, nỗi khổ của anh sẽ biến mất," tôi nói, chìa tay cho anh.
Anh không cầm nó, mà nhìn tôi lạ lẫm. "Cậu nghĩ, ta có thể đi tìm cô ấy không?" anh hỏi nhẹ nhàng.
"Nhưng anh nào có biết chị ấy ở đâu?"
"Đành vậy, nhưng có lẽ, ta vẫn có thể đi tìm," anh lập lại. "Nếu chúng ta lấy tắc xi của cậu --tôi sẽ trả mọi chi phí, dĩ nhiên," anh hấp tấp nói.
"Không phải thế," tôi trả lời. "Vô vọng mà thôi. Chúng ta lái đi đâu? Chị ấy sẽ không có mặt ngoài đường giờ này."
"Tôi không biết,"anh nói, càng nhỏ nhẹ hơn. "Tôi chỉ nghĩ rằng, ta có thể thử."
Frida trở lại với cái khay trống. "Tôi phải đi đây," tôi nói, "và tôi nghĩ rằng anh lo âu một cách không cần thiết. Tuy tôi sẳn sàng giúp anh, nhưng Fraulein Hollmann sắp sửa đi xa, và tôi muốn được ở bên cạnh cô ấy hôm nay. Có thể đây là Chúa Nhật cuối cùng của cô ấy nơi đây. Xin anh hiểu, anh nhé?"
Anh gật đầu.
Anh làm tôi đau lòng, cách anh đứng đó, nhưng tôi nóng ruột muốn gặp Pat. "Nếu anh muốn đi ngay lúc này, dĩ nhiên anh có thể xuống nhà, gọi tắc xi," tôi nói tiếp, "nhưng tôi không khuyên anh làm vậy. Anh nên đợi thêm một lát --tôi sẽ gọi bạn tôi, Lenz, và cậu ấy sẽ đi tìm với anh."
Tôi có cảm giác là anh không nghe tôi.
"Sáng nay, cậu không thấy nhà tôi chứ?" anh thình lình hỏi.
"Không," tôi nói, hoang mang. "Nếu có, tôi đã nói cho anh biết tự nãy giờ."
Anh lại gật đầu và lơ đãng quay về phòng, không thốt một lời.
Pat đã vào phòng tôi và nhìn thấy chùm hoa. Nàng cười to khi trở lại. "Robby," nàng nói, "Nhưng mà, em vô tội. Frida vừa nói với em là hồng mới cắt, sáng sớm Chúa nhật, trong mùa này, phải có liên quan gì đó với chuyện trộm cắp. Bà ấy cũng bảo rằng các tiệm hoa trong vùng không có loại hồng này."
"Em muốn nghĩ sao thì nghĩ," tôi trả lời. "Điều chính yếu là chúng đem lại cho em một chút hạnh phúc."
"Hơn bao giờ hết, anh yêu. Anh phải mạo hiểm để lấy về cho em."
"Vâng, nguy hiểm lắm!" tôi nghĩ đến vị linh mục. "Nhưng sao em thức sớm thế?"
"Em không ngủ được nữa. Và ngoài ra, em nằm mơ. Chẳng tốt đẹp gì."
Tôi liếc nhìn nàng. Trông nàng mệt mỏi và quanh mắt xuất hiện những quầng thâm. "Em có mộng dữ từ khi nào?" tôi nói. "Anh tưởng đó mới là nghề của anh?"
Nàng lắc đầu. "Anh có thấy mùa thu đã về ngoài kia chăng?"
"Với chúng ta, cái đó gọi là hè muộn," tôi trả lời. "Sao vậy, hoa hồng vẫn nở. Anh chỉ thấy trời mưa."
"Trời mưa," nàng lập lại. "Mưa đã kéo dài quá lâu, anh yêu. Đôi khi thức giấc lúc nửa khuya, em cứ tưởng tượng rằng em bị chôn vùi dưới mưa."
"Ban đêm em phải qua phòng anh," tôi nói. "Rồi em sẽ không còn những ý nghĩ như thế. Ngược lại, thật dễ chịu khi ta có người bên cạnh và trời tối và mưa gió bên ngoài."
"Chắc thế," nàng trả lời, và dựa vào tôi.
"Anh lại thích mưa vào Chúa Nhật," tôi nói. "Như thế ta sẽ thấy ta may mắn biết bao. Chúng ta ở cạnh nhau, trong một căn phòng ấm cúng và có một ngày rỗi rảnh --theo anh như vậy là quá nhiều."
Nàng tươi nét mặt. "Vâng, chúng ta may mắn lắm, phải không?"
"Theo anh, chúng ta may mắn tuyệt trần. Khi anh nghĩ đến ngày xưa -- Chúa ơi! Anh không bao giờ nghĩ là anh sẽ có may mắn dường này."
"Anh thật đáng yêu khi nói thế. Vậy em cũng tin như anh. Anh cần nhắc lại nhiều lần."
"Anh không nói đủ hay sao?"
"Không."
"Có lẽ," tôi nói. "Anh tin là anh không đủ ngọt ngào âu yếm. Anh không biết tại sao, nhưng anh không thể. Tuy nhiên anh ước gì anh được như vậy."
"Không cần phải thế, anh yêu. Em hiểu con người của anh. Chỉ có điều, đôi khi ta muốn được nghe hoài những câu trìu mến."
"Từ nay trở đi anh sẽ nói, mỗi khi có dịp. Cho dù anh thấy mình kỳ cục."
"Ach, kỳ cục." nàng trả lời. "Trong tình yêu, không có gì kỳ cục."
"Không ư, cảm ơn Chúa," tôi nói. "Nếu không, chắc sẽ khủng khiếp lắm, khi nghĩ tới tình yêu sẽ biến đổi mình thành cái quái gì."
Chúng tôi cùng ăn điểm tâm, rồi Pat lại lên giường nằm. Jaffé đã ra lệnh như vậy. "Anh ở lại đây chứ?" nàng hỏi, dấu mình trong chăn.
"Nếu em muốn," tôi nói.
"Dĩ nhiên em muốn; nhưng anh không cần phải --"
Tôi ngồi xuống giường, bên cạnh nàng. "Anh không có ý đó. Anh chỉ muốn nói, anh nhớ có lần em bảo em không thích người khác nhìn em ngủ."
"Có lần, vâng -- nhưng bây giờ đôi khi em lại kinh sợ, khi một mình."
"Anh cũng từng nghĩ giống như vậy. Trong bịnh viện, sau khi giải phẫu. Ban đêm trước khi ngủ, anh thường hoảng sợ. Anh cố thức khuya, đọc, và suy nghĩ về một điều gì đó, và chỉ chợp mắt khi trời sắp sáng. Nhưng thời kỳ ấy đã qua."
Nàng áp má lên tay tôi. "Ta sợ ta sẽ không trở lại, Robby."
"Vâng," tôi nói, "nhưng ta sẽ trở lại, và giai đoạn ấy sẽ qua. Anh là bằng chứng. Ta luôn luôn trở lại -- dù không hẳn cùng một chỗ."
"Đúng thế," nàng trả lời, đã hơi buồn ngủ, mắt ríu lại. "Em cũng sợ giống y vậy. Nhưng anh sẽ chăm lo cho em, phải không?"
Nàng thở sâu hơn và hơi nghiêng mình qua một bên. Chỉ một phút sau nàng đã ngủ vùi.
Tôi ngồi cạnh cửa sổ và lại nhìn mưa rơi bên ngoài. Những chùm nước mưa xám quật vào ô kính, và ngôi nhà như một hòn đảo nhỏ cô lập trong phong cảnh thê lương bát ngát. Tôi thấy bồn chồn, vì hiếm khi Pat lại xuống tinh thần và buồn nản vào buổi sáng. Nhưng rồi tôi nhớ, chỉ mới vài ngày trước đây, nàng vẫn sống động vui tươi, và có lẽ khi nàng tỉnh dậy, mọi việc sẽ đổi khác. Tôi biết nàng nghĩ nhiều về căn bệnh của nàng, và tôi cũng biết, từ Jaffé, rằng bệnh của nàng không tiến triển khả quan -- nhưng tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết trong đời, cho nên, bệnh hoạn với tôi vẫn là cuộc sống và hy vọng. Tôi biết người ta có thể chết vì bị thương -- nhưng vì lý do đó, tôi không thể tin rằng một chứng bệnh mà ta trông vẫn lành lặn bên ngoài, lại có thể gây nguy hiểm cho tính mạng. Do đó, tôi thường nhanh chóng vượt qua những nỗi buồn sầu.
Có tiếng gõ nhẹ. Tôi đi ra và mở cửa. Hasse đứng đó. Tôi đặt ngón tay lên môi và bước ra ngoài hành lang.
"Xin lỗi cậu," anh lắp bắp.
"Qua phòng tôi nhé," tôi nói và mở cửa phòng mình.
Hasse dừng lại ở ngạch cửa. Mặt anh teo tóp. Trắng như vôi. "Tôi chỉ muốn nói với cậu là không cần phải đi tìm nữa," anh nói, môi hầu như bất động.
"Được mà, mời anh vào," tôi nói. "Fraulein Hollmann đang ngủ, tôi có thì giờ."
Anh cầm trên tay một lá thư, trông anh như người bị trúng đạn nhưng cứ tưởng chỉ bị đánh mà thôi. "Cậu đọc đi, nếu cậu không ngại," anh nói, và đưa cho tôi lá thư.
"Anh uống cà phê chưa?" tôi hỏi.
Anh lắc đầu. "Đọc thư đi --"
Tôi ra khỏi phòng, yêu cầu Frida pha cà phê. Rồi tôi đọc thư. Thư của Frau Hasse, chỉ vỏn vẹn vài giòng. Thư báo cho anh biết là bà ta vẫn muốn hưởng thụ một chút gì của cuộc đời, cho nên sẽ không về nữa. Có một người hiểu bà ta nhiều hơn Hasse. Đừng nên làm điều gì cả, vô ích mà thôi; bà sẽ không trở lại trong bất cứ tình huống nào. Có lẽ như thế sẽ tốt hơn cho Hasse. Anh sẽ không phải lo lắng tiền lương thiếu đủ hay không. Bà ta đã đem theo vài món tư trang -- số còn lại, khi nào thuận tiện sẽ có người đến lấy.
Đó là một lá thư lời lẽ dứt khoát, lạnh nhạt như thư bàn chuyện làm ăn. Tôi gấp lá thư, trả lại Hasse. Anh nhìn tôi như thể mọi thứ đều phụ thuộc vào tôi.
"Tôi nên làm gì đây?" anh hỏi.
"Trước hết, uống cạn ly này rồi ăn một chút," tôi nói. "Chẳng ích gì nếu anh chạy đôn chạy đáo và hành hạ bản thân. Rồi ta sẽ suy nghĩ. Anh phải cố gắng giữ bình tĩnh, sau đó anh sẽ có quyết định đúng đắn nhất."
Anh ngoan ngoãn uống cạn ly. Tay anh run lẫy bẫy và anh không nuốt được một miếng thức ăn nào. "Tôi nên làm gì đây?"
"Chẳng làm gì," tôi nói. "Chờ thôi."
Anh làm một cử động.
"Vậy, anh muốn làm gì chứ?" tôi hỏi.
"Tôi không biết. Tôi không hiểu."
Tôi không nói. Rất khó nói gì với anh. Ta chỉ có thể an ủi; những việc còn lại, anh phải tự tìm tòi. Anh không yêu người đàn bà đó nữa, rõ ràng là thế-- nhưng anh đã quen sống với bà ta, và với một kế toán viên, thói quen có nhiều ý nghĩa còn hơn tình yêu.
Một lúc sau anh bắt đầu nói, rối rắm, lộn xộn, chúng tỏ anh đã xúc động biết bao. Rồi anh bắt đầu tự trách móc. Anh không đá động gì tới người vợ. Anh chỉ cố chứng minh rằng, tất cả tội lỗi là của anh.
"Hasse," tôi nói, "tất cả những gì anh nói đều vô lý. Trong những chuyện thế này, không ai có tội, cũng như không ai vô tội. Chị ấy bỏ anh, chứ anh có bỏ chị ấy đâu. Anh không cần tự oán trách."
"Ô, cần chứ," anh trả lời và nhìn đôi tay. "Tôi đã chẳng chu toàn."
"Cái gì?"
"Tôi chẳng chu toàn. Đáng trách, không chu toàn."
Tôi ngạc nhiên nhìn cái hình hài bé nhỏ tội nghiệp, ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành nhung đỏ.
"Hasse," tôi nói, khẽ khàng, "đó có thể là một lý do, nếu anh muốn, nhưng không phải là một lý do để phiền trách. Dù sao đi nữa, anh cũng đã chu cấp đầy đủ cho đến ngày hôm nay."
Anh lắc đầu quầy quậy. "Không, không, tôi đã làm cho nhà tôi phát điên vì nỗi sợ hãi bất tận của tôi trước viễn ảnh thất nghiệp. Và tôi chưa bao giờ chu cấp đầy đủ. Tôi đã cho cô ấy được cái gì? Không gì cả --"
Anh chìm lắng trong suy tư. Tôi đứng lên, lấy một chai cognac.
"Chúng ta uống với nhau nhé," tôi nói. "Đâu đã mất mát chi."
Anh ngẫng đầu.
"Đâu đã mất mát chi," tôi lập lại. "Chỉ mất mát nếu người ta chết."
Anh hấp tấp gật đầu và với tay đón ly rượu. Nhưng anh không uống mà đặt ly xuống bàn.
"Hôm qua, tôi được đề bạt lên chức thơ ký trưởng," anh nói nhẹ nhàng, "Kế toán trưởng kiêm thơ ký trưởng. Xếp báo cho tôi biết từ tối hôm qua. Tôi được thăng chức vì tôi đã làm việc quá giờ suốt mấy tháng nay. Họ sát nhập hai văn phòng. Người thư ký trưởng kia đã bị thôi việc. Tôi được lãnh thêm năm mươi marks." Anh nhìn tôi, tuyệt vọng. "Cậu có nghĩ là nhà tôi sẽ ở lại nếu biết tin này?"
"Không," tôi nói.
"Thêm năm mươi marks. Tôi có thể đưa số tiền ấy cho nhà tôi. Cô ấy có thể sắm sửa gì đó cho riêng mình. Tôi cũng có một ngàn hai trăm marks trong trương mục tiết kiệm. Dành dụm để làm gì đây? Tôi muốn để dành cho cô ấy, nhỡ khi có chuyện không may xảy ra với chúng tôi. Vậy mà bây giờ cô ấy lại bỏ đi, chỉ vì tôi quá tằn tiện."
Anh lại đăm đăm nhìn về trước. "Hasse," tôi nói, "tôi tin là chuyện ấy không ảnh hưởng như anh tưởng. Anh đừng nghĩ ngợi nhiều, chỉ thế thôi. Vài hôm nữa, anh sẽ bớt buồn. Khi ấy anh sẽ biết anh cần phải làm gì. Không chừng chị ấy sẽ trở về, tối nay hay sáng mai. Hẳn chị ấy cũng đang suy nghĩ nhiều như anh."
"Nhà tôi sẽ không bao giờ trở lại," anh trả lời.
"Làm sao anh biết."
"Giá như tôi có thể nói với cô ấy rằng tôi được lên lương và chúng tôi sẽ nghĩ hè và du lịch với tiền tiết kiệm --"
"Anh có thể nói với chị ấy được chứ. Làm sao chị ấy lại có thể đành đoạn không gặp anh một lần nữa."
Tôi ngạc nhiên vì dường như anh không nhận biết vai trò của người đàn ông kia trong tấn tuồng. Rõ ràng anh chưa đạt đến mức độ ấy, anh chỉ biết vợ anh bỏ đi -- những chuyện khác còn ẩn nấp sau một lớp sương mù. Tôi muốn nói với anh, trong một hai tuần nữa, không chừng anh lại vui hơn vì không còn vợ -- nhưng nếu bây giờ nói ra, khi anh đang đau đớn, tôi nghĩ, là tàn nhẫn một cách không cần thiết. Sự thật lúc nào cũng nghiệt ngã, làm sao vết thương lòng nào chịu được.
Tôi trò chuyện với anh một lúc -- chỉ một mình anh nói. Tôi không thể làm gì -- anh cứ quanh đi trở lại trong một vòng cùng quẫn, nhưng tôi có cảm giác anh đã bình tĩnh hơn một ít. Và anh uống một ly cognac. Rồi tôi nghe tiếng Pat gọi, từ phòng bên.
"Đến ngay," tôi nói và đứng dậy.
"Vâng," anh lập lại như một đứa bé ngoan và cũng đứng lên.
"Anh cứ ngồi đây, chừng một phút tôi sẽ trở lại."
"Tha thứ cho tôi --"
"Tôi sẽ trở lại tức thì," tôi nói và đi qua phòng Pat.
Nàng ngồi thẳng trên giường, tươi tỉnh và khỏe mạnh. "Em ngủ ngon quá, Robby. Đã trưa rồi sao anh?"
"Em ngủ đúng một tiếng đồng hồ," tôi nói và chìa đồng hồ tay cho nàng xem.
"Càng hay; chúng ta vẫn còn nhiều thì giờ với nhau. Em sẽ sửa soạn ngay."
"Tốt lắm. Mười phút nữa anh trở lại."
"Anh đang có khách?"
"Hasse," tôi nói. "Nhưng sắp xong."
Tôi trở lại, nhưng Hasse không còn ở đó. Tôi mở cửa phòng nhìn ra, hành lang cũng trống không. Tôi đến gõ cửa phòng anh. Anh không trả lời. Tôi mở cửa, và thấy anh đứng bên cạnh tủ quần áo. Vài ngăn kéo còn mở dở dang.
"Hasse," tôi nói, "uống một liều thuốc ngủ và lên giường nghĩ ngơi một chút. Anh đang xúc động mạnh."
Anh từ từ quay lại. "Luôn luôn cô độc mỗi đêm! Ngồi chờ mãi như tối hôm qua; cậu nghĩ xem."
Tôi nói rằng chuyện ấy sẽ sớm thay đổi, rằng có rất nhiều người cô độc về đêm. Anh trơ trơ, không trả lời. Tôi nhắc lại, anh nên đi ngủ, có thể câu chuyện sẽ chuyển biến tốt đẹp và vợ anh sẽ về trước khi trời tối. Anh gật đầu và chìa tay ra cho tôi bắt.
"Tôi sẽ ghé anh tối nay," tôi nói và bỏ đi. Tôi vui vì tôi thoát khỏi.
Một tờ báo mở ra trước mặt Pat. "Sáng nay, chúng ta có thể ghé viện bảo tàng, Robby," nàng đề nghị.
"Viện bảo tàng?" tôi hỏi.
"Vâng, đang triển lãm thảm Ba Tư. Có lẽ anh không thường ghé qua viện bảo tàng?"
"Không đời nào," tôi đáp. "Anh đến đó làm gì cơ chứ?"
"Đúng," nàng cười to.
"Nhưng, không thành vấn đề." tôi đứng lên. "Ngày mưa, ta có thể làm một chuyện có lợi cho kiến thức của ta."
Chúng tôi mặc áo và ra khỏi nhà. Trời thật dễ chịu. Hương của rừng và của sự ẩm ướt phảng phất trong không khí. Khi ngang quán The International, cửa mở, tôi thấy Rosa ngồi ngay quầy rượu. Vì là Chúa Nhật, trước mặt chị có tách sô cô la. Trên bàn đặt một gói nhỏ. Rõ ràng như thông lệ, chị sắp sửa đi thăm con. Đã lâu lắm tôi không ghé quán và tôi thấy lạ lùng sao, Rosa vẫn ngồi đó, điềm nhiên như tự thuở nào. Có quá nhiều thay đổi xảy đến với tôi, nên tôi tưởng ai cũng phải đổi khác như tôi.
Chúng tôi đến nơi. Tôi ngỡ chỉ có chúng tôi mà thôi, thế nhưng ngạc nhiên làm sao, lại rất đông người. Tôi hỏi ông gác cổng, có chuyện gì lạ hay không.
"Chẳng có gì," ông trả lời. "Những ngày vào cửa tự do, lúc nào cũng đông khách."
"Anh thấy không," Pat nói. "Nhiều người vẫn ưa thích những thứ ấy."
Ông gác cửa chỉnh lại cái mũ đội hơi lệch. "Không hẳn thế, cô ạ. Hầu hết họ bị thất nghiệp. Họ đến đây không phải vì nghệ thuật, mà vì không biết làm gì khác. Ít ra ở đây họ cũng có thể nhìn ngắm một món gì."
"Anh chịu cách giải thích này hơn," tôi nói.
"Chưa đâu," ông gác cửa nói. "Đến mùa đông, cô cậu ghé xem. Phòng nào cũng đầy nghẹt người. Vì có sưởi."
Chúng tôi vào phòng treo thảm. Đó là một phòng yên tĩnh, ở xa lối đi tấp nập. Qua những cửa sổ cao, ta có thể nhìn ra vườn, nơi có một cây ngô đồng tàn lá mênh mang. Cây vàng ươm, khiến ánh sáng trong phòng cũng nhuốm một màu vàng hiu hắt.
Những tấm thảm đẹp tuyệt. Có hai tấm từ thế kỷ mười sáu, dệt hình các con thú, một vài tấm dệt kiểu Ispahans, một số tấm bằng lụa Ba Lan, trông như sơn mài với viền xanh lục ngọc. Thời gian và mặt trời đã phủ lên chúng một nước sơn êm đềm, tương tự màu phấn tiên tuyệt vời trong cổ tích. Chúng đem đến cho căn phòng một vẻ cổ điển và hài hòa mà những bức tranh không thể. Cửa sổ với vòm lá ngô đồng mùa thu và bầu trời ngọc trai xám đàng sau, chan hòa như chính chúng cũng là những tấm thảm cổ.
Chúng tôi lưu lại nơi ấy một lúc rồi đi qua phòng khác. Trong thời gian ấy, lại có thêm nhiều khách, và rõ ràng là họ không thích hợp với nơi này. Gương mặt xanh xao, y phục sờn cũ, họ lang thang khắp nơi, tay chắp sau lưng, khá rụt rè, tầm mắt xa xôi như tìm kiếm một thứ gì khác hơn những bức tranh thời Phục Hưng và những bức tượng cẩm thạch cổ. Nhiều người ngồi lên các chiếc ghế đỏ rải rác khắp nơi. Họ có dáng điệu uể oãi, và sẵn sàng đứng dậy đi chỗ khác nếu có ai tiến tới ra lệnh. Ta có thể thấy trên mặt họ, cách suy nghĩ, thật không ngờ không cần trả xu nào mà vẫn được ngồi vào những chiếc ghế êm. Họ đã quen với ý niệm không có gì cho không.
Tất cả các phòng đều im lặng và dù đông người, hầu như không ai nói một câu nào; thế nhưng với tôi, dường như tôi đang chứng kiến một trận thư hùng -- cuộc tranh đấu thầm lặng của những người đã gục ngã nhưng vẫn không chịu đầu hàng. Họ bị rứt bỏ khỏi các lãnh vực của công việc, của nỗ lực và lý tưởng; giờ đây họ đến với những căn phòng lặng lẽ của Nghệ thuật để trốn tránh sự bại liệt và tuyệt vọng. Họ nghĩ đến bánh mì, lúc nào cũng vậy, luôn luôn nghĩ đến bánh mì và việc làm; họ tới đây để chạy trốn, trong vài tiếng đồng hồ, những nỗi niềm u ẩn -- và họ, những người đàn ông không còn mục đích, lưng còng, lếch thếch lê gót giữa những bức tượng bán thân La Mã sắc sảo và vẻ quyến rũ không nhạt phai của các nữ thần Hy Lạp trắng muột -- một tương phản choáng váng, một bức tranh u ám của nhân loại, trong một ngàn năm nay, đã có thể và không có thể đạt được -- đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật giá trị muôn đời, nhưng không đủ bánh mì cho từng người anh em.
Buổi chiều, chúng tôi xem phim. Khi ra về, trời đã trong. Da trời xanh nõn màu trái táo. Phố xá và các cửa hiệu đều lên đèn. Chúng tôi đi bộ rất chậm, vừa đi vừa ngắm hàng hóa chưng bày trong cửa kính.
Tôi ngừng trước ô kính sáng choang của một tiệm áo lông. Chiều đã lạnh và có nhiều áo lông cáo bạc và áo choàng mùa đông bày trong tủ. Tôi nhìn Pat; nàng vẫn mặc cái áo khoác lông ngắn và nói chung, phục sức quá mong manh.
"Nếu anh là nhân vật chánh trong phim," tôi nói, "anh sẽ vào tiệm, chọn cho em một cái áo choàng."
Nàng mỉm cười. "Vậy anh chọn áo nào?"
"Cái kia." Tôi chỉ vào cái áo có vẻ ấm nhất.
Nàng cười. "Anh thật có óc thẩm mỹ, Robby. Đó là một cái áo mink, lông chồn Canada, tuyệt đẹp."
"Em thích nó chứ?"
Nàng nhìn tôi. "Anh biết một cái áo khoác như thế giá bao nhiêu không, anh yêu?"
"Không," tôi nói, "và anh không cần biết. Anh nghĩ chẳng mấy lúc, anh sẽ có thể tặng em bất kỳ món nào anh thích. Tại sao chỉ có người khác mới làm được?"
Nàng nhìn tôi, thật gần. "Nhưng em không thích cái nào cả, Robby."
"Ô, em thích mà," tôi trả lời, "em sẽ có một cái. Đừng nói về chuyện ấy nữa. Ngày mai cửa hàng sẽ gởi đến chúng ta."
Nàng mỉm cười. "Cám ơn, anh yêu," và hôn tôi ngay giữa đường. "Và bây giờ tới phiên anh." Nàng dừng lại trước một tiệm trang phục đàn ông. "Những cái áo đuôi tôm kia! Anh cần chúng để tương xứng với áo khoác lông chồn của em. Và anh cần cái nón ống nữa. Không hiểu khi đội nó, anh sẽ trông ra sao nhỉ?"
"Giống thằng cha nạo ống khói." Tôi ngắm những chiếc áo đuôi tôm. Chúng bày trong một cửa kính lót nhung xám. Tôi nhìn cửa hiệu một lần nữa. Đó chính là cửa hàng mà mùa xuân qua, tôi đã mua một cái cà vạt, sau khi hẹn hò với nàng và say khướt. Bỗng nhiên, không hiểu lý do, tôi cảm thấy nghẹn ngào. Mùa xuân ấy -- tôi nào đã dám mơ mộng gì.
Tôi cầm bàn tay mảnh dẻ của Pat, và trong một thoáng, ấp nó lên má tôi. "Em cũng cần một món gì cho xứng hợp với nó," tôi nói; "chỉ áo lông chồn không thôi, sẽ giống như xe hơi thiếu máy. Hai hoặc ba cái áo dạ hội --"
"Áo dạ hội," nàng nhắc lại, đứng trước một cửa kính lớn, "áo dạ hội, phải đấy - -em không thể ăn mặc hoàn hảo nếu thiếu chúng."
Chúng tôi chọn ba cái áo tuyệt vời. Tôi thấy Pat thích thú với trò chơi này đến mực nào. Nàng tham dự hết mình, vì áo dạ hội là thứ nàng say mê hơn cả. Cùng một lúc, chúng tôi cũng chọn những phụ trang kèm theo, và nàng lại càng sinh động hơn. Mắt nàng long lanh. Tôi đứng bên cạnh, lắng nghe và cười phụ họa và nghĩ rằng, khốn khổ làm sao, khi ta yêu một người đàn bà mà ta lại nghèo xác nghèo xơ.
"Theo anh," cuối cùng tôi nói, trong niềm vui bồng bột đến tuyệt vọng, "nếu làm một việc gì, ta cần phải làm hết mình, em ạ." Tôi dẫn nàng đến trước một hiệu kim hoàn. "Kia kìa, một sợi dây đeo tay bằng lục ngọc. Thêm cặp nhẫn, và đôi hoa tai nữa cho đủ bộ. Đừng cãi anh. Lục ngọc là thứ đá quý thích hợp với em."
"Vậy thì, anh cần có cái đồng hồ bạch kim và cái khuy ngọc trai cài áo sơ mi kia."
"Và cho em, nguyên một cửa hàng. Nếu ít hơn, anh không bằng lòng đâu."
Nàng cười to và với một tiếng thở dài não ruột, dựa vào tôi. "Đủ rồi, anh yêu, đủ rồi. Bây giờ chúng ta chỉ cần mua vài ba cái rương và ghé một văn phòng du lịch, và chúng ta sẽ gói ghém hành lý và lên đường, xa thành phố này và mùa thu và những cơn mưa."
Vâng, tôi nghĩ; Chúa ơi, vâng, và rồi em sẽ khỏi bệnh. "Chúng ta đi đâu?" tôi hỏi. "Ai Cập? hay xa hơn nữa? Ấn Độ, hay Trung Hoa?"
"Về hướng mặt trời, anh yêu, đi bất cứ nơi nào, có mặt trời và miền Nam và thời tiết ấm áp. Đường phố với hàng cọ, đá, những ngôi nhà sơn trắng cạnh biển và cây lô hội... Nhưng có lẽ ở đó trời cũng mưa. Có lẽ nơi nào trời cũng mưa."
"Trong trường hợp ấy, chúng ta tiếp tục đi," tôi nói, "cho đến khi gặp một nơi không có mưa -- trong vùng nhiệt đới hay quần đảo Thái Bình Dương."
Chúng tôi dừng lại trước cửa kính của Công ty Du lịch Đường Biển Hamburg-Amerika. Giữa cửa sổ là hình mẫu một con tàu. Nó nhấp nhô trên những đợt sóng giấy bồi xanh thẳm và ngay sau nó là bức ảnh phóng to những ngôi nhà chọc trời của Manhattan. Quanh cửa sổ, treo nhiều bản đồ lớn, màu sắc diêm dúa, với những lộ trình tô đỏ.
"Chúng ta cũng sẽ đi Mỹ," Pat nói. "Đi Kentucky và Texas và New York và San Francisco và Hawaii. Và từ đó đi về Nam Mỹ. Bằng đường Mễ Tây Cơ và kênh đào Panama, tới Buenos Aires. Và từ đó trở về, qua Rio de Janeiro."
"Vâng --"
Nàng nhìn tôi, rạng ngời.
"Anh chưa bao giờ tới đó," tôi nói. "Anh giả vờ như anh đã đến những nơi ấy."
"Em biết," nàng trả lời.
"Em biết?"
"Dĩ nhiên là em biết, Robby. Em biết ngay lúc ấy."
"Lúc ấy anh hơi điên. Không tự tin và ngu muội và điên rồ. Đó là lý do tại sao anh lại khoác lác."
"Còn bây giờ?"
"Bây giờ, còn tệ hơn," tôi nói. "Em nhìn kìa," tôi chỉ con tàu trong cửa kính. "Thật đau lòng khi ta không thể viễn du trên con tàu ấy."
Nàng mỉm cười và quàng tay lên cổ tôi. "Ach, anh yêu, tại sao chúng ta lại không giàu có? Chúng ta có những ý tưởng thật kỳ thú để sử dụng đồng tiền. Nhiều người dư tiền lắm của, nhưng họ chẳng biết làm gì khác hơn là đi đi về về, từ văn phòng đến ngân hàng."
"Dĩ nhiên, chính vì thế mà họ giàu," tôi nói. "Nếu hai đứa mình có tiền, cũng chẳng kéo dài được lâu."
"Em cũng nghĩ vậy. Thể nào chúng ta cũng tiêu béng hết, bằng cách này hay cách khác."
"Tội nghiệp mấy người giàu," Pat nói. "Có lẽ chúng ta sung sướng hơn họ, hãy giả vờ như chúng ta có rất nhiều tiền nhưng đã mất sạch. Anh vừa phá sản tuần rồi và phải bán hết -- nhà của chúng ta, nữ trang của em và xe của anh. Anh thấy sao?"
"Hợp với thời điểm này lắm, ít ra là thế," tôi đáp.
Nàng cười to. "Vậy thì tiếp tục. Chúng ta, hai đứa tán gia bại sản đáng thương, đi về phòng trọ rẻ tiền của chúng ta và ôn lại những câu chuyện của thời vàng son."
"Ý kiến hay."
Chúng tôi thong thả đi trên những con đường càng lúc càng tối. Thêm nhiều ngọn đèn được thắp. Gần đến nghĩa trang, chúng tôi trông thấy một chiếc phi cơ, cửa sổ sáng, di chuyển ngang trời. Nó bay, đơn độc và xinh đẹp trên thiên đàng cô đơn, trong sáng, cao vút -- như một loài chim tuyệt diệu đến từ ước muốn trong chuyện thần tiên. Chúng tôi đứng lại, và trông theo cho đến khi nó biệt tăm.
Chúng tôi về đến nhà chưa đầy nửa giờ đã có tiếng gõ cửa phòng. Tôi nghĩ chắc lại là Hasse và tôi ra mở cửa. Nhưng đó là Frau Zalewski. Trông bà bấn loạn.
"Cháu ra đây, nhanh lên," bà thì thào.
"Có chuyện gì vậy bác?"
"Hasse."
Tôi nhìn bà.
Bà nhún vai. "Ông ấy khóa cửa và không trả lời."
"Chờ cháu một chút."
Tôi trở vào và bảo Pat hãy nghĩ ngơi một chốc; trong khi ấy, tôi có việc cần bàn thảo với Hasse.
"Được, Robby. Em cũng thấy hơi mệt."
Tôi theo sau Frau Zalewski trên hành lang. Trước phòng Hasse, toàn thể khách trọ đã đứng đó -- Erna Bonig tóc đỏ hoe trong chiếc kimono thêu rồng sặc sỡ; ông kế toán thích sưu tập tem trong cái áo choàng mặc ở nhà kiểu nhà binh viền dây biểu chương; Orlov, xanh xao và bình tĩnh, vừa từ một buổi khiêu vũ trở về; Georgie, rụt rè gõ cửa và khe khẻ gọi tên Hasse; cuối cùng là Frida, mắt nheo lại vì kích động, sợ hãi và tò mò.
"Cậu gọi cửa đã bao lâu rồi, Georgie?" tôi hỏi.
"Hơn mười lăm phút," Frida mặt đỏ lừ, đột ngột xen vào, "và ông ấy đang ở trong phòng, từ trưa hôm qua đến giờ, ông ấy chưa bước ra ngoài một lần, chỉ lòng vòng đi tới đi lui rồi im thin thít."
"Chìa khóa còn gắn trong ổ, mặt trong," Georgie nói. "Khóa trái."
Tôi nhìn Frau Zalewski. "Chúng ta phải nậy cho cái chìa ấy rớt ra. Bác có chìa khóa phụ không?"
"Tôi sẽ đem nguyên chùm lại," Frida nói, lúc nào cũng sẳn sàng giúp đỡ. "Không chừng sẽ có một chìa mở được."
Tôi lấy một cọng kẽm và dùng nó ngoáy cho chìa khóa nằm ngay ngắn trong ổ, rồi đẩy nó rơi xuống. Nó rớt xuống sàn nhà bên kia cánh cửa, đánh cạch một tiếng. Frida rú lên và lấy tay che mặt.
"Chị tránh ra, càng xa càng tốt," tôi nói với bà ta, và tra thử từng chìa một. Có một chìa vừa khít. Tôi xoay một vòng và đẩy cửa.
Căn phòng nửa sáng nửa tối và với cái nhìn ban đầu, ta không thấy gì. Hai cái giường trắng xám lờ mờ, vài cái ghế trống trơn và cửa tủ khép kín.
"Ông ấy kìa!" Frida, lại xấn tới, rít qua vai tôi. Hơi thở nặng mùi hành phà nóng hổi lên má tôi. "Đàng sau đó, ở cửa sổ."
"Không," Orlow nói, ông vừa phóng tới mấy bước, đã quay trở lại. Ông va vào mình tôi, với lấy tay đấm và khép cửa lại. Rồi ông quay qua những người khác. "Các ông bà giải tán đi. Có lẽ tốt nhất là không nên xem."
Ông nói rất chậm bắng thứ tiếng Đức đặt sệt âm sắc Nga, và đứng ở chỗ đối diện cửa phòng.
"Chúa ôi!" Frau Zalewski lập bập kêu lên, và lui lại. Erna Bornig cũng lùi lại vài bước. Chỉ có Frida cố xô tới và nắm tay đấm cửa. Orlow đẩy bà ta ra. "Tốt nhất đừng nhìn," ông nhắc lại.
"Này ông!" người kế toán bỗng khịt mủi, bước tới. "Thật quá đáng! Một người ngoại quốc."
Orlow nhìn ông ta, không lay chuyển. "Người ngoại quốc? " ông nói. "Không ăn nhập gì tới chuyện này. Không gây ra --"
"Chết rồi, hả?" Frida rống lên.
"Frau Zalewski," tôi nói. "Tôi cũng đồng ý rằng tốt nhất, chỉ có bà, và có lẽ Orlow và tôi là nên ở lại."
"Goi bác sĩ ngay," Orlow nói.
Georgie đã nhắc ống nói. Toàn bộ sự việc chỉ kéo dài trong năm giây. "Tôi cứ ở lại," ông kế toán, mặt đỏ tím như củ dền nói to. "Với tư cách một công dân Đức, tôi có quyền --"
Orlow nhún vai và mở cửa. Rồi ông bật đèn. Hai người đàn bà thét lên, và lùi lại. Với gương mặt bầm tím, cái lưỡi đen thè giữa hai hàm răng, Hasse treo tòng teng ở cửa sổ.
"Cắt dây hạ ông ấy xuống," tôi gào lên.
"Vô ích," Orlow nói, từ tốn, cay nghiệt và đau đớn. "Tôi biết rõ -- gương mặt ấy -- đã chết, mấy tiếng rồi --"
"Nhưng ít ra chúng ta cũng phải cố --"
"Không nên. Để cảnh sát tới đã."
Vào lúc ấy chuông cửa reo lên. Vị bác sĩ nhà bên cạnh đã tới. Ông nhìn qua cái cơ thể gầy gò, suy nhược. "Không còn cứu vãn," ông nói. "Tuy thế, chúng ta cũng phải làm hô hấp nhân tạo. Gọi điện cho cảnh sát liền, và cho tôi con dao."
Hasse đã treo cổ với một sợi thắt lưng to dầy bằng lụa hồng. Thắt lưng của cái áo choàng trong nhà của vợ anh, và anh đã cột rất khéo vào cái móc trên cửa sổ. Xà phòng được xát vào. Hẳn anh đã đứng trên bệ cửa rồi buông mình xuống. Hai bàn tay nắm chặt và gương mặt anh trông thật kinh khiếp. Trong giây phút ấy, kỳ lạ làm sao, nhưng tôi lại nhận thấy rằng anh đã thay một bộ y phục mới, khác với bộ sáng nay. Đó là bộ đồ lớn lịch sự nhất của anh, bằng len xe màu xanh đậm mà tôi đã quen mắt. Anh cũng cạo râu gọn gàng, và mặc áo lót sạch. Trên bàn, xếp theo thứ tự rất mẫu mực, là thẻ căn cước, sổ chi phiểu, bốn tờ giấy mười marks và mấy đồng kim loại bạc. Hai lá thư nằm song song -- một dành cho vợ anh và một, cho cảnh sát. Kế đó, là cái hộp đựng thuốc lá bằng bạc và chiếc nhẫn cưới.
Hẳn anh đã cân nhắc kỹ và xếp đặt mọi thứ thật quy cũ; căn phòng ngăn nắp đến độ hoàn hảo, và sau khi xem xét cẩn thận, chúng tôi tìm thấy ở bồn rửa mặt một ít tiền và một mảnh giấy trên đó có ghi hàng chữ: "Tiền thuê nhà còn lại của tháng này." Anh đã làm thêm một việc, như muốn chứng minh rằng tiền thuê nhà chẳng liên can chi đến cái chết của mình.
Chuông cửa reo và hai viên cảnh sát mặc thường phục đi vào. Bác sĩ, trong lúc ấy đã cắt dây hạ thi thể xuống, đứng lên. "Chết," ông nói; "không còn nghi ngờ gì nữa, tự sát."
Người cảnh sát không trả lời. Sau khi đóng cửa phòng, họ khám xét khắp nơi. Họ lấy mấy bức thư trong ngăn kéo và so sánh nét chữ với hai lá thư trên bàn. Người cảnh sát trẻ gật gù. "Có ai biết lý do không?"
Tôi kể lại những gì tôi biết. Ông ta gật đầu và ghi địa chỉ của tôi.
"Chúng ta có thể mang ông ấy đi được chưa?" bác sĩ hỏi.
"Tôi đã gọi xe cứu thương từ bệnh xá," người cảnh sát trẻ nói. "Xe sẽ tới trong vài phút nữa."
Chúng tôi chờ. Cả phòng im lặng. Bác sĩ quỳ gối trên sàn, cạnh Hasse. Ông đã cởi hết áo của anh và tuần tự dùng khăn bông chà sát lên ngực, và cố gắng hồi sinh. Chỉ còn nghe tiếng rít như tiếng huýt sáo và tiếng òng ọc của không khí thổi vào và hút ra từ hai lá phổi chết.
"Cái chết thứ mười hai trong tuần," người cảnh sát trẻ nói.
"Cùng một nguyên nhân?" tôi hỏi.
"Không. Hầu hết là do nạn thất nghiệp. Có hai gia đình, một gia đình với ba đứa con. Hơi đốt, dĩ nhiên. Chết tập thể luôn luôn bằng hơi đốt."
Các y công khiêng cáng vào. Frida thừa dịp lẻn theo. Như thể thèm thuồng, bà ta nhìn chòng chọc vào thi thể đáng thương của Hasse. Bà ta có những đếm đỏ trên má, và rịn mồ hôi. "Nhà chị muốn gì ?" viên cảnh sát lớn tuổi cộc cằn hỏi.
Bà giật nẩy mình. "Tôi cần phải đưa lời khai," bà lắp bắp.
"Đi ra," người sĩ quan khịt mủi.
Các y công phủ một tấm chăn lên mình Hasse và mang anh đi. Rồi hai người cảnh sát cũng bỏ đi. Họ đem theo tất cả giấy tờ. "Ông ấy có để lại tiền làm đám tang," người cảnh sát trẻ nói. "Chúng tôi sẽ chuyển tiền qua bộ phận quản lý. Nếu vợ ông ấy về đây, xin vui lòng bảo bà ấy đến ty cảnh sát. Ông ấy có để tiền lại cho bà ta. Trong lúc này, có thể nào giữ y các thứ đồ đạc còn lại không?"
Frau Zalewski gật đầu. "Sẽ không bao giờ cho thuê phòng ấy nữa."
"Rất tốt."
Hai viên cảnh sát chào từ giã rồi đi. Chúng tôi cũng đi theo. Orlov khóa cửa, đưa chìa khóa cho Frau Zalewski. "Ta cũng cần giữ chuyện này càng kín càng tốt," tôi nói.
"Bác cũng nghĩ thế," Frau Zalewski nói.
"Đặc biệt là chị, Frida," tôi nói thêm.
Frida như vừa tỉnh dậy sau cơn lơ đãng. Mắt sáng loang loáng. Bà ta không trả lời.
"Nếu chị tiết lộ dù chỉ một tiếng với Fraulein Hollmann," tôi nói, "xin Chúa cứu chị."
"Thế đàng ấy tưởng tôi không biết gì?" bà ta phun phì phì. "Cô bé đáng thương ốm nặng quá."
Mắt bà ta nháng lửa. Tôi cố dằn lòng để không vả bộp vào mặt bà ta.
"Tội nghiệp Hasse," Frau Zalewski nói.
Hàng lang tối om.
"Ông đã ăn nói khá lỗ mãng với Bá tước Orlow," tôi nói với người kế toán. "Ông có muốn xin lỗi chăng?"
Ông già lườm lườm nhìn tôi. Đoạn ông ta đùng đùng nói, "Người Đức không bao giờ xin lỗi ai. Nhất là với tụi Á Châu," rồi bỏ vào phòng, đóng sầm cửa.
"Chuyện gì đã xảy ra với ông già sưu tập tem của chúng ta vậy?" tôi lạ lùng hỏi. "Tại sao thế, trước đây ông ấy hiền như cừu non!"
"Mấy tháng nay, ông ấy thường tham dự các buổi họp chính trị," George từ trong bóng tối, trả lời.
"Ach, thì ra thế!"
Orlow và Erna Bonig đã bỏ đi. Frau Zalewski thút thít khóc.
"Bác đừng quá đau lòng," tôi nói. "Không thể nào cứu vãn."
"Thật kinh khủng," bà nức nở. "Bác phải dọn nhà. Bác sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng ấy."
"Không sao đâu, rồi bác sẽ chịu được," tôi nói. "Cháu đã trông thấy một lúc hằng trăm người chết thảm thiết như thế. Lính Anh bị giết bằng hơi ngạt. Rồi cháu cũng quen."
Tôi bắt tay Georg và trở về phòng. Phòng tối đen. Một cách vô thức, tôi liếc mắt nhìn ra cửa sổ trước khi bật đèn. Rồi tôi nghe ngóng phòng Pat. Nàng vẫn ngủ. Tôi đến tủ, lấy chai cognac và rót cho mình một ly. Rượu ngon, và có được rượu để uống là tốt. Tôi đặt chai rượu lên bàn. Lần cuối cùng, chai rượu này đã rót mời Hasse. Tôi ôn lại chuyện cũ, và nghĩ rằng nếu tôi đừng để anh một mình, có lẽ sự tình đã tốt đẹp hơn. Tôi cảm thấy buồn chán, nhưng tôi không thể trách móc mình. Tôi đã làm nhiều chuyện mà tôi biết rằng, một là tất cả những gì ta làm đều là lý do để bị khiển trách, hai là chẳng cần lý do nào cả. Hasse đã gặp vận xui vì chuyện ấy xảy ra với anh trong ngày Chúa Nhật. Nếu là ngày thường, có lẽ anh phải đến văn phòng làm việc và có lẽ sẽ vượt qua.
Tôi uống một ly nữa. Không ích lợi gì nghĩ ngợi mãi đến chuyện ấy. Ai biết được sẽ không có gì xảy ra cho bản thân hắn? Không ai biết, nhưng người mà hắn đang thương hại, biết đâu chẳng có một ngày sẽ được xem là may mắn.
Tôi nghe Pat cựa mình, và đi qua phòng nàng. Nàng ngước mắt nhìn tôi. "Em thật hết thuốc chữa, Robby," nàng nói. "Em lại ngủ mê man."
"Như vậy càng tốt chứ sao," tôi trả lời.
"Không." Nàng chống tay chỗi dậy. "Em không muốn ngủ nhiều đến thế."
"Sao lại không? Có những lúc anh muốn được ngủ suốt năm mươi năm."
"Nhưng anh không muốn già thêm năm mươi tuổi khi tỉnh dậy, phải không?"
"Anh không biết. Chùng nào xảy ra rồi mới biết."
"Anh đang buồn phải không?" nàng hỏi.
"Không," tôi nói. "Ngược lại là đàng khác. Anh vừa quyết định, mình sẽ thay y phục, ra phố và thưởng thức một bửa ăn ngon. Tất cả những món mà em thích nhất. Và chúng ta sẽ uống thật say."
"Được lắm," nàng nói. "Nhưng chuyện ấy có nằm trong kế hoạch phá sản của chúng ta không, hở anh?"
"Có," tôi nói, "hậu quả trực tiếp."
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:54:11 GMT -6
Chương 21
Giữa tháng Mười, Jaffé muốn gặp tôi. Lúc đó đã mười giờ, nhưng thời tiết quá u ám nên đèn vẫn thắp bên trong y viện. Nó pha trộn với nét âm u mù sương bên ngoài thành một thứ ánh sáng bệnh hoạn, nhợt nhạt.
Jaffé ngồi một mình trong phòng khám bệnh rộng. Khi tôi bước vào, ông ngẩng cái đầu hói, bóng. Ông buồn bả chỉ tay về khuôn cửa sổ lớn, nơi mưa tạt xối xả. "Cậu nghĩ sao về thứ thời tiết chết tiệt này?"
Tôi nhún vai. "Hãy hy vọng nó sẽ sớm chấm dứt."
"Nó sẽ không."
Ông nhìn tôi và chẳng nói gì. Rồi nhặt cây viết chì trên bàn, ngắm nghía, gõ gõ, đoạn vứt qua một bên.
"Tôi biết giáo sư mời tôi đến để làm gì," tôi nói.
Jaffé lúng búng trong họng một câu gì đó.
Tôi chờ một chút. Rồi tôi nói: "Tôi đoán là, Pat phải lên đường ngay --"
"Vâng."
Jaffé bồn chồn nhìn tới trước. "Tôi đã ước tính vào cuối tháng Mười. Nhưng với thời tiết này --" ông lại với tay cầm lấy cây bút chì bạc.
Gió lại đẩy một loạt nước mưa đánh lộp bộp vào cửa sổ. Như một tràng liên thanh nổ từ xa. "Theo giáo sư, khi nào cô ấy nên lên đường?"
Ông ngước mắt nhìn thẳng vào mặt tôi.
"Ngày mai," ông nói.
Trong một giây, tôi có cảm giác như mặt đất sụp lún dưới chân. Không khí quánh như bông gòn, kẹt dính trong buồng phổi. Rồi cảm giác ấy qua đi, và tôi lấy hết sức bình tĩnh để hỏi, --nhưng tiếng nói của tôi như tiếng của một người khác vọng lại từ một nơi xa. "Tình thế vừa thình lình trở xấu hay sao ạ?"
Jaffé lắc đầu quầy quậy và đứng lên. "Nếu tình thế thay đổi đột ngột, cô ấy không thể nào đi xa," ông nói, một cách thiếu thân thiện. "Khá hơn, chỉ thế thôi. Với thời tiết này, mỗi ngày càng thêm nguy hiểm. Cảm cúm và nhiều thứ khác."
Ông cầm mấy lá thư trên bàn lên. "Tôi đã sắp xếp. Cậu chỉ cần đi. Tôi quen biết với bác sĩ giám đốc của dưỡng đường từ thời sinh viên. Ông ấy rất giỏi. Tôi đã cho ông ấy biết mọi chi tiết."
Ông trao những lá thư cho tôi. Tôi đón nhận, nhưng không cất vào túi. Ông nhìn tôi, rồi đi đến trước mặt tôi, đặt tay lên cánh tay tôi. Nhẹ như một cánh chim; gần như tôi không cảm thấy gì. "Khó lắm," ông dịu dàng nói, giọng thay đổi. "Tôi biết. Vì thế tôi cứ trì hoãn mãi cho đến khi không thể trì hoãn được nữa."
"Có khó khăn gì đâu --" tôi trả lời.
Ông khoát tay ra hiệu. "Đừng nói với tôi là --"
"Không," tôi nói. "Ý của tôi không phải như thế. Tôi chỉ muốn biết khi nào cô ấy sẽ trở lại?"
Jaffé im lặng một thoáng. Đôi mắt sậm màu, dài hẹp của ông loang loáng dưới ánh đèn buồn, vàng. "Cậu muốn biết gì khi hỏi thế?" Mãi một lúc sau ông mới nói.
"Bởi nếu không, thì cô ấy đừng đi, có lẽ lại tốt hơn," tôi trả lời.
Ông ngửng lên nhìn tôi thật nhanh. "Cậu vừa nói gì thế?"
"Nếu không, thà cô ấy đừng đi, có khi lại tốt hơn."
Ông nhìn tôi chầm chầm. "Cậu có biết câu ấy có nghĩa gì không?" ông hỏi tôi, nhẹ nhàng nhưng đanh thép.
"Có ạ," tôi nói. "Có nghĩa là có lẽ cô ấy sẽ không phải chết trong cô đơn. Và tôi cũng hiểu như vậy."
Jaffé so đôi vai như thể rùng mình. Rồi ông đi chầm chậm đến cửa sổ và nhìn ra ngoài trời mưa. Khi quay lại, mặt của ông cứng như một lớp mặt nạ. Ông dừng lại trước mặt tôi. "Cậu được bao nhiêu tuổi?" ông hỏi.
"Ba mươi," tôi trả lời. Tôi không hiểu ông đang nhắm vào điều gì.
"Ba mươi tuổi," ông lập lại, nhấn mạnh như thể đang nói chuyện với chính mình và không hiểu tôi nói gì. "Ba mươi; trời ơi!" Ông đến cạnh bàn viết và đứng lại, nhỏ bé và lơ đãng kỳ lạ, lạc lõng bên cái bàn viết khổng lồ trống vắng. "Tôi sắp sửa được sáu mươi tuổi, hiện nay," ông nói, không nhìn tôi; "nhưng tôi không thể làm như thế. Tôi vẫn sẽ cố gắng bằng mọi cách; vẫn cố gắng, ngay cả khi tôi biết chắc là vô vọng."
Tôi không nói gì. Jaffé đứng đó như thể ông đã quên bẳng tất cả. Rồi ông làm một cử động và vẻ mặt ấy biến mất. Ông mỉm cười. "Tôi nhất định tin rằng cô ấy sẽ khỏe mạnh suốt mùa đông."
"Chỉ mùa đông thôi sao?" tôi hỏi.
"Tôi hy vọng đến khi ấy, vào mùa xuân cô ấy có thể quay lại."
"Hy vọng," tôi nói. "Chữ đó có nghĩa gì chứ?"
"Mọi thứ, Jaffé trả lời. "Tất cả mọi thứ. Hiện giờ tôi không thể nói gì thêm. Mọi thứ còn lại đều có khả năng xảy ra. Ta phải chờ xem tiến triển ở trên ấy. Nhưng tôi tin chắc là cô ấy sẽ có thể trở lại đây vào mùa xuân."
"Nhất định."
"Vâng." Ông đi vòng quanh bàn viết và dùng chân đá mạnh một ngăn kéo để đóng lại, dữ dội đến nổi những cái ly trên bàn kêu rổn rảng. "Khốn nạn thật, trời ạ, tôi cũng đau lòng lắm khi cô ấy phải đi xa!" ông lẩm bẩm.
Người y tá bước vào. Jaffé vẫy tay đuổi bà ấy đi. Nhưng bà ta vẫn đứng đó, ngốc nghếch, lỳ lợm, với gương mặt của một con bulldog dưới vầng tóc bạc.
"Một lát nữa," Jaffé gắt lên. "Một lát nữa hãy vào."
Bà y tá cau có quay đi. Khi ra cửa, bà với tay tắt đèn. Trong phòng, ngày bỗng nhiên thành xám và trắng đục như sữa. Gương mặt Jaffé đột ngột nhợt nhạt. "Mụ phù thủy," ông nói. "Suốt hai mươi năm, tôi đã có ý định tống khứ bà ấy. Thế nhưng bà ấy quá giỏi, không đuổi được." Rồi ông quay sang tôi. "Sao rồi?"
"Chúng tôi sẽ lên đường tối nay," tôi nói.
"Tối nay?"
"Vâng, nếu cần, chuyện gì làm được ngày hôm nay vẫn tốt hơn ngày mai. Tôi sẽ đưa cô ấy đi. Tôi có thể nghĩ phép vài hôm."
Ông gật đầu và bắt tay tôi.
Tôi đi. Từ đó đến cửa, dường như quá xa.
Ra đến ngoài, tôi đứng lại. Tôi nhận thấy những lá thư vẫn còn nằm trên tay. Mưa tuôn nặng hạt trên những tờ giấy. Tôi lau bớt nước và cất chúng vào túi áo trong, trước ngực. Rồi tôi nhìn quanh. Một chiếc xe buýt vừa lái tới trước cửa. Xe đầy người và họ đổ xô xuống. Vài cô gái mặc áo mưa cao su đen bóng, cười nói với người gác cửa. Anh ta còn trẻ, hàm răng trắng lóa trên gương mặt nâu hồng. Không thể, tôi nghĩ, không thể. Cuộc đời vui tươi quá, thế mà Pat phải ra đi!
Xe buýt kêu leng keng rồi lái đi. Bánh xe bắn tung tóe nước lên lối đi. Tôi tiếp tục bước, để báo cho Koster và để mua vé tàu.
Tôi về nhà lúc trưa. Tôi đã chuẩn bị mọi thứ, đã đánh điện tín đến dưỡng đường. "Pat," tôi nói, vẫn đứng ở cửa, "em có thể chuẩn bị hành lý trước khi trời tối không?"
"Em phải đi ?"
"Vâng," tôi nói. "Vâng, Pat."
"Một mình?"
"Không. Chúng ta cùng đi. Anh đưa em đi."
Màu hồng trở lại trên mặt nàng. "Vậy khi nào em phải chuẩn bị xong?" nàng hỏi.
"Tối nay xe lửa khởi hành lúc mười giờ."
"Và anh lại sắp sửa đi nữa? "
"Không. Anh ở đây đến khi ta lên đường."
Nàng thở một hơi dài. "Vậy đơn giản lắm, Robby," nàng nói. "Chúng ta nên bắt đầu từ lúc này, anh nhé?"
"Chúng ta vẫn còn thừa thì giờ."
"Chẳng thà em đi ngay. Cho xong."
"Đúng."
Tôi nhanh chóng xếp vào va li những vật dụng cần dùng và tôi xong việc trong nửa giờ. Rồi tôi ghé qua phòng Frau Zalewski và báo cho bà ấy biết chúng tôi sẽ lên đường tối nay. Tôi trả tiền thuê phòng đến tận mùng một tháng Mười Một, nhỡ như không có ai khác thuê. Bà muốn kéo dài câu chuyện, nhưng tôi lẹ làng đi về phòng mình.
Pat quỳ trước cái rương đựng quần áo của nàng. Áo đầm treo quanh, trên giường là áo lót và nàng đang xếp giày vào rương. Tôi nhớ lại lúc mới dọn vào phòng này, nàng cũng quỳ in hệt như thế, và cũng lấy vật dụng từ trong rương ra, và tôi có cảm giác như thể chuyện ấy đã xảy ra ở một thời gian vô tận trong quá khứ, nhưng lại cũng như vừa mới xảy ra hôm qua....
Nàng nhìn lên.
"Em mang theo cái áo dạ hội bạc?" tôi hỏi.
Nàng gật đầu. "Chúng ta làm gì với những thứ còn lại, Robby? Với bàn ghế?"
"Anh đã nói chuyện với Frau Zalewski. Anh sẽ dọn càng nhiều càng tốt vào phòng anh. Còn lại bao nhiêu, chúng ta sẽ nhờ một hảng dọn nhà tồn trữ. Khi nào em trở lại, mình sẽ lấy về."
"Khi em trở lại," nàng nói.
"Vâng," tôi đáp, "vào mùa xuân, khi em trở lại, da rám nắng."
Tôi giúp nàng đóng gói, và đến chiều, khi trời sụp tối, chúng tôi hoàn tất. Lạ lùng thay --- đồ đạc trong phòng vẫn còn nguyên chỗ cũ, chỉ có tủ áo và các ngăn kéo trống trơn, thế nhưng căn phòng đột nhiên trở thành trần trụi và buồn thảm.
Pat ngồi trên giường. Nàng có vẻ mệt. "Anh vặn đèn lên nhé?" tôi hỏi.
Nàng lắc đầu. "Cứ để như thế một lát."
Tôi ngồi cạnh nàng. "Em muốn hút một điếu không?" tôi hỏi.
"Không, Robby. Chỉ ngồi một lát như thế này thôi."
Tôi đứng lên và đến bên cửa sổ. Bên ngoài, những ngọn đèn đường lập lòe trong mưa. Dưới đường, Rosa chầm chậm đi qua. Đôi ủng dài của chị bóng lộn. Chị cắp một gói dưới nách và hướng về quán The International. Rõ ràng chị mang theo giỏ kim len, để đan lát cho con. Fritzi và Marian theo sau, đều vận áo mưa trắng, mới, ôm sát, và tới lượt Mimi, lết thếch lê gót theo, mệt mỏi.
Tôi quay lại. Bây giờ phòng đã tối đen khiến tôi không thể nhìn thấy Pat nữa. Tôi chỉ còn nghe hơi thở của nàng. Chầm chậm và ảm đạm, đàng sau những ngọn cây bên nghĩa trang, các bảng đèn quảng cáo dâng cao. Những chữ đỏ của quảng cáo thuốc lá nằm trên mái nhà như một thứ trang trí vui tươi, những vòng tròn xanh lơ và xanh lục ngọc của các loại rượu vang bắt đầu phun tỏa, và đường viền tươi sáng của bảng hiệu giặt ủi cũng được thắp lên. Chúng toát ra một thứ ánh sáng êm dịu, mơ màng, xuyên qua cửa sổ, hắt lên vách tường và khăn phủ giường. Chúng di chuyển tới lui, và căn phòng bỗng dưng biến thành một cái chuông thợ lặn lạc loài dưới đáy đại dương, chung quanh đó những đợt sóng mưa xô đẩy vào, và từ một nơi xa xôi, một chút óng ánh của thế gian vui nhộn xuyên thấu qua.
Tám giờ tối. Bên ngoài có tiếng kèn xe kêu tin tin. "Gottfried lái tắc xi đến," tôi nói. "Anh ấy đón chúng ta đi ăn."
Tôi đứng dậy, đến cửa sổ và nói vọng xuống là chúng tôi sắp sửa ra. Rồi tôi bật cây đèn pin nhỏ và đi vào phòng tôi. Thật vô cùng kỳ lạ. Tôi vớ chai rum và nốc cạn một ly. Rồi tôi ngồi phịch vào ghế bành và ngó trừng trừng xuống thảm. Một lúc sau tôi đứng dậy và đến bồn rửa mặt để chải tóc. Tôi quên tôi đang làm gì, vì tôi chợt thấy gương mặt tôi hiện ra trong gương. Lạnh lùng và tò mò, tôi nhìn nó. Tôi nhíu môi và mỉm cười với nó. Nó mỉm cười đáp lại, căng thẳng và nhợt nhạt. "Mày," tôi nói, không phát ra tiếng. Rồi tôi trở lại với Pat.
"Chúng ta đi chứ, ông cụ non?" tôi hỏi.
"Vâng," nàng nói; "nhưng em muốn qua phòng anh một lần nữa."
"Sao thế?" tôi trả lời. "Cái phòng nhếch nhác --"
"Anh đứng đây," nàng nói. "Em sẽ trở lại tức thì."
Tôi chờ một chút, rồi đi theo. Nàng đứng giữa phòng và hơi giật mình khi bắt gặp tôi. Tôi chưa bao giờ trông thấy nàng như thế. Chìm lắng, mất hút. Chỉ một giây thôi; rồi nàng lại mỉm cười.
"Nào," nàng nói. "Chúng mình đi."
Ở bếp, Frau Zalewski đang đợi. Mái tóc bạc dợn sóng và bà cài chiếc kim hoa với tấm ảnh kỷ niệm của ông Zalewski quá cố trên chiếc áo lụa đen. "Coi chừng đấy," tôi nói khẻ vào tai Pat, "bà ấy sẽ ôm hôn em."
Chưa chi Pat đã biến mất trong bộ ngực đồ sộ. Gương mặt to lớn trên đầu Pat nhăn nhúm. Chỉ vài giây Pat sẽ ngập lụt. Khi Frau Zalewski khóc, mắt của bà lệ chảy tong tong như bình thông nhau dưới áp suất.
"Xin tha lỗi," tôi nói, "chúng cháu phải đi gấp. Sắp đến giờ."
"Đến giờ?" Frau Zalewski quan sát tôi với cái nhìn hủy diệt. "Còn hai giờ nữa tàu mới chạy. Trong khi ấy, bác đoán là cháu sẽ chuốc cho cô bé say mèm."
Pat phải phì cười. "Không đâu, Frau Zalewski. Chúng cháu chỉ muốn từ giã các bạn khác mà thôi."
Mẹ bề trên Zalewski lắc đầu, nghi ngờ. "Cháu nhìn thấy ở chàng trai này một cái chậu vàng ròng, Fraulein Hollmann. Nhưng giỏi lắm cậu ấy chỉ là một chai rượu màu vàng mà thôi."
"Một hình ảnh đẹp," tôi nói.
"Cháu ơi --" Frau Zalewski một lần nữa lại để cho cảm xúc trào dâng. "Sớm trở về đây nhé. Phòng của cháu luôn luôn dành riêng cho cháu. Và nếu Kaiser có ở đó đi nữa, khi cháu về, ông ấy cũng phải dọn ra."
"Cảm ơn bác, Frau Zalewski," Pat nói. "Cháu cảm ơn bác về tất cả mọi thứ. Chuyện bói bài nữa. Cháu sẽ nhớ tất cả."
"Được rồi. Giữ gìn sức khỏe và chóng bình phục nhé."
"Vâng ạ," Pat nói. "Cháu sẽ cố. Au revoir, Frau Zalewski. Au revoir, Frida."
Chúng tôi đi. Cửa hành lang đóng sập lại, sau lưng chúng tôi. Cầu thang tối mờ; một vài bóng đèn đã hỏng. Pat im lặng khi bước xuống thang, êm ái và nhẹ nhàng. Tôi có cảm giác như một đợt nghĩ phép vừa kết thúc và khi trời rạng đông chúng tôi đi ra trạm xe lửa, trở về tiền tuyến.
Lenz mở cửa xe tắc xi. "Coi chừng," anh nói.
Xe đầy hoa hồng. Hai bó khổng lồ hồng trắng và hồng nhung nằm ở băng sau. Tôi lập tức nhận ra nguồn gốc của chúng -- vườn hoa giáo đường. "Đợt hoa cuối," Gottfried nói, hài lòng với bản thân. "Cũng gặp môt ít phiền toái. Phải cãi cọ hơi lâu với một vị linh mục."
"Có phải ngài là người có đôi mắt trong vắt, xanh lơ và trẻ thơ?" tôi hỏi.
"À há, cậu cũng vậy!" Gottfried đáp. "Vậy cậu chính là người mà ngài nói đến. Ngài đã thất vọng não nề khi biết mục đích của sự chiêm bái những Chặng Đàng Thánh Giá. Ngài cứ ngỡ lòng sùng đạo của nam tín đồ đang trên đà phát triển."
"Thế ngài cho phép cậu ra về với những bông hoa?" tôi hỏi.
"Ngài bị tớ thuyết phục. Cuối cùng, chính ngài đã giúp tớ hái chúng." Gottfried chun mủi.
Pat cười to. "Thật vậy sao?"
Gottfried nhe răng cười. "Dĩ nhiên. Thật tuyệt khi ta thấy dưới ánh hoàng hôn, đấng thiêng liêng nhảy loi choi, với lên những cành cao nhất. Ngài đã phát khởi một tinh thần thể thao. Ngài bảo ngài là một cầu thủ banh cà na có hạng ở đại học. Đúng quá, tớ nghĩ thế."
"Cậu đã xui giục một linh mục ăn trộm," tôi nói. "Cậu sẽ bị đọa ở luyện ngục vài trăm năm. Mà này Otto đâu rồi?"
"Đang ở quán Alfons. Chúng ta ăn tối ở đó, phải không?"
"Vâng, dĩ nhiên rồi," Pat nói.
"Đúng, chúng ta đi thôi."
Alfons chờ chúng tôi, trong bộ y phục trịnh trọng, quần kẻ sọc, áo đuôi dài và cà vạt xám bạc.
"Sắp dự tiệc cưới hay sao?" Lenz hỏi.
"Không, nhưng tớ biết ăn mặc chỉnh tề," Alfons nói, và hôn tay Pat. Đường may của cái áo đuôi dài chật nít của anh kêu răng rắc, những bắp thịt vạm vỡ căng phồng bên dưới.
"Nhanh lên, anh có rượu ngon không?" Lenz quẹt tay ngang mắt như vừa trông thấy ma.
Alfons ưởn ngực và đường bệ ngoắc Hans, người bồi bàn đang bê một khay đầy ắp ly. "Cậu muốn nói sao thì nói, Gottfried, kummel vẫn là thứ rượu khai vị hạng nhất."
"Vodka chính hiệu mới ngon nhất." Lenz cãi.
"Cô nương," Alfons quay sang Pat, "chúng tôi đã tranh cãi về chuyện ấy từ năm 1916. Khởi sự tại Verdun, và những chàng trai trẻ vẫn không chịu hiểu. Tuy thế: xin hân hoan chào đón và chúc sức khỏe các bạn."
Chúng tôi uống.
"Kummel ngon tuyệt," Pat nói. "Như sữa trên núi lạnh."
"Rất vui vì cô đã nghĩ thế. Rất hiếm có chuyên gia về Kummel." Alfons cầm chai rượu trên quầy. "Một ly nữa nhé?"
"Vâng," Pat nói, "một ly nữa."
Alfons rót vào ly của Pat. "Đúng là thứ xịn, thứ xịn." Anh nháy mắt, hiền hòa.
Pat uống cạn ly và nhìn tôi. Tôi cầm ly rượu trên tay nàng, đưa qua Alfons. "Cho tớ một ly nữa."
"Tất cả mọi người uống thêm một ly," Alfons nói. "Rồi ta sẽ thưởng thức món thịt thỏ hầm nồi đất với bắp cải đỏ và nước sốt táo."
"Pros't, Pat," tôi nói. "Pros't, bạn vàng của anh."
Để kết thúc Alfons đặt vào máy hát một dĩa nhạc Don Cossacks. Đó là một bài hát êm đềm, dàn đồng ca khe khẻ như tiếng organ từ xa vọng lại, trong khi một giọng trong vắt, đơn độc trôi bềnh bồng trên đó. Với tôi, như thể là một cánh cửa mở rất nhẹ, không gây tiếng động và một người đàn ông già, mệt mỏi bước ra, ngồi xuống trong im lặng ở một bàn ăn trong quán, lắng nghe bài hát thời xuân xanh.
"Này các cậu," Alfons nói khi tiếng đồng ca càng lúc càng nhỏ dần đến khi chấm dứt như một tiếng thở dài, "các cậu có biết tớ luôn luôn nghĩ gì mỗi khi nghe bài này không? Ypres, 1917, Gottfried; tháng Ba, cậu còn nhớ không, cái đêm mà Bertelsmann --"
"Vâng," Lenz nói, "tớ nhớ. Đêm ấy khi cây anh đào --"
Alfons gật đầu.
Koster đứng dậy. "Tớ nghĩ là đã đến giờ." Anh nhìn đồng hồ tay. "Vâng, tụi này phải lên đường."
"Một ly cognac nữa thôi," Alfons nói. "Napoleon thứ thiệt. Tôi đặc biệt mang ra đãi các cậu."
Chúng tôi uống cognac và sẳn sàng lên đường.
"Au revoir, Alfons," Pat nói. "Em rất vui đã được đến đây." Nàng đưa tay ra cho anh.
Alfons đỏ mặt. Anh giữ chặt tay nàng trong những ngón tay chuối mắn. "Nếu cô cần điều gì --xin cứ nói ra." Anh ngượng ngùng nhìn nàng. "Cô thích hợp với nơi đây. Cô biết đấy, tôi chẳng bao giờ tin một người phụ nữ lại có thể thích hợp với nơi này, thế mà."
"Cám ơn," Pat nói, "cảm ơn anh, Alfons. Anh không thể nói với em một câu nào dịu dàng hơn thế. Em chào anh, chúc anh những gì tốt đẹp nhất."
"Mong sớm gặp lại cô." Alfons hỉ mũi sồn sột.
Koster và Lenz đưa chúng tôi đến ga. Chúng tôi ghé qua nhà, và tôi dẫn con chó theo. Jupp đã mang hành lý đi trước.
Chúng tôi đến nơi vừa kịp lúc. Con tàu bắt đầu lăn bánh ngay sau khi chúng tôi bước lên. Trong tiếng động cơ rầm rập, Lenz rút từ túi áo ra một cái chai gói kỹ, và giơ lên cho tôi. "Đây, Bob, cầm lấy. Cậu có thể nhâm nhi vài giọt trong cuộc lữ hành."
"Cám ơn," tôi nói, "cậu cứ giữ mà uống tối nay. Tớ có phần rồi."
"Lấy đi,"Lenz trả lời; "chẳng bao giờ thừa với cậu." Anh chạy theo đoàn tàu và thẩy chai rượu lên cho tôi. "Au revoir, Pat!" anh gọi. "Khi chúng tôi phá sản, tất cả sẽ lên trên đó, gia nhập cô. Otto sẽ trượt tuyết, tôi dạy khiêu vũ, Bob đánh piano. Và rồi, với cô, chúng tôi sẽ lập một nhóm hát rong, biểu diễn từ khách sạn này sang khách sạn khác."
Con tàu tăng tốc độ và Gottfried bị bỏ lại đàng sau. Pat bám vào cửa sổ và vẫy tay mãi cho đến lúc nhà ga biến mất sau một khúc quanh. Rồi nàng quay lại. Gương mặt rất xanh xao và đôi mắt sáng ướt. Tôi ôm nàng trong tay. "Nào," tôi nói, "chúng ta uống một chút gì nhé. Em thật là tuyệt diệu."
"Nhưng em không cảm thấy tuyệt diệu," nàng trả lời, cố gắng mỉm cười.
"Anh cũng thế," tôi nói. "Bởi vậy chúng ta cần uống một chút rượu."
Tôi mở nút chai cognac và rót cho nàng một cốc nhỏ. "Ngon chứ?" tôi hỏi.
Nàng gật đầu và tựa vào vai tôi. "Ô, anh yêu, cái gì là ngon là tốt?"
"Em đừng khóc," tôi nói. "Anh rất hãnh diện, suốt ngày nay em đã không khóc."
"Em có khóc đâu," nàng đáp, lắc đầu, và nước mắt ràn rụa trên gương mặt hao gầy.
"Hãy uống thêm," tôi nói, ôm chặt nàng hơn nữa. "Những phút giây đầu tiên luôn luôn khó khăn, nhưng rồi tất cả sẽ bình thường trở lại."
Nàng gật đầu. "Vâng, Robby. Nhưng anh chẳng nên bận tâm vì nó. Rồi cũng sẽ qua đi; đừng nhìn em, đó là cách tốt nhất. Để mặc em ngồi đây vài phút, rồi em sẽ vượt qua."
"Nhưng tại sao không? Em đã rất can đảm suốt ngày hôm nay, bây giờ em có thể tha hồ khóc như ý muốn."
"Em có can đảm gì đâu. Tại anh không nhận ra, mà thôi."
"Có lẽ thế," tôi nói; "nhưng điều này thì đúng."
Nàng cố gắng cười. "Điều gì thì đúng, hở Robby?"
"Bởi vì em không đầu hàng. " Tôi vuốt tóc nàng. "Chừng nào một người chưa đầu hàng số phận, người ấy vẫn còn cao đẹp hơn nó. Đó là một nguyên tắc cũ trong quân đội."
"Nhưng với em, không phải là can trường, anh yêu," nàng thì thầm. "Với em, chỉ đơn giản là sợ hãi -- nỗi sợ hãi đáng thương về sự sợ hãi to tát sau cùng."
"Chỉ cần giữ can đảm thôi, Pat ạ."
Nàng dựa vào tôi. "Ach, Robby, anh đâu biết sợ hãi là gì."
"Anh biết chứ," tôi trả lời.
Cửa mở. Người soát vé yêu cầu trình vé. Tôi đưa chúng ra. "Có phải vé nằm dành cho cô ấy?" ông ta hỏi.
Tôi gật đầu.
"Vậy cô phải đến toa dành riêng cho vé nằm," ông ta bảo Pat. "Vé ấy không dùng được ở các toa khác."
"Tốt lắm."
"Và phải đưa con chó đến toa hành lý," ông ta nói. "Cũi chó ở toa hành lý."
"Được rồi," tôi nói. "Vậy, toa nằm ở đâu?"
"Đàng sau, toa thứ ba. Còn toa hành lý luôn luôn ở tận phía trước."
Ông ta bỏ đi. Một cái đèn nhỏ đong đưa trên ngực. Như thể ông sắp sửa xuống hầm mỏ.
"Vậy chúng ta hãy nhổ trại, Pat," tôi nói. "Một lát anh sẽ lén đưa Billy vào toa của em. Toa hành lý chẳng có gì cho nó."
Tôi không mua vé nằm cho tôi. Tôi không ngại phải ngồi ở một góc tàu suốt đêm. Ngoài ra, tiền vé cũng rẻ hơn.
Jupp đã đưa hành lý lên toa của Pat. Đó là một gian phòng nhỏ, tường lát gỗ hồng đào. Giường của Pat ở tầng dưới. Tôi hỏi người tiếp viên, có ai đặt chỗ ở giường trên hay không.
"Có," ông ta nói, "từ Frankfurt."
"Mấy giờ chúng ta sẽ đến Frankfurt?" tôi hỏi.
"Hai giờ rưởi."
Tôi biếu ông ta tiền nước, và ông ta quay về góc của mình. "Trong nửa giờ, anh sẽ trở lại với con chó."
"Nhưng anh không thể làm được; người tiếp viên còn ngồi trong toa."
"Anh không thể? Em đừng khóa cửa phòng."
Tôi đi ngược lại, qua người tiếp viên đang ngó chừng tôi. Ở trạm kế, tôi xuống tàu với con chó và đi trên sân ga, qua khỏi toa có buồng nằm, đến toa kế tiếp. Rồi tôi chờ đến khi người tiếp viên bước ra nói chuyện với viên cảnh sát. Rồi tôi lên tàu, đi ngược hành lang về toa nằm, và vào phòng của Pat mà không ai nhìn thấy.
Nàng đã khoác một chiếc áo choàng trắng mềm mại và trông thật đáng yêu. Đôi mắt nàng long lanh. "Em đã bớt buồn rồi, Robby," nàng nói.
"Tốt. Nhưng em không nằm xuống hay sao? Chỗ này chật chội quá. Anh sẽ ngồi cạnh em."
"Vâng, nhưng --" Nàng ngần ngừ và chỉ tay lên giường trên. "Nếu ngài Chủ Tịch Liên Đoàn Những Cô Gái Sa Ngã bỗng dưng xuất hiện ở cửa thì sao?"
"Còn lâu lắm mới đến Frankfurt," tôi nói. "Anh sẽ canh chừng. Anh sẽ không ngủ quên."
Khi sắp đến Frankfurt, tôi trở về toa của mình. Tôi ngồi thu lu trong góc, cạnh cửa sổ và cố dỗ giấc ngủ. Nhưng tại Frankfurt, một ông với hàng ria hải mã lên tàu, lập tức mở một cái gói nhỏ, và khởi sự ăn. Ông ta ăn uống thô lỗ đến đổi tôi không thể ngủ. Bửa ăn kéo dài một tiếng. Rồi con hải mã lau hàng ria mép, vươn vai, và bắt đầu một tấu khúc mà tôi chưa bao giờ nghe một thứ gì tương tự. Đó không phải là một tiếng ngáy đơn giản; đó là tiếng thở dài như tiếng hú, chấm phết với những tiếng rên và tiếng thở phì phò. Không có một hệ thống nhất quán, nó thay đổi không ngừng. May mắn thay, khoảng năm giờ, ông ta xuống tàu.
Khi tôi tỉnh dậy, ngoài trời toàn một màu trắng xóa. Tuyết lất phất rắc từng mảnh và toa tàu đắm trong một ánh sáng chạng vạng siêu nhiên. Chúng tôi đã vượt qua các rặng núi. Gần chín giờ sáng. Tôi vươn vai và rồi đi rửa mặt, cạo râu. Khi tôi trở lại, Pat đã đứng trong toa. Trông nàng tươi tắn.
"Em ngủ ngon không?" tôi hỏi.
Nàng gật đầu.
"Và em gặp thứ phù thủy già nào ở giường tầng trên?"
"Trẻ và xinh. Cô ấy tên là Helga Guttmann, và cô ấy cũng đi đến dưỡng đường giống em."
"Thật à?"
"Vâng, Robby. Nhưng em thấy rõ, anh không ngủ được. Anh cần ăn sáng đàng hoàng."
"Cà phê," tôi nói. "Cà phê với vài giọt anh đào."
Chúng tôi đến toa ăn. Bỗng dưng tôi thấy vui trở lại. Mọi thứ dường như không quá tệ như đêm qua.
Helga Guttmann đã có mặt ở đó. Cô ấy thuộc loại con gái miền nam, mảnh mai và sinh động. "Thật phi thường," tôi nói, "khi các cô gặp nhau như thế, cùng đi tới một dưỡng đường."
"Chẳng có gì phi thường," cô ta nói.
Tôi nhìn cô ta. Cô cười to. "Tất cả những con chim thiên di tụ họp với nhau trong thời gian này. Đàng kia kìa --" cô ấy chỉ vào góc toa -- "cả bàn ấy cũng đi đến đó."
"Làm sao cô biết?" tôi hỏi.
"Tôi quen với tất cả mọi người lần trước. Ở nơi ấy, ai nấy đều quen biết nhau."
Người hầu bàn mang cà phê đến. "Và đem thêm một chai cherry brandy to," tôi nói. Tôi cần phải uống một thứ gì đó. Thình lình mọi việc trở nên rất đơn giản. Những người ngồi ở đó đang đến dưỡng đường lần thứ hai, và dường như họ coi chuyện ấy không khác gì hơn một cuộc đi dạo. Thật ngu muội nếu ta sợ hãi. Pat sẽ trở về, hệt như những người ấy đã trở về. Tôi chẳng cần suy nghĩ cặn kẻ rằng cả bọn phải lên đó lại -- tôi chỉ cần biết, ta có trở về và có một năm dài trước mặt. Trong một năm, rất nhiều chuyện có thể xảy ra. Quá khứ đã dạy chúng tôi ứng phó với giai đoạn ngắn mà thôi.
Chúng tôi đến nơi vào buổi chiều. Thời tiết trong sáng, vầng dương vàng rực trên những cánh đồng tuyết, và da trời xanh hơn bao giờ hết từ vài tuần nay. Tại sân ga, một đám đông chờ đón. Họ reo hò và vẫy tay và những người mới tới cũng vẫy tay lại từ trên tàu. Helga Guttmann được một người đàn bà tóc vàng tươi cười và hai người đàn ông mặc quần chơi golf màu tươi mang đi. Cô phấn khích và bồng bột như một người về nhà sau khi vắng mặt một thời gian dài. "Au revoir, gặp lại sau, trên ấy nhé," cô nói với chúng tôi, và ngồi vào chiếc xe trợt tuyết với các bạn.
Đám đông tản mác thật nhanh và vài phút sau, chỉ còn chúng tôi trên sân ga. Một người phu khuân vác đến gần. "Khách sạn nào?" ông ta hỏi.
"Dưỡng đường Waldfrieden," tôi đáp.
Ông ta gật đầu và ra hiệu cho một người tài xế. Họ kéo hành lý của chúng tôi lên một chiếc xe trợt tuyết xanh tươi, thắng với một cặp ngựa trắng. Hai con ngựa có túm lông xám trên đầu, và hơi thở bay ra vờn quanh mủi chúng như một vầng mây xà cừ.
Chúng tôi lên xe. "Ông bà muốn lên ấy bằng xe cáp treo, hay bằng xe trợt tuyết?" người lái xe hỏi.
"Xe trợt tuyết đi xa lắm không?"
"Nửa giờ."
"Vậy đi xe trượt tuyết."
Người lái xe tróc lưỡi và chúng tôi lên đường. Con đường dẫn ra khỏi làng và uốn khúc theo hình chữ chi cao dần. Dưỡng đường nằm trên một đỉnh cao. Đó là một kiến trúc dài, màu trắng, với nhiều dãy cửa sổ. Trước mỗi cửa sổ là một ban công. Trên nóc, một lá cờ vờn bay trong gió. Tôi cứ ngỡ nó phải trang bị như một bịnh viện, nhưng ít ra ở tầng trệt, nó giống như một khách sạn. Ở tiền sảnh, có một lò sưởi to và nhiều bàn nhỏ, bày biện các vật dụng uống trà.
Chúng tôi trình diện ở văn phòng. Người giúp việc khuân hành lý của chúng tôi vào và một bà lớn tuổi cho biết phòng của Pat là phòng số 79. Tôi hỏi nếu tôi có thể có một phòng cho tôi, trong vài ngày.
Bà lắc đầu. "Ở dưỡng đường thì không. Nhưng có thể có ở khu vực phụ."
" Khu vực phụ ở đâu?"
"Bên cạnh đây."
"Tốt," tôi nói; "vậy cho tôi một phòng và mang hành lý của tôi đến đó."
Một thang máy, không tiếng động, đưa chúng tôi lên tầng hai.
Tầng hai thực tình giống bịnh viện hơn -- một bịnh viện dễ chịu thoải mái, đúng vậy, nhưng dù sao vẫn là một bịnh viện. Hàng lang trắng, cửa trắng, mọi nơi mọi chỗ đều lấp lánh, sáng bóng với thủy tinh, kền và sự sạch sẽ tinh tươm. Một bà sơ có trách vụ, chào đón chúng tôi. "Fraulein Hollmann?"
"Vâng," Pat nói. "Phòng Bẩy Mươi Chín phải không?"
Bà sơ gật đầu, dẫn trước và mở một cánh cửa. "Phòng của cô đây."
Đó là một căn phòng sáng sủa, kích thước trung bình, ánh nắng chiều đang chiếu vào qua một cửa sổ rộng. Trên bàn có một bình cắm hoa cúc tây xanh và đỏ, bên ngoài cửa sổ, trải dài những cánh đồng tuyết trắng trên đó ngôi làng nép mình như ẩn nấp dưới một tấm chăn trắng toát, vĩ đại.
"Em thích nơi này không?" tôi hỏi Pat.
Nàng nhìn tôi một lúc. "Vâng," rồi nàng nói.
Phu khuân vác mang rương của Pat vào. "Chừng nào tôi phải khám bịnh?" Pat hỏi bà sơ.
"Sáng mai. Cô nên đi ngủ sớm tối nay để nghĩ ngơi đầy đủ."
Pat cởi áo khoác, đặt nó lên cái giường trắng, trên đó đã treo sẳn một biểu đồ mới dùng ghi thân nhiệt.
"Tôi cần phải làm gì ngay bây giờ không?" Pat hỏi.
Bà sơ lắc đầu. "Hôm nay thì không. Ít nhất cũng phải chờ đến chiều mai, khi đã khám xong mới có thể làm gì khác. Khám bệnh lúc mười giờ. Tôi sẽ đón cô."
"Cảm ơn sơ." Pat nói.
Bà y tá bỏ đi. Người khuân vác vẫn đứng đợi ở cửa. Tôi cho ông ta tiền nước và ông ta cũng bỏ đi. Thình lình căn phòng vắng lặng như tờ. Pat đứng cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài. Đầu nàng đen sẩm trên nền trời sáng.
"Em mệt không?" tôi hỏi.
Nàng quay lại. "Không."
"Trông em mệt lắm," tôi nói.
"Em mệt theo cách khác, Robby. Nhưng em có đủ thời gian cho việc ấy."
"Em muốn thay y phục chưa?" tôi hỏi. "Hay chúng ta nên xuống nhà khoảng một tiếng đồng hồ trước đã? Anh nghĩ rằng tốt nhất chúng ta nên xuống dưới."
"Vâng," nàng nói, "sẽ tốt hơn."
Chúng tôi lại đi xuống trong chiếc thang máy êm như ru và ngồi vào một trong những cái bàn nhỏ ở tiền sảnh. Một chốc sau, Helga Guttmann cũng đến với các bạn. Họ ngồi chung với chúng tôi. Helga Guttmann phấn khích và vui tươi một cách khá cuồng nhiệt, nhưng tôi hài lòng vì cô ấy có mặt tại đó và vì Pat đã làm quen với vài người. Những ngày đầu bao giờ cũng khó khăn.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:55:02 GMT -6
Chương 22
Một tuần sau tôi quay về. Từ nhà ga tôi đi thẳng đến xưởng sửa xe. Khi đến nơi, trời đã tối và mưa vẫn rơi. Như thể một năm dài đã qua từ lúc tôi và Pat ra đi.
Koster và Lenz ngồi trong văn phòng. "Cậu về đúng lúc," Goffried nói.
"Sao vậy, có chuyện gì không?" tôi hỏi.
"Để người ta bước qua ngạch cửa đã," Koster nói.
Tôi ngồi xuống.
"Pat khỏe không?" Otto hỏi.
"Được. Trong tình huống ấy. Nhưng, nói cho tớ nghe, có rắc rối gì thế?"
Chuyện liên can đến chiếc Stutz. Chúng tôi đã sửa và giao xe cách đây nửa tháng. Hôm qua Koster đi nhận tiền. Nhưng trong thời gian ấy, chủ nhân chiếc xe đã khánh tận, và xe phải nhập vào tài sản khấu nợ của ông ta.
"Dù sao, chưa đến nỗi nào," tôi nói. "Ta chỉ cần tiền bào hiểm mà thôi."
"Tụi này cũng nghĩ thế," Lenz thờ ơ nói. "Nhưng xe lại không có bảo hiểm."
"Khốn nạn! Thật vậy sao, Otto?"
Koster gật đầu. "Mới biết hôm nay."
"Đó là những gì chúng ta có được vì đã làm việc nghĩa, chưa kể chi phí dấu diếm chiếc xe," Lenz lẩm bẩm. "Tiền sửa xe lên đến bốn ngàn marks!"
"Ai mà ngờ được!" tôi nói.
Lenz phá ra cười. "Khôi hài hết biết!"
"Bây giờ ta tính sao, Otto?" tôi hỏi.
"Tớ đã gởi lời khai đến người tiếp quản. Nhưng tớ không hy vọng sẽ có kết quả."
"Liệu ta có phải đóng cửa xưởng sửa xe không?" Gottfried nói.
"Có thể," Koster thú nhận.
Lenz đứng dậy. "Nghèo khó và giữ bộ mặt can trường trong tình huống khó khăn là vinh dự của người lính." Anh đến tủ chén, lấy ra chai cognac.
"Sau lần uống rượu này, chúng ta sẽ cần đến bộ mặt anh hùng," tôi nói. "Nếu tớ không lầm, đây là chai rượu cuối cùng của chúng ta."
"Bộ mặt anh hùng, các cậu ạ," Lenz khinh miệt nói, "là thứ cần dùng trong thời kỳ gian khổ. Nhưng chúng ta đang sống trong những thời kỳ tuyệt vọng. Bộ mặt thích hợp duy nhất là hài hước." Anh cạn ly. "Tớ nghĩ, bây giờ tớ cần thắng yên cương con Rosinante và lái vòng vòng kiếm một ít tiền lẻ."
Anh băng qua vuông sân tối và lái chiếc tắc xi đi. Koster và tôi vẫn ngồi yên.
"Xui quá, Otto," tôi nói. "Gần đây chúng ta gặp nhiều chuyện không may."
"Tớ học được một điều trong quân ngũ là không lo âu quá mức cần thiết," Koster đáp. "Và ta đã lo âu khá nhiều. Cậu thấy trên núi ra sao?"
"Nếu không phải dành cho người bệnh, đó là một thiên đường. Tuyết và mặt trời."
Anh nhìn lên. "Tuyết và mặt trời? Khó mà tin được nhỉ?"
"Vâng. Không tài nào có thật. Tất cả mọi thứ ở đó không thể nào có thật."
"Tối nay cậu định làm gì?" anh nói.
Tôi nhún vai. "Đem hành lý về nhà trước đã."
"Tớ phải đi công chuyện độ một giờ. Cậu có muốn tới quán 'The Bar' với tớ sau đó không?"
"Hẳn rồi," tôi nói. "Còn gì khác hơn?"
Tôi lãnh hành lý ở nhà ga và mang về nhà. Tôi cố mở cửa nhẹ nhàng, vì tôi không muốn trò chuyện với ai. Tôi về phòng và may mắn không bị Frau Zalewski bắt gặp. Tôi ngồi trong đó một lúc. Có nhiều thư từ và báo chí trên bàn. Rõ ràng toàn là thư quảng cáo. Không ai viết thư riêng cho tôi. Nhưng tôi nghĩ, hiện nay tôi vẫn còn một người.
Sau một lúc tôi đứng lên, tắm rửa và thay y phục. Tôi không cất hành lý vội; tôi muốn có chuyện để làm khi trở về nhà tối nay. Tôi cũng không ghé qua phòng của Pat, dù tôi biết chưa có ai cư ngụ. Tôi len lén đi trên hành lang và ra khi ra khỏi nhà, thở phào nhẹ nhõm.
Tôi vào quán cà phê The International để tìm một chút gì dằn bụng. Anh bồi, Alois, chào tôi từ cửa. "Cậu lại đến đây?"
"Vâng," tôi nói, "cuối cùng, ta luôn luôn trở về chốn cũ."
Rosa ngồi với các cô gái ở cái bàn rộng. Có mặt hầu hết mọi người -- đây là giờ giải lao giửa hai đợt rước khách.
"Chúa ơi, Robert đấy à!" Rosa nói. "Em là người lạ."
"Đừng hỏi gì cả, Rosa," tôi nói. "Điều chủ yếu là em lại có mặt ở đây."
"Như thế nào? Thường xuyên chứ?"
"Có lẽ."
"Đừng quá nặng lòng," chị nói, nhìn tôi. "Chuyện gì rồi cũng sẽ qua."
"Đúng," Rosa trả lời. "Lilly cũng có một bài hát như thế."
"Lilly?" tôi chợt nhận ra chị, đang ngồi cạnh Rosa. "Chị làm gì ở đây, Lilly? Chị đã có chồng, theo em nhớ? Đáng lẽ chị phải ở nhà, trông nom tiệm sửa ống nước."
Lilly không trả lời.
"Tiệm sửa ống nước!" Rosa khinh bỉ nói. "Khi còn tiền thì mọi việc êm như mơ, Lilly này và Lilly nọ; quá khứ không quan trọng chi hết. Chỉ kéo dài sáu tháng mà thôi. Khi tiêu hết đồng xu cuối cùng của cô ấy, người quân tử bỗng nhiên không cần loại gái điếm tầm thường làm vợ nữa." Chị khịt mủi. "Thình lình, hắn không hay biết gì về quá khứ của cô ấy; hắn kinh ngạc vô cùng khi biết tới. Đến nỗi hắn dùng chuyện ấy làm cớ để ly dị. Nhưng, còn tiền đâu nữa, dĩ nhiên."
"Bao nhiêu cả thảy," tôi hỏi.
"Bốn ngàn marks chứ ít ỏi gì! Thử tính xem cô ấy phải ngủ với bao nhiêu đồ chó- lợn mới dành dụm được chừng ấy."
"Bốn ngàn marks," tôi nói, suy tư. "Dường như bốc hơi."
"Thôi được -- dù sao chúng ta cũng còn có nhau."
Tôi ngồi trước đàn dương cầm và dạo vài bản. Trong khi đàn tôi nghĩ đến Pat, nghĩ đến số tiền của nàng chỉ có thể kéo dài đến cuối tháng Giêng, và tôi cần kiếm thêm tiền hơn bao giờ hết. Tôi máy móc lướt tay trên những phím ngà và ở ghế sô pha kế bên, Rosa vui sướng lắng nghe, và bên cạnh chị là gương mặt xanh xao, vỡ mộng não nề của Liily, lạnh lẻo, vô tri, vô giác hơn là đã chết.
Một tiếng kêu vực tôi khỏi cơn suy nghĩ ủ ê. Rosa bừng tỉnh từ giấc mơ của chị. Chị đứng sau bàn, mũ lệch sang một bên, đôi mắt chầm chập nhìn tới trước, và chị không biết rằng cà phê từ cái tách cầm nghiêng đang ri rỉ chảy vào miệng túi xách của chị. "Arthur!" chị lấp bấp. "Arthur, thật đó ư?"
Tôi ngừng tay. Một người đàn ông gầy gò, dáng điệu chậm chạp, cái mũ quả dưa đội lệch phía sau đầu, bước vào. Da mặt ông ta vàng vọt bệnh hoạn; cái mủi thô to và cái đầu be bé hình quả trứng.
"Arthur!" Rosa lại lấp bấp. "Anh?"
"Còn ai khác hơn?" Arthur gầm gừ.
"Chúa ơi, anh từ đâu sổng ra vậy?"
"Anh từ đâu sổng ra? Thì từ ngoài đường, qua cửa chứ còn từ đâu."
Nếu tính đến chuyện trở về sau một thời gian xa cách lâu dài, Arthur chẳng tỏ vẻ thân thiện một chút nào.Tôi nhìn ông ta thú vị. Thần tượng của Rosa đây. Trông ông ta như vừa từ một nhà tù thẳng về đây. Tôi tìm trong vô vọng một điều gì có thể giải thích cho sự say đắm của Rosa. Nhưng có lẽ đó chính là câu trả lời. Thật phi thường thứ người mà những quan tòa chuyên phán xét đàn ông một cách khắc nghiệt nhất lại xiêu lòng vì họ.
Chẳng buồn hỏi ai, Arthur tự tiện cầm ly bia trên bàn, cạnh Rosa và tì tì nốc cạn. Quả táo Adam chạy lên chạy xuống như thang máy trên cần cổ gầy nhom, gân guốc. Rosa rạng rỡ nhìn hắn.
"Thêm một ly nữa nhé?" chị hỏi.
"Dĩ nhiên," Arthur gầm gừ. "Nhưng ly lớn hơn."
"Alois!" Rosa hạnh phúc vẫy người bồi bàn. "Anh ấy muốn một ly nữa."
"Tôi biết," Alois điềm đạm trả lời, mang một ly khác đến.
"Và em bé của chúng ta, Arthur yêu quý, anh vẫn chưa thấy mặt con bé Elvira!"
"Em yêu!" Lần đầu tiên Arthur tỏ ra quan tâm. Hắn khoác tay ra vẻ chối từ. "Đừng kết tội tôi. Không phải việc của tôi. Tôi đã bảo em phải phá. Và có lẽ em đã làm, nếu tôi không..." Hắn chìm trong nỗi u sầu. "Tốn tiền lắm, tôi sẽ bị ràng buộc và sẽ còn tốn dài dài..."
"Không nhiều đâu, Arthur. Ngoài ra, nó là con gái."
"Thế con gái thì không tốn tiền à?" Arthur nói, ly bia khuất sau cổ áo. "Có lẽ cô nên tìm một bà già điên giàu có nào đó muốn nuôi nó. Dĩ nhiên phải bù tiền cho ta. Đó là cách duy nhất."
Hắn lại thoát ra khỏi nỗi buồn sầu. "Có tiền không?"
Rosa, sốt sắng phục dịch, chìa cái túi xách đẫm cà phê. "Chỉ có năm marks thôi, Arthur -- anh thấy đó, em không biết anh sẽ đến -- nhưng em còn tiền ở nhà."
Arthur nhét tiền vào túi áo, nhanh như quan tổng trấn Thổ Nhĩ Kỳ.
"Và cô sẽ không kiếm được gì nếu cái mông của cô cứ ỳ ra trên ghế sô pha," hắn lầm bầm, cáu kỉnh.
"Em đi ngay, Arthur. Nhưng có lẽ không kiếm được nhiều. Đang giờ ăn tối."
"Trâu bò nhỏ cũng ị ra phân," Arthur nói.
"Em đi ngay đây."
"Được..." Arthur kéo vành mũ ra trước. "Vậy tôi sẽ trở lại, lúc mười hai giờ."
Hắn chậm chạp lê chân đi. Rosa đưa mắt theo, hạnh phúc. Hắn không ngoảnh lại, và để mặc cửa mở.
"Đồ con heo," Alois càu nhàu, khép cửa.
Rosa hãnh diện nhìn chúng tôi. "Anh ấy tuyệt vời, phải không? Chẳng có gì tác động được anh ấy, chẳng có gì làm cho anh ấy yếu mềm. Không biết anh ấy trốn ở đâu, suốt thời gian qua?"
"Chị cứ nhìn nước da của ông ta thì khắc biết," Wally trả lời. "Nằm nhà đá, dĩ nhiên. Lưu manh thượng hạng."
"Em không biết anh ấy --"
"Không dám."
"Em không hiểu," Rosa đứng lên. "Anh ấy là một người đàn ông chân chính. Chẳng ủy mị như Willy nhà em... Ô, chị phải đi đây. Các chị em ở lại, vui vẻ nhé."
Trẻ trung, phơi phới trên mây, chị tung tăng ra khỏi phòng. Một lần nữa, chị lại có người để nộp tiền, để hắn mua bia bọt uống, rồi đánh đập. Chị hạnh phúc.
Nửa tiếng sau những cô gái kia cũng đi. Chỉ một mình Lilly, gương mặt như đá, ngồi lại. Tôi gõ đàn thêm một lúc, rồi ăn một miếng bánh mì kẹp thịt và cũng biến theo họ. Ta không thể nấn ná ở đấy chỉ với Lilly.
Tôi lang thang trên những con đường tối, ướt. Bên ngoài nghĩa trang, Đạo Quân Cứu Rỗi đã thành hình. Theo tiếng trống và kèn đồng, họ đồng ca bài "Jerusalem Thánh Địa Vàng." Tôi dừng lại. Bỗng nhiên tôi cảm thấy không thể tiếp tục một mình, không có Pat.Tôi nhìn những bia mộ ảm đạm trong nghĩa trang; tôi tự nhủ lòng rằng một năm trước đây tôi còn đơn côi hơn -- khi ấy tôi đâu đã quen với Pat; giờ đây dù cho nàng không ở bên cạnh tôi, ít ra nàng cũng có mặt ở chỗ ấy; nhưng không ích lợi gì -- cõi lòng tôi bỗng dưng tan nát và dại khờ. Cuối cùng tôi đi về phòng mình để tìm, họa may, có thư của nàng. Thật vô lý -- làm sao mà có được; thế nhưng tôi vẫn quay về.
Khi lại ra khỏi nhà, tôi gặp Orlow ngoài cửa. Anh vận bộ đồ lớn dưới lớp áo khoác hững hờ, sắp sửa tới dự buổi khiêu vũ ở khách sạn nơi anh làm việc. Tôi hỏi, gần đây anh có tin tức gì của Frau Hasse hay không.
"Không," anh nói. "Bà ấy chưa trở lại. Hoặc đến ty cảnh sát. Có lẽ bà ấy sẽ chẳng về đâu."
Chúng tôi cùng đi bộ với nhau một đoạn. Ở góc đường, có một chiếc xe tải với những bao than. Tài xế nâng nắp xe lên và lúi húi làm gì đó với máy xe. Rồi hắn ngồi vào ghế. Khi chúng tôi bước qua, hắn nổ máy và đạp ga. Orlow nhảy dựng. Tôi nhìn anh. Anh xanh như người chết.
"Anh bệnh à?" tôi hỏi.
Anh mỉm cười, môi trắng bệch và lắc đầu. "Không ---nhưng đôi khi tôi phát hoảng nếu bất ngờ nghe tiếng động ấy. Họ cho nổ máy một chiếc vận tải đậu trước nhà, để chúng tôi không nghe tiếng súng, khi cha tôi bị giết chết ở Nga dạo ấy. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nghe được." Ông lại mỉm cười như xin lỗi. "Họ ít che đậy hơn khi hạ sát mẹ tôi; họ bắn bà trên gác mái, sáng sớm. Anh tôi và tôi trốn thoát vào buổi tối. Chúng tôi mang theo một ít kim cương. Nhưng anh tôi chết cóng trên đường."
"Hai bác bị bắn về tội gì?"
"Trước chiến tranh, cha tôi là chỉ huy trưởng một trung đoàn Cossack đã dẹp tan phiến loạn. Cha tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra; theo trật tự, ta có thể nói vậy. Nhưng mẹ tôi thì không."
"Còn anh?"
Anh phác họa một cử chỉ rã rời, như muốn xóa bỏ quá khứ. "Nhiều chuyện đã xảy ra kể từ lúc ấy."
"Vâng," tôi nói, "đúng thế. Quá nhiều để trí óc một người có thể đối phó."
Chúng tôi đi tới khách sạn. Một người đàn bà to lớn từ một chiếc Buick bước ra, kêu lên và tiến về phía ông.
Bà khá mủm mỉm và ăn mặc một cách đài các, và có thứ nhan sắc đã nhạt phai đôi chút của một phụ nữ tóc vàng tứ tuần, không bao giờ quan tâm hay có một ý tưởng nào suốt cuộc đời mình.
"Xin lỗi cậu," Orlow nói với một cái liếc mắt kín đáo. "Công việc --"
Anh cúi chào bà tóc vàng và hôn tay nàng.
Trong quán "The Bar" có Valentin, Koster và Ferdinand Grau. Một lát sau Lenz mới đến. Tôi nhập bọn và gọi nửa chai rum. Tôi vẫn buồn thê thảm.
Ferdinand, vai rộng và vạm vỡ, gương mặt to bành và đôi mắt xanh lơ, trong suốt, chồm chỗm ngồi ở một góc phòng. Anh đã uống đủ thứ rượu.
"Này Bob, cậu bé," anh vừa nói vừa vỗ vai tôi,"có chuyện gì xảy ra cho cậu vậy?"
"Chẳng có gì, Ferdinand," tôi trả lời, "thế mới phiền."
Anh nhìn tôi một lúc.
"Không có gì?" rồi anh nói. "Không có gì? Đó là một điều đáng kể đấy. Chẳng có gì trong tấm gương mà ta soi đời."
"Hoan hô!" Lenz cười toe, cổ võ. "Ý tưởng nguyên thủy nhất, Ferdinand."
"Im lặng dùm cái đi, Gottfried." Ferdinand nghễnh cái đầu to nhìn Lenz. "Người lãng mạn như cậu chỉ là một con châu chấu trên bờ cuộc đời. Hiểu sai tất cả mọi thứ và hình thành những cảm xúc của nó từ đấy. Hỡi con người bông lông, cậu hiểu gì về Hư Vô?"
"Đủ hài lòng để vẫn làm người lông bông," Lenz nói. "Những người đứng đắn kính trọng Hư Vô. Nhưng họ không đào bới trong đó như bầy chuột chũi."
Grau chòng chọc nhìn anh.
"Pros't," Gottfried nói.
"Pros't," Ferdinand nói. "Pros't, đồ nút bần."
Họ nốc cạn ly.
"Tớ không ngại làm một cái nút bần, " tôi nói, cũng cạn ly, "loại người luôn luôn làm đúng và mọi việc xảy ra với họ đều đúng. Tớ chỉ cần một ít như thế, bằng mọi giá."
"Đồ phản phúc!" Ferdinand ngã người ra sau trên ghế làm nó kêu kèn kẹt. "Cậu muốn làm một tên đào ngũ -- phản bội tình huynh đệ?"
"Không," tôi nói, "Tớ không muốn phản bội cái gì cả. Nhưng tớ rất muốn rằng không phải thứ gì chúng ta chạm vào cũng đều vỡ tan từng mảnh."
Ferdinand chồm tới. Gương mặt to, hoang dại của anh co giật. "Để bù lại, cậu thật sự tùy thuộc vào một tổ chức, em tôi ơi -- tổ chức của những người không thành đạt, thiếu lành mạnh với lòng ham muốn không mục đích, tham vọng không đưa tới kết quả, tình yêu không tương lai, tuyệt vọng không lý do." Anh mỉm cười. Hội kín huynh đệ ưa thích họat động bí mật hơn là nghề nghiệp, và chẳng mấy chốc sẽ cờ bạc, thua lỗ, đùa bỡn cuộc đời của họ thay vì lãng quên hay cẩn trọng giả mạo một bức tranh không tưởng -- bức tranh mà họ ấp ủ trong tim, em tôi ơi, ghi tâm khắc cốt trong những giờ, những ngày, những đêm không có gì cả ngoại trừ một thứ --cuộc sống và cái chết trần trụi điên rồ."
Anh nâng ly rượu và ra dấu cho Fred ở quầy. "Cho tớ một thứ gì để uống."
Fred mang chai lại. "Tớ nên để dĩa hát vào máy một chút hay không?" anh hỏi.
"Không," Lenz nói, "quăng máy hát của cậu ra cửa sổ và đem nhiều ly to hơn. Rồi tắt bớt phân nửa đèn, để dăm chai rượu lên bàn và tếch vào văn phòng của cậu."
Fred gật đầu và tắt đèn trần. Chỉ những ngọn đèn trên tường với chụp bằng bản đồ cũ còn sáng.
Lenz rót rượu vào ly. "Pros't, các cậu!" Mừng vì chúng ta còn sống. Vì chúng ta đang hít thở. Vì ý thức về cuộc đời của chúng ta sâu sắc đến nỗi chúng ta không biết bắt đầu từ đâu."
"Thật đúng," Ferdinand nói. "Chỉ có người đau khổ mới biết quý trọng hạnh phúc. Một người sung sướng là tượng mẫu của cảm giác về cuộc đời. Hắn chỉ đơn thuần diễn đạt nó; hắn không sở hữu nó. Ánh sáng không chiếu rọi trong ánh sáng; chỉ chiếu rọi trong bóng tối. Bóng tôi muôn năm. Người đã một lần trải qua giông bão không thể sử dụng những dụng cụ chạy điện tinh tế nữa. Kệ xác cơn bão. Cảm tạ chút đời của ta. Và bởi vì ta không chuẩn bị để đầu tư đời ta lấy lãi năm phần trăm; mà ta thích đốt cháy đời ta hơn. Uống đi, các cậu. Những vì sao nổ tung mười ngàn năm ánh sáng trước vẫn còn lấp lánh. Hãy uống khi vẫn còn thời gian. Vạn tuế sự đau khổ. Vạn tuế bóng tối."
Anh tự rót một ly cognac thật to và uống cạn.
Rum làm đầu tôi nhức bưng bưng. Tôi nhẹ nhàng chỗi dậy và bước qua văn phòng của Fred. Anh đang ngủ. Tôi đánh thức anh và xin tổng đài nối kết một cuộc điện thoại đường xa đến dưỡng đường.
"Cậu nên ở lại chờ," anh nói. "Giờ này ban đêm thường nối kết khá nhanh."
Năm phút sau chuông điện thoại reo và dưỡng đường trả lời.
"Tôi muốn nói chuyện với Fraulein Hollmann."
Người y tá trả lời. "Fraulein Hollmann đã ngủ."
"Cô ấy không có điện thoại trong phòng hay sao?"
"Không."
"Cô không đánh thức cô ấy dậy được sao?"
Tiếng nói do dự. "Không. Ngoài ra, hôm nay cô ấy không được phép dậy."
"Có chuyện gì xảy ra không?"
"Không. Cô ấy chỉ cần nghĩ ngơi trên giường trong vài ngày."
"Cô có chắc rằng cô ấy không bị việc gì không?"
"Không, không, đó là chuyện bình thường vào lúc đầu. Cô ấy phải nằm nghĩ và làm quen với chỗ mới."
Tôi gác ống nghe. "Muộn quá, hả?" Fred hỏi.
"Cậu muốn nói gì?" tôi hỏi.
Anh chìa đồng hồ tay. "Sắp mười hai giờ."
"Vâng," tôi nói. "Lẽ ra tớ đừng gọi mới phải."
Tôi trở lại và tiếp tục uống.
Lúc hai giờ chúng tôi chia tay. Lenz chở Valentin và Ferdinand về bằng tắc xi. "Lên đây," Koster nói với tôi, sang số Karl.
"Tớ đi bộ mấy bước được mà, Otto." tôi nói.
Anh nhìn tôi. "Chúng ta chạy rong một lát."
"Tốt." tôi lên xe.
"Cậu lái," Koster nói.
"Vô lý, Otto. Tớ không thể lái. Tớ say mèm."
"Cậu lái đi. Tớ chịu trách nhiệm."
"Được rồi, cậu sẽ thấy," tôi nói, ngồi trước tay lái.
Động cơ rồ lên. Bánh lái run rẩy trong tay tôi. Đường phố gãy góc như răng cưa đổ ập vào tôi. Nhà cửa đong đưa, nghiêng ngã và những ngọn đèn đường khuất lấp trong mưa.
"Không được đâu, Otto. Tớ sẽ đụng một thứ gì đó."
"Đụng đi," anh trả lời.
Tôi nhìn anh. Gương mặt anh biểu lộ sự rõ rệt, căng thẳng và cảnh giác. Anh nhìn con đường trước mắt. Tôi tấn vào lưng ghế và bấu chặt hơn nữa tay lái. Tôi nghiến cứng hàm và cau mày. Từ từ con đường hiện rõ lên.
"Đi đâu, Otto?" tôi hỏi.
"Lái thẳng. Ra khỏi đây."
Chúng tôi đến vòng đai thành phố và chạy ra xa lộ.
"Bật đèn pha," Koster nói.
Mặt đường bê tông sáng màu xám nhạt trước mặt chúng tôi. Trời mưa lắc rắc thôi, nhưng những giọt nước quất vào mặt tôi như mưa đá. Gió thổi từng luồng vun vút, các vầng mây buông thấp; chỉ cao hơn đầu cánh rừng một ít, có một đường chẻ, và bạc tuôn loang loáng qua đó. Mù sương biến mất đàng sau mắt tôi. Động cơ nổ phành phạch chuyền qua cánh tay vào thân thể tôi. Tôi cảm nhận được máy xe và sức mạnh của nó. Sự nổ bùng của xy lanh đập vỡ thành mảnh vụn nỗi tê liệt đờ đẫn của não bộ tôi. Pistons như máy bơm đẩy máu tôi luân chuyển trong huyết quản; tôi bình tâm lại. Chiếc xe lao vút trên đường quê.
"Nhanh hơn nữa," Koster nói.
Lốp xe bắt đầu rên xoen xoét như tiếng huýt sáo. Cây cối, cột điện tín bay vù vù ngược ra sau. Một ngôi làng huyên náo lướt qua. Bây giờ đầu óc tôi hoàn toàn tỉnh táo.
"Nhấn thêm ga," Koster nói.
"Tớ có thể giữ nó vững không, vậy? Đường trơn ướt."
"Cậu sẽ cảm biết. Vào số ba, trước khi đến các khúc quanh và tăng tốc khi ôm cua.
Động cơ rống lên. Không khí quất rát mặt tôi. Tôi khom mình núp sau tấm kính chắn gió. Và thình lình tôi hòa nhập vào tiếng sấm của động cơ, xe và thân tôi trở thành một, một căng thẳng duy nhất, một rung động cao nhất; tôi cảm nhận bánh xe dưới chân tôi, tôi cảm nhận mặt đất, con đường, tốc độ -- với một cú giật mạnh một cái gì đó trượt vào đúng chỗ, đêm hú và thổi gió; nó thổi tất cả những thứ khác ra khỏi tôi; môi tôi mím chặt, tay tôi biến thành gọng kềm và bây giờ tôi chỉ còn lái và đua, mất ý thức và cũng đồng thời tuyệt đối tỉnh thức.
Ở một khúc quanh, xe trợt, ở đàng sau. Tôi bẻ tay lái ngược lại, một lần, hai lần, và tăng tốc. Trong một giây, mọi thứ lõng lẽo như quả bóng, rồi chiếc xe trở lại như xưa.
"Tốt," Koster nói.
"Đó là lớp lá ướt,"tôi trả lời và ý thức được sự ấm áp và cảm giác nhẹ nhõm rót vào làn da sau khi thoát cơn nguy hiểm.
Koster gật đầu. "Đấy là con quỷ của rừng vào thu. Có thuốc lá không?"
"Có," tôi nói.
Chúng tôi dừng xe bên đường và hút thuốc. "Giờ thì cậu có thể quay lại," rồi Koster nói.
Tôi lái về thành phố và xuống xe. "Rất tốt chúng ta đã lái một vòng, Otto. Tớ đã vượt qua."
"Lần tới, tớ sẽ chỉ cho cậu một kỹ thuật quẹo cua khác," anh nói. "Ôm cua với thắng xe. Nhưng cậu chỉ có thể dùng cách ấy khi đường khô hơn."
"Đúng, Otto. Ngủ ngon nhé."
"Ngủ ngon, Bob."
Karl phóng đi. Tôi vào nhà. Tôi mệt nhoài, nhưng khá bình lặng và không còn u sầu nữa.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:55:58 GMT -6
Chương 23
Đầu tháng Mười Một, chúng tôi bán chiếc Citroen. Số tiền ấy đủ để duy trì xưởng sửa xe một thời gian, nhưng mỗi tuần qua tình hình càng thêm bi đát. Vào mủa đông người ta hạn chế chạy xe, để tiết kiệm xăng và thuế, và việc tu sửa cũng trở nên hiếm hoi. Chúng tôi kiếm sống bằng cách lái tắc xi nhưng thu nhập quá ít cho cả ba, vì thế tôi rất vui khi ông chủ quán International mời tôi chơi đàn mỗi đêm, từ tháng Mười Hai. Thương vụ của ông gần đây khấm khá; một hội chăn nuôi gia súc đã chọn căn phòng đàng sau quán làm chỗ họp mỗi tuần, sau đó hội buôn ngựa cũng bắt chước, và cuối cùng là Hội Tương Tế Hỏa Táng. Nhờ thế tôi có thể nhường tắc xi cho Lenz và Koster, và dù sao, công việc cũng thích hợp với tôi, bởi nếu không, thể nào tôi cũng lạc lỏng, không biết làm gi cho đêm qua mau.
Pat đều đặn viết cho tôi. Tôi nao nức chờ thư, nhưng tôi không hình dung được cuộc sống của nàng; và đôi khi, trong những tuần tháng Chạp tối tăm bẩn thỉu, khi trời vẫn âm u ngay cả giữa trưa, tôi cứ nghĩ quẩn rằng nàng đã trôi vuột khỏi tay tôi từ lâu và cuộc tình đã hết. Với tôi, thời gian dường như vô tận, kể từ khi nàng ra đi, và tôi không nghĩ rằng sẽ có lúc nàng quay trở lại. Rồi những đêm tuyệt vọng, đầy nỗi nhớ thương, mà không gì có thể làm vơi đi ngoài cách ra quán, ngồi với các cô gái điếm và bọn lái buôn gia súc và uống rượụ cho đến sáng.
Ông chủ đã xin được giấy phép mở cửa đêm Giáng Sinh. Sẽ có một lễ hội thật tưng bừng cho những chàng độc thân của tất cả hiệp hội. Hội trưởng hội chăn nuôi gia súc, Stefan Grigoleit, tặng hai con lợn sữa và vài cái giò lợn. Ông góa vợ đã hai năm và rất dễ mủi lòng, do đó ông muốn có bầu bạn trong đêm Giáng Sinh.
Ông chủ quán dựng một cây thông lá bạc cao gần ba mét gần quầy rượu; Rosa, chuyên gia về nhà cửa, phụ trách trang hoàng. Marian và Kiki, anh chàng đồng tính, vì khiếm khuyết của bản thân nên rất ưa chuộng cái đẹp, trợ giúp cho chị. Ba người đã bắt đầu từ trưa. Họ dùng rất nhiều quả cầu đủ màu, nến và dây kim tuyến, nhưng không thể không thừa nhận rằng một khi xong xuôi, cây thông trông thật huy hoàng lộng lẫy. Nhiều chú lợn bằng kẹo marzipan hồng được mắc trên cành để tuyên dương Grigoleit.
Buổi chiều tôi lên giường ngủ độ vài giờ. Khi thức dậy trời đã tối. Tôi phải định thần mấy giây để suy nghĩ -- còn tối hay đã sáng. Tôi nằm mơ, nhưng quên mất về chuyện gì. Tôi vẫn phiêu diêu ở một chốn xa vời, và tưởng tượng một cánh cửa đen đóng sập sau lưng. Rồi tôi ý thức rằng có ai đó đang gõ cửa.
"Ai thế?" tôi hỏi.
"Bác đây, Herr Lohkamp."
Tôi nhận ra giọng Frau Zalewski.
"Mời bác vào," tôi nói, "cửa không khóa." Then cài rên xiết và tôi thấy bóng Frau Zalewski ở ngưỡng cửa, trên nền sáng vàng vọt của hành lang.
"Frau Hasse có mặt ở đây," bà thì thầm. "Thức dậy, mau lên. Bác không thể nói cho cô ấy biết."
Tôi không cục cựa. Tôi cần tìm tôi trước. "Bảo chị ấy ra bót cảnh sát," rồi tôi nói.
"Herr Lohkamp!" Frau Zalewski đưa hai tay lên trời. "Trong nhà không còn ai. Cậu phải giúp tôi. Nói cho cùng, cậu là người có đạo."
Bà đứng ở vuông cửa, như một bóng đen nhảy múa.
"Thôi đừng nói nữa," tôi mơ màng trả lời. "Cháu ra ngay."
Tôi mặc y phục và bước ra. Frau Zalewski đang chờ tôi.
"Chị ấy có biết gì chưa?" tôi hỏi.
Bà lắc đầu và ép vuông khăn tay lên môi.
"Vậy chị ấy đang ở đâu?"
"Trong phòng của cô ấy."
Frida đứng ở cửa nhà bếp, tươm mồ hôi vì kích động. "Cô ấy đội một cái mũ toàn lông diệc bạch, và mang kim cài áo kim cương," bà ta thầm thì.
"Bác đừng cho mụ bếp già mồm ấy nghe trộm nhé," tôi nói với Frau Zalewski và bước vào.
Frau Hasse đứng cạnh cửa sổ. Chị xoay lại khi tôi vào. Rõ ràng chị ấy ngóng chờ một người khác. Thật ngu xuẩn, nhưng ánh mắt đầu tiên của tôi dừng lại nơi cái mũ và chiếc kim cài áo, mặc dù tôi không định tâm làm vậy. Frida nói đúng; cái mũ trông nhố nhăng, chiếc kim cài đỡ hơn một tị. Toàn thể con người chị khá kệch cỡm, như người muốn khoe khoang sự giàu có của mình. Nói chung, chị không tệ lắm; dù sao đi nữa, cũng khá hơn những năm tháng đã sống nơi đây.
"Hasse đi làm ngay cả tối Giáng Sinh, tôi đoán thế, hả?" chị gay gắt hỏi.
"Không," tôi đáp.
"Vậy ông ấy ở đâu? Nghĩ mát à?"
Chị tiến lại gần tôi, hông đong đưa. Tôi ngửi thấy mùi nước hoa nồng nặc. "Thế chị muốn gì ở anh ấy?" tôi hỏi.
"Lấy đồ của tôi. Dàn xếp. Dù sao, một phần đồ đạc là của tôi."
"Không cần nữa," tôi nói. "Tất cả bây giờ thuộc về chị."
Chị chòng chọc nhìn tôi.
"Anh ấy chết rồi," tôi nói.
Tôi nên nói khác đi. Thận trọng hơn, từ tốn hơn. Nhưng tôi không biết khởi sự từ đâu. Ngoài ra, đầu óc tôi hãy còn mụ mị vì giấc ngủ hồi chiều -- thứ giấc ngủ hầu như có thể làm cho người ta muốn quyên sinh khi tỉnh dậy.
Frau Hasse đứng giữa phòng, và thật kỳ lạ, tôi thấy rõ, trong giây phút đối đáp với chị, nếu chị té xỉu thì sẽ chẳng đập trúng thứ gì. Quái thật, nhưng tôi chẳng nhìn và chẳng nghĩ ra điều gì khác hơn.
Chị không té, dĩ nhiên. Chị đứng đó và nhìn tôi.
"Thế thì," chị nói, "thế thì -- " Chỉ có những cọng lông trên cái mũ diệc bạch rung rinh. Rồi bỗng nhiên, trước khi tôi có thể hiểu ra, tôi thấy người đàn bà thơm lừng, trang điểm cầu kỳ, già sụm trước mắt tôi. Như thể mưa tuôn xối xả lên người chị trong một cơn bão, mỗi giây là một năm -- sự căng thẳng vỡ ra, vinh quang vụt tắt, gương mặt ủng thối. Trên đó những nếp nhăn hiện ra như giòi bọ bò lổm nhổm; và rồi, với một cử động như bấu chụp, chị quơ vội một lưng ghế và ngôi xuống như sợ làm đổ vỡ một thứ gì, có lẽ không bao giờ còn là người đàn bà trước đây -- chị trông quá rã rời, tàn tạ và già cỗi.
"Chuyện gì đã xảy ra cho anh ấy?" chị hỏi, đôi môi hầu như không cử động.
"Chuyện xảy ra đột ngột," tôi nói. "Hoàn toàn bất ngờ."
Chị không lắng nghe. Chị nhìn xuống tay mình. "Tôi phải làm gì đây?" chị thì thào. "Tôi biết phải làm sao?"
Tôi đợi một chút; tôi cảm thấy ghê tởm. "Nhưng chắc chắn chị có ai đó để tìm đến," cuối cùng tôi nói. "Có lẽ chị không nên ở lại. Dù sao chị cũng đâu muốn ở đây -- "
"Tuy nhiên, bây giờ thì khác," chị trả lời mà không ngước lên. "Tôi sẽ làm gì đây --"
"Nhưng chắc chắn có người chờ chị. Đi gặp và kể cho ông ta nghe. Sau Giáng Sinh hẳn đến bót cảnh sát. Mọi thứ ở đấy, số tiền ký thác ngân hàng cũng vậy. Chị phải trình diện sở cảnh sát mới rút được tiền."
"Tiền, tiền," chị thẫn thờ nói nhỏ. "Tiền gì cơ chứ?"
"Cũng kha khá. Trên dưới một ngàn hai trăm marks."
Chị ngửng lên. Đôi mắt thình lình vương nét giận dữ. "Không," chị rú lên; "không đúng!"
Tôi không trả lời. "Làm ơn nói là không đúng," chị thì thào.
"Có lẽ không đúng," tôi nói. "Một mặt khác, có thể anh ấy đã im lặng cóp nhặt từng xu để phòng hờ khi cần thiết."
Chị đứng lên. Chị đột nhiên hoàn toàn thay đổi. Cử động có vẻ giần giật và máy móc. Chị ghé sát vào mặt tôi.
"Vâng, đúng đấy," chị rít lên. "Tôi cảm thấy đúng! Nỗi khổ đau! Ôi, nỗi khổ đau! Đã để tôi trải qua tất cả, rồi lại ra cớ sự này. Nhưng tôi sẽ nhận và sẽ quăng bỏ trong một đêm, tôi sẽ vứt nó ngoài đường, để không còn gì nữa. Không còn gì. Không còn gì."
Tôi giữ im lặng. Tôi đã xong. Chị vừa bắt đầu, chị biết là Hasse đã mất, phần còn lại chị phải lo liệu lấy. Có lẽ chị sẽ kinh động khi biết anh ấy thắt cổ tự ải, nhưng đó là việc riêng của chị. Hasse không thể sống lại cho chị.
Chị khóc. Lệ cứ ứa trào từ khóe mắt. Chị khóc the thé, mộc mạc như một đứa trẻ. Cứ kéo dài như thế một lúc. Tôi có thể đánh đổi bất kỳ thứ gì để được hút một điếu thuốc. Tôi không chịu nỗi khi nhìn người ta khóc lóc.
Cuối cùng chị cũng ngừng. Chị lau mặt, rồi một cách vô thức lấy ra hộp phấn và dậm lên mặt mà không soi gương. Rồi chị cất hộp phấn vào nhưng quên cài ví. "Tôi không biết gì nữa," chị sụt sùi nói, giọng đứt quãng. "Tôi không biết gì cả. Anh ấy có lẽ là một người chồng tốt."
"Anh ấy là một người như thế."
Tôi đưa cho chị địa chỉ của bót cảnh sát và nói rằng nó đóng cửa. Tôi nghĩ là chị không nên đến nơi ấy ngay bây giờ. Đã quá đủ cho chị hôm nay.
Khi chị đã đi khỏi, Frau Zalewski từ phòng khách bước ra. "Lúc nãy ngoài cháu, còn ai khác không?" tôi hỏi, giận dữ với chính mình.
"Chỉ có Herr Georg. Cô ấy nói gì?"
"Chẳng nói gì. "
"Thế thì càng tốt."
"Cũng tùy. Đôi khi lại không."
"Bác không thương hại cô ấy," Frau Zalewsky hăm hở nói. "Chẳng thương hại một chút nào."
"Thương hại là thứ vô ích nhất trên đời," tôi bực tức. "Đó là mặt trái của lòng hả hê, bác cần phải hiểu như vậy. Mấy giờ rồi nhỉ?"
"Bẩy giờ kém mười lăm."
"Cháu muốn điện thoại cho Fraulein Hollmann lúc bẩy giờ. Cũng vì không muốn ai nghe. Có thể được chăng?"
"Không có ai ở nhà, trừ Herr Georg. Bác đã phái Frida ra phố. Nếu muốn, cháu có thể ngồi trong bếp. Dây điện thoại chỉ dài đến thế."
"Tốt."
Tôi gõ cửa phòng Georg. Đã lâu tôi không gặp anh ấy. Anh ngồi ở bàn viết và trông thảm sầu. Gần bên anh là một đống giấy xé vụn.
"Chào Georg," tôi nói, "cậu đang làm gì thế?"
"Kiểm điểm tồn kho," anh trả lời với nụ cười yếu ớt. "Công việc thích hợp cho ngày lễ Giáng Sinh."
Tôi cúi xuống, đọc một trong những mẩu giấy. Đó là quyển sổ ghi chép công thức hóa học ở trường cao đẳng.
"Tại sao thế?" tôi hỏi.
"Không còn mục đích, Bob."
Anh gần như trong suốt. Đôi tai như sáp. "Hôm nay cậu đã ăn gì rồi?" tôi hỏi.
"Có khác biệt gì đâu? Không phải là chuyện ấy, dù sao đi nữa. Không phải là thức ăn. Nhưng tớ không thể tiếp tục. Tớ phải đầu hàng mất thôi."
"Tệ đến vậy sao?"
"Vâng," anh đáp.
"Georg," tôi bình tĩnh nói, "hãy nhìn tớ. Thế cậu nghĩ rằng tớ chưa bao giờ mong muốn trở thành một thứ gì khác hơn là thợ đàn dương cầm trong một ổ điếm ở quán Café International?"
Anh nắn bóp những đốt tay mình. "Tớ hiểu, Bob. Nhưng chuyện ấy không giúp gì cho tớ. Với tớ, đó là tất cả. Và bây giờ tớ không còn thấy một mục đích nào trong đó. Không có mục tiêu ở đâu cả. Chúng ta sống để làm gì, tớ muốn biết."
Tôi không thể nín cười, anh ấy ngồi đó khổ sở đến vậy và cảm nhận sự việc một cách đen tối. "Cậu ngố lắm, ngốc ạ" tôi nói. "Cậu khám phá được một điều gì đó. Thế rồi cậu cho rằng chỉ có một mình cậu là thông thái hay sao? Dĩ nhiên, chẳng có mục đích gì sất. Ta không sống vì một mục đích, dù thế nào chăng nữa. Thời bây giờ chẳng còn đơn giản như xưa. Nào, thay quần áo. Đi với tớ đến quán International. Chúng ta sẽ liên hoan mừng ngày cậu bước vào đời. Cho tới giờ này, cậu vẫn chỉ là một đứa học trò. Tớ sẽ ghé đón cậu trong nửa tiếng."
"Không," anh nói. Anh còn mê mãi nơi đâu.
"Có, cậu phải đi," tôi nói. "Làm ơn cho tớ đêm nay. Tớ không muốn đi một mình."
Anh nhìn tôi, nghi ngờ. "Nếu cậu muốn," anh chán chường nói. "Nói cho cùng, có khác gì đâu."
"Này, cậu đã thấy rồi," tôi nói, "đấy là một khẩu hiệu khá hay cho một người mới."
Lúc bẩy giờ tối, tôi gọi điện thoại cho Pat. Sau bẩy giờ cước phí giảm phân nửa nên tôi có thể nói chuyện lâu gấp đôi. Tôi ngồi trên bàn ở hành lang và chờ. Tôi không muốn vào bếp. Nó sặc mùi đậu Hòa Lan, và tôi không muốn liên hệ nàng với cái mùi ấy.
Mười lăm phút sau đường dây được nối kết. Pat đến máy điện thoại tức thì. Khi nghe giọng nói ấm, trầm và có chút ngập ngừng của Pat gần kề, tôi trở nên kích động đến nỗi không thốt ra lời. Đó là một cảm giác như run rẩy, như nung nấu máu, mà không một nỗ lực nào của ý chí có thể ảnh hưởng ...
"Chúa ơi, Pat," tôi nói, "thực sự là em đấy à?"
Nàng cười to. "Anh đang ở đâu? Tại văn phòng xưởng sửa xe?"
"Không, anh đang ngồi trên bàn ở nhà trọ bà Zalewski. Em khỏe không?"
"Ơ thì, anh yêu."
"Em ngồi?"
"Vậng. Em ngồi ở bục cửa sổ trong phòng và khoác cái áo choàng tắm màu trắng của em. Tuyết đang rơi ngoài kia."
Bỗng dưng tôi thấy nàng rất rõ. Tôi thấy những hoa tuyết lượn rơi. Tôi thấy cái đầu thanh tú, tóc sậm, đôi vai thon hơi nghiêng về phía trước, làn da nâu đồng.
"Tin anh, Pat," tôi nói, "tiền bạc khốn nạn. Nếu chẳng phải vì nó, anh đã ngồi trên một chuyến phi cơ, và đến nơi ấy trước khi đêm tàn."
"Ach, anh yêu --"
Nàng im bặt. Tôi lắng nghe tiếng nhiễu âm lào xào, vi vu trong máy. "Em vẫn còn đấy chứ Pat?"
"Vâng, Robby. Nhưng anh đừng nói như thế nữa. Làm em chóng mặt."
"Anh cũng thấy choáng váng," tôi nói. "Kể cho anh nghe những gì em làm trên ấy."
Nàng bắt đầu, nhưng chẳng bao lâu tôi không còn theo dõi. Tôi chỉ nghe giọng nói của nàng, và trong khi tôi ngồi đó trên cái bàn trong hành lang tối om, giữa đầu con lợn lòi và nhà bếp với mớ đậu Hòa Lan, một cánh cửa dường như mở ra và một làn sóng của ấm áp và ánh sáng đùa vào, vỗ về và tươi sáng, đầy những giấc mơ và ước muốn và tuổi trẻ. Tôi chống chân vào bàn, tôi tựa đầu trong tay, tôi nhìn đầu con lợn lòi và cánh cửa nhà bếp đáng ghét, nhưng chẳng đặng đừng -- mùa hè bất chợt có mặt ở đó; gió, hoàng hôn trên cánh đồng bắp, và ánh sáng xanh lục của lối vào rừng.
Tiếng nói ngừng. Tôi thở sâu. "Thật vui được nói chuyện với em, Pat. Và tối nay em làm gì?"
"Tối nay có một tiệc nhỏ. Bắt đầu lúc tám giờ. Em vừa khởi sự thay y phục."
"Em sẽ mặc áo nào? Chiếc áo màu bạc?"
"Vâng, Robby. Chiếc áo màu bạc mà anh đã bế em đi trên hành lang vào phòng."
"Và em sẽ cùng đi với ai?"
"Không ai cả. Tiệc ở ngay đây. Tại phòng khánh tiết dưới lầu. Mọi người đều quen nhau, anh hiểu chứ."
"Chắc khó khăn lắm cho em, mặc chiếc áo bạc và không lừa dối anh."
Nàng cười. "Không đời nào với chiếc áo ấy. Em có những kỷ niệm đẹp với nó."
"Anh cũng thế. Anh đã nhìn thấy hiệu lực của nó. Nhưng anh sẽ không hỏi đến chi tiết, có thế thôi. Em có thể lừa dối nếu em thích, anh chỉ không muốn biết. Sau này, khi em trở về, nó sẽ chỉ là một giấc mơ của em, đã qua và đã lãng quên."
"Ach, Robby," nàng chậm rãi nói và giọng trầm hơn. "Em không thể lừa dối anh. Em nghĩ đến anh nhiều lắm làm sao có thể lừa dối. Anh không biết cuộc sống ở đây ra sao. Giam cầm trong nắng đẹp. Ta phải gắng tạo niềm vui cho bản thân, có thế thôi. Khi em nhớ tới căn phòng của anh, đôi khi em không biết làm gì; rồi em ra trạm xe lửa và ngắm những chuyến tàu từ dưới lên đây, và nghĩ rằng em sẽ gần anh hơn nếu em có thể ngồi vào toa, hay giả vờ đón một người nào đó."
Tôi cắn môi. Tôi chưa bao giờ nghe nàng nói như thế. Nàng luôn luôn e lệ, và kín đáo bày tỏ ý thích qua một cử chỉ, một cái liếc nhìn hơn là lời nói.
"Anh sẽ lo liệu để có lúc nào đó, anh đến thăm em, Pat." tôi nói.
"Thật ư, Robby?"
"Cuối tháng Giêng, có lẽ."
Tôi biết khó làm được điều ấy; từ tháng Hai trở đi chúng tôi phải chạy vạy kiếm tiền đóng viện phí cho nàng. Nhưng tôi cứ hứa, để nàng có một điều gì mà nghĩ tới. Rồi sau đó sẽ chẳng khó khăn lắm để trì hoãn cho đến khi nàng trở lại.
"Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Cố giữ gìn sức khỏe. Hãy hạnh phúc, rồi anh cũng hạnh phúc theo. Em có một đêm vui nhé."
"Vâng, Robby, em đang hạnh phúc."
Tôi đón Georg và đi đến Café International. Thật khó nhận ra cái quán cũ, tồi tàn, đầy khói. Cây Giáng Sinh giăng đèn rực rỡ và ánh sáng ấm cúng của nó phản chiếu trên chai lọ, ly tách và các chỗ bằng kền và đồng ở quầy rượu. Những cô gái giang hồ mặc áo dạ hội, đeo đầy nữ trang giả, ngồi quanh bàn chờ đợi.
Đúng tám giờ, ban hợp xướng của Hội những người chăn nuôi gia súc đổ vào. Họ sắp xếp ở cửa, theo vai trò, từ giọng nam cao chính bên phải đến giọng trầm phụ cuối hàng bên trái. Stefan Grigoleit, góa vợ và lái buôn lợn, cầm cái âm thoa, đánh lên một nốt chuẩn rồi họ bắt đầu hợp ca bốn bè: --
Ô Đêm Thánh, hãy đong đầy trái tim chúng con với hòa bình thiên giới,
Ban cho người hành hương khốn khó chỗ nghĩ ngơi; rót nhựa thơm lên vết thương của hắn,
Những vì sao lấp lánh, sáng trên nền trời xanh,
Tìm cách dẫn đường cho chúng con về với người -- hướng thiên đàng, chốn quê nhà.
"Cảm động quá," Rosa nói, lau mắt.
Lời ca thứ hai lịm dần. Những tràng pháo tay nổ lên như sấm. Ban hợp xướng cúi chào cảm tạ. Stefan Grigoleit chùi mồ hôi trán. "Beethoven vẫn cứ là Beethoven," ông tuyên bố. Không ai chống đối. Stefan cất miếng giẻ lau mồ hôi. "Và bây giờ, sẳn sàng chiến đấu."
Bàn ăn ở phòng câu lạc bộ. Giữa bàn, hai con heo sữa, dòn rụm và nâu, ngự ở những đĩa bạc bên trên các ngọn đèn cồn nhỏ. Chúng ngậm các quả chanh trong mồm, cành thông bỏng cháy trên lưng, và chúng không còn ngạc nhiên về bất kỳ điều gì nữa.
Alois xuất hiện trong bộ áo đuôi tôm mới nhuộm, quà tặng của ông chủ quán. Ông chủ đem đến nửa chục bình Steinhager và rót đầy ly mọi người. Đến cùng lúc là Potter, thuộc Hội Hỏa Táng, vừa từ một đám tang trở về. "Bình an dưới thế," ông trịnh trọng nói, bắt tay Rosa và ngồi xuống bên cạnh.
Stefan Gregoleit, lập tức mời Georg ngồi vào bàn, đứng dậy và đọc bài diễn văn ngắn ngọn nhất và hay nhất đời ông. Ông nâng ly rượu gin sủi tăm của mình, nhìn quanh, rạng ngời hạnh phúc, và hét to "Pros't!" Rồi ông ngồi xuống và Alois mang ra các thứ giò lợn, xúc xích và khoai tây chiên mỏng. Ông chủ tiệc đem đến những ly cối đựng bia Pilsener.
"Ăn chầm chậm nhé, Georg," tôi nhắc. "Trước tiên, dạ dầy cậu cần phải thích nghi với thịt mỡ."
"Tớ cần phải thích ứng toàn thể con người tớ trước nhất," cậu nói và nhìn tôi.
"Không lâu lắm đâu," tôi nói. "Không so sánh gì cả, chỉ thế thôi. Rồi sẽ ổn."
Anh chàng gật đầu và cúi mọp trên dĩa thức ăn.
Bất thình lình có tiếng cãi nhau ở cuối bàn. Giọng nói oang oang của Potter vượt trên tiếng ồn của bửa tiệc. Ông nài ép một trong những khách mời, Bush, lái buôn xì gà, uống với mình, nhưng Busch từ chối, viện cớ phải dành bụng để được ăn nhiều hơn.
"Thậm vô lý," Potter gắt. "Muốn ăn, cần phải uống. Nếu uống, ông lại càng ăn được nhiều hơn."
"Rõ thối," Busch, một người cao, gầy với cái mủi tẹt và cặp kính gọng sừng, ồm ồm nói.
Potter nhảy dựng. "Rõ thối?' Ông nói với tôi như thế hả, đồ cú vọ thuốc lá?"
"Xin can," Stefan Grigoleit kêu gọi. "Không được cãi trong đêm Giáng Sinh."
Rồi ông bảo họ giải thích lý do chuyện lộn xộn và đưa ra một đáp án kiểu Salomon. Nên thử nghiệm. Trước mặt mỗi phe tranh chấp là những dĩa thức ăn kích thước như nhau chứa thịt, khoai tây và xúc xích. Những khẩu phần khổng lồ. Potter được phép uống bất kỳ thứ gì, Busch được quyền không uống. Để thêm phần hấp dẫn, cho đặt cuộc. Grigoleit lãnh việc tính toán.
Những ly bia xếp thành một tràng hoa chung quanh Potter, thỉnh thoảng điểm xuyết với những cốc nhỏ, như kim cương, đựng Steinhager. Cá ba ăn một cho Potter. Rồi Grigoleit làm hiệu khởi đầu.
Busch cần cù nhai nuốt, cúi người trên đĩa thức ăn. Potter chiến đấu ở vị thế thoáng, thẳng. Cứ mỗi ngụm bia rượu, ông ta lại phấn khởi reo "Pros't" với Busch, và được đáp trả bằng một cái nhìn khinh khỉnh.
"Tớ thấy đau bụng," Georg nói với tôi.
"Đi theo tớ." Tôi dẫn anh ấy vào phòng vệ sinh và ngồi chờ ở phòng ngoài. Hương thơm dịu dàng của nến hòa với tiếng lắc rắc và mùi khen khét của lá thông cháy. Và thình lình dường như tôi nghe được tiếng chân nhẹ nhàng yêu dấu, cảm được hơi thở ấm áp, và nhìn thấy đôi mắt ...
"Chết thật," tôi nói và đứng lên. "Chuyện gì xảy ra với mình đây?'
Cùng một lúc tôi nghe tiếng hò reo tở mở. "Potter! Hoan nghênh Aloysius!"
Hội Hỏa Táng thắng.
Ở phòng trong, xì gà được đốt và cognac được chuyền tay. Tôi tiếp tục ngồi gần quày rượu. Các cô gái hớn hở bước tới, thầm thì với nhau.
"Các cô định làm gì thế?" tôi hỏi.
"Tụi này sắp mở quà," Marian đáp.
"Ach, thế à," tôi tựa đầu lên quày rượu và cố tưởng tượng những gì Pat đang làm. Tôi hình dung phòng khách của dưỡng đường, lò sưởi và Pat ngồi ở một cái bàn cạnh cửa sổ với Helga Guttmann và một vài người khác mà tôi không biết. Xa xôi kinh khủng ... Một đôi khi tôi vẫn nghĩ rằng, có một ngày khi tôi thức dậy, tất cả mọi thứ đều sẽ chấm dứt, quên lãng, chìm đắm, chết đuối. Không có gì chắn chắn -- ngay cả kỷ niệm.
Chuông reo. Các cô gái tất tả đi qua phòng bi- da, như một bày gà mái trong giờ ăn. Rosa đứng đó với cái chuông. Chị vẫy gọi tôi.
Trên bàn bi-da dưới một cây Giáng Sinh nhỏ là những cái đĩa gói bằng giấy lụa. Trên mỗi đĩa có một mẩu giấy nhỏ ghi tên, bên dưới là quà các cô sẽ tặng nhau. Rosa đã chuẩn bị tất cả. Mỗi cô phải có một món quà cho cô khác, gói lại, đưa Rosa, và chị bày biện chúng trên đĩa.
Các cô hớn hở xô lấn nhau, như trẻ con hấp tấp tìm xem càng sớm càng tốt đã nhận được những gì.
"Em không tìm đĩa của em?" Rosa hỏi.
"Đĩa gì?"
"Đĩa của em. Em cũng có quà."
Đúng thế, tên tôi kìa, hai màu đỏ và đen, và viết hoa nữa chứ. Táo, hạt, cam -- một cái áo len Rosa tự tay đan, một cà vạt xanh lục xám từ bà chủ tiệc, một đôi vớ hồng bằng lụa nhân tạo chính cống từ KiKi, một thắt lưng da rất đẹp từ Wally xinh xắn, nửa chai rum từ Alois người hầu bàn, nửa chục khăn tay của Marian, Lina, và Mimi hùn lại, và hai chai cognac của ông chủ tiệc.
"Ôi chao," tôi nói, "ôi chao, nhưng em chẳng mảy may ngờ."
"Ngạc nhiên, hả?" Rosa kêu to.
"Vô cùng."
Tôi đứng đó bối rối, và, chết thật, xúc động tận xương tuỷ.
"Các chị," tôi nói,"các chị có biết lần cuối tôi được quà Giáng Sinh là khi nào không? Tôi còn chẳng nhớ. Hẳn phải trước chiến tranh. Nhưng tôi lại không có gì để tặng các chị!"
Tôi hoàn toàn không hiểu được một niềm hạnh phúc mãnh liệt đang òa vỡ quanh tôi.
"Nhưng cậu luôn luôn đàn cho chúng tôi nghe," Lina nói, đỏ mặt.
"Phải đó, đàn vài bản cho chúng tôi, đó là quà của cậu."Rosa nói.
" "Tất cả những bài các chị thích," tôi nói. "Tất cả những bài các chị thích."
"Một bài nhắc nhở thời thơ ấu," Marian nói.
"Không, bài nào vui cơ." Kiki phản đối.
Anh bị áp đảo. Trong bấy kỳ tình huống nào, gần như không bao giờ anh được coi như một người đàn ông. Tôi ngồi trước dương cầm và bắt đầu. Mọi người hát theo.
Từ thời thơ dại -- có một bài ca đến với tôi ...
Ôi, đã xa lắm rồi -- nơi từng là quê hương
Bà chủ tiệc tắt hết đèn điện. Chỉ còn ánh sáng mơ màng của những ngọn nến. Vòi của vại bia róc rách như khe suối trong rừng và Alois chân bẹt đi tới đi lui ở hậu trường như Pan, thần chăn nuôi tóc đen. Tôi đàn qua lời thứ nhì. Với những đôi mắt long lanh và gương mặt sáng sủa của tầng lớp trung lưu, các cô đứng quanh đàn dương cầm -- nhưng nhìn kia, ai đang sụt sùi? Kiki, Kiki quê ở Luckenwalde.
Cửa phòng câu lạc bộ mở nhẹ nhàng. Ban hợp xướng, ngâm nga, theo nhịp quân hành, chân đá cao, bước ra xếp thứ tự đàng sau các cô, Grigoleit dẫn đầu với điếu xì gà Ba Tây.
Lần đầu khi tôi nói lời chia tay --thế giới dường như trọn vẹn,
Lúc tôi trở lại --không còn chi nữa!!!
Bản hợp ca nhẹ nhàng chấm dứt. "Hay quá," Lina nói.
Rosa đốt những cây nến ảo thuật. Chúng kêu xèo xèo, phun phì phì.
"Rồi, bây giờ đến lúc vui nhộn chứ, " chị nói. "Chúng ta phải giúp cho Kiki vui lên."
"Cả tôi nữa," Stefan Grigoleit nói.
Lúc mười một giờ Koster và Lenz đến. Với Georg, vẫn xanh xao, chúng tôi ngồi ở một bàn cạnh quầy rượu. Chúng tôi đưa Georg ăn vài miếng bánh mì khô cho chắc bụng. Chẳng bao lâu Lenz đã biến mất trong đám hỗn độn những người chăn gia súc. Mười lăm phút sau anh xuất hiện ở quầy với Grigoleit. Hai người khóa cánh tay và thề thốt tình huynh đệ đời đời.
"Stefan," Grigoleit nói.
"Gottfried," Lenz đáp và cả hai nốc cạn ly.
"Ngày mai tớ sẽ gởi cậu một gói xúc xích huyết và gan, Gottfried. Được không?"
"Vô cùng thích hợp." Lenz vỗ vai ông ta."Stefan tốt bụng thật!"
Stefan rạng rỡ. "Cậu có giọng cười hay tuyệt," ông nói, "tôi thích những người cười nói vui vẻ. Tôi dễ bị trầm cảm, đó là nhược điểm của tôi."
"Tôi cũng vậy," Lenz nói, "vì thế tôi hay cười, lẽ dĩ nhiên. Bob, tới đây, uống một ly với chúng tôi, những quán quân cười mãi không thôi."
Tôi đến bên họ. "Cái cậu kia thì sao?" Stefan hỏi, chỉ vào Georg."Trông cậu ấy cũng sầu thảm lắm."
"Tuy thế, chẳng cần nhiều mấy để cậu ấy hạnh phúc," tôi nói. "Cậu ấy chỉ cần một việc làm khiêm tốn."
"Không dễ tìm," Stefan nói, "thời buổi này."
"Cậu ấy sẽ làm bất cứ công việc gì."
"Ai cũng sẽ làm bất cứ công việc gì, trong thời buổi này." Stefan tỉnh táo ra.
"Cậu ấy chỉ cần bẩy mươi lăm marks mỗi tháng."
"Không thể nào được. Cậu ấy không thể sống nổi."
"Cậu ấy quả tình sống chỉ với số tiền ấy," Lenz nói.
"Gottfried," Grigoleit đáp, "Tôi là một thằng già ghiền rượu. Tốt thôi. Nhưng công việc là một vấn đề nghiêm chỉnh. Không phải thứ mà ta cho ra hôm nay và lấy lại ngày mai. Như thế còn tệ hơn để một người cưới vợ và bắt đi bà vợ sáng hôm sau. Nhưng nếu cậu ấy thật thà và có thể sống chỉ với bẩy mươi lăm marks, hẳn cậu ấy đã trải qua một thời kỳ đen tối. Cậu ấy có thể đến gặp tôi, tám giờ sáng thứ ba. Tôi cần một phụ tá điều hành trại chăn nuôi và những thứ khác. Thỉnh thoảng tôi sẽ thưởng thêm dăm ba gói thịt. Cậu ấy gầy trơ bẹ sườn, cần ăn cho đầy đặn một chút."
"Hứa danh dự chứ?"
"Lời nói danh dự của Stefan Greigoleit."
"Georg," tôi gọi. "Đến đây một phút."
Anh run lên khi nghe tin. Tôi trở lại với Koster.
"Nghe này,Otto," tôi nói, "nếu có thể sống cuộc đời mình một lần nữa, cậu có muốn không?"
"Như cuộc đời cũ?"
"Vâng."
"Không."
"Tớ cũng thế," tôi nói.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:56:58 GMT -6
Chương 24
Đó là một đêm tháng Giêng lạnh, ba tuần sau, và tôi đang ngồi trong quán International chơi xì dách với ông chủ. Quán vắng teo, các cô gái điếm chưa đến. Thành phố đang có biến động. Cứ vài phút một đám người lại kéo ngang, một số đi theo nhạc quân hành ầm ỷ, một số theo bài Quốc tế Ca, rồi những đám rước, lặng lẻ, với biểu chương dẫn đầu, đòi hỏi việc làm và bánh mì. Tiếng chân trên đường như tiếng tíc tắc không ngừng của một cái đồng hồ khổng lồ. Hồi chiều, có một cuộc xô xát giữa những người biểu tình và cảnh sát; mười hai người bị thương, và lực lượng cảnh sát vẫn còn đóng giữ. Tiếng còi xe cứu thương hụ điếc tai khắp các nẽo phố phường.
"Bất ổn," ông chủ nói, xòe mười sáu nút. "Từ chiến tranh đến giờ, chẳng khi nào được yên. Mà mọi người nào có mong muốn gì hơn là sự yên bình. Thế giới điên rồ."
Tôi trình ra mười bảy nút và lùa tiền vào.
"Thế giới không điên," tôi nói. "Mà con người trong đó."
Alois, đứng sau ông chủ, lắc lư tới lui trên những đầu ngón chân, xen vào: "Họ có điên khùng đâu, chỉ tham lam mà thôi. Người này căm hận người kia. Và bởi vì có nhiều thứ quá, cho nên hầu như không ai có gì. Chỉ là vấn đề phân phối."
"Đúng," tôi nói và thiệp bài. "Nhưng chuyện rắc rối ấy đã xảy ra cả ngàn năm nay."
Ông chủ lật ngửa bài của mình. Ông được mươì lăm nút và nhìn tôi, nghi ngờ. Rồi ông rút thêm một lá, con ách, và hoắc. Tôi mở bài của mình. Chỉ mười hai nút, lẽ ra ông đã thắng với mười lăm nút của ông.
"Con bà nó, tôi nghĩ chơi đây," ông chửi thề, "bài nhỏ xíu mà dằn. Tôi tưởng cậu ít nhất phải mười tám."
"Có ai đến kìa," Alois nói.
Cửa mở. Đấy là Koster. "Có gì lạ không, Otto?"
Anh gật đầu. "Đánh nhau ở các phòng trọ Borussia. Hai người bị thương nặng, vài tá bị thương nhẹ và khoảng một trăm người bị bắt. Hai vụ đọ súng ở hướng bắc. Một cảnh sát chết. Không rõ bao nhiêu thường dân bị thương. Nhưng ăn thua gì, phải đợi đến khi các cuộc họp quần chúng kết thúc thì mới rõ. Cậu sắp về chưa?"
"Vâng," tôi nói. "Tụi này sắp đóng cửa."
"Vậy đi theo tớ."
Tôi nhìn ông chủ. Ông gật đầu. "Thế thì, gặp ông sau," tôi nói.
"Gặp cậu sau," ông chủ nói, rộng lượng. "Cẩn thận nhé."
Chúng tôi đi. Bên ngoài, không khí như có mùi tuyết. Các biểu ngữ la liệt phơi trên đất, như những xác bướm, to và trắng.
"Gottfried biến đâu mất," Koster nói. "Tham dự một trong những cuộc họp quần chúng. Tớ nghe nói chúng sẽ bị càn quét, và thử nghĩ xem, chuyện gì sẻ xảy ra. Tốt nhất ta nên túm cổ cậu ấy về, trước khi cuộc họp chấm dứt. Cậu ấy chẳng phải là người lanh lợi nhất thế gian."
"Thế cậu biết anh ấy ở đâu không?" tôi hỏi.
"Không chính xác. Nhưng chắc chắn là một trong ba cuộc họp ấy. Ta phải đi tìm. Dễ nhận ra Gottfried vì chỏm tóc vàng của cậu ấy."
"Tốt." Chúng tôi lên xe và lái đến chỗ có cuộc họp thứ nhất.
Một xe tải đầy cảnh sát đậu trên đường. Quai nón sắt kéo trễ. Nòng carbines loang loáng ánh đèn đường. Những biểu ngữ màu mè giăng ngang cửa sổ. Một số người mặc đồng phục, chen chúc nơi cửa. Hầu hết đều còn trẻ.
Chúng tôi mua vé vào, từ chối không lấy truyền đơn, hộp thu tiền cùng thẻ hội viên, rồi đi vào phòng họp. Phòng đông người và sáng, dễ nhận diện những ai chống đối. Chúng tôi lưu lại gần cửa và Koster lướt ánh mắt tình tường qua các hàng ghế.
Một người vạm vở, khỏe mạnh đang diễn thuyết trên bục. Giọng nói trầm hùng từ lồng ngực của hắn vang tận góc phòng xa nhất. Đó là một giọng nói rất thuyết phục dù người nghe không hiểu chi. Hắn bước lòng vòng trên sân khấu, thoải mái, tay không vung vẩy nhiều, thỉnh thoảng lại nhấp một ngụm nước và nói đùa. Nhưng thình lình hắn đứng lại, quay về phía khán giả, giọng nói của hắn chợt thay đổi, lanh lảnh, từng tràng về những sự thật mà ai cũng biết, sự khốn khổ, đói khát, thất nghiệp; giọng nói càng lúc càng lớn, cuốn hút người nghe cho đến khúc furioso dồn dập, hắn hung hăng thét "Không thể để chuyện này tiếp diễn! Cần phải thay đổi!"
Khán giả bùng lên tán thưởng, vỗ tay và reo hò, như thể hắn đã biến đổi được tất cả. Trên kia, hắn ngừng lại chờ. Mặt hắn sáng bừng. Rồi những lời hứa hẹn, - chung chung, rất lôi cuốn, rất hấp dẫn --theo nhau; nhiều như trời mưa; một thiên đàng được xây cất trên đầu cử tọa; những mái vòm sơn phết lộng lẫy -- một cuộc xổ số mà trong đó những người thua cuộc là kẻ thắng lợi, mỗi người đều tìm dược hạnh phúc riêng tư; quyền hạn và sự phục hận riêng biệt.
Tôi nhìn cử toạ. Đủ hạng người --thư ký, tiểu thương, công chức, một ít công nhân và rất nhiều phụ nữ. Họ ngồi đó trong phòng họp nóng bức, ngã ra sau hay chồm tới trước, dãy này đến dãy kia, mặt kề mặt, con suối ngôn từ tuôn từ trên cao xuống người họ, và thật kỳ -- họ khác biệt nhau là thế, mà gương mặt họ lại có cùng một nét lơ đãng, sự ao ước ngái ngủ về một chốn xa xôi Fata Morgana mù sương nào đó; có sự trống lốc trong đó, và cùng một lúc, lòng mong mỏi háo hức đã xóa nhòa tất cả -- chỉ trích, nghi ngờ, đối nghịch và chất vấn, rõ rệt, hiện tại, thực tế. Hắn ta, trên cao đó, biết hết -- hắn có giải đáp cho tất cả câu hỏi, giúp đỡ cho mọi nhu cầu. Thật dễ chịu nếu ta trông cậy hắn. Thật dễ chịu khi có người suy nghĩ hộ ta. Thật dễ chịu nếu ta tin tưởng.
Koster huých tôi một cái. Lenz không có ở đây. Anh hất càm ra cửa. Tôi gật đầu, và chúng tôi bỏ về. Người xoát vé đi theo chúng tôi, ánh mắt nghi kỵ và hiểm ác. Ở tiền sảnh, một ban nhạc sắp sửa đi vào phòng họp, theo sau họ là một rừng biểu ngữ và dấu hiệu.
"Tổ chức cừ thật." Koster khen, khi chúng tôi ra đến bên ngoài.
"Số dách. Với tư cách một cựu chuyên viên tuyên truyền, tớ dám đánh giá như vậy."
Chúng tôi lái xa thêm vài con đường nữa. Tới một chỗ, nơi có buổi họp chính trị thứ nhì. Biểu ngữ khác, đồng phục khác, phòng họp khác; nhưng những gì còn lại thì như nhau. Trên các gương mặt, cũng niềm hy vọng vu vơ và trống vắng, hoài nghi. Bàn dành cho chủ tọa phủ khăn trắng, đối diện với hàng ghế khán giả; ủy viên thư ký, chủ tọa đoàn và vài ba cô gái già ngồi tại bàn. Diễn giả, kiểu thư lại, diễn thuyết không hùng hồn bằng người trước. Hắn nói về một nước Đức lý thuyết, đưa ra những thống kê minh họa, và bằng chứng; tất cả những gì hắn nói đều có thật, nhưng hắn không thuyết phục bằng gã kia, người chẳng chứng minh gì hết mà chỉ nói suông suông. Những ủy viên thư ký ở bàn chủ tọa mệt mỏi, dật dừ, nhìn tới trước, họ đã dự hàng trăm cuộc họp như thế.
"Trời trời,"một lúc sau, Koster nói. "Cũng không thấy anh ấy. Dù sao tớ đã không hy vọng gì cho lắm."
Chúng tôi tiếp tục lái đi. Không khí lạnh và thoáng, so với phòng họp ngột ngạt. Xe lướt bon bon. Chúng tôi chạy dọc theo một con kênh. Đèn đường hắt một thứ ánh sáng vàng đục, như vết dầu, trên mặt nước đen đang vỗ đều vào ghềnh xi măng. Một chiếc xà lan đen, chậm chạp trôi qua. Đèn báo hiệu của con thuyền lai dắt phát những tia đỏ và lục. Một con chó sủa bâng quơ, rồi một người đàn ông bước qua, che mất ánh đèn và biến vào một vuông cửa, lóe vàng trong giây lát. Ở bờ xa, nhà của khu West End trải dài, sáng rực. Cây cầu vòng cung bắt từ bờ nơi ấy sang bờ bên kia. Xe hơi, xe buýt và tàu điện xuôi ngược không ngừng trên đó. Nó như một con rắn màu, bóng loáng, vắt ngang dòng nước đen lờ đờ chảy.
"Tớ nghĩ mình nên để xe lại và đi bộ," một lúc sau Koster nói. "Như vậy đỡ lộ liểu."
Chúng tôi đậu Karl dưới ngọn đèn đường trước một quán rượu. Một con mèo trắng nhẹ nhàng phóng đi, khi chúng tôi xuống xe. Tới một chủt, vài cô gái điếm mang tạp dề đứng dưới một cổng vòm, ngừng bặt khi chúng tôi bước qua. Dựa góc nhà, một người quay đàn hộp đang ngủ vùi. Một bà lục lọi đống rác bên vệ đường.
Chúng tôi đi đến một khu chung cư to lớn, nhớp nháp với nhiều dẫy nhà khuất phía sau, nhiều sân trong và hẻm hóc. Tầng trệt là những cửa hàng, một tiệm bánh, một kho quần áo cũ và đồng nát. Hai xe tải với cảnh sát đậu trên đường, ngõ hẻm đầu.
Trong góc sân thứ nhất, có một quầy ghép bằng ván mỏng, trên đó treo nhiều biểu đồ tinh tú. Trước bàn giấy là một người quấn khăn xếp kiểu thổ nhĩ kỳ đứng trên bục nhỏ. Trên đầu hắn là tấm biển ghi: Khoa Chiêm Tinh, Xem Chỉ Tay, Tiên Tri -- Lấy Số Tử Vi Giá Mười Pfennige. Một đám đông bu quanh. Ánh sáng khắc nghiệt của ngọn đèn khí đá rọi xuống gương mặt vàng ệch, nhăn nheo của hắn. Hắn nói với khán giả đang im phăng phắc ngước nhìn -- vẫn cái nhìn thất thần, lơ láo, hy vọng vào phép lạ, hệt như những cái nhìn của cử tọa ở những cuộc họp chính trị quần chúng với biểu ngữ và bích chương.
"Otto," tôi nói với Koster, đi phía trước. "Bây giờ tớ biết mấy người đó muốn gì. Họ không muốn chính chị chính em gì cả. Họ muốn một thứ tôn giáo thay thế ."
Anh nhìn quanh. "Hẳn thế. Họ muốn tin vào một điều gì đó -- mà cái ấy là gì, không thành vấn đề. Cho nên, dĩ nhiên, họ lại cũng cuồng tín."
Chúng tôi đi vào sân thứ nhì, gần nơi có cuộc họp. Mọi cửa sổ đều sáng đèn. Chợt chúng tôi nghe tiếng huyên náo bên trong. Cùng một lúc, như tuân theo một dấu hiệu đã thỏa thuận, nhiều thanh niên mặc áo gió từ một cửa tối bên cạnh sân túa ra, băng qua sân, men theo bờ tường bên dưới hàng cửa sổ, đến cửa ra vào phòng họp. Người dẫn đầu đẩy cửa và cả bọn tràn vào.
"Đặc công," Koster nói. "Nép vào tường tiến tới, núp sau những thùng bia."
Có tiếng la hét rần rộ trong phòng họp. Chỉ một giây sau, cửa sổ vỡ vụn và một thân người bay qua. Cửa trước lập tức mở toang, một đám đông ùa ra, những người đi trước sụp té và bị người còn lại ngã chồng lên. Một phụ nữ thất thanh kêu cứu, và chạy ra, qua lối cổng vòm. Đám đông thứ nhì tràn theo, với chân ghế và ly bia, một cơn cuồng nộ không lối thoát. Một gã thợ mộc cao to nhảy ra, đứng gần bìa; mỗi khi thấy đầu của một người thuộc phe đối nghịch, cánh tay dài ngoẳng của hắn lại vung lên, đấm người ấy té trở vào trong. Hắn đánh người một cách bình thản như là bổ củi.
Một đám đông khác lại nhào ra và bỗng nhiên, chưa đầy một mét trước mắt chúng tôi, mái tóc vàng ươm như rạ của Gottfried bị ghì chặt trong tay của một người đã già.
Koster nhảy tới, biến mất trong đống người ấy. Vài giây sau tên gìà ấy buông Gottfried ra, rồi với vẻ kinh ngạc, đôi tay vươn lên chới với và như một thân cây trốc gốc, hắn bật ngửa vào đám đông. Ngay khi ấy tôi nhận ra Koster đang túm cổ áo của Lenz lôi đi.
Lenz trì lại. "Thả tớ ra, Otto, một chút nữa thôi," anh nghẹn thở.
"Nhảm," Koster nói, "cảnh sát sắp đến. Nhanh lên, ra khỏi đây, lại đàng kia."
Chúng tôi băng qua vuông sân đến khuôn cửa tối tăm bên cạnh. Chẳng sớm một giây. Tiếng tu huýt vang khắp sân, mũ sắt đen của cảnh sát lóe lên, giây chận được kéo vòng quanh sân. Chúng tôi chạy lên cầu thang để trốn đội tuần cảnh. Từ cửa sổ ở đầu cầu thang, chúng tôi nhìn xuống quang cảnh bên dưới. Cảnh sát làm việc giỏi tuyệt. Họ chận đường rút lui, xoi vào cái đám người hổn độn, tách họ ra, bắt giữ và áp giải nhanh gọn -- người đầu tiên chính là gã thợ mộc, bất bình, cố gắng giải thích một điều gì đó trong vô vọng.
Sau lưng chúng tôi, có tiếng khóa cửa mở. Một người đàn bà vận áo sơ mi ngủ, hai ống chân trắng khẳng khiu, nến cầm trên tay, thò đầu ra. "Anh đấy à?" bà ấy cáu kỉnh hỏi.
"Không phải," Lenz nói, đã hoàn hồn. Người đàn bà đóng sầm cửa. Lenz bấm nút cây đèn pin bỏ túi của mình, săm soi cánh cửa. Ông GERHARD PESCHKE, TRƯỞNG THỢ NỀ -- là người được mong đợi nơi đây.
Bên dưới đã im ắng. Cảnh sát đã rút lui và vuông sân trống trơn. Chúng tôi đợi một lúc, rồi xuống lầu. Đàng sau một cánh cửa, có một đứa bé khóc, dai dẳng, yếu ớt, thảm thương trong bóng tối. "Đứa bé cũng đúng," Gottfried nói. "Nó khóc báo trước."
Chúng tôi đi qua vuông sân thứ nhất. Chiêm tinh gia trơ trọi đứng trước những biểu đồ tinh tú. "Lấy số tử vi nhé, quý ông?" hắn mời. "Hay là xem chỉ tay?"
"Cứ nói thoải mái," Gottfried bảo, và chìa tay ra.
Hắn nghiên cứu nó. "Ông có một trái tim yếu ớt," hắn nói, tuần tự từng mục. "Tâm đạo phát triển đầy đủ, trí đạo rất ngắn; nhưng bù lại ông có tài về âm nhạc. Ông mơ mộng nhiều, nhưng sẽ không phải là một người chồng tốt. Tuy thế tôi vẫn thấy có ba đứa trẻ. Ông ngoại giao khéo, và có khuynh hướng ít nói, và sẽ thọ đến tám mươi tuổi."
"Đúng," Gottfried nói. "Như mẹ tôi thường nói với tôi trước khi lấy chồng -- người xấu sẽ sống lâu, người hiền mất sớm. Lẽ sống chết là phát minh của con người; không theo logic của cuộc đời.",
Anh trả tiền và chúng tôi tiếp tục đi. Đường vắng ngắt. Một chú mèo đen phóng ngang. Lenz chỉ vào nó. "Chúng ta nên quay lại, thực đấy."
"Đừng lo," tôi nói, "Chúng ta đã gặp một con mèo trắng khi nãy; bù qua sớt lại, chắc không sao."
Chúng tôi đi dọc theo đường. Một vài người bên kia đường, tiến lại gần. Đó là bốn đứa con trai. Một đứa mặc quần ống túm bằng da mới vàng chóe; mấy đứa kia đi ủng kiểu nhà binh. Chúng dừng lại và nhìn sang. "Nó đấy!" thình lình thằng mặc quần ống túm kêu lên, chạy băng qua đường, đến chúng tôi. Khoảnh khắc tiếp theo là hai phát súng nổ, thằng nhỏ co giò phóng đi và cả bốn đứa cố chạy cho thật xa. Tôi thấy Koster sắp sửa đuổi theo, nhưng bất ngờ không tả, anh xoay lại, đưa hai tay ra, nấc lên một tiếng đau thương, cố chụp lấy Gottfried Lenz ụp ngã xuống vĩa hè.
Trong một giây, tôi nghĩ anh chỉ té mà thôi; rồi tôi thấy máu. Koster giật áo choàng, xé toạc sơ- mi của Gottfried -- máu tràn ra, nhày đặc. Tôi ép khăn tay của tôi lên đó.
"Ở lại đây, tớ đi lấy xe," Koster nói và chạy đi.
"Gottfried," tôi nói, "cậu có nghe tôi không?"
Mặt anh chuyển qua màu xám. Đôi mắt khép nửa chừng. Mi mắt không động đậy. Tôi nâng đầu anh bằng một tay, tay còn lại đè chiếc khăn mùi xoa lên chỗ máu chảy. Tôi quỳ bên anh. Tôi cố lắng nghe tiếng òng ọc, tiếng khò khè nhưng tôi không nghe gì cả, không một âm thanh nào -- con đường vô tận, những căn nhà vô tận, đêm vô tận -- tôi chỉ nghe tiếng máu nhỏ tí tách rất khẻ xuống vĩa hè và tôi biết rằng đó phải là thời gian khác và đó không thể là sự thật.
Koster lái như bay đến. Anh hạ lưng dựa của chiếc ghế bên trái. Chúng tôi nhấc Gottfried lên và đặt anh nằm đấy. Tôi nhảy vào xe và Koster phóng đi. Chúng tôi lái tới trạm cứu thương gần nhất. Koster cẩn thận thắng xe.
"Cậu vào xem có bác sĩ hay không. Nếu không, chúng ta phải đi tiếp."
Tôi chạy vào. Một y công tiến ra gặp tôi. "Ở đây có bác sĩ không?"
"Có chứ. Anh có người nhà cần gặp bác sĩ?"
"Vâng. Hãy theo tôi. Xin mang theo cáng."
Chúng tôi nâng Gottfried, đặt lên cáng và khiêng anh vào. Bác sĩ mặc sơ-mi trần, đã chờ sẳn. "Chỗ này này."
Ông chỉ vào một cái bàn phẳng thấp. Chúng tôi khênh Gottfried lên bàn. Bác sĩ với tay kéo ngọn đèn, gần thân thể Gottfried. "Chuyện gì đây?"
"Bị bắn bằng súng lục."
Ông lấy một miếng gòn, lau bớt máu, sờ mạch Gottfried, nghe tim rồi đứng thẳng lên. "Không còn làm gì được nữa."
Koster chòng chọc nhìn ông. "Nhưng vết thương ở cạnh sườn. Sao lại có thể tệ đến thế ?"
"Có hai vết thương," bác sĩ nói.
Ông lại lau bớt máu. Chúng tôi khom xuống. Rồi chúng tôi thấy, xeo xéo phía dưới vết thương đẫm máu là vết thương thứ nhì --một lổ thủng đen, nhỏ ở vùng ngực gần tim.
"Có lẽ cậu ấy đã chết tức thì," bác sĩ nói.
Koster đứng thẳng lại. Anh nhìn Gottfried. Bác sĩ nhét gòn vào vết thương và dán băng keo lên.
"Các cậu muốn rửa tay không?" ông hỏi.
"Không," tôi nói.
Mặt Gottfried bây giờ vàng và hóp. Miệng bị kéo hơi lệch. Đôi mắt nhắm nửa vời, một bên khép nhiều hơn bên kia một chút. Anh nhìn chúng tôi. Anh chăm chú nhìn chúng tôi.
"Chuyện xảy ra như thế nào?" bác sĩ hỏi.
Không ai trả lời. Gottfried nhìn chúng tôi. Anh đăm đăm nhìn.
"Ta có thể lưu cậu ấy lại đây," bác sĩ nói.
Koster cựa mình. "Không, chúng tôi sẽ mang anh ấy đi."
"Không thể được," bác sĩ nói. "Ta phải báo cảnh sát. Và cả cảnh sát hình sự. Phải làm mọi chuyện ngay lúc này để có thể truy tìm thủ phạm."
"Thủ phạm?" Koster nhìn bác sĩ như không hiểu ông nói gì. "Tốt," rồi anh nói. "Tôi sẽ lái xe đưa cảnh sát tới."
"Cậu có thể điện thoại cho họ. Sẽ nhanh hơn."
Koster lắc đầu chầm chậm. "Không, tôi sẽ chở họ."
Anh đi ra và tôi nghe tiếng Karl phóng vù đi. Bác sĩ đẩy ghế lại gần tôi. "Trong khi chờ đợi, cậu không ngồi sao?"
"Cám ơn," tôi nói và tiếp tục đứng. Đèn chói chang trên buồng ngực máu me của Gottfried.
Bác sĩ đẩy ngọn đèn lên cao một chút. "Chuyện xảy ra như thế nào?" ông lập lại câu hỏi.
"Tôi không biết. Chắc bị nhầm với ai đó."
"Cậu ấy đã từng đi lính?" bác sĩ hỏi.
Tôi gật đầu.
"Ta có thể đoán biết, nhờ các vết sẹo," ông nói. "Và cánh tay teo. Cậu ấy đã bị thương nhiều lần."
"Vâng. Bốn lần."
"Thật trớ trêu," người y công nói. "Và những thằng quỷ nhỏ, khi ấy hãy còn nằm trong nôi."
Tôi không trả lời. Gottfried vẫn tha thiết nhìn tôi.
Lâu lắm Koster mới trở lại. Một mình. Bác sĩ bỏ tờ báo đang đọc xuống. "Cảnh sát có ở đó không?" ông hỏi.
Koster lặng im. Anh không nghe bác sĩ.
"Có cảnh sát ở đó không?" bác sĩ hỏi lại một lần nữa.
"Có ạ," Koster đáp. Chúng ta phải gọi điện mời họ. "
Bác sĩ nhìn anh, nhưng không nói gì và đi tới điện thoại.
Vài phút sau hai người cảnh sát đến. Họ ngồi xuống bàn và ghi chép nhân dạng của Gottfried. Tôi không hiểu, nhưng thấy xuẩn ngốc làm sao, khi phải nói tên họ, ngày sanh tháng đẻ, nơi cư trú của anh, bây giờ, khi anh đã chết. Tôi cứ nhìn cái ngòi chì đen mà viên cảnh sát thỉnh thoảng lại đưa lên môi nhấp ướt, và tôi trả lời như máy.
Viên cảnh sát kia bắt đầu lấy khẩu cung. Koster khai những điều cần thiết. "Ông có thể cho biết sơ qua hình dáng thủ phạm?" viên cảnh sát hỏi.
"Không," Koster trả lời. "Tôi không có để ý."
Tôi nhìn anh. Tôi nhớ đến cái quần ống túm vàng và bộ đồng phục.
"Ông không biết đảng phái của hắn? Ông không thấy phù hiệu hay đồng phục của hắn?"
"Không," Koster nói. "Tôi chẳng nhìn thấy gì trước khi súng nổ. Và sau đó tôi chỉ nghĩ đến --" anh ngập ngừng một giây --"đồng chí của tôi."
"Ông là đảng viên của một đảng phái?"
"Không."
"Tôi hỏi thế, vì ông nói người quá cố là đồng chí của ông --"
"Anh ấy là chiến hữu của tôi trong thời chiến," Koster trả lời.
Người cảnh sát quay sang tôi. "Ông có thể mô tả nhân dạng của thủ phạm?"
Koster nhìn xoáy vào tôi.
"Không," tôi nói. "Tôi cũng không thấy gì hết."
"Xuất sắc," người cảnh sát nói.
"Lúc ấy chúng tôi đang trò chuyện, và không để ý chi cả. Rồi việc ấy xảy ra đột ngột."
Người cảnh sát thở dài. "Như thế chẳng hy vọng gì bắt được kẻ phá hoại." Ông ta kết thúc biên bản.
"Chúng tôi có thể nhận xác anh ấy được chứ?" Koster hỏi.
"Thật ra --" viên cảnh sát nhìn qua ông bác sĩ. "Đã xác định được nguyên nhân cái chết chưa nhỉ?"
Bác sĩ gật đầu. "Tôi đã viết giấy khai tử."
"Vậy đầu đạn ở đâu? Tôi cần thu tang vật."
"Đầu đạn vẫn còn trong thi thể. Lẽ ra tôi nên --" bác sĩ lưỡng lự.
"Tôi cần cả hai cái đầu đạn. Tôi phải quan sát để kết luận nếu chúng được bắn từ một khẩu súng."
"Vâng," Koster nói, đáp lại cái nhìn của bác sĩ.
Người y công đưa cáng vào vị trí và kéo ngọn đèn xuống. Bác sĩ lấy dụng cụ ra và với cái que, thăm dò vết thương. Ông nhanh chóng gấp được viên đạn thứ nhất; nó nằm ở một chỗ không sâu lắm. Với viên đạn kia, ông phải cắt xẻ. Ông kéo găng cao su, và với lấy các thứ nhíp mổ và dao mổ. Koster xấn tới, vuốt mắt Gottfried lúc ấy vẫn còn mở hé. Tôi quay mặt đi khi tiếng dao cắt ngọt vào thịt. Trong khoảng khắc, tôi muốn nhảy xổ vào, xô bác sĩ qua một bên bởi đột nhiên, tôi có ý tưởng là Gottfried chỉ bất tỉnh và bác sĩ thực sự đang giết anh -- nhưng rồi tôi hiểu. Chúng tôi dư sức hiểu, bởi chúng tôi đã nhìn thấy quá nhiều xác chết.
"Nó đây rồi," bác sĩ nói và đứng thẳng lên. Ông lau đầu viên đạn và đưa cho người cảnh sát.
"Chúng giống hệt nhau. Bắn từ một khẩu súng, phải không?"
Koster khom xuống và chăm chú nhìn hai viên đạn nhỏ, sáng mờ, lăn lăn trong lòng bàn tay người cảnh sát.
"Vâng," anh nói.
Viên cảnh sát gói chúng trong giấy và bỏ vào túi.
"Thật tình thì không được phép," ông ta nói, đoạn tiếp tục, "nhưng nếu ông muốn đem ông ấy về nhà ... Các dữ kiện đều đã được minh xác, phải không bác sĩ?" Bác sĩ gật đầu. "Dĩ nhiên, ngài cũng là chuyên viên giám định tử thi," người cảnh sát nói tiếp; "trong trường hợp này, nếu ông muốn -- ông chỉ cần ... Có thể ngày mai sẽ có một ủy viên tới đây --"
"Tôi hiểu," Koster nói. "Chúng tôi sẽ giữ nguyên tình trạng."
Hai người cảnh sát ra về.
Bác sĩ đã đậy vết thương của Gottfried. "Các cậu tính sao? ông hỏi. "Các cậu có thể mượn cái cáng. Chỉ cần sáng mai mang trả, giờ nào cũng được."
"Vâng, cảm ơn bác sĩ," Koster nói. "Ta đi thôi, Bob."
"Để tôi giúp một tay," người y công nói.
Tôi lắc đầu. "Chúng tôi tự lo được."
Chúng tôi khênh cáng ra và đặt nó lên hai cái ghế trái đã hạ lưng dựa. Người y công và bác sĩ bước ra nhìn. Chúng tôi phủ cái áo khoác của Gottfried lên thi thể anh, và lái đi. Một chốc sau, Koster quay sang tôi.
"Chúng ta sẽ lái vòng quanh một hồi. Tớ đã rà soát một vòng. Nhưng có lẽ khi ấy còn quá sớm. Không chừng lần này chúng ta sẽ gặp lại chúng."
Tuyết bắt đầu lất phất rơi. Koster lái xe gần như không tiếng động. Anh nhả số, và đôi khi lại tắt máy. Anh không muốn ai nghe tiếng máy nổ, mặc dù bốn đứa mà chúng tôi tìm không thể nào biết, dĩ nhiên, chúng tôi có xe hơi. Chúng tôi lướt êm như bóng ma trắng dưới trời tuyết càng lúc càng nhặt. Tôi lấy cây búa từ hộp dụng cụ sửa xe, đặt bên mình để sẳn sàng nhảy khỏi xe và tấn công.
Chúng tôi lái vào con đường nơi đã xảy ra sự việc. Vẫn còn đó, vũng máu đen dưới ngọn đèn đường. Koster tắt đèn xe. Chúng tôi áp sát vĩa hè và quan sát chung quanh. Không một bóng người. Chỉ nghe tiếng ồn từ một quán rượu còn sáng.
Koster dừng xe ở ngã tư. "Ngồi đây," anh nói. "Tớ muốn vào xem."
"Tớ sẽ đi với cậu," tôi trả lời.
Anh nhìn tôi, cái nhìn mà tôi đã biết từ những lần khi xưa anh muốn tuần tiểu một mình. "Tớ sẽ không làm vọng động," anh nói. "Nó có thể trốn thoát. Tớ chỉ muốn biết nó có mặt trong đó hay không. Rồi chúng ta sẽ chờ. Cậu ngồi đây với Gottfried."
Tôi gật đầu và anh biến mất trong đám tuyết lả tả bay. Những bông tuyết tấp vào má tôi và tan trên da. Đột nhiên tôi không chịu được việc Gottfried bị che phủ, như thể anh không thuộc về chúng tôi nữa, và tôi kéo cái áo khoác xuống quá đầu anh. Giờ thì tuyết cũng rơi lên mặt, lên mắt, lên môi anh, nhưng chúng không tan. Tôi lấy khăn tay, lau chúng đi, và kéo áo khoác trùm đầu anh lại.
Koster trở về. "Không có gì?"
"Không," anh nói.
Anh ngồi vào xe. "Bây giờ chúng ta sẽ lái lòng vòng trên những con đường khác. Tớ có linh cảm chúng ta sẽ chạm mặt chúng chỉ trong vài phút nữa."
Xe gầm lên và bị giảm tốc độ ngay. Chúng tôi len lén đi trong đêm cuồn cuộn trắng, đường này qua đường khác; ở các góc quẹo tôi giữ chặt Gottfried để anh không tuột khỏi xe; thỉnh thoảng chúng tôi lại ngừng vài chục mét quá một quán rượu và Koster lại phóng chân trở lại quán để nhìn. Anh bị ám ảnh bởi một nỗi hận thù lạnh lùng, bi thảm; anh không nghĩ đến việc mang Gottfried về nhà trước nhất; có hai lần anh định làm như vậy, nhưng quay đầu xe trở lại ngay, vì anh tưởng tượng hảo huyền rằng bốn thằng nhóc sẽ xuất hiện liền khi ấy.
Thình lình, ở một con đường trống trải, chúng tôi thấy một khóm đen đàng xa. Koster lập tức tắt máy; và không tiếng động, không đèn, xe chúng tôi lướt tới. Họ không nghe gì. Họ rân ran trò chuyện. "Bốn thằng," tôi nói nhỏ với Koster.
Cùng lúc ấy, chiếc xe gầm lên, phóng hai trăm mét cuối cùng, leo lề và thắng kịt bên những người đang rú hét. Koster nghiêng mình khỏi xe, căng như cánh cung thép sẳn sàng bật, và gương mặt ngùn ngụt nỗi chết.
Đó là bốn ông già vô hại. Một ông đã say khướt. Họ bắt đầu chửi rủa. Koster không trả lời. Chúng tôi tiếp tục lái đi.
"Otto," tôi nói, "tối nay chúng ta sẽ không tìm thấy nó. Tớ không tin là nó dám chường mặt ra đường."
"Vâng, có lẽ," một lúc sau anh trả lời, và quay đầu xe.
Chúng tôi lái về nhà Koster. Phòng của anh có lối đi riêng nên chúng tôi không phải đánh thức ai. Khi sắp xuống xe, tôi hỏi: "Sao cậu không muốn mô tả nhân dạng của thằng đó cho cảnh sát? Như thế sẽ giúp cuộc điều tra dễ dàng hơn. Và ta đã nhìn hắn khá rõ."
Koster ngó tôi. "Bởi vì chúng ta sẽ giải quyết lấy, không cần tới cảnh sát. Thế cậu nghĩ --" Giọng anh êm ả, kềm chế và đáng sợ -- "Thế cậu nghĩ, dù sao, tớ cũng nộp hắn cho cảnh sát? Để hắn lảnh vài năm tù? Cậu hiểu rõ những trường hợp ấy sẽ kết thúc ra sao. Mấy thằng đó biết chúng sẽ gặp các quan tòa dễ dãi. Chúng ta không có gì như thế cả. Hơn nữa, nếu cảnh sát tìm ra nó, tớ cũng sẽ thề quyết rằng không phải nó, để sau này chính tay tớ xử. Gottfried đã chết và nó còn sống ... Chúng ta không có gì cả."
Chúng tôi nhấc cáng khỏi ghế và khiêng đi trong trời hoa tuyết xoáy lượn và trong gió, như xưa kia ở Flanders, chuyển vận xác một đồng đội từ mặt trận về hậu cứ.
Chúng tôi mua một cỗ áo quan và huyệt phần trong nghĩa trang giáo xứ. Gottfried thường nói, những khi chúng tôi bàn bạc, rằng lò thiêu xác không dành cho binh sĩ. Ý của anh, là được chôn trong lòng đất nơi anh đã sống lâu nay.
Hôm đi chôn là một ngày nắng đẹp. Chúng tôi mặc cho anh chiếc áo lính cũ với tay áo tả tơi vì đạn pháo và hãy còn vết máu. Chúng tôi tự đóng nắp quan tài và mang anh xuống lầu. Không mấy ai đưa tiễn, chỉ có: Ferdinand, Valentin, Alfons, Fred bồi rượu, Georg, Jupp, Frau Stoss, Gustav, Stefan Grigroleit, và Rosa.
Ở cổng nghĩa trang, chúng tôi phải chờ. Có hai đám tang trước chúng tôi, một đám với xe nhà đòn đen, đám kia xe thổ mộ, ngựa phủ chăn đen và bạc và người đưa đám dường như không tỏ vẻ buồn thảm cho lắm.
Chúng tôi nhấc quan tài khỏi xe và tự hạ huyệt bằng dây thừng. Người phu đào huyệt hài lòng, vì ông đã quá cực nhọc ở các đám tang kia. Chúng tôi có mời một mục sư. Chúng tôi không biết Gottfried nghĩ thế nào về chuyện ấy, nhưng Valentin kiên quyết. Ít ra chúng tôi cũng yêu cầu ngài đừng đọc diễn văn. Ngài chỉ cần đọc một đoạn trong Kinh Thánh.
Mục sư là một người lớn tuổi, cận thị. Khi tới bên mồ, ngài vấp phải một cục đất và có lẽ đã té xuống huyệt nếu Koster và Valentin không đỡ kịp. Quyển Thánh Kinh và đôi mục kỉnh mà ngài sắp sửa mang, văng khỏi tay. Chúng rơi tọt xuống huyệt. Ngài thất thần nhìn theo.
"Không sao, thưa Mục sư." Valentin nói, "chúng con sẽ giúp ngài."
"Quyển sách không cần lắm," ngài dịu dàng nói, "nhưng ta cần cặp kính."
Valentin bẻ một nhánh cây ở hàng dậu nghĩa trang. Rồi anh quỳ cạnh huyệt và cố tìm cách móc một bên gọng kính và lôi nó khỏi những vòng hoa. Gọng kính mạ vàng. Thánh Kinh lọt vào khe giữa quan tài và vách đất; cần phải nhấc quan tài ra khỏi huyệt và nhảy xuống lấy. Cả Mục sư cũng không muốn vậy. Ngài đứng đó, bối rối. "Ta có nên nói vài lời, thay vào đó?"
"Mục sư đừng ngại," Ferdinand nói. "Cậu ấy đã có nguyên một quyển KInh Thánh bên dưới."
Đất mới đào có mùi rõ rệt. Trong một những hòn đất, có con ấu trùng bọ da màu trắng đang ngọ ngoạy. Khi đất được lấp, nó vẫn sẽ tiếp tục sống dưới đấy, nở ra, và sang năm sẽ trồi lên và thấy lại ánh sáng. Nhưng Gottfried Lenz đã chết. Anh bị hủy diệt. Đứng bên mồ của anh, chúng tôi biết rằng thân thể của anh, tóc của anh, mắt của anh vẫn còn đó, tuy đã biến đổi, những vẫn còn đó và mặc dù tất cả những điều ấy, anh đã mất và sẽ không bao giờ trở lại. Vượt ngoài tầm hiểu biết. Da của chúng tôi ấm, ý nghĩ của chúng tôi rộn rịp, tim của chúng tôi bơm máu trong huyết quản; chúng tôi đã như thế trước đây, chúng tôi cũng vậy hôm qua; chúng tôi không bất thần muốn một cánh tay, chúng tôi đã không mù hay ngu xuẩn, mọi thứ đều như lệ thường, chẳng bao lâu chúng tôi sẽ ra về -- và Gottfried Lenz sẽ ở lại và sẽ không bao giờ đến. Thật ngoài tầm hiểu biết.
Những hòn đất rơi lộp bộp trên nắp quan tài. Người phu đào huyệt đã đưa chúng tôi mấy cây thuổng, và bây giờ chúng tôi chôn anh, -- Valentin, Koster, Alfons, và tôi, -- như chúng tôi đã chôn biết bao chiến hữu trước đây. Ù ù, một bài hát nhà binh xưa, vang trong đầu tôi, một bài hát nhà binh buồn thê thiết mà anh thường ngân nga -- "Argonnewald, Argonnewald, một nghĩa trang yên tĩnh là ngươi đây..."
Alfons mang theo một thập tự bằng gỗ đen, đơn giản, như hàng trăm ngàn thập tự khác ở những dãy dài vô tận các nấm mồ bên Pháp. Chúng tôi cắm nó xuống đầu mộ và mắc cái mũ sắt cũ của Gottfried lên.
"Về thôi," cuối cùng Valentin nói, giọng khản đặc.
"Vâng," Koster nói. Nhưng anh vẫn ở lại. Tất cả chúng tôi đều ở lại.
Valentin nhìn suốt chúng tôi. "Và để làm gì?" anh chậm chạp nói."Để làm gì? Mẹ kiếp."
Không ai trả lời.
Valentin phác một cử chỉ mỏi mệt. "Ta về thôi."
Chúng tôi ra về, theo con đường trải sỏi. Ở cổng Fred, Georg và những người kia còn đứng chờ. "Cậu ấy có lẽ đã cười một trận thỏa thích," Stefan Grigoleit nói, và nước mắt ràn rụa trên gương mặt giận dữ, bất lực của ông.
Tôi nhìn quanh. Không có ai theo dõi chúng tôi.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:57:51 GMT -6
Chương 25
Tháng Hai tôi ngồi trong xưởng sửa xe với Koster lần cuối. Chúng tôi phải bán xưởng, và chờ người phát mãi tới, đấu giá các trang thiết bị và chiếc tắc xi. Koster có thể có việc làm vào mùa xuân, lái xe đua, cho một công ty nhỏ sản xuất xe hơi. Tôi vẫn đàn ở International, nhưng sẽ tìm việc phụ ban ngày để kiếm thêm.
Một ít người đã tụ tập trong sân. Phát mãi viên đã đến. "Cậu ra đó chứ, Otto?" tôi hỏi.
"Để làm gì? Mọi thứ đều có sẳn và ông ấy biết rành công việc."
Koster trông hốc hác, mệt mỏi. Ta không dễ biết, nhưng nếu quen thân với anh, ta có thể nhận ra điều đó. Mặt anh đanh lại. cứng rắn khác xưa. Đêm này sang đêm khác, anh lang thang ngoài đường, cùng một khu xóm. Đã từ lâu anh biết tên thằng nhóc bắn chết Gottfried. Nhưng anh không tìm ra nó; vì sợ cảnh sát, nó đã đổi nhà trọ và trốn chui trốn nhủi ở một xó nào đó. Alfons cũng lấy được tin tức này. Anh cũng chờ. Có khả năng là thằng nhóc ấy không còn ở thành phố. Rằng nó không biết Koster và Alfons theo dõi. Họ chờ nó quay lại, khi nó nghĩ rằng đã an toàn.
"Tớ ra ngoài xem chơi, Otto," tôi nói.
"Được mà."
Tôi đi ra. Băng ghế sửa xe và các thứ lặt vặt chất đống giữa sân. Bên phải, cạnh vách tường là chiếc tắc xi. Nó được lau chùi tươm tất. Tôi quan sát bộ nệm và lốp xe. "Em bò sữa vui tươi của chúng ta," Gottfried thường âu yếm gọi.
Có ai đó vỗ nhẹ lên vai. Tôi quay lại, ngạc nhiên. Một anh chàng diêm dúa khó coi với chiếc áo choàng có thắt lưng, đứng đối diện. Hắn nháy mắt và quay tít cái gậy tre. "Chào ông bạn! Người quen cũ đây mà."
Một ý niệm mơ hồ dâng lên trong trí nhớ của tôi. "Guido Thiess của hảng Augeka."
"Nhớ hay thế!" hắn nói, mãn nguyện. "Ta gặp nhau cũng vì chiếc xe này. Phải nói là lúc ấy cậu đi với một thằng cha dễ ghét vô cùng. Tớ dằn lòng lắm mới không đấm hắn vài cái"
Các sớ thịt trên mặt tôi co giật ngoài ý muốn, khi tôi nghĩ đến hắn thụi Koster mấy phát. Thiess lại tưởng đấy là một nụ cười và tới phiên hắn nhe hàm răng khá thảm. "Tuy nhiên, chuyện đã qua. Guido không ôm hận. Dù sao, cậu cũng đã trả một số tiền quá lớn cho cái xe già như ông nội. Còn lại gì cho cậu không?"
"Có," tôi nói. "Xe tốt lắm."
Thiess cười khi dễ. "Nếu làm theo lời khuyên của tớ, cậu đã kiếm nhiều tiền hơn. Tớ cũng thế. Tuy nhiên, chuyện đã vào dĩ vãng. Hãy quên và tha thứ. Hôm nay ta có thể xử dụng mánh khóe cũ: Chúng ta sẽ đấu giá, tối đa năm trăm marks, há? Có con ma nào thèm mua đâu. Đồng ý?"
Tôi chợt hiểu. Hắn tưởng là dạo ấy chúng tôi mua bán xe kiếm lời, và hắn không biết xưởng sửa xe này của chúng tôi. Trái lại, hắn tưởng nhầm chúng tôi tìm mua chiếc xe một lần nữa.
"Xe vẫn đáng một ngàn năm trăm marks," tôi nói. "Chưa kể thuế."
"Đúng," Guido hăm hở nói. "Tớ đề nghị, ta đấu tới năm trăm marks. Nếu mua được, tớ sẽ chi cho cậu ba trăm tiền tươi, tại chỗ."
"Không được," tôi nói. "Tớ có sẳn mối bán lại rồi."
"Trong trường hợp ấy --" hắn muốn đưa ra đề nghị mới.
"Không ích gì." Tôi đi tới ra giữa sân. Hắn dám mua tới giá một ngàn hai trăm marks, bây giờ tôi biết.
Người phát mãi bắt đầu rao. Trước hết là những trang thiết bị. Chẳng được bao nhiêu. Dụng cụ sửa xe, cũng thế. Rồi đến chiếc tắc xi. Giá khởi đầu là ba trăm marks.
"Bốn trăm," Guido nói.
"Bốn trăm năm mươi," một chàng trai trong bộ đồ thợ máy nói, sau khi ngần ngừi rất lâu.
Guido trả năm trăm. Phát mãi viên rao mời. Chàng trai trong bộ đồ thợ máy không nói gì. Guido nháy mắt với tôi và đưa bốn ngón. "Sáu trăm," tôi nói.
Guido lắc đầu và trả bẩy trăm. Tôi trả cao hơn. Guido theo đuổi trong tuyệt vọng. Giá lên đến một ngàn, và hắn làm những cử chỉ đầy ý nghĩa, và với các ngón tay của hắn, ra dấu là tôi vẫn có thể được chia một trăm. Hắn kêu giá một ngàn lẻ mười.
Khi giá lên đến một ngàn một trăm, mặt hắn đỏ lừ và thù nghịch, nhưng vẫn đấu một ngàn một trăm lẻ mười. Tôi nâng lên một ngàn một trăm chín mươi, hy vọng hắn sẽ ra giá một ngàn hai trăm. Rồi tôi sẽ thôi.
Nhưng Guido đã điên tiết. Hắn bực tức vì theo tính toán của hắn, hắn đang bị lấn ép; và đột nhiên hắn đề nghị một ngàn ba trăm. Tôi làm tính thật nhanh. Nếu thật sự muốn mua, hắn đã dừng ở một ngàn hai trăm. Hiện giờ hắn chỉ muốn chọc tức khiến tôi trả giá cao, để trả thù. Từ câu chuyện với tôi, hắn nghĩ rằng một ngàn năm trăm là giới hạn của tôi, và do đó không thấy nguy hiểm cho hắn.
"Một ngàn ba trăm lẻ mười," tôi nói.
"Một ngàn bốn trăm," Guido xướng lên, thật nhanh.
"Một ngàn bốn trăm lẻ mười," tôi do dự. Tôi sợ tôi mắc kẹt.
"Một ngàn bốn trăm chín mươi," Guido nhìn tôi, đắc thắng và chế diễu. Hắn nghĩ hắn đã nêm muối mặn chát vào chén xúp của tôi.
Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn và không nói gì. Người phát mãi lập lại, lần thứ nhất, lần thứ hai, và rồi nâng búa. Trong giây phút ấy, nét mặt của hắn đổi từ thắng lợi sang ngỡ ngàng.
Không thể hiểu, hắn đến bên tôi. "Tớ tưởng cậu muốn --"
"Không," tôi nói.
Hắn lấy lại bình tỉnh và gãi đầu. "Mẹ kiếp. Không dễ gì giải thích với công ty. Tớ cứ tưởng cậu muốn mua tới giá một ngàn năm trăm. Tuy nhiên -- ít nhất kỳ này tớ cũng giật được ông nội già của cậu."
"Tớ cũng định là thế," tôi nói. Guido không hiểu. Chỉ đến khi nhìn thấy Koster từ văn phòng bước ra, hắn mới vỡ lẽ và lùa bàn tay bối rối trong tóc. "Trời thần ơi, chiếc xe này của mấy cậu? Đần quá, tớ đúng là thằng đần! Lỡ mua rồi. Bị lừa rồi. Ô Guido, chuyện này không nên xảy ra cho mày mới phải. Gậy ông đập lưng ông. Tuy nhiên -- không ích gì than khóc một lỗi lầm đã qua. Con chó dữ dằn nhất thường mắc miếng mồi tầm thường nhất. Ta sẽ huề nhau kỳ tới."
Hắn ngồi sau tay lái và lái đi. Chúng tôi nhìn theo, và chúng tôi chẳng thấy hạnh phúc gì lắm.
Buổi chiều Mathilda Stoss đến. Chúng tôi phải trả tiền công tháng cuối cho bà. Koster đưa tiền và đề nghị bà xin việc quét dọn với người chủ mới. Chúng tôi đã dàn xếp được việc làm cho Jupp. Nhưng Mathilda lắc đầu. "Không, không, Herr Koster, bác không muốn đi làm nữa. Gân cốt của bác đã cứng đờ. "
"Thế bác nghĩ bác sẽ làm gì?"
"Bác sẽ đi theo con gái. Nó có chồng ở Bunzlau. Các cậu có biết Bunzlau? "
"Không," tôi đáp.
"Herr Koster biết không?"
"Cháu cũng không biết, Frau Stoss ạ."
"Buồn cười nhỉ," Mathilda nói, "không ai biết Bunzlau. Bác đã hỏi thăm nhiều người lắm. Thế mà con gái của bác đã lấy chồng ở đấy mười hai năm rồi. Chồng nó là thơ ký."
"Vậy thì sẽ có một Bunzlau, bác có thể tin chắc, nếu có một viên thư ký cư ngụ ở đấy."
"Bác chẳng biết nói chi. Nhưng có buồn cười chăng, khi không ai biết đến thành phố ấy?"
Chúng tôi đồng ý. "Nhưng sao trong ngần ấy năm, bác chưa bao giờ thăm viếng?" tôi hỏi.
Mathilda cười khỉnh. "Ơ, thì cũng có chuyện ... Tuy nhiên, hiện nay chúng lại muốn bác đến thăm cháu ngoại. Đã có bốn nhóc. Và thằng Edward sắp sửa chui ra nữa chứ."
"Cháu tin rằng ở Bunzlau cũng có Schnapp ngon," tôi nói. "Hiệu Damson hay gì đó..."
"Chẳng có đâu," Mathilda nói. "Thực ra, rượu chè chính là chuyện ấy. Rể của bác, xin lỗi các cậu, là người cử rượu tuyệt đối. Hạng người ấy không nhấp một giọt nào."
Koster với lấy chai rượu cuối cùng trên cái kệ trống trơn. "Ồ, Frau Stoss, vậy trong trường hợp này chúng ta phải uống với nhau lần chót, trước khi chia tay."
"Đồng ý với cậu," Frau Stoss nói.
Koster đặt ly trên bàn và rót rượu vào. Mathilda ực một hơi, như rum chảy tưới qua nia. Đôi môi cong tớn và hàng ria mép giần giật.
"Một ly nữa nhé?" tôi hỏi.
"Bác sẽ không từ chối."
Bà uống thêm một ly đầy nữa, rồi từ giã.
"Chúc bác những gì tốt đẹp nhất ở Bunzlau."
"Vâng, cám ơn cậu nhiều. Nhưng buồn cười quá, phải không, chẳng ai biết cái nơi quái quỷ ấy, nhỉ?"
Bà lạch bạch đi ra. Chúng tôi đứng một lúc trong xưởng sửa xe. "Có lẽ chúng ta cũng đi thôi, tớ nghĩ vậy." Koster nói.
"Vâng," tôi trả lời. "Chẳng còn gì để làm ở đây."
Chúng tôi khóa cửa và bước ra. Rồi chúng tôi đi lấy Karl về. Nó đậu trong một ga-ra gần đấy và chúng tôi không bán nó cùng với những thứ khác. Chúng tôi lái đến ngân hàng và Koster nộp tiền cho Quỷ Thu Nhận. "Tớ sắp đi ngủ," anh nói. "Chốc nữa, cậu không bận gì chứ?"
"Tớ đã xin nghĩ trọn đêm nay."
"Tốt, vậy tớ sẽ ghé qua lúc tám giờ."
Chúng tôi ăn tối ở một quán nhỏ miền quê, rồi tiếp tục lái. Vừa vào đến những con đường đầu tiên trong thành phố thì lốp của bánh trước bị thủng. Chúng tôi đổi tay lái cho nhau. Đã lâu, Karl không được tắm gội và tôi thấy mình bẩn thỉu. "Tớ phải rửa tay một phát, Otto," tôi nói.
Gần đó có một quán cà phê khá lớn. Chúng tôi vào quán, ngồi ở một bàn cạnh cửa. Chúng tôi ngạc nhiên, quán chật nức người, hầu như không còn chỗ trống. Một ban nhạc nữ trình diễn và trong quán đang có trò hoạt náo; ban nhạc đội mũ giấy sặc sở, dăm ba người khách mặc áo cải trang, những sợi giấy hoa giăng từ bàn này sang bàn khác, bong bóng lững lơ, những người hầu bàn với các chồng khay trên tay tất tả tới lui, và cả quán chìm trong nhộn nhịp, trong tiếng cười nói xôn xao.
"Ở đây có chuyện gì thế?" Koster hỏi.
Cô gái da trắng bàn bên cạnh tung một chùm confetti li ti như mây rơi lên chúng tôi.
"Hai anh từ đâu tới vậy?" nàng cười. "Không biết hôm nay là Thứ Ba Béo hay sao?"
"Thì ra thế," tôi nói. "Vậy tớ đi rửa tay cái đã." Tôi phải băng ngang căn phòng rộng để tới phòng vệ sinh. Tôi bị cản đường bời một đám đông say sưa đang công kênh một chị đàn bà lên bàn, ép hát. Chị ta chống cự và kêu ầm ỷ; cái bàn lật, và cùng với nó, cả đám ngã lăn. Tôi đang đợi cho lối đi trống lại, thì thình lình có một cảm giác như điện giật. Tôi đứng đó, cứng đờ và bất động; cả quán chìm xuống; tiếng ồn, tiếng nhạc, không còn gì, chỉ còn những hình bóng mơ hồ lãng đãng chung quanh; nhưng rõ rệt và sắc nét khủng khiếp là cái bàn, nơi đấy có một thằng nhóc đội lệch cái mũ thằng hề, tay choàng một cô gái nửa tỉnh nửa say, cặp mắt mất hồn lờ đờ, đôi môi mỏng quẹt, và dưới gầm bàn thò hai ống quần bó sát da vàng chói, lòe loẹt, bóng lộn.
Một người hầu bàn đụng vào tôi. Như say như tỉnh, tôi nhích qua một bên rồi dừng lại. Người tôi nóng ran như bị phỏng, nhưng toàn thân tôi run bây bẩy. Lòng bàn tay tôi ướt đẫm. Và rồi tôi nhìn thấy những người còn lại ở bàn. Tôi nghe họ, với vẻ mặt thách thức, đồng ca một bài hát và gõ nhịp với những ly bia. Một lần nữa, lại có người đụng vào tôi. "Đừng có chắn lối đi chứ," hắn càu nhàu.
Tôi bước như máy và tìm được phòng rửa mặt, tôi rửa tay và chỉ ý thức được khi da tay của tôi sắp bong ra. Rồi tôi quay lại.
"Có chuyện gì thế?" Koster hỏi.
Tôi không thể trả lời. "Cậu ốm hả?" anh hỏi.
Tôi lắc đầu và liếc qua bàn bên cạnh, nơi cô gái da trắng vẫn chăm chú nhìn chúng tôi. Đột nhiên Koster tái mặt. Mắt anh nhíu hẹp. Anh chồm tới. "Đúng không?" anh hỏi rất khẻ.
"Vâng," tôi trả lời.
"Ở đâu?"
Tôi nhìn về hướng ấy.
Koster chầm chậm đứng lên. Như một con rắn sắp mổ.
"Cẩn thận," tôi thì thào. "Đừng làm ở đây, Otto."
Anh khoát tay thật nhanh, rồi từ từ tiến tới. Tôi chuẩn bị đi theo. Một người đàn bà ấn cái nón giấy màu xanh lục và đỏ lên đầu anh và cài quai nón cho anh. Chị ta lùi phắt lại dù không bị anh động tay vào, và chòng chọc nhìn theo. Anh đi chầm chậm một vòng quanh phòng và trở lại.
"Không còn đó," anh nói.
Tôi đứng lên, quan sát. Koster nói đúng. "Cậu có nghĩ là nó đã nhận ra tớ?" tôi hỏi.
Koster nhún vai. Bây giờ anh mới để ý cái mũ giấy trên đầu và tháo bỏ.
"Tớ không hiểu," tôi nói. "Tớ chỉ ở trong phòng vệ sinh, cùng lắm là một hay hai phút."
"Cậu đi hơn mười lăm phút."
"Vậy hả?" Tôi nhìn cái bàn ấy một lần nữa. "Mấy người kia cũng đi rồi. Có một cô gái với họ, cô ấy cũng không còn. Nếu nó nhận ra tớ, chắc hẳn chỉ một mình nó lĩnh đi mà thôi."
Koster ngoắc người hầu bàn. "Quán có cửa thứ nhì không?"
"Vâng, ở đàng ấy, vách bên kia, trổ ra Hardenbergstrasse."
Koster móc trong túi một đồng kim loại và đưa cho người hầu bàn. "Chao ơi," hắn nói.
"Xấu hổ," cô gái da trắng ở bàn bên cạnh nói, mỉm cười. "Thật là những hiệp sĩ trang trọng."
Bên ngoài, gió tạt mạnh vào chúng tôi. Gió dường như sương giá, so với sương mù nóng ấm bên trong.
"Cậu về đi," Koster nói.
"Bọn chúng đông lắm ," tôi nói, leo vào xe với anh.
Xe vọt đi. Chúng tôi lùng sục tất cả những đường phố chung quanh, càng lúc càng xa, nhưng không thấy gì. Cuối cùng, Koster dừng lại.
"Biến mất," anh nói. "Nhưng không sao. Chúng ta sẽ gặp nó ngay, chẳng sớm thì muộn."
"Otto," tôi nói, "chúng ta nên buông bỏ."
Anh nhìn tôi. "Gottfried đã mất," tôi nói và kinh ngạc trước lời nói của mình. "Việc ấy không làm Gottfried sống lại."
Koster vẫn nhìn tôi.
"Bob," anh chậm rãi nói, "Tớ không biết mình đã giết bao nhiêu mạng người. Nhưng tớ nhớ đã bắn một thằng lính Anh. Súng của nó bị hóc và nó không thể làm gì. Tớ đứng cách nó chỉ vài mét và trông thấy gương mặt bầu bỉnh, hãi hùng của nó, nỗi kinh hoàng hiện rõ trong ánh mắt -- đó là trận đầu tiên của nó, sau này tớ mới biết, và nó chưa đầy mười tám -- và tớ đã bấm cò khẩu súng máy của tớ, nã thẳng vào gương mặt trẻ thơ xinh xắn, sợ hãi và bất lực của nó, khiến hộp sọ của nó vỡ vụn như quả trứng gà. Tớ không quen nó và nó chẳng làm gì tổn hại đến tớ. Phải một thời gian dài hơn lệ thường, tớ mới quên được hình ảnh ấy và xoa dịu lương tâm của tớ bằng khẩu hiệu khốn khiếp 'chiến tranh là thế'. Nhưng nếu tớ không giết thằng nhóc đã giết Gottfried, -- bắn nó như bắn một con chó, -- thì, nói cho cậu biết, việc tớ bắn thằng lính Anh là một tội ác man rợ. Cậu đồng ý không?"
"Vâng," tôi nói.
"Và bây giờ cậu về đi. Tớ phải tiếp tục cho đến khi chấm dứt. Như một bức tường -- tớ không thể đi tiếp nếu không phá bỏ."
"Tớ không về nhà. Nếu đó là cách phải làm, chúng ta sẽ cùng làm vậy."
"Nhảm nhí," anh hối hả nói. "Tớ không thể để cậu giúp." Anh dơ một tay lên, khi thấy tôi chực nói. "Tớ lo liệu được. Tớ sẽ hạ nó, không đụng đến ai khác, chỉ một mình nó mà thôi. Đừng lo."
Anh nóng nẩy đẩy tôi khỏi ghế và lập tức lái đi.
Tôi hiểu ra, không gì có thể cản trở anh. Tôi cũng hiểu, vì sao anh không cho tôi theo. Bởi vì Pat. Nếu là Gottfried, có lẽ anh đã dẫn đi.
Tôi đến quán của Alfons. Anh là người duy nhất tôi có thể tâm sự. Tôi muốn xin anh một lời khuyên -- nếu chúng tôi có thể làm bất kỳ điều gì. Nhưng anh đi vắng. Một cô gái còn ngái ngủ nói anh đi dự một cuộc mít- ting một giờ trước. Tôi ngồi xuống bàn, chờ đợi.
Quán vắng tanh. Chỉ có một quả cầu điện soi trên quầy rượu. Cô gái ngồi xuống, tiếp tục ngủ. Tôi nghĩ đến Otto và Gofffried, tôi nhìn qua cửa sổ mở ra ngoài, càng lúc càng sáng dưới ánh trăng rằm dâng cao trên những mái nhà; tôi nghĩ đến nấm mồ với chiếc thập tự đen và cái nón sắt trên đó; và bỗng nhiên tôi thấy mình đang khóc. Tôi lau nước mắt.
Một lúc sau tôi nghe tiếng chân bước nhanh và nhẹ. Cánh cửa ra sân trong mở ra và Alfons đi vào. Mặt anh loang loáng mồ hôi.
"Tớ đây, Alfons," tôi nói.
"Đến đây, nhanh lên!"
Tôi theo anh vào phòng bên phải, sau phòng rượu. Alfons mở tủ lấy hai gói cứu thương quân sự đã cũ. "Cậu cứ băng vết thương cho tôi," anh nói, trong khi êm ái cởi chiếc quần dài.
Có một vết cắt dài, sâu ở đùi. "Trông như vết đạn," tôi nói.
"Là vết đạn," Alfons gừ lên. "Băng tiếp đi mà,"
"Alfons," tôi nói khi đứng dậy, "Otto đâu?"
"Làm sao tớ biết Otto ở đâu? anh lẩm bẩm, bóp nhẹ vết thương.
"Hai người không đi chung với nhau à?"
"Không."
"Cậu không gặp anh ấy sao?"
"Chẳng hề gặp. Mở gói kia và đặt lên trên. Chỉ là vết sướt ngoài da."
Anh vừa càu nhàu vừa bận bịu với vết thương của mình. "Alfons," tôi nói, "tụi này trông thấy cái -- cậu biết mà, chuyện của Gottfried -- tụi này trông thấy cái thằng ấy lúc tối và Gottfried đang lùng kiếm nó."
"Cái gì?" anh lập tức chú ý. "Cậu ấy đâu rồi? Không cần thiết nữa. Cậu ấy phải về ngay."
"Anh ấy sẽ không chịu bỏ về."
Alfons thẩy cây kéo qua một bên. "Cậu lái xe tới chỗ ấy. Cậu biết Otto ở đâu không? Otto phải biến đi. Nói với cậu ấy là việc của Gottfried đã liệu xong. Tớ biết trước cậu. Cậu thấy rồi đấy. Tớ bị bắn, nhưng tớ gạt được tay nó. Rồi tớ bắn. Otto đâu?"
"Ở một nơi nào đấy, gần Monkestrasse."
"Tạ ơn Chúa. Nó đã đi khỏi chỗ ấy lâu rồi. Nhưng ta vẫn cần đưa Otto ra khỏi."
Tôi đi đến điện thoại và gọi về bến tắc xi, nơi Gustav thường lai vãng. Gustav có mặt. "Gustav," tôi nói, "cậu có thể lái đến giao lộ Wiesenstrasse và Bellevueplatz không? Nhanh lên nhé? Tớ đợi."
"Được. Mười phút nữa."
Tôi mắc ống nghe lên giá và quay lại Alfons. Anh đã mặc một chiếc quần dài khác.
"Không biết cậu cũng lùng kiếm," anh nói. Mặt anh vẫn mướt mồ hôi. "Có lẽ tốt hơn nếu như cậu ngồi ở một địa điểm khác. Sẽ là một chứng cớ ngoại phạm. Họ có thể điều tra cậu. Không thể nào nói trước."
"Còn cậu thì sao?" tôi nói.
"Ach, cậu nghĩ sao." Anh nói nhanh hơn bình thường. "Lúc ấy chỉ có một mình nó. Tớ đợi sẳn trong phòng của nó. Trên gác mái. Không một láng giềng. Ngoài ra, tớ có cớ tự vệ. Vừa bước vào, nó đã bắn ngay. Không cần cớ ngoại phạm. Tuy nếu muốn, tớ có thể có cả chục cái."
Anh nhìn tôi. Anh ngồi trên ghế, gương mặt ướt, to bè của anh hướng sang tôi, mái tóc bết dính mồ hôi, miệng méo một bên, và hầu như ta không thể chịu đựng nổi đôi mắt của anh, quá nhiều nỗi dày vò, thống khổ và tình yêu thình lình biểu lộ và tuyệt vọng trên đấy. "Giờ thì Gottfried có thể an giấc," anh dịu dàng nói, giọng khàn đặc. "Trước đây mình có cảm giác là cậu ấy không ngủ được."
Tôi đứng, lặng câm trước anh.
Tôi đi ra phòng rượu. Cô gái vẫn ngủ, và thở to. Bên ngoài trăng đã cao và sáng vằng vặc. Tôi đi bộ tới Bellevueplatz. Cửa sổ các ngôi nhà lóng lánh dưới trăng như những mảnh gương bạc. Gió đã lặng. Yên tỉnh tuyệt đối.
Vài phút sau Gustav lái đến. "Có gì không, Robert?" anh hỏi.
"Xe của tụi này bị đánh cắp hồi tối. Tớ nghe nói, có người nhìn thấy gần Monkerstrasse. Chúng ta có thể lái tới nơi ấy chứ?"
"Ô, dĩ nhiên. " Gustav sốt sắng hẳn. "Thời buổi này có gì mà không bị đánh cắp? Mỗi ngày vài ba chiếc. Nhưng thông thường, chúng chỉ lái chơi một lúc đến khi xăng cạn rồi thôi."
"Vâng; có lẽ xe của tụi này cũng bị giống thế."
Gustav nói với tôi, anh sẽ cưới vợ. Một em bé sắp sửa chào đời, vì thế không có chọn lựa nào khác ngoài hôn nhân. Chúng tôi lái đến Monkestrasse, rồi các con đường nhỏ bên cạnh.
"Nó kia rồi!" Gustav bỗng kêu lên.
Xe đậu trong một ngõ tối, kín đáo. Tôi bước xuống, lấy chìa khóa xe và nổ máy. "O.K. Gustav," tôi nói. "Cám ơn cậu nhiều lắm, đã chở tớ tới đây."
"Chúng ta nên đi nhậu ở đâu đó không nhỉ?" anh hỏi.
"Không, tối nay không được. Ngày mai nhé. Tớ phải đi ngay."
Tôi thò tay vào túi lấy tiền trả cho Gustav.
"Tay cậu ướt thế à?" anh hỏi.
"Vâng, cám ơn, Gustav. Đừng chờ tớ. Au revoir."
"Cậu có muốn mình giúp cậu đi tìm thằng ăn cắp xe không?"
"Không, không, chắc nó đã bỏ đi lâu rồi." Thình lình trong tôi dấy lên sự nóng nảy. "Au revoir, Gustav."
"Cậu còn đủ xăng không?"
"Vâng, còn đủ. Đã kiểm. Thôi, ngủ ngon nhé."
Anh lái đi. Tôi đợi một lát, rồi chạy theo, đến Monkestrasse và lái trên đường đó, gài số ba. Khi tôi vòng lại, Koster đứng ở một góc.
"Cậu làm gì vậy?"
"Lên xe," tôi nói nhanh. Cậu không cần lẩn quẩn ở đây nữa. Tớ đã tới quán của Alfons. Anh ấy -- anh ấy đã gặp nó."
"Và?"
"Vâng," tôi nói.
Koster leo lên xe không nói một lời. Anh không lái. Anh ngồi cạnh tôi, hơi co cụm, và tôi cầm tay lái. "Ta nên chạy về nhà của tớ?" tôi hỏi.
Anh gật đầu. Tôi tăng ga và lái theo con đường cạnh kênh đào. Dòng nước như một dãi bạc lớn bản. Nhà kho phía bên kia bờ nằm sâu, đen trong bóng đêm, nhưng những con đường là những luồng sáng xanh nhạt lướt thướt mà lốp xe trượt trên đó như trên một lớp tuyết vô hình. Những ngọn tháp giáo đường thời Baroque to rộng, chễm chệ bên trên những mái nhà. Chúng xanh lục và trắng bạc trên nền trời dạ quang, chìm lấp, nơi mặt trăng lơ lửng như một củ hành lộng lẫy, cháy bỏng.
"Tớ vui vì chuyện đã xảy ra theo chiều hướng ấy, Otto," tôi nói.
"Tớ thì không," anh đáp. "Phải chi chính tay tớ bắt được nó."
Đèn trong phòng Frau Zalewski vẫn sáng. Trong lúc tôi mở khóa cửa, bà từ phòng khách bước ra. "Cậu có điện tín," bà nói.
"Điện tín?" tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi còn mãi nghĩ về đêm nay. Rồi tôi hiểu, và chạy về phòng. Bức điện nằm giữa bàn, trắng lốp như phấn dưới ánh đèn chói gắt. T'ôi xé niêm; buồng ngực của tôi thắt nghẽn; những con chữ quay cuồng, biến mất, rồi hiện ra; tôi thở nhẹ nhõm; mọi thứ đứng im lại và tôi đưa bức điện cho Koster. "Tạ ơn Chúa, tớ cứ tưởng --"
Chỉ vỏn vẹn ba chữ: ROBBY, ĐẾN NGAY.
Tôi lại cầm bức điện. Sự an tâm tan đi. Nỗi lo lắng trở về.
"Không biết chuyện gì đây, Otto? Chúa ơi, sao cô ấy không viết rõ hơn? Chắc phải có chuyện chẳng lành."
Koster đặt phiến giấy xuống bàn. "Lần cuối cậu nói chuyện với cô ấy là khi nào?"
"Tuần trước. Không lâu hơn thế."
"Hãy gọi điện thoại. Nếu có bề gì, chúng ta sẽ lên đường ngay. Bằng xe hơi. Cậu có chương trình xe lửa không?"
Tôi xin gọi dưỡng đường và ra phòng khách của Frau Zalewski lấy tờ chương trình xe lửa.
"Chuyến tàu thuận tiện nhất sẽ khởi hành trưa mai," anh nói. "Vậy ta nên lái xe, càng xa càng tốt. Chúng ta có thể đuổi kịp chuyến tàu trước. Hy vọng ta sẽ tới nơi nhanh hơn vài tiếng. Cậu nghĩ sao?"
"Vâng, bất kỳ cách nào." Tôi không thể hình dung tôi sẽ chịu đựng những giờ buồn tẻ trên tàu ra sao.
Điện thoại reo. Koster cầm tờ chương trình về phòng tôi.
Dưỡng đường trả lời. Tôi xin gặp Pat. Một phút sau, bà quản lý bảo tôi rằng nếu Pat không nói chuyện, có lẽ sẽ tốt hơn.
"Có vấn đề gì chứ?" tôi quát lên.
"Thổ huyết nhẹ mấy hôm trước. Và hiện đang sốt."
"Nói với cô ấy là tôi sẽ đến," tôi nói. "Với Koster và Karl. Chúng tôi lên đường ngay tức thì. Bà hiểu không?"
"Với Koster và Karl," giọng nói lập lại.
"Vâng. Nhưng báo cho cô ấy biết ngay. Chúng tôi sắp lên đường."
"Tôi sẽ cho cô ấy biết ngay."
Tôi về phòng mình. Kỳ lạ thay, đôi chân của tôi nhẹ tâng. Koster ngồi ở bàn viết, hí hoáy ghi các chuyến tàu.
"Cậu chuẩn bị hành lý," anh nói. "Còn tớ lái về nhà lấy đồ của tớ. Tớ sẽ trở lại trong nửa giờ."
Tôi kéo va-li ra khỏi tủ. Đó là va-li của Lenz, với các tấm nhãn khách sạn màu mè. Tôi sắp quần áo vào va -li, thu xếp công việc với Frau Zalewski và ông chủ quán International. Rồi tôi ngồi bên cửa sổ trong phòng, chờ Koster. Trời rất tĩnh lặng. Tôi nghĩ đến việc tối mai sẽ ở bên Pat, và một cảm giác nóng ấm, chứa chan hy vọng bỗng dâng trong lòng tôi, khiến những tình cảm khác -- sợ hãi, lo lắng, u sầu, tuyệt vọng đều biến mất. Tối mai tôi sẽ được ở cạnh nàng --một hạnh phúc không thể hiểu, một điều mà tôi không còn nghĩ rằng có thể xảy ra. Quá nhiều thứ đã tàn lụi, từ dạo ấy.
Tôi xách va-li xuống lầu. Mọi thứ bỗng thân cận và ấm áp; cầu thang, mùi ẩm mốc của đầu cầu thang, mặt nhựa đường xám-cao su, lấp lánh và lạnh, trên đó Karl đang trờ tới.
"Tớ mang theo vài tấm chăn," Koster nói. "Trời sẽ lạnh. Cậu quấn cho kỹ vào."
"Ta thay nhau lái, hở?" tôi hỏi.
"Vâng. Nhưng để tớ lái trước. Lúc ban chiều, tớ đã đánh một giấc."
Nửa giờ sau chúng tôi để lại thành phố sau lưng và đêm trăng vằng vặc đón chào chúng tôi. Con đường trắng xa tít tận chân trời. Sáng đến nỗi chúng tôi có thể lái xe mà không cần đèn pha. Tiếng động cơ trầm như một nốt organ; nó không làm hỏng đi sự yên lặng, mà còn tăng thêm ý nghĩa.
"Cậu cần chợp mắt một lát," Koster nói.
Tôi lắc đầu. "Không thể, Otto."
"Vậy ít ra cũng cố thư giản, để sớm mai được tỉnh táo. Chúng ta có nguyên một nước Đức để lái xuyên qua."
"Tớ thích như thế này lắm."
Tôi vẫn ngồi cạnh Koster. Trăng lướt trên vòm trời. Đồng ruộng óng ánh như mặt xà cừ. Thỉnh thoảng một vài ngôi làng vút qua, đôi khi một thành phố, ngủ say, trống rỗng, lòng đường giữa những dãy nhà đong đầy ánh trăng yêu ma, vô hình khiến đêm trở thành một cuộn phim hư ảo.
Gần sáng trời trở lạnh. Đồng cỏ bỗng dưng lóng lánh với sương mai, cây cối như thép chảy trên nền trời xám; trong rừng, gió bắt đầu thổi và đây đó những làn khói dài tha thướt bốc lên từ những ống khói. Tới phiên tôi và tôi lái đến mười giờ. Rồi chúng tôi có một bửa điểm tâm vội vàng ở một lữ quán ven đường và tôi tiếp tục lái đến mười hai giờ. Từ lúc ấy trở đi, Koster giữ tay lái. Nếu một mình, anh còn lái nhanh hơn nữa.
Buổi chiều, khi trời chạng vạng, chúng tôi đến chân núi. Chúng tôi có mang theo xích sắt và thuổng xúc tuyết và hỏi thăm có thể lái được bao xa nữa.
"Với xích sắt, các ông có thể thử," người thư ký Câu Lạc Bộ Xe Hơi nói. "Năm nay trời ít tuyết. Nhưng ở những kí lô mét cuối cùng, sẽ ra sao, tôi không thể đoan chắc. Các ông có thể mắc kẹt ở đấy."
Còn rất lâu xe lửa mới đến nên chúng tôi quyết định lái xe lên núi. Trời lạnh nên không sợ có sương mù. Xe ngoan ngoãn leo con dốc ngoằn ngoèo. Được nửa đường, chúng tôi lắp xích vào bánh xe. Đường đã được cào tuyết, nhưng nhiều đoạn có một lớp giá mỏng ở trên và xe bị chao đảo. Đôi khi chúng tôi phải xuống xe và hì hục đẩy. Hai lần chúng tôi bị lún và phải dùng thuổng xúc cho Karl thoát ra. Ở ngôi làng cuối, chúng tôi xin một xô cát, vì chúng tôi đang ở một nơi rất cao và chúng tôi sợ những khúc quanh của đường xuống núi đóng giá. Bấy giờ trời đã tối hẳn. Vách núi thẳng đứng, chót vót và trơ trụi vươn lên trời đêm, đường đèo hẹp lại, máy xe gầm gừ ở số nhỏ nhất, và hết khúc quanh này đến khúc quanh khác đường xuống thấp dần. Thình lình đèn pha trợt khỏi sườn núi và lao vào hư không, núi mở ra, và trước mặt chúng tôi, đèn giăng như lưới trên ngôi làng thung lũng.
Xe lao như sấm giữa các cửa tiệm hai bên phố chính. Khách bộ hành nhảy tránh; giật mình trước hình ảnh khác thường, ngựa giật lùi; một cỗ xe trượt tuyết tự tuột dốc; xe chúng tôi lướt qua các khúc cong, vào dưỡng đường và dừng trước hiên. Tôi nhảy xuống; như qua một màng voan mỏng, nhìn thấy những gương mặt tò mò, người ta, văn phòng, thang máy; rồi tôi chạy trong hành lang trắng, tung cửa, và trông thấy Pat; như tôi đã trông thấy nàng hàng trăm lần trong mơ và ước vọng; nàng lại gần và tôi ôm nàng vào lòng, như ôm chính đời sống và còn hơn cả đời sống.
"Tạ ơn Chúa," tôi nói, khi đã hoàn hồn. "Anh cứ tưởng em còn nằm trên giường."
Trên vai tôi, nàng lắc đầu. Rồi nàng đứng thẳng lại, ấp tay vào mặt tôi và nhìn.
"Cứ nghĩ xem, anh có mặt nơi đây," nàng khẻ nói. "Và anh đến thăm em!"
Nàng hôn tôi, chăm chút, thận trọng, yếu ớt, như hôn một vật mà ta không muốn làm tan vỡ. Khi chạm môi nàng, tôi run lên. Mọi thứ xảy ra quá nhanh, tôi chưa bắt kịp. Tôi chưa có mặt ở đây; tôi vẫn còn di chuyển, tiếng máy xe gầm rú, và con đường. Tôi có cảm giác như một người bước ra khỏi giá lạnh và đêm tối vào một căn phòng ấm; hắn cảm thấy sức nóng trên da, chính mắt nhìn thấy điều ấy, nhưng vẫn chưa kịp ấm.
"Tụi anh lái khá nhanh," tôi nói.
Nàng không trả lời. Nàng nhìn tôi trong im lặng. Gương mặt nghiêm trang của nàng mang một vẻ quyết liệt, mắt nàng kề sát mắt tôi, và như thể nàng cố tìm lại một điều hệ trong. Tôi luống cuống. Tôi đặt tay lên vai nàng và cụp mắt xuống.
"Anh ở lại chứ?" nàng hỏi.
Tôi gật đầu.
"Hãy nói. Nói rằng một lần nữa, anh sẽ bỏ đi, để ngay lúc này em được biết."
Tôi định nói là tôi chưa biết, và có lẽ tôi sẽ ra về trong vài ngày tới, bởi vì tôi không đủ tiền trọ. Nhưng tôi không thể thốt nên lời. Tôi không thể, cách nàng nhìn tôi như thế.
"Vâng," tôi nói. " Anh ở lại. Cho đến khi hai đứa mình về cùng một lúc."
Mặt nàng không đổi. Nhưng rồi, đột nhiên nó rạng ngời, như thắp sáng bên trong.
"Ach," nàng thì thầm, "nếu không, làm sao em chịu nổi."
Qua vai nàng, tôi cố đọc tấm biểu đồ thân nhiệt treo trên đầu giường. Nàng biết, giật tờ giấy khỏi hộp, vo tròn và thẩy dưới gầm giường. "Không còn ý nghĩa nữa," nàng nói.
Tôi ghi nhớ vị trí của viên giấy và định là sau đó khi nàng không để ý sẽ cất vào túi.
"Em ốm à?" tôi hỏi.
"Nhẹ thôi. Nhưng đã khỏi."
"Bác sĩ nói sao?"
Nàng cười. "Đừng hỏi tới bác sĩ. Đừng hỏi gì cả. Anh có mặt ở đây, thế là đủ."
Nàng đã thay đổi bất ngờ. Tôi không hiểu có phải vì đã lâu tôi không gặp nàng, nhưng tôi cảm thấy nàng không giống như xưa. Cử động duyên dáng hơn, da ấm hơn, cách nàng đến với tôi khác hơn; nàng không chỉ là một cô gái trẻ đẹp mà ta cần bảo vệ; một điều gì đó đã xâm nhập, và trước đây tôi thường mù mờ không biết nàng có yêu tôi không, nay thì tôi biết rõ, nàng không che dấu điều ấy nữa, nàng hoạt bát và thân cận với tôi hơn bao giờ hết, sống động hơn, gần gủi hơn và xinh đẹp hơn, thú vị vui tươi hơn nhưng trong một cách thức lạ lùng, cũng gây nhiều lo âu hơn.
"Pat," tôi nói. "Anh phải xuống lầu một lát. Koster chờ bên dưới. Tụi anh phải tìm chỗ trọ."
"Koster? Còn Lenz đâu?"
"Lenz...," tôi nói. "Lenz phải ở nhà."
Nàng không để ý. "Em dám mạo hiểm xuống dưới nhà không?" tôi hỏi. "Hay tụi anh nên lên đây?"
"Chuyện gì em cũng dám. Hiện nay em có thể làm đủ mọi thứ. Chúng ta sẽ xuống lầu, gọi rượu. Em sẽ nhìn anh uống."
"Tốt. Vậy tụi anh chờ em ở phòng khách dưới nhà."
Nàng đến tủ lấy một chiếc áo đầm. Thừa lúc ấy,tôi dấu viên giấy biểu đồ vào túi.
"Được rồi, Pat; một chốc nữa gặp lại em, nhé?"
"Robby," nàng bước theo và quàng tay lên cổ tôi. "Em có nhiều chuyện muốn kể với anh."
"Anh cũng thế, Pat. Nhưng mình đủ thì giờ mà. Mình sẽ tâm tình suốt ngày. Ngày mai. Thuở ban đầu chúng ta không được vậy."
Nàng gật đầu. "Vâng, chúng ta sẽ kể cho nhau nghe tất cả. Chúng ta sẽ biết rõ về nhau, như chưa bao giờ chia cách."
"Dù sao, chúng ta chưa hề chia cách," tôi nói.
Nàng mỉm cười. "Em không cảm thấy như thế. Em không đủ sức mạnh. Em khổ sở hơn nhiều. Em không thể tự an ủi khi đơn độc. Lẻ loi, em chỉ biết vậy. Sẽ dễ dàng hơn khi ta đơn côi mà không có tình yêu." Nàng tiếp tục mỉm cười. Nụ cười ngớ ngẩn, vô hồn; nàng cố gắng bám víu, nhưng ta có thể thấy rõ điều ấy.
"Pat," tôi nói, "bà già can đảm."
"Lâu lắm em mới nghe anh gọi thế," nàng nói, và mắt đẫm lệ.
Tôi xuống nhà gặp Koster. Hành lý đã được lấy khỏi xe. Họ cho chúng tôi hai phòng sát nhau thuộc dãy nhà phụ. "Nhìn này," tôi nói, chìa cho anh tấm biểu đồ thân nhiệt. "Khi cao khi thấp."
Chúng tôi bước trên mặt tuyết lạo xạo, đi tới bậc thềm. "Ngày mai cậu hỏi bác sĩ," Koster nói. "Chỉ có thân nhiệt mà thôi, không đầy đủ."
"Theo tớ, đủ rồi," tôi trả lời và vo tròn nó và nhét vào túi.
Chúng tôi tắm gội. Rồi Koster qua phòng tôi. Trông anh như vừa thức giấc. "Phải mặc y phục vào, Bob," anh nói.
"Vâng," tôi choàng tỉnh khỏi giấc trầm tư và mở va -li, cất áo quần vào tủ..
Chúng tôi trở lại dưỡng đường. Karl vẫn đậu bên ngoài. Koster đã phủ một tấm chăn trên đầu máy. "Chừng nào ta về, Otto?"
Anh đứng lại. "Tớ định là tối mai hay sáng sớm hôm sau sẽ về. Còn cậu, ở lại."
"Nhưng tớ biết làm sao đây?" tôi tuyệt vọng. "Tớ chỉ đủ tiền trọ cho mười ngày. Còn viện phí của Pat chỉ trả tới mười lăm tây. Tớ phải về, đi làm kiếm tiền. Chắc ở đây không cần một nhạc sĩ dương cầm tồi."
Koster cúi mình trên đầu xe và nhấc tấm chăn. "Tớ sẽ chạy tiền cho cậu," thẳng người lên, anh nói. "Cậu cứ ở lại, đừng bận tâm về chuyện ấy."
"Otto," tôi nói, "Tớ biết cậu thu được bao nhiêu từ cuộc đấu giá. Chẳng tới ba trăm marks."
"Không phải thế. Tớ sẽ kiếm thêm. Đừng lo. Trong vòng tám ngày, cậu sẽ có tiền."
"Cậu được hưởng gia tài à?" tôi hỏi với một niềm hân hoan ảm đạm.
"Gần như thế. Để mặc tớ. Cậu không thể rời bỏ nàng."
Koster trải lại tấm chăn trên đầu máy. Anh vuốt ve nắp xe. Rồi chúng tôi vào phòng khánh tiết và ngồi cạnh lò sưởi. "Chắc trễ lắm, mấy giờ rồi nhỉ?" tôi hỏi.
Koster nhìn đồng hồ tay. "Sáu giờ ba mươi."
"Tuyệt vời," tôi nói. "Tớ tưởng phải khuya lắm rồi."
Pat đi xuống cầu thang. Nàng mặc chiếc áo lông ngắn và băng qua phòng khách đến chào Koster. Lần đầu tôi được thấy làn da của nàng nâu đến mực nào. Màu đồng đỏ, và trông nàng giống một cô Da Đỏ trắng trẻo.
"Em có bị sốt không?" tôi hỏi.
"Gây gây thôi," nàng đáp, nhanh và mơ hồ. "Buổi tối tại đây ai cũng sốt. Chỉ vì anh đã đến. Anh không mệt à?"
"Mệt vì cái gì cơ?"
"Vậy mình ra quầy rượu. Anh biết không, đây là lần đầu tiên em có người thăm."
"Tại đây có quầy rượu?"
"Vâng, bé thôi. Ít ra cũng là một góc phòng, gần giống quầy rượu. Là một phần của việc trị liệu. Phải làm đủ cách để không có thứ gì giống như bệnh viện. Ta chỉ được uống những thứ họ cho phép."
Quầy rượu đầy người. Pat chào hỏi khá nhiều. Có một người Ý mà tôi ưa thích. Chúng tôi ngồi vào một cái bàn vừa trống.
"Vậy em uống gì ?" tôi hỏi.
"Một ly cocktail với rum. Thứ ta thường uống ở quán 'The Bar.' Anh biết công thức chứ?"
"Đơn giản thôi," tôi nói với cô hầu bàn. "Nửa phần port, nửa phần Jamaica rum."
"Hai ly," Pat nói. "Và một ly Đặc Biệt."
Cô gái đem ra hai ly Porto-Roncos và một ly màu đỏ tươi. "Ly ấy của tôi," Pat nói. Nàng đẩy hai ly rum lại gần chúng tôi. "Salut!"
Nàng đặt ly xuống bàn mà không nhấp môi, nhìn quanh, rồi nhanh tay tráo nó với ly rượu của tôi và uống cạn. "Ach," nàng nói, "sao mà ngon thế."
"Em gọi món thổ tả gì vậy?" tôi hỏi, nếm thứ dung dịch đỏ tươi đáng ngờ ấy. Nó có vị của quả mâm xôi và chanh. Không chứa một giọt rượu.
"Ngon quá," tôi nói.
Pat nhìn tôi.
"Với người khát nước," tôi thêm vào.
Nàng cười to. "Gọi một ly Porto-Ronco nữa nhé. Nhưng cho anh. Em không được phép uống."
Tôi ra dấu cho cô gái. "Một Porto-Ronco và một Đặc Biệt," tôi nói. Tôi thấy ở các bàn chung quanh, nhiều người uống ly Đặc Biệt.
"Cho em mạo hiểm hôm nay, Robby nhé?" Pat nói. "Chỉ hôm nay mà thôi? Như ngày xưa. Vâng, cho em nhé, Robby nhé?"
"Ly Đặc Biệt cũng khá ngon," tôi trả lời và uống ly thứ hai.
"Em ghét nó. Tội nghiệp Robby, anh phải uống thức giải khát ở đây."
"Nếu ta gọi cho nhanh, thế nào anh cũng hưởng phần," tôi nói.
Pat cười to. "Chút nữa, sau bửa ăn tối, em sẽ được uống một thứ gì ấy. Vang đỏ."
Chúng tôi gọi vài ly Porto-Roncos nữa, rồi vào phòng ăn. Trông Pat thật đáng yêu. Gương mặt rạng ngời. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn nhỏ phủ khăn trắng, cạnh cửa sổ. Phòng ấm, và dưới kia là ngôi làng trong tuyết với những con đường sáng đèn.
"Helga Guttmann đâu em?" tôi hỏi.
"Đã đi," Pat nói, sau một chút ngập ngừng.
"Đã đi? Sớm thế ư?"
"Vâng," Pat đáp và tôi hiểu ý nàng.
Cô hầu bàn đem ra một chai vang đỏ sậm. Koster rót vào ly. Mọi bàn ăn đều có người ngồi. Ai nấy cười nói râm ran. Tôi nắm tay Pat.
"Anh yêu," nàng nói âu yếm, ngọt ngào. "Em không thể chịu đựng nhiều hơn nữa."
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:58:49 GMT -6
Chương 26
Tôi bước khỏi phòng của bác sĩ trưởng khoa; Koster chờ tôi ở hành lang. Anh đứng lên khi nhìn thấy tôi. Chúng tôi ra ngoài sân và ngồi trên băng ghế trước dưỡng đường.
"Xấu, Otto," tôi nói. "Tệ hơn là tớ nghĩ."
Một nhóm người trượt tuyết đi qua, ồn ào. Một vài bà tre trét dầu, với gương mặt rám nắng khỏe mạnh và hàng răng to trắng. Họ sôi nổi nói với nhau rằng họ đói cồn cào như sói. Chúng tôi chờ cho họ qua khỏi.
"Lối sống ấy, dĩ nhiên," tôi nói. "Hưởng thụ đến tận xương tủy. Làm ta phát bệnh!"
"Cậu nói chuyện thẳng với bác sĩ trưởng khoa chứ?" Koster hỏi.
"Vâng. Bác sĩ đã giải thích cặn kẻ, với tất cả sự dè dặt cần thiết. Nhưng điều tối hậu là bệnh trở nặng. Ông ấy lại cứ nhất quyết là như thế lại tốt hơn."
"Tớ không hiểu."
"Ông ấy nói, nếu Pat vẫn sống ở đồng bằng, có lẽ tất cả hy vọng đã tiêu tan. Nhờ điều trị ở đây, bệnh phát triển chậm. Vì thế, ông ấy cho là tốt hơn."
Koster ấn đế giày xuống lớp tuyết cứng thành những dấu bâng quơ. Rồi anh đứng lên. "Vậy, bác sĩ còn hy vọng?"
"Y sĩ luôn luôn hy vọng, đó là một phần công việc của ông ta. Nhưng tớ chẳng hy vọng cái chó gì nữa. Tớ hỏi ông ấy, đã bơm khí nén phổi cho nàng chưa. Ông ấy nói không ích gì. Người ta đã làm thủ thuật ấy cho nàng nhiều năm trước. Hiện nay, cả hai lá phổi đều nhiễm trùng. Căn bệnh ấy là con ác quỷ, Otto."
Một bà già với đôi ủng đi tuyết đã mòn dừng lại trước chúng tôi. Bà có gương mặt tái xanh, thối rữa, đôi mắt xám như đá và vô hồn như mắt người mù. Một tấm lông thú kiểu lỗi thời quấn quanh cổ. Bà rị mọ đưa cặp mục kỉnh cầm tay lên gần mắt, quan sát chúng tôi; rồi lê chân bước đi.
"Hồn ma kinh tởm," tôi càu nhàu.
"Bác sĩ còn nói gì khác không?" Koster hỏi.
"Ông ấy giải thích đường hướng bịnh tình có thể phát triển. Ông ấy có nhiều bệnh nhân cùng một lứa tuổi với nàng. Hậu quả của chiến tranh. Suy dinh dưỡng khi đang lớn. Nhưng điều ấy có liên quan gì tới tớ? Nàng phải lành bệnh." Tôi nhìn anh. "Dĩ nhiên ông ấy nói là ông ấy thường gặp phép lạ. Đặc biệt với chứng bệnh này, đôi khi bệnh đột nhiên ngưng lại, vi khuẩn hóa nang và lành, ngay cả những trường hợp thê thảm nhất. Jaffe cũng nói vậy. Nhưng tớ không tin vào phép lạ."
Koster không trả lời. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trong im lặng. Chúng tôi biết nói gì đây? Chúng tôi đã chứng kiến quá nhiều để có thể nói lời an ủi.
"Đừng để cho nàng biết, Bob," cuối cùng Koster nói.
"Dĩ nhiên," tôi đáp.
Chúng tôi tiếp tục ngồi cho đến khi Pat xuất hiện. Tôi không nghĩ gì hết; tôi cũng chẳng tuyệt vọng; tôi chỉ thẩn thờ và xám ngoét và như đã chết.
"Cô ấy đến kìa," Koster nói.
"Dĩ nhiên," tôi nói, đứng dậy.
"Chào hai anh!" Pat đến gần, vẫy tay. Nàng hơi chếch choáng và cười lớn. "Em hơi say. Với mặt trời. Mỗi lần tắm nắng em đều quay cuồng như một người thủy thủ già."
Tôi nhìn nàng, và trong một thoáng tất cả đều thay đổi. Tôi không tin bác sĩ nữa; tôi tin vào phép lạ. Nàng ở đấy; nàng sống động; nàng đứng và nói cười -- tất cả những thứ khác chìm khuất.
"Sao mặt anh dài ngoẳng vậy?" nàng hỏi.
"Gương mặt của đô thị, không thích ứng với nơi đây," Koster nói. "Tụi anh chưa quen với mặt trời."
Nàng cười. "Hôm nay là ngày lành của em. Em không bị sốt. Em có thể ra ngoài. Chúng ta nên xuống làng và uống một chút rượu khai vị chứ?"
"Chắc chắn rồi."
"Thế thì, ta đi."
"Chúng ta nên dùng xe trượt tuyết không nhỉ?" Koster hỏi.
"Em có thể chịu được," Pat nói.
"Anh biết," Koster nói. Nhưng anh chưa hề ngồi trong thứ xe như thế. Anh muốn thử một lần."
Chúng tôi ngoắc một bác tài và chúng tôi ngồi trong xe, trượt trên con đường cực kỳ khúc khuỷu xuống làng. Bên ngoài một quán cà phê với một mảnh vườn nhỏ ngập nắng, chúng tôi dừng xe và bước xuống. Đủ mọi hạng người, và tôi nhận ra vài gương mặt ở dưỡng đường. Người Ý gặp ở quầy rượu là một trong những người ấy. Anh tên là Antonio, và anh đến bàn chúng tôi, chào Pat. Anh kể rằng, có vài người nghịch ngợm tối qua đã đẩy một bệnh nhân, say ngủ, với giường và chăn gối các thứ, vào phòng của bà hiệu trưởng già cốc đế.
"Tại sao họ lại làm vậy?" tôi hỏi.
"Ông ấy đã lành bệnh và trong vài ngày nữa sẽ ra về," Antonio trả lời. "Họ luôn luôn quậy phá kiểu ấy."
"Đó là cách khôi hài đen, nổi tiếng của những người còn ở lại, anh yêu," Pat nói.
"Những người sống ở đây như trẻ nít, thật đấy," Antonio nói, như xin lỗi.
"Lành bệnh, tôi thầm nghĩ; người ta lành bệnh và được về. "Em thích uống chi, Pat?" tôi hỏi.
"Một ly Martini. Một ly Martini ngon, đắng."
Radio bắt đầu phát thanh. Những bài luân vũ thành Viên. Chúng bồng bềnh trong không khí tươi ấm như những biểu ngữ sáng và nhẹ như mây. Hầu bàn đem ra Martini. Chúng mát lạnh và lấm tấm những hạt mồ hôi dưới nắng.
"Ngồi ở đây thú vị, anh nhỉ?"
"Tuyệt lắm," tôi đáp.
"Nhưng đôi khi, không thể chịu nổi," nàng nói.
Chúng tôi ở lại đến trưa. Pat đặc biệt thích vậy. Gần đây, nàng luôn phải ở trong dưỡng đường và đây là lần đầu tiên nàng được ra ngoài; nàng bảo họ rằng nàng sẽ cảm thấy khỏe gấp đôi nếu được xuống làng ăn trưa. Antonio dùng bửa cùng với chúng tôi. Sau đó chúng tôi ra xe trở về và Pat lên phòng nàng, nghĩ trong hai giờ. Koster và tôi đến ga-ra mang Karl ra kiểm tra. Chúng tôi phải thay hai ống nhún bị gẫy. Ông chủ ga-ra có dụng cụ và chúng tôi bắt tay vào làm. Rồi chúng tôi châm dầu và vô mỡ chu đáo cho khung gầm. Khi xong việc, chúng tôi đẩy Karl ra đường. Tai rũ và thân thể vấy bùn, nó đứng trong tuyết.
"Ta nên tắm nó chứ?" tôi hỏi.
"Không, còn đi tiếp," Koster nói. "Nó không thích vậy đâu."
Pat nhập bọn. Trông nàng ấm áp và phục hồi. Con cún của nàng lăng xăng nhảy nhót chung quanh. "Billy!" tôi gọi. Nó ngừng lại và nhìn tôi, nhưng không quá thân thiện. Nó không nhận ra tôi, và bối rối khi Pat nhắc nhở nó về tôi.
"Chóng quên thế," tôi nói. "Tạ ơn Chúa, nhân loại có trí nhớ tốt hơn. Hôm qua nó ở đâu?"
Pat cười. "Nó nằm dưới giường cả ngày. Nó ghen khi em có khách, và đi trốn và dỗi hờn."
"Trông em tuyệt vời," tôi nói.
Nàng sung sướng liếc tôi. Rồi nàng đến bên Karl. "Em muốn được ngồi vào xe và lái một đoạn ngắn."
"Sao lại không?" tôi nói. "Cậu thấy thế nào, Otto?"
"Dĩ nhiên. Cô có áo khoác dầy, và trên xe đầy đủ chăn và khăn choàng."
Pat ngồi trước, núp sau kính chắn gió, cạnh Koster. Karl gầm rú. Ống thải khí phà hơi nước trắng xanh trong không khí lạnh. Động cơ vẫn chưa ấm hẳn. Xích sắt kêu lạch cạch, từ từ di chuyển trên tuyết. Khục khặc, lộc cộc, và càu nhàu, Karl trườn xuống làng, dọc theo con đường chính, như một con sói núp giữa tiếng dậm chân của bầy ngựa và tiếng leng keng của chuông xe trượt tuyết.
Chúng tôi ra khỏi làng. Chiều đã muộn và những cánh đồng tuyết óng ánh một màu đỏ, nhuộm bởi mặt trời lặn. Vài đụn rơm trên sườn núi hầu như vùi lấp trong màu trắng. Như những dấu phẩy tí hon, những người trượt tuyết cuối cùng lướt vào thung lũng, ngang phía dưới vầng mặt trời đỏ ối, khi ấy một lần nữa huy hoàng bên trên dốc núi, như một quả cầu lửa tối mờ.
"Hôm qua anh có đi ngang đây?" Pat hỏi.
"Có."
Xe ngừng lại ở đỉnh thứ nhất. Hôm qua, khi chạy nhanh qua đây trong đêm xanh, loang loáng thủy tinh, chúng tôi chẳng để ý tới nó. Chúng tôi chỉ chú tâm vào con đường.
Thung lũng mở ra những gò đống trùng điệp. Lưng của các dãy núi xa xôi vẽ một đường sắc nét trên nền trời lục nhạt. Chúng ửng vàng. Những đém vàng lớt phớt như bụi phủ trên các cánh đồng tuyết ở chân núi dưới đỉnh. Mỗi giây phút trôi qua, những dốc núi càng chuyển thành màu đỏ phơn phớt trắng lộng lẫy hơn, và bóng tối xanh đen hơn. Mặt trời đứng ở khoảng cách giữa hai đỉnh núi lóng lánh, và thung lũng mông mênh với những vạt đất khi nhô cao khi trũng thấp, như một cuộc diễn hành lấp lánh, lặng câm, bao la trước một kẻ trị vì đang hấp hối. Con đường là dãi lụa tím cuộn quanh đồi, biến mất, rồi lại hiện ra, sậm tối ở những khúc cong, đi qua thôn làng, rồi thẳng tắp theo yên đèo đến tận chân trời.
"Em chưa bao giờ đi xa khỏi làng như thế," Pat nói. "Có phải đây là đường về?"
"Phải."
Nàng im lặng, nhìn theo. Rồi nàng bước xuống xe, lấy tay che trên mắt. Rồi nàng đăm đăm nhìn về hướng bắc, như thể đã nhìn thấy những ngọn tháp trong thành phố. "Từ đây về nhà bao xa?" nàng hỏi.
"Chừng một ngàn kí lô mét. Trong tháng Năm, ta sẽ về. Otto sẽ đến đón chúng ta."
"Tháng Năm," nàng lập lại. "Chúa ơi, tháng Năm."
Mặt trời từ từ hạ thấp. Thung lũng trở nên sống động; bóng tối trước đây ngồi xổm trong nếp gấp của đất, bắt đầu êm ái bò ra và leo cao dần như những con nhện khổng lồ. Trời trở lạnh. "Chúng ta phải quay về, Pat." tôi nói.
Nàng ngước lên và đột nhiên trên gương mặt nàng hiện ra vẻ đau đớn. Tôi thấy ngay rằng nàng đã biết tất cả. Nàng biết nàng sẽ không bao giờ thoát khỏi dãy núi chập chùng không biết xót thương ở chân trời, nàng biết điều ấy và muốn dấu chúng tôi, cũng như chúng tôi muốn dấu nàng, nhưng trong một khoảnh khắc nàng đã để lộ trên đôi mắt tất cả những nỗi khổ đau của thế gian. "Ta hãy lái xa thêm một chút," nàng nói. "Xuống một chút nữa thôi."
"Đến đây," tôi nói, sau khi liếc qua Koster. Nàng ngồi băng sau với tôi, tôi để nàng tựa vào lòng tôi và tôi kéo chăn đấp cho cả hai. Xe từ từ lăn bánh, đổ dốc, đi vào thung lũng và bóng tối.
"Robby, anh yêu," Pat thì thầm trên vai tôi, "chúng ta như đang về nhà, trở lại cuộc sống cũ --"
"Vâng," tôi nói và kéo chăn đến tận mái tóc nàng.
Càng xuống thấp, trời càng tối rất nhanh. Pat nằm gọn dưới chăn. Nàng lần tay vào ngực tôi, dưới lớp sơ mi; tôi cảm nhận bàn tay của nàng trên da tôi, rồi hơi thở, rồi đôi môi, và rồi nước mắt của nàng.
Một cách thận trọng, để nàng không biết xe đang trở đầu, Koster đánh một vòng thật rộng ở khu thương mãi của ngôi làng kế tiếp, rồi chầm chậm lái về.
Mặt trời đã lặn khi chúng tôi trở lại đỉnh núi và trăng, ở phương đông, nhạt và thanh giữa những đám mây dâng cao, đã mọc sẳn tự lúc nào. Chúng tôi lái về, dây xích nghiến trên tuyết thành một âm thanh đều đặn. Đêm yên tỉnh; tôi ngồi im không cục cựa và cảm thấy nước mắt của Pat ướt tim tôi như thể có một vết thương nhỏ máu trên đấy.
Một giờ sau, tôi đang ngồi ở đại sảnh. Pat ở phòng của nàng và Koster đến Phòng Khí Tượng để hỏi xem ngày mai có tuyết hay không. Bên ngoài trời sương phủ, trăng viền hào quang và đêm, mềm xám như nhung, có mặt ngoài khung cửa. Một lúc sau Antonio đến và ngồi với tôi.
Cách vài bàn, một anh chàng tròn trịa chắc nịch, tự phụ như một viên đạn đại bác, áo khoác sợi thô và quần chẽn ngắn cũn; gương mặt trẻ con với đôi môi bĩu, cặp mắt lạnh và cái đầu tròn, đỏ không một cọng tóc, bóng như một trái banh bi-da. Bên cạnh anh ta là một thiếu phụ với quầng thâm dưới mắt và vẻ mặt bất an, cầu khẩn. Viên đạn đại bác rất sống động, đầu lắc lư không ngừng, đôi tay nhỏ hồng vung vẫy. "Trên đây tuyệt vời quá thể. Phong cảnh, không khí, sự chăm sóc! Em khỏe ra, thật thế--"
"Bernard," cô vợ nhẹ nhàng nói.
"Nếu anh được một chút nâng niu, chìu chuộng ở đây, anh sẽ chẳng ngại ngùng!" Một tiếng cười nịnh. "Tuy nhiên, anh không ganh tị với em --"
"Ach, Bernard," cô vợ chán nản nói.
"Chuyện gì nữa đây," viên đạn đại bác hớn hở nói tiếp, "không còn nơi nào tốt hơn cho em. Vì sao, em đang ở Thiên Đường. Hãy nghĩ đến những người như anh dưới kia. Mỗi sáng phải ra khỏi nhà, lặn lội vào đống rác nhơ nhớp. Em nên biết ơn vì em khỏi phải làm việc như anh. Anh vui được thấy em đang bình phục, ở đây."
"Bernard, em không bình phục," vợ anh ta nói.
"Nhưng em yêu," Bernard rối rít, "đừng có than vãn. Ta bắt buộc phải làm thế. Phá sản khắp nơi, chạy vạy khắp nơi, thuế má các thứ -- thế mà, anh vui, vì chúng ta vẫn có khả năng gởi em tại đây, dĩ nhiên."
Người đàn bà không nói gì.
"Một anh chàng tử tế," tôi nói với Antonio.
"Không đâu," Antonio nói. "Từ hôm qua đến nay, hắn luôn luôn bác bỏ lời của cô vợ bằng câu 'Em đang bình phục một cách thần kỳ.' Hắn không chịu nhìn thấy, cậu biết mà, nỗi sợ hãi, căn bệnh hay sự cô đơn của cô nàng. Và suốt từ đầu đến giờ, không chừng ở Bá Linh hắn đã sống chung với một viên đạn đại bác khác như hắn, và cứ sáu tháng hắn lại lên đây cho phải đạo, xoa tay, xun xoe, để tâm đến tiện nghi cho chính bản thân của hắn mà thôi. Và không lắng nghe gì cả. Cậu thường gặp hạng người ấy nơi đây."
"Cô ấy ở đây đã bao lâu?"
"Chừng hai năm."
Một toán người trẻ tuổi khúc khích chạy vào đại sảnh. Antonio cười to. "Họ từ Bưu Điện về. Họ gửi điện tín cho Roth."
"Roth là ai?"
"Là ngưới kế tiếp sắp được xuất viện. Điện tín báo rằng đừng về thành phố vì dịch cúm đang hoành hành. Một trong những trò đùa thường gặp. Vì họ còn ở lại, cậu hiểu chứ."
Tôi nhìn qua cửa sổ, núi như có ai treo lên một tấm satin xám. Tất cả đều không đúng thật, tôi nghĩ; không có thật, không thể nào xảy ra như thế. Đây chỉ là một sân khấu mà họ diễn xuất chút ít trước cái chết. Khi chết, người ta chết trong nghiêm trang ghê rợn -- đáng lẽ tôi nên đi theo những người trẻ tuổi này, lắc vai họ và nói: "Không phải vậy, đúng không? Đây chỉ là trò nhạo báng tử thần, và các bạn chỉ là những diễn viên hài không chuyên đang giả chết? Rồi các bạn sẽ đứng lên và cúi chào, phải không? Người ta không thể chết kiểu này, vì sốt nhẹ, vì hơi thở khò khè -- cần có đạn dược và vết thương, tôi biết như thế."
"Cậu cũng bệnh?" tôi hỏi Antonio.
"Dĩ nhiên," anh mỉm cười.
"Cà phê ngon tuyệt," viên đạn đại bác ồn ào nói."Tụi anh làm gì có được, nói cho em biết. Một vườn cây trái lạc thú vô tận."
Koster trở về từ văn phòng khí tượng. "Tớ phải lên đường, Bob," anh nói. "Hàn thử biểu hạ thấp và có lẽ tuyết sẽ rơi tối nay. Nếu chờ đến mai, tớ sẽ mắc kẹt. Tớ phải đi ngay đêm nay."
"Vâng. Có đủ thì giờ cho ta ăn tối không?"
"Có. Tớ sẽ xếp hành lý thật nhanh."
"Tớ sẽ ghé qua."
Chúng tôi sắp xếp đồ đạc của Koster và mang tới ga-ra. Rồi chúng tôi trở lại đón Pat.
"Gọi tớ nếu có chuyện gì xảy ra, Bob nhé," Otto nói.
Tôi gật đầu.
"Vài ngày nữa cậu sẽ nhận được tiển. Đủ một thời gian. Cậu cứ dùng vào những việc cần thiết."
"Vâng, Otto," tôi ngập ngừng. "Ta có mấy lọ morphine ở nhà. Cậu có thể gửi lên?"
Anh nhìn tôi. "Cậu cần để làm gì?"
"Tớ không biết rồi sẽ ra sao --có thể không cần tới chúng. Mặc dù tất cả mọi việc, tớ vẫn còn nuôi một chút hy vọng -- luôn luôn như thế -- mỗi khi nhìn thấy nàng, nhưng tớ không muốn nàng phải chịu đựng. Không muốn nàng lệ liệt trên giường và không còn gì nữa, trừ cơn đau. Không chừng trong trường hợp ấy, họ có thể cho nàng một liều thuốc -- nhưng tớ sẽ an tâm, nếu tớ biết tớ có thể giúp nàng."
"Chỉ thế thôi, Bob?" Koster hỏi.
"Chỉ có thế, Otto. Thật sự. Nếu vì lý do khác, tớ sẽ không hỏi cậu."
Anh gật đầu.
"Bây giờ chỉ còn lại hai đứa mình," anh chậm rãi nói.
"Vâng,"
"Được rồi, Bob."
Chúng tôi đi ra phòng lớn và tôi đưa Pat xuống. Rồi chúng tôi ăn thật nhanh, vì trời càng lúc càng u ám. Koster lái Karl từ ga-ra đến tận cửa.
"Chúc cậu may mắn, Bob," anh nói.
"Cậu cũng vậy, Otto."
"Au revoir, Pat." Anh bắt tay và nhìn Pat. "Đến mùa xuân, anh sẽ lên đón em về."
"Tạm biệt, Koster." Nàng nắm tay anh, thân thiết. "Em rất vui đã gặp lại anh. Cho em gửi lời chào Gottfried Lenz."
"Vâng," Koster đáp.
Nàng vẫn cầm tay anh. Môi nàng run run. Và thình lình nàng bước tới một bước và hôn anh. "Tạm biệt anh," nàng nghẹn ngào khẻ nói.
Mặt Koster bỗng đỏ rần như có một ngọn lửa bừng cháy . Anh định nói một câu gì đó, nhưng rồi quay đi, ngồi vào xe, rồ máy chạy thật nhanh trên khúc quẹo gắt mà không ngoái nhìn. Chúng tôi đứng trông theo. Xe phóng như sấm trên phố chính và lên cao dần trên đường chữ chi, như một con đom đóm duy nhất, cặp đèn pha vàng vọt quét trên mặt tuyết xám phía trước. Lên đến đỉnh, xe ngừng lại và Koster vẫy tay. Bóng anh đen in trên ánh đèn sáng. Rồi anh biến mất, và trong một thời gian dài chúng tôi vẫn nghe tiếng động cơ ầm ì nhỏ dần.
Pat nghiêng tới trước, lắng nghe cho đến khi không còn một âm thanh nào. Rồi nàng quay sang tôi.
"Con tàu cuối cùng đã rời cảng, Robby."
"Con tàu áp chót chứ," tôi trả lời. "Anh mới là con tàu cuối. Và em biết anh đề nghị gì không? Anh sẽ đi tìm một chỗ thả neo mới. Anh không thích căn phòng ở dãy nhà phụ nữa. Anh không thấy tại sao chúng mình không thể sống với nhau. Anh sẽ cố gắng xin một phòng gần chỗ của em."
Nàng mỉm cười. "Không thể nào. Chắc anh không làm được. Anh sẽ bắt đầu ra sao?'
"Nếu anh làm được, em có vui không?"
"Thế mà cũng hỏi! Sẽ tuyệt vời, anh yêu. Gần bằng lúc ta ở trọ nhà bác Zalewski."
"Đúng. Vậy cho anh nửa tiếng."
"Vâng. Em sẽ chơi cờ với Antonio. Một trong những món em học được ở đây."
Tôi lên văn phòng và giải thích rằng tôi sẽ ở lại khá lâu và cần một phòng cùng tầng lầu với Pat. Một bà quản lý đứng tuổi, ngực lép kẹp, giận dữ từ chối vì điều lệ của dưỡng đường không cho phép.
"Ai viết điều lệ?" tôi hỏi.
"Ban Giám Đốc," bà quản lý sẳn giọng, tay vuốt các nếp gấp trên áo mình.
Cuối cùng, bà miễn cưỡng cho tôi biết là bác sĩ phụ trách có thẩm quyền trong vài trường hợp ngoại lệ.
"Nhưng ông ấy đã về nhà," bà nói. "Ban đêm ông ấy về nhà và không ai được quấy rầy nếu không phải là công việc."
"Tốt," tôi đáp, "vậy tôi sẽ quấy rầy ông ấy với lý do công việc. Một vấn đề liên quan tới điều luật của dưỡng đường."
Bác sĩ ngụ ở một ngôi nhà nhỏ gần dưỡng đường. Ông tiếp tôi ngay và cho phép tức thì.
"Căn cứ vào tình hình ban đầu, tôi không dám hy vọng được giải quyết nhanh như thế," tôi nói.
Ông cười khà. "Aha, chắc cậu gặp bà Rexroth? Được, để tôi điện thoại."
Tôi trở lại văn phòng. Trông thấy nét mặt đắc thắng của tôi, Rexroth liền rút quân trong danh dự. Tôi sắp xếp mọi thứ với cô thư ký và nhờ người phục dịch dời hành lý của tôi và mua cho tôi vài chai rượu. Rồi tôi đi tìm Pat ở đại sảnh.
"Anh đã xin được chưa?" nàng hỏi.
"Chưa, nhưng mấy hôm nữa sẽ xong."
"Tiếc nhỉ," nàng lật ngã những quân cờ và đứng dậy.
"Mình nên làm gì đây?" tôi hỏi. "Đến quầy rượu?"
"Tụi này thường chơi bài," Antonio nói. "Gió Fohn sắp thổi qua, tôi có cảm tưởng như vậy. Lúc ấy chơi bài là hay hơn cả."
"Chơi bài? Pat hả?" tôi ngạc nhiên hỏi. "Em biết chơi bài gì? Black Peter và Patience?"
"Xì phé, anh yêu," Pat tuyên bố.
Tôi cười. "Cô ấy biết chơi xì phé, thật đấy," Antonio nói. "Có điều cô ấy hơi ẩu. Cô ấy tố dở lắm."
"Tớ cũng thế," tôi trả lời. "Chúng ta phải thử thời vận."
Chúng tôi ngồi trong một góc phòng và bắt đầu chơi. Pat chơi xì phé không tệ chút nào. Nhưng nàng tố rất bạo. Một giờ sau, Antonio chỉ ra cửa sổ. Tuyết đang rơi. Chầm chẩm, như còn ngần ngại, những vẩy tuyết mỏng, dẹp gần như rơi theo chiều thẳng đứng. "Không một hơi gió thoảng," Antonio nói. "Có nghĩa là sẽ có rất nhiều tuyết."
"Giờ này Koster đang ở đâu nhỉ?" Pat hỏi.
"Anh ấy xuống khỏi đèo lâu rồi," tôi nói. Trong một thoáng, tôi nhìn thấy khá rõ hình ảnh Karl lướt với Koster dưới làn tuyết, và thình lình tất cả dường như siêu thực -- rằng tôi ngồi đây, rằng Koster đang dong duỗi trên đường và Pat ở đấy. Nàng cười hạnh phúc nhìn tôi và ấn bàn tay với những lá bài lên bàn.
"Nhanh lên nào, Robby,"
Viên đạn đại bác lăn vào, dừng lại phía sau bàn chúng tôi và bắt đầu lắc lư với thiện cảm trên đầu ngón chân. Cô vợ của hắn buồn ngủ thấy rõ, vậy mà hắn đang tìm món giải trí. Tôi đặt bài của mình xuống bàn và nhìn hắn ta một cách độc địa đến khi hắn biến đi.
"Anh không thân thiện gì mấy," Pat nói, hài lòng.
"Không," tôi nói. "Anh không có ý định ấy."
Chúng tôi đến quầy rượu và uống vài ly Đặc Biệt. Rồi Pat phải lên giường. Tôi từ giã nàng ở phòng lớn. Nàng chậm chạp bước lên cầu thang, ngoảnh lại và dừng chân trước khi khuất vào hành lang. Tôi chờ một lát, rồi đến văn phòng lấy chìa khóa. Cô bé thư ký mỉm cười.
"Số bẩy mươi tám," nàng nói.
Đó là căn phòng sát vách phòng Pat. "Theo đề nghị của Fraulein Rexroth, hẳn thế?"
"Không. Fraulein Rexroth ở Nhà Truyền Giáo," nàng trả lời.
"Nhà Truyền Giáo đôi khi cũng hữu dụng," tôi nói và nhanh nhẹn bước lên lầu. Đồ dùng của tôi đã lấy khỏi va-li. Nửa giờ sau, tôi gõ cánh cửa nối liền hai phòng.
"Ai đó?" Pat hỏi.
"Cảnh sát," tôi trả lời.
Có tiếng chìa khóa lách cách trong ổ và cửa mở ra. "Anh, Robby?" Pat lập bập, hoàn toàn bất ngờ.
"Anh đây," tôi nói. "Kẻ đánh bại Fraulein Rexroth. Chủ nhân của Cognac và Porto -Ronco." Tôi rút mấy chai rượu từ túi áo choàng ngủ. "Và bây giờ, nói cho anh biết tức thì, bao nhiêu người đàn ông đã có mặt ở đây?"
"Không một ai, ngoại trừ đội cầu thủ football và ban nhạc giao hưởng," Pat nói, cười phá lên. "Ach, anh yêu, những ngày thân ái cũ nay đã trở về."
Nàng thiếp trên vai tôi. Tôi thao thức một lúc lâu. Ở góc phòng, một ngọn đèn nhỏ đang leo lét. Hoa tuyết lất phất đập vào khung cửa sổ và trong bầu ánh sáng lờ mờ nâu vàng, thời gian như lắng đọng. Thỉnh thoảng vài ống dẫn khí sưởi kêu răng rắc. Pat trở mình trong giấc ngủ, và rất chậm, sột soạt, mấy mảnh khăn trải giường rơi xuống đất.
Ach, tôi nghĩ, làn da nâu đồng, sáng mịn. Đầu gối mảnh khảnh huyền diệu. Bí ẩn mềm mại của đôi vú. Tóc nàng lòa xào chạm trên vai tôi, và huyết quản của nàng phập phồng dưới đôi môi tôi. Em sắp chết hay sao? tôi nghĩ. Em không thể chết. Em là niềm hạnh phúc.
Tôi thận trọng kéo khăn trải giường lên. Pat lẩm bẩm một điều gì đó rồi lại im lặng và trong giấc ngủ, chầm chậm quàng tay qua ngực tôi.
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 1:59:51 GMT -6
Chương 27
Mấy ngày sau đó tuyết rơi không ngừng. Pat lên cơn sốt, và phải nằm nghĩ. Hầu hết các bệnh nhân đều sốt.
"Chính là thời tiết," Antonio nói. "Gió fohn. Quá ấm. Thứ thời tiết thường gây sốt."
"Hãy ra ngoài chơi một lúc, anh yêu," Pat nói. "Anh biết trượt tuyết chứ?"
"Không. Làm sao anh biết? Anh chưa bao giờ sống ở vùng núi."
"Antonio sẽ hướng dẫn anh. Anh ấy sẽ vui. Và anh ấy mến anh."
"Anh muốn ở đây với em hơn."
Nàng ngồi dậy. Áo ngủ trễ quá vai. Bờ vai gầy guộc mỏng. Cả gáy của nàng nữa, cũng thế. "Hãy vì em, ra ngoài chơi, Robert. Em không muốn anh ngồi đây, bên giường bệnh. Hôm qua và hôm kia -- quá đủ rồi."
"Nhưng anh thích ngồi đây," tôi trả lời. "Anh không mảy may ước muốn ra ngoài tuyết."
Hơi thở của nàng nặng nề và tôi có thể nghe tiếng khò khè không đều.
"Em có nhiều kinh nghiệm hơn anh về chuyện này," nàng nói, chống mình trên khủy tay. "Tốt hơn cho cả hai đứa. Rồi anh sẽ thấy." Nàng cố nở một nụ cười. "Chiều và tối nay, anh tha hồ ngồi ở đây. Buổi sáng em thường bức rức, anh yêu. Khi sốt, người ta trông thê thảm. Đến tối thì khác. Em biết như thế là nông cạn và ngốc nghếch -- nhưng em không muốn anh nhìn thấy em xấu như ma."
"Nhưng Pat!" tôi đứng dậy. "Thôi được, anh sẽ ra ngoài một lát với Antonio. Đến trưa anh trở lại. Hy vọng anh sẽ không bị gẫy miếng xương nào, với ba cái vụ trượt tuyết này."
"Anh sẽ biết cách chơi mà, anh yêu." Nàng không có vẻ lo âu nữa. "Chẳng mấy chốc anh sẽ trượt tuyết cừ khôi cho mà xem."
"Còn em, chẳng mấy chốc em sẽ tống cổ anh khỏi đây, hả?" tôi nói, hôn nàng. Bàn tay nàng ẩm và nóng và đôi môi khô và nứt.
Antonio ngụ ở tầng hai. Anh cho tôi mượn một đôi ủng, khá vừa với chân tôi, vì chúng tôi xấp xỉ một cở với nhau. Chúng tôi đi đến cái dốc thoai thoải dành cho người mới tập nằm bên ngoài làng. Khi bước bên nhau, Antonio nhìn sâu vào mắt tôi. "Sốt làm ta bồn chồn," anh nói. "Đôi khi những chuyện kỳ quặc xảy ra trong một ngày như thế này." Anh đặt thanh trượt tuyết xuống và buộc nó vào chân. "Điều khó nhất là phải chờ đợi và không thể làm gì cả. Khiến ta phát rồ lên chứ chẳng chơi."
"Những người khỏe mạnh, cũng thế," tôi nói. "Phải chờ đợi và không thể làm gì được ..."
Anh gật đầu. "Một số ít chúng tôi hoạt động," anh tiếp tục nói; "vài người đọc hết tất cả sách trong thư viện. Nhưng đại đa số biến thành trẻ con, họ trốn không tuân lệnh nằm nghĩ dưỡng trên giường, như ngày xưa họ trốn tập thể dục, và giật mình cười khúc khích, núp vào tủ nếu có bác sĩ ở gần đó. Lén hút thuốc lá, bí mật uống rượu, mở tiệc lậu nửa đêm, ngồi lê đôi mách, đùa dai -- chỉ để quên đi sự trống rỗng. Và sự thật. Một cách giả vờ; nông cạn, và có lẽ, ngay cả vậy, để quên cái chết một cách anh hùng. Nói cho cùng, họ còn lại gì?"
Vâng, tôi nghĩ, nói cho cùng tất cả chúng ta còn lại gì?
"Chúng ta tập thử nhé?" Antonio hỏi, chỏi đôi gậy của anh vào tuyết.
"Vâng."
Anh chỉ tôi cách buộc giày vào thanh trợt, và cách giữ thăng bằng. Không khó lắm. Tôi bị ngã vài lượt nhưng tôi quen đi và có thể trượt một chút ít. Một giờ sau chúng tôi ngừng lại.
"Được rồi," Antonio nói. "Bấy nhiêu, vừa đủ cho cậu biết các bắp thịt nhức mỏi đến đâu."
"Ra ngoài trời, cũng tốt đấy, Antonio," tôi nói.
Anh gật đầu. "Chúng ta có thể đi chơi mỗi sáng. Làm giảm bớt lo âu."
"Chúng ta nên tới quán nào đó, uống một ly?"
"Được chứ. Một ly Dubonnet ở Forster's."
Chúng tôi uống Dubonnet và quay trở lại dưỡng đường. Tại văn phòng, cô thư ký bảo tôi là có người đưa thư muốn tìm; ông nhắn tôi ra bưu điện để lãnh tiền. Tôi nhìn đồng hồ tay. Còn đủ thì giờ, và tôi trở lại. Ở trạm bưu điện, họ phát cho tôi hai ngàn marks. Và cả thư của Koster. Tôi không cần lo lắng; vẫn có tiền nếu tôi muốn. Tôi chỉ cần viết cho anh.
Tôi chăm chú nhìn mấy tờ giấy bạc. Anh kiếm chúng ở đâu? Và nhanh đến thế. Tôi biết rành công việc của chúng tôi. Bỗng thình lình tôi hiểu ra. Tôi thấy lại Bollwies, mê đua xe, chủ xưởng may quần áo, đêm ấy ở quán "The Bar" khi thua cuộc, gõ gõ môt cách thèm muốn vào Karl và nói: "Tôi sằn sàng mua xe này bất kỳ lúc nào." Vâng, con bà nó, Koster đã bán Karl. Vì thế mới có tiền nhanh như vậy. Karl, vật mà anh nói, chẳng thà mất một cánh tay hơn là mất nó -- Đã mất Karl. Bây giờ nó đang nằm trong bàn tay mập ú của ông chủ xưởng may, và Otto, đôi tai có thể nhận ra tiếng máy của nó từ hàng dặm xa, bây giờ sẽ nghe tiếng gào rú của nó trên đường phố như tiếng tru của một con chó hoang.
Tôi nhét vào túi thư của Koster và cái gói nhỏ đựng mấy lọ morphine. Không biết làm gì, tôi đứng thừ ra trước quày. Tôi ước gì mình có thể gởi trả lại tiền, nhưng không thể; chúng tôi cần nó. Tôi vuốt cho thẳng những tờ giấy bạc và cất vào túi. Rồi tôi đi ra. Con bà nó -- từ nay trở đi tôi phải đánh một vòng rộng tránh những chiếc xe hơi. Xe là bạn, nhưng Karl còn hơn thế với chúng tôi. Karl là một chiến hữu. Karl, Con Ma Đường Lộ. Chúng tôi thuộc về nhau. Karl và Koster. Karl và Lenz, Karl và Pat...
Giận dữ và bất lực, tôi dẫm mạnh chân lên tuyết. Đã mất Karl. Còn Pat? Tôi đưa đôi mắt quáng nắng trừng trừng nhìn lên trời cao, bầu trời xám, vô tận này của một đấng tạo hóa điên cuồng, đã kiến tạo ra cuộc sống và cái chết, để mà chơi.
Buổi chiều, gió đổi hướng, trời trong hơn và lạnh hơn, và đến tối thì Pat khỏe ra. Sáng hôm sau, nàng đã có thể ngồi dậy, và mấy ngày sau nữa, khi Roth, người lành bệnh ra về, nàng còn có thể xuống nhà, đến sân ga.
Một đám đông vây quanh Roth. Đây là tục lệ ở đây mỗi khi có người xuất viện. Roth không lấy gì phấn khởi cho mấy. Anh gặp vận xui theo kiểu riêng của anh. Hai năm trước, một chuyên gia, trả lời câu hỏi của anh rằng anh còn sống được bao lâu, đã nói anh sẽ sống được hai năm ở ngoài, với điều kiện phải chăm sóc bản thân. Để chắc chắn, anh hỏi thêm ý kiến một bác sĩ khác. Ông này ước lượng một thời gian còn ngắn hơn nữa. Vì thế Roth thu thập tất cả tiền của, chia làm hai phần, tiêu pha thỏa thích và không bận tâm đến căn bệnh của mình. Cuối cùng với một cơn thổ huyết trầm trọng, anh được đưa vào dưỡng đường. Tại đây, thay vì lịm chết, anh lại dần dà phục hồi. Khi mới đến, anh nặng bốn mươi mốt kí. Hiện nay, anh cân được sáu mươi tám kí và khỏe mạnh đến nỗi được cho về. Nhưng anh không còn tiền.
"Tớ sẽ làm gì đây?" anh hỏi, gãi mái tóc hoe vàng. "Cậu mới lên, phải không? Tình hình ở dưới ra sao?'
"Nhiều thay đổi lắm," tôi trả lời, ngắm gương mặt bầu bỉnh với hàng lông mi không màu của anh. Anh khỏi bệnh, dù đã từng tuyệt vọng -- những chuyện khác của anh, tôi không quan tâm.
"Tớ cần tìm việc làm," anh nói. "Có hy vọng gì chăng?"
Tôi nhún vai. Nếu tôi nói có lẽ không thì có ích lợi gì? Chẳng mấy chốc, anh sẽ tự hiểu lấy.
"Cậu có quen biết với ai không?" tôi hỏi.
"Bạn bè --ối trời, cậu biết mà." Anh cười chua chát. "Khi ta bỗng dưng không còn tiền nữa, họ biến nhanh như đàn bọ chét rời bỏ xác chết. Không chừng ông lang băm của tớ nói đúng khi ông ấy bảo rằng, tớ sẽ ngỏm củ tỏi trong hai năm, dù có lẽ bằng một cách khác -- kẹo đồng."
Thình lình tôi điên tiết với thằng ngốc đang ba hoa chích chòe. Hắn không hiểu cuộc sống là gì cả? Tôi thấy Antonio đi với Pat phía trước, tôi thấy đôi vai và gáy của họ, hao gầy vì móng vuốt của căn bệnh; tôi hiểu họ tha thiết với cuộc sống đến dường nào, và tôi có thể ngay trong giây phút ấy, không run tay giết Roth, nếu như nhờ thế mà Pat được lành bệnh.
Con tàu rời khỏi sân ga. Roth vẫy nón từ giã. Những người còn lại ơi ới gọi, cười cợt. Một cô gái lúp xúp đuổi theo, giọng yếu ớt, đứt khúc. "Au revoir! Au revoir!" Rồi nàng quay trở lại và òa khóc. Những người kia nhăn mặt.
"Mọi người nghe đây!" Antonio nói to. "Ai khóc nhè ở nhà ga phải nộp phạt. Đó là luật từ xưa của dưỡng đường. Tiền phạt sẽ xung vào quỹ của buổi tiệc lần tới."
Anh trịnh trọng chìa tay. Những người kia cười ầm. Cả cô gái, nước mắt vẫn ướt trên má, cũng cười và lấy từ túi áo khoác một cái ví xác xơ.
Tôi cảm thấy khổ sở. Trên những bộ mặt quanh tôi -- không phải là tiếng cười, chỉ là một niềm vui méo mó, co giật, đày đọa -- không phải nụ cười mà là nét khổ đau.
"Đi thôi em," tôi nói với Pat, kéo tay nàng.
Chúng tôi bước đi trong im lặng trên con đường làng. Tôi ghé vào tiệm gần nhất, mua một gói kẹo.
"Hạnh nhân rang," tôi nói, đưa cho nàng. "Em thích nó, phải không?"
"Robby," nàng nói, môi run run.
"Đợi anh một chút," tôi đáp, và đi vào cửa hàng hoa bên cạnh. Tương đối bình tâm, tôi trở ra với một bó hoa hồng.
"Robby," Pat nói.
Tôi cười buồn. "Anh trở thành hiệp sĩ ở tuổi già, Pat ạ."
Tôi không biết điều gì đã bất ngờ đánh động chúng tôi. Dường như chuyến tàu ly biệt ấy. Như một bóng tối nặng nề, một cơn gió xám, thổi bay tất cả những gì chúng tôi luyến tiếc. Chúng tôi là đôi trẻ trốn chạy, chẳng biết trời cao đất dầy là gì, nhưng nôn nức muốn duy trì một cuộc chơi gan góc.
"Ta uống một ly, nhanh thôi," tôi nói.
Nàng gật đầu. Chúng tôi vào quán cà phê gần nhất và ngồi ở bàn cạnh cửa sổ. "Em thích gì, Pat?"
"Rum," nàng nói và nhìn tôi.
"Rum," tôi lập lại, tìm tay nàng dưới bàn. Nàng xiết tay tôi.
Rum được mang đến. Bacardi với chanh. "Anh yêu," nàng nói, nâng ly.
"Em thân yêu," tôi nói.
Chúng tôi ngồi một lúc.
"Đôi khi, ta thấy kỳ cục, phải không?" Pat nói.
"Vâng. Đúng là thỉnh thoảng ta lại có cảm giác ấy. Nhưng nó sẽ chóng qua."
Nàng gật đầu. Chúng tôi tiếp tục bước, vai kề bên nhau. Những con ngựa kéo xe trượt tuyết, thở ra hơi nước, chạy nước kiệu vượt qua chúng tôi. Những người trượt tuyết da rám nắng, mệt mỏi. Một đội khúc côn cầu vận áo len hai màu đỏ trắng, hình ảnh của cuộc sống ...
"Em cảm thấy thế nào, Pat?" tôi hỏi.
"Tốt, Robby ạ."
"Phải chi chúng ta cũng được như họ, em nhỉ?"
"Vâng, anh yêu." Nàng nép vào tay tôi.
Phố vắng tênh. Nắng chiều như một tấm chăn hồng phủ trên dãy núi tuyết.
"Pat," tôi nói. "Anh chưa nói với em là hiện nay chúng ta có khá nhiều tiền. Koster vừa gửi lên."
Nàng dừng chân. "Tuyệt vời, Robby. Vậy chúng ta có thể đi chơi một lần nữa, được chứ?"
"Hẳn rồi," tôi nói, "chúng ta muốn đi chơi bao nhiêu lần cũng được."
"Vậy thứ Bẩy này ta đến Kursaal. Buổi dạ vũ cuối cùng trong năm sẽ tổ chức ở nơi ấy."
"Nhưng em không được ở qua đêm mà."
"Hầu hết các bệnh nhân đều không được ở qua đêm, nhưng họ vẫn đi."
Tôi làm mặt nghiêm.
"Robby, trong thời gian anh không có mặt ở đây, em luôn luôn tuân theo lời họ. Em chẳng khác gì bộ mặt điển hình cho sự lo âu. Đã không có lợi, mà còn tàn tệ hơn. Đừng ngắt lời em; em biết anh sẽ nói gì. Em cũng biết, hệ lụy sẽ ra sao. Thế nhưng, với quỹ thời gian còn lại của em, lần này có anh bên cạnh-- hãy cho em làm theo ý muốn."
Ánh nắng chiều chan hòa trên mặt nàng. Nghiêm, lặng và tràn ngập dịu dàng. Chúng tôi đang nói gì? miệng tôi đắng ngắt; chúng tôi không thể đứng ở đây, thảo luận một việc không bao giờ có thể, và không bao giờ nên xảy ra. Và Pat lại là người nói lên những lời ấy! Cam chịu, gần như không hối tiếc, như không một điều gì có thể cản trở, ngay cả những manh mún đáng thương của một hy vọng dối lừa ---trong tất cả mọi người, lại là Pat, chẳng lớn hơn một đứa trẻ là bao, Pat --người mà tôi có nhiệm vụ che chắn bảo vệ-- Pat, thình lình đã xa cách tôi đến thế, đã quen thuộc và hòa giải với một điều không tên bên kia cuộc đời.
"Em không được nói vậy," cuối cùng tôi khẻ đáp. "Anh chỉ nghĩ rằng, có lẽ chúng ta nên hỏi ý bác sĩ trước đã."
"Chúng ta không hỏi ai nữa, không một ai." Nàng lắc cái đầu thanh tao đáng yêu và nhìn tôi trìu mến. "Em không muốn biết gì nữa. Em chỉ muốn hạnh phúc."
Buổi chiều, có tiếng nói rầm rì, tiếng chân lui tới trong hành lang của dưỡng đường. Antonio mang đến một lời mời. Sẽ có tiệc ở phòng của ông người Nga.
"Cứ đến dự, đơn giản vậy thôi?" tôi hỏi.
"Ở đây?" Pat hỏi.
"Tại đây cậu có thể làm nhiều thứ mà cậu không thể làm ở nơi khác," Antonio nói, mỉm cười.
Người Nga là một ông lớn tuổi, da ngăm. Chỗ của ông gồm hai phòng, và trải nhiều thảm. Vài chai schnapps để trên một tủ áo. Phòng tối mờ, chỉ đốt nến. Trong số khách, có một cô Tây Ban Nha trẻ trung, xinh đẹp. Tiệc mừng sinh nhật của nàng.
Không khí lạ kỳ trong căn phòng lung linh ánh nến --gợi nhớ một hầm trú ẩn, nửa tối nửa sáng và tình bằng hữu của những con người gắn bó với nhau trong cùng một số phận.
"Cậu uống gì?" người Nga hỏi. Giọng của ông trầm, ấm.
"Thứ gì cũng quý."
Ông đem ra một chai cognac và một lọ đựng vodka.
"Cậu khỏe chứ?" ông hỏi.
"Vâng," tôi cảm thấy hơi ngượng.
Ông đưa tôi một điếu thuốc lá có cán giấy dài. Chúng tôi cùng uống. "Tôi đoán, có lẽ cậu thấy nhiều chuyện ở đây kỳ cục lắm?" ông nói.
"Không đến nỗi," tôi đáp. "Tôi chưa quen với những cuộc sống đặc biệt bình thường."
"Vâng," ông nói, ném một cái nhìn ý nghĩa sang cô Tây Ban Nha. "Nơi đây là một thế giới riêng. Làm người ta thay đổi."
Tôi gật đầu.
"Một căn bệnh kỳ quặc," ông nói thêm, trầm ngâm. "Nó làm người ta ham sống hơn. Và đôi khi tốt hơn. Một căn bịnh bí ẩn. Chảy mềm xỉ sắt." Ông đứng dậy, gật đầu chào tôi và đi về hướng cô Tây Ban Nha đang mỉm cười với ông.
"Như phường chèo, phải không?" có ai đứng sau lưng tôi, hỏi.
Một gương mặt với chiếc càm lẹm. Trán lấm tấm mụn. Cặp mắt xục xạo không ngừng, hừng hực.
"Tôi là khách của ông ấy," tôi nói. "Còn ông, không phải ư?"
"Tuy thế, nhờ vào đó mà ông ta chinh phục được nhiều phụ nữ," người đàn ông nói tiếp, dai dẳng, không để ý tới lời nhắc khéo của tôi, "ông ấy chinh phục họ. Cả cô bé ở đàng kia."
Tôi không trả lời. "Ai thế, em?" tôi hỏi Pat, khi ông ta bỏ đi.
"Một nhạc sĩ. Kéo vĩ cầm. Yêu một cách tuyệt vọng cô gái Tây Ban Nha. Kiểu yêu đương của những người ở đây. Nhưng cô ấy chẳng buồn ngó ngàng tới hắn. Cô ấy yêu ông người Nga."
"Vậy anh có nên ở vào địa vị của cô ấy?'
Pat cười.
"Dường như đó là một người đàn ông mà em có thể đem lòng yêu," tôi nói. "Đúng không?"
"Không," nàng đáp.
"Em có bao giờ yêu ai ở đây chưa?"
"Không nhiều lắm," nàng nói.
"Nếu có, chẳng ảnh hưởng gì tới anh," tôi nói.
"Thú nhận hay nhỉ," Pat ngồi thẳng lại. "Lẽ ra, phải có chứ."
"Anh không có ý nói thế. Anh không biết giải thích ra sao. Và không thể, vì anh vẫn không biết em đã thấy điều gì nơi anh."
"Để mặc em với chuyện ấy," nàng nói.
"Mà em có biết không?"
"Không chính xác," nàng đáp với một nụ cười. "Nếu em biết rõ, thì chẳng còn là tình yêu nữa."
Người Nga để lại chai rượu. Tôi rót cho mình vài ly. Không khí ngột ngạt khó thở. Tôi không thích nhìn Pat giữa những người bệnh này.
"Anh không thích chỗ này sao? nàng hỏi.
"Không thích lắm. Anh cần phải quen với nó trước."
"Khổ thân anh yêu --" Nàng vuốt ve bàn tay tôi.
"Anh không khổ khi có em ở đây," tôi nói.
"Chẳng phải Rita rất đẹp sao?"
"Không," tôi nói. "Em đẹp hơn nhiều."
Cô gái tựa cây tây ban cầm trên đầu gối. Dạo vài hợp âm. Rồi nàng cất tiếng hát và trong phòng như có một con chim đen lượn lờ bên cao. Nàng hát những bài Tây Ban Nha, giọng âm u - thứ giọng khản đặt, yếu ớt của một người bịnh. Tôi không biết có phải vì những bài hát xa lạ não nùng, hay vì giọng ngân run rẩy huyền ảo của nàng, hay vì những khối đen của các người bệnh co rúm trong ghế bành và trên sàn, hay vì gương mặt to, sậm, cúi xuống của người Nga, bỗng nhiên tôi nhận ra, tất cả những bài hát của nàng chỉ là một câu chú trừ tà, tĩnh lặng, nức nở, để xua đuổi cái định mệnh bên ngoài màn cửa đang chực chờ -- một lời van lơn, một lời phản kháng, và nỗi lo sợ, lo sợ phải một mình với cõi Hư Không đang im ắng ngấu nghiến.
Sáng hôm sau Pat có một tâm trạng phấn khởi. Nàng bận rộn với chiếc áo. "Áo gì rộng quá, lùm xùm," nàng nói khẻ, nhìn ngắm nó trong gương. Rồi nàng quay sang tôi. "Anh có mang đồ lớn theo không, anh yêu?"
"Không," tôi nói. "Anh đâu biết là anh sẽ cần tới nó."
"Vậy anh tìm Antonia. Anh ấy sẽ cho anh mượn một bộ. Hai người có dáng dấp như nhau."
"Nhưng anh ấy cũng cần nó."
"Anh ấy sẽ mặc bộ lễ phục cánh én." Nàng nhíu một nếp áo. "Và anh đi trượt tuyết đi. Em bận lắm. Em sẽ chẳng làm được gì nếu anh ở gần bên."
"Antonio của em --" tôi nói. "Anh làm phiền anh ấy nhiều quá. Anh tự hỏi, nếu không có anh ấy, ta biết làm gì bây giờ?"
"Anh ấy là một người tử tế, phải không?"
"Vâng," tôi đáp. "Em nói đúng -- một chàng trai tử tế."
"Em không biết em ra sao nếu không được anh ấy giúp, khi chỉ có một mình em."
"Đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa," tôi nói. "Đã qua từ lâu. "
"Vâng," nàng hôn tôi. "Và bây giờ anh đi trượt tuyết nhé."
Antonio đã chờ sẳn.
"Có lẽ cậu không mang theo bộ đồ lớn nào," anh nói. "Thử cái áo này xem."
Áo chật một tí nhưng cũng tạm ổn. Antonio vui vẻ huýt sáo và treo nó một bên.
"Ngày mai sẽ náo nhiệt lắm," anh nói. "May phước là cô thư ký sẽ trực đêm mai. Bà Rexroth không đời nào cho chúng ta đi. Chính thức mà nói, những chuyện linh tinh thế này đều bị cấm. Nhưng dĩ nhiên, không chính thức, chúng ta đâu còn là trẻ con nữa."
Chúng tôi đi trượt tuyết. Tôi đã biết kha khá, và chúng tôi không dùng bãi dành cho người mới học. Trên đường đi, chúng tôi gặp một anh chàng, tay đeo đầy nhẫn kim cương, quần thụng túm ống kẻ ô, và cà vạt hoa hòe phơi phới.
"Trên này có nhiều chuyện ngộ nghĩnh," tôi nói.
Antonio cười to. "Ông ta là một nhân vật quan trọng. Bạn của người quá cố."
"Bạn cái gì?" tôi hỏi, kinh ngạc.
"Bạn của người quá cố," Antonio đáp. "Cậu thấy mà, bệnh nhân ở đây đến từ khắp nơi trên thế giới. Nhất là Nam Mỹ. Lẽ đương nhiên, thân nhân của họ muốn đem họ về nước chôn cất. Vì thế, bạn với người quá cố, như ông ta, hộ tống và đưa quan tài về đến nơi đến chốn. Điều bất ngờ là họ kiếm được nhiều tiền, và được đi đó đi đây. Cái chết làm cho ông ta trở thành một anh chàng ăn diện đỏm đáng, như cậu thấy."
Chúng tôi leo dốc thêm một lúc, rồi mang thanh trượt tuyết vào và trượt xuống. Những sườn đồi phủ tuyết dợn sóng khi cao khi thấp, và sau lưng chúng tôi, sủa gâu gâu, thỉnh thoảng lại vùi trong tuyết tới ngực, Billy như một trái banh đỏ nâu đuổi theo.
Nó đã thân thiện trở lại với tôi, tuy một đôi khi vẫn quay đầu và chạy như bị ma bắt, đôi tai phất phơ trong gió, về hướng dưỡng đường.
Tôi tập kiểu Christianias, và mỗi lần lướt xuống đồi và chuẩn bị lượn vòng và thả lỏng cơ thể, tôi lại nghĩ: nếu lần này tôi không té, Pat sẽ bình phục. Gió bạt trên mặt tôi, tuyết cứng và dính khắn, nhưng tôi vẫn kiên trì. Tôi tìm tòi những đường trượt gắt hơn, những bãi đất khó hơn; và mỗi khi thành công, tôi lại nghĩ "nàng được cứu!" -- và tôi biết như vậy là ngu muội, tuy thế tôi vẫn thấy sung sướng hơn tôi từng cảm thấy trong một thời gian dài.
Một cuộc di dân bí mật và vĩ đại xảy ra vào tối thứ bẩy. Antonio thuê mấy chiếc xe trợt tuyết, chờ sẳn ở một địa điểm dưới thấp, cách dưỡng đường một quãng ngắn. Còn anh lại ngồi vào một tấm ván trượt, hi hô vang lừng, lao xuống đồi, trong giày khiêu vũ và áo khoác hở, để lộ bên trong chiếc gi -lê trắng của bộ đồ lớn.
"Anh ấy điên nhỉ," tôi nói.
"Anh ấy vẫn thường như thế," Pat đáp. "Khá vô tư. Như vậy mới chịu đựng được. Nếu không, làm sao anh ấy có thể giữ được tính tình vui vẻ."
"Để bù đấp, chúng ta sẽ gói ghém em kỹ càng hơn."
Tôi trùm lên nàng tất cả những chăn và khăn choàng có được. Rồi cỗ xe trượt tuyết lao xuống đồi. Đó là một đoàn xe dài thượt. Người nào có điều kiện cũng đều trốn trại. Trông chúng tôi y như một toán người dự một đám cưới dưới thung lũng, các chùm lông trên đầu mấy chú ngựa dẫn đầu, phơi phới gật gù dưới ánh trăng và những chuỗi cười cùng tiếng la hò không dứt phát ra từ chiếc xe trượt tuyết này đến chiếc xe trượt tuyết khác.
Kursaal được trang hoàng lộng lẫy. Khi chúng tôi đến, cuộc khiêu vũ đã bắt đầu. Một góc phòng cách biệt với các ngọn gió lùa từ cửa sổ được dành cho khách từ dưỡng đường. Góc phòng ấm áp và thơm hương của hoa tươi, nước hoa và rượu nho.
Một số đông ngồi tại bàn chúng tôi --ông người Nga, Rita, chàng nhạc sĩ kéo vĩ cầm, một bà lớn tuổi, một đầu lâu mang đầy châu báu, gã trai lơ của bà ta, Antonio và một vài người khác.
"Nào, Robby," Pat nói, "hãy thử xem nếu chúng ta khiêu vũ được không."
Mặt đất chầm chậm quay tròn dưới chân chúng tôi. Tiếng vĩ cầm và trung hồ cầm thướt tha bay bay trên nền nhạc êm ái của giàn hòa tấu. Những cặp chân lã lướt trên sàn.
"Anh yêu, em không ngờ anh khiêu vũ tuyệt vời như vậy," Pat nói, ngạc nhiên.
"Ơ, làm gì được thế --"
"Thật mà. Anh học ở đâu vậy?"
"Gottfried dạy anh," tôi nói.
"Tại tiệm sửa xe?'
"Vâng, và ở quán Café International. Lẽ tự nhiên, tụi anh cần có bạn nữ. Rosa, Marian và Wally điểm xuyết cho những bí quyết sau cùng. Nhưng anh e rằng cách khiêu vũ của anh chưa thể gọi là tao nhã được."
"Ô, đúng thế!" Mắt nàng long lanh. "Khi chúng ta khiêu vũ với nhau lần đầu, Robby."
Song song với chúng tôi, ông người Nga đang dìu cô Tây Ban Nha trong tay. Ông mỉm cười và gật đầu với chúng tôi. Nàng Tây Ban Nha xanh mướt. Mái tóc đen nhánh của nàng lượn theo đôi mày như cánh của loài quạ. Nàng khiêu vũ với nét mặt long trọng, cố định. Trên cổ tay nàng là chiếc vòng đính những viên bích ngọc to, vuông. Nàng mười tám tuổi. Chàng nhạc sĩ vĩ cầm ngồi ở bàn, đôi mắt thèm thuồng theo dõi.
Chúng tôi trở lại bàn. "Em muốn một điếu thuốc," Pat nói.
"Em không nên hút, em biết đấy," tôi thận trọng trả lời.
"Chỉ vài hơi thôi, Robby. Đã lâu lắm, em không hút thuốc."
Nàng cầm điếu thuốc, nhưng chẳng bao lâu lại bỏ xuống. "Em không thích vị của nó, Robby. Chỉ là em không còn ưa thích nữa."
Tôi cười to. "Luôn luôn như thế, khi ta đoạn tuyệt với một thứ gì trong thời gian dài."
"Anh đã đoạn tuyệt với em trong một thời gian dài," nàng nói.
"Câu đó chỉ đúng với độc dược," tôi nó: "Rượu chè và thuốc lá."
"Con người là thứ thuốc độc còn nguy hiểm hơn cả rượu chè và thuốc lá, anh yêu."
Tôi cười to. "Em là một cô bé tinh ranh, Pat ạ."
Nàng chống tay lên bàn và nhìn tôi. "Anh chẳng bao giờ nghĩ về em một cách nghiêm chỉnh, phải không?"
"Anh chẳng hề nghĩ đến anh một cách nghiêm chỉnh," tôi đáp.
"Em cũng thế. Hãy nói thực đi, ít ra một lần."
"Anh không biết điều ấy. Nhưng anh đã nghĩ đến hai đứa mình một cách cực kỳ nghiêm chỉnh, anh biết thế."
Nàng mỉm cười. Antonio mời nàng khiêu vũ. Hai người đi ra sàn nhảy. Tôi ngắm họ khiêu vũ với nhau. Mỗi khi lướt ngang qua, nàng lại mỉm cười. Chiếc áo dạ hội bạc của nàng hầu như không chạm đất. Nàng có sự uyển chuyển nhanh nhẹn của một con sơn dương.
Ông người Nga lại đang khiêu vũ với nàng Tây Ban Nha. Cả hai đều im lặng. Gương mặt to, da sậm của ông tràn ngập một nỗi dịu dàng. Chàng nhạc sĩ vĩ cầm đã cố mời cô nàng. Nàng chỉ lắc đầu và ra sàn nhảy với ông người Nga.
Chàng nhạc sĩ bẻ gẫy điếu thuốc lá trong những ngón tay dài, xương xẩu. Bỗng nhiên tôi cảm thấy thương hại hắn. Tôi mời một điếu khác. Anh chàng khước từ. "Tớ phải chăm lo sức khỏe của mình," anh chàng nói, rấm rức.
Tôi gật đầu. "Lão ấy," anh chàng nói tiếp, cười khẩy, chỉ về phía ông người Nga, "hút năm mươi điếu một ngày."
"Ai làm chuyện của người ấy," tôi đáp.
"Cô ấy không muốn khiêu vũ với tớ, nhưng rồi tớ sẽ mời được."
"Ai chứ?"
"Rita."
Hắn nhích lại gần tôi. "Có dạo tớ đã kết thân với cô ấy. Chơi bài với nhau. Rồi thằng cha Nga đến, rù quến cô ấy với những lời nói tràng giang đại hải. Nhưng tớ sẽ đoạt lại cô ấy."
"Vậy cậu phải nỗ lực hết mình," tôi nói. Tôi không thích hắn.
Hắn bật ra một tràng cười yếu ớt. "Nỗ lực cái mốc xì, ngốc tử? Tớ chỉ phải chờ đợi mà thôi."
"Vậy cứ tha hồ chờ."
"Năm mươi điếu," gã thầm thì, "mỗi ngày. Tớ đã xem hình phổi của lão hôm qua. Thủng lỗ chỗ. Đời tàn." Hắn cười to. "Tụi tớ đều khởi đầu như nhau. Ta có thể hoán đổi phim phổi của mọi người. Cậu phải thấy sự khác biệt bây giờ! Tớ lên được một kí lô. Không, cậu bé, tớ chỉ cần chờ đợi, và chăm sóc sức khỏe của mình. Tớ trông cho mau đến lần chụp hình phổi kỳ tới. Y tá luôn luôn đưa tớ xem. Chờ đợi, có thế thôi. Khi lão ta không còn nữa, sẽ tới phần tớ."
"Cũng là một cách, tớ đoán," tôi nói.
"Một cách," hắn nhái tôi; "là cách duy nhất, thằng khờ ạ. Nếu lúc này tớ chen vào, làm kỳ đà cản mủi, thì chỉ tổ làm hỏng mất cơ hội về sau của tớ. Không -- phải thân thiện, bình tĩnh -- chờ --"
Không khí trở nên rin rít và nặng nề. Pat ho khúc khắc. Tôi để ý thấy nàng nhìn tôi ra vẻ lo lắng, nên tôi giả vờ như chẳng nghe gì. Người đàn bà lớn tuổi với nhiều ngọc trai chỉ im lặng, ngồi lọt thỏm trong ghế của mình. Thỉnh thoảng bà ấy lại ré lên một tràng cười lạnh buốt. Cái đầu lâu đang cãi cọ với gã trai lơ. Ông người Nga hút liên miên, hết điếu này sang điếu khác. Người nhạc sĩ vĩ cầm mồi lửa cho ông. Một cô gái bỗng dưng nức lên, lấy khăn tay che miệng, chăm chú nhìn vào và tái mặt.
Tôi nhìn quanh phòng. Ngoài kia là bàn của những du khách đến chơi các môn thể thao mùa đông; còn đây là bàn của giai cấp trung lưu thành thị, người Pháp, người Anh, người Hòa Lan ngồi đấy với những âm tiết thô thiển, tầm thường trong lời nói của họ, gợi nên những cánh đồng cỏ và biển cả -- và giữa họ là cái bầy đàn nhỏ bé này của sự bệnh hoạn và chết chóc. Tôi nhìn Pat -- những đồng cỏ và biển cả -- sóng xô lên bờ và cát và bơi lội --ach, tôi nghĩ, đôi mày thân thương! đôi tay thân thương! cuộc đời thân thương -- tôi chỉ có thể yêu mà không thể cứu.
Tôi đứng dậy và đi ra. Tôi cứng nhắc với đè nén và bất lực. Tôi đi chậm trên con đường mòn. Tôi run rẩy vì cái lạnh, và cơn gió thổi sau các ngôi nhà làm tôi rùng mình sởn gáy. Tôi nắm chặt tay và trừng trừng nhìn rặng núi cứng, trắng với một cảm xúc hoang dại pha trộn những niềm vô vọng, giận dữ và đau đớn.
Một cỗ xe trượt tuyết chạy leng keng trên con đường dưới thấp. Tôi trở lại. Pat đi ra đón tôi.
"Nãy giờ anh ở đâu thế?"
"Ở bên ngoài thôi."
"Anh đang bực dọc?"
"Không đâu."
"Hãy vui, anh yêu! Hãy vui vẻ hôm nay. Vì em, cho em. Ai biết được, khi nào em sẽ lại có dịp tham dự một buổi dạ vũ khác?"
"Em sẽ đi dự rất thường xuyên."
Nàng tựa đầu trên vai tôi. "Nếu anh nói thế, chắc phải đúng. Nào, hãy khiêu vũ tiếp. Chúng ta chưa bao giờ khiêu vũ với nhau trước đây."
Chúng tôi dìu nhau trong tiếng nhạc, và ánh đèn ấm cúng, mờ ảo thật nhân hậu; nó che dấu những quầng thâm mệt mỏi mà đêm khuya đã mang đến trên gương mặt mọi người.
"Em cảm thấy sao, Pat?" tôi hỏi.
"Được lắm, Robby."
"Trông em đáng yêu lắm, Pat."
Đôi mắt nàng sáng lên. "Anh thật dễ thương khi khen em như thế."
Tôi cảm nhận đôi môi khô, ấm của nàng trên gò má mình.
Trời đã rất khuya khi chúng tôi trở lại dưỡng đường. "Hãy nhìn xem, lão ấy bệ rạc ra sao," người nhạc sĩ cười khẩy, len lén chỉ về hướng ông người Nga.
"Cậu cũng vậy," tôi bực dọc nói.
Hắn giật mình, lom lom nhìn tôi. "Vâng -- dĩ nhiên --đồ lợn lành." hắn lầm bầm.
Tôi bắt tay ông người Nga. Ông gật đầu với tôi, và nhẹ nhàng, trìu mến giúp cô Tây Ban Nha bước lên những bậc thang. Khi họ đi trên ấy, bóng của bờ lưng rộng, cong của ông và đôi vai gầy mảnh khảnh của cô gái in trên nền sáng yếu ớt của ánh đèn đêm, như thể trọng lượng của toàn thế giới đang đè nặng trên họ. Cái đầu lâu lôi xệch anh chàng điếm đực đang phụng phịu đi vào hành lang. Antonio từ giã chúng tôi. Cuộc chia tay khẽ khàng, gần như vô thanh này, mới ma quái làm sao.
Pat kéo áo qua khỏi đầu. Nàng đứng khom mình, và giật cái áo đang mắc kẹt nơi vai. Áo bị toạt. Pat chăm chú nhìn vết rách.
"Có lẽ nó đã sút ra từ trước," tôi nói.
"Không sao," Pat nói. "Có lẽ em sẽ chẳng bao giờ mặc lại nó."
Nàng chầm chậm gấp nó lại, và không máng vào tủ. Nàng đặt nó vào rương. Nét mặt của nàng đột ngột trở nên rã rời.
"Nhìn đây, anh có cái này," tôi vội vàng nói, và chìa ra một chai champagne từ trong túi áo khoác. "Cho cuộc liên hoan nho nhỏ của chúng ta."
Tôi đem ly đến và rót rượu vào. Nàng lại mỉm cười và uống. "Cho hai đứa mình, Pat."
"Vâng, anh thương, cho cuộc đời đáng yêu của chúng ta."
Thật lạ lùng sao tất cả những thứ này --căn phòng, sự tĩnh lặng và nỗi khốn khổ của chúng tôi. Và bên ngoài cánh cửa, có phải không cuộc đời cứ trải dài vô tận, với rừng rậm, sông ngòi, và hơi thở khỏe mạnh? Ở bên kia rặng núi trắng, chẳng phải là tháng Ba đã gõ không thôi trên mặt đất đang thức dậy?
"Anh ở lại với em đêm nay chứ, Robby?"
"Vâng, hãy lên giường. Hãy nằm gần nhau đến mức con người có thể, và đặt ly rượu của chúng ta trên chăn và hãy uống."
Uống ... Làn da nâu vàng óng ả... Chờ ... Nằm thao thức... Sự tĩnh mịch và ánh sáng khò khè trên khuôn ngực Pat ...
|
|
|
Post by sheen on Jun 2, 2023 2:00:44 GMT -6
Chương 28
Gió fohn thổi và làm tan băng giá. Hơi ấm, ẩm ướt, rì rào ngập trong thung lũng. Tuyết mềm ra, nhỏ giọt từ mái nhà. Biểu đồ thân nhiệt lên cao. Pat phải nằm nghĩ trên giường. Cứ vài giờ, bác sĩ lại ghé vào. Càng lúc ông càng tỏ vẻ lo lắng hơn.
Một hôm tôi đang ăn trưa, Antonio đến gần, và ngồi xuống bên cạnh.
"Rita chết rồi," anh nói.
"Rita? Hẳn cậu muốn nói tới ông người Nga?"
"Không, Rita, thiếu nữ Tây Ban Nha."
"Nhưng, làm sao có thể như thế được," tôi trả lời và có cảm giác máu đóng băng. Rita bệnh nhẹ hơn Pat rất nhiều.
"Nơi đây vẫn xảy ra những chuyện không ngờ," Antonio buồn rầu nói. "Cô ấy qua đời sáng nay. Cũng vì sưng phổi."
"Sưng phổi? Đấy lại là một vấn đề khác," tôi nói, nhẹ người.
"Mười tám tuổi. Khủng khiếp. Chết vật vã."
"Còn người Nga?"
"Ach, đừng hỏi. Ông ấy không tin, nói rằng nàng chỉ trông như đã chết. Ông ấy ngồi rịt bên giường của nàng, không ai có thể mời khỏi phòng."
Antonio bỏ đi. Tôi đăm đăm nhìn qua cửa sổ. Rita đã chết; nhưng tôi chỉ ngồi đấy, và nghĩ rằng: Không phải Pat, không phải Pat của tôi.
Trong hành lang bóng bảy, tôi nhìn thấy tay nhạc sĩ vĩ cầm. Tôi chưa kịp đứng lên, hắn đã đến gần. Trông hắn thật thảm thiết.
"Cậu lại hút thuốc," tôi nói, chỉ để mà nói.
Hắn cười to. "Dĩ nhiên. Tại sao không? Giờ đây? Giờ đây cần quái gì nữa."
Tôi nhún vai.
"Vui lắm hử, thầy tu? " Hắn hỏi, cay đắng.
"Cậu đang giận," tôi nói.
"Giận? Không đâu, bị lừa thì có." Hắn chồm qua bàn, phà hơi thở sặc mùi cognac vào mặt tôi. "Tớ bị bán đứng. Bị phỉnh gạt. Đồ lợn. Mọi thứ đều là lợn. Cả cậu nữa, một con lợn sùng đạo."
"Nếu cậu không mắc bệnh, tớ đã quẳng cậu ra khỏi cửa sổ." tôi nói.
"Bệnh? Bệnh? hắn nhại lại. "Tớ đã lành, lành hẳn hòi; tớ sắp được về. Một trường hợp nang hóa cấp tính huyền diệu! Chuyện khôi hài, phải không?"
"Cậu sẽ biết ơn," tôi nói. "Một khi ra khỏi đây, cậu sẽ sớm quên đi những nỗi muộn phiền của mình."
"Vây sao?" hắn trả lời. "Cậu tin như thế à? Cậu là một thằng khùng đầy óc thực dụng, đồ trâu bò kéo cày. Trời phú cho cậu một linh hồn tự mãn."
Hắn lảo đảo bước đi, nhưng rồi quay trở lại. "Đi theo tớ. Nhậu với nhau, nhé. Tớ sẽ bao hết. Tớ không chịu nỗi cô đơn."
"Bận lắm," tôi nói. "Hãy tìm người khác."
Tôi trở lên phòng của Pat. Nàng nằm, hơi thở nặng nề, với nhiều gối lót dưới lưng. "Anh không đi trượt tuyết ư?
Tôi lắc đầu. "Tuyết đang tan khắp nơi, dở lắm."
"Anh không đánh cờ với Antonio ư?"
"Không," tôi nói. "Anh muốn ở đây với em."
"Robby đáng thương!" nàng cố động đậy. "Ít ra, anh cũng thử tìm một thứ gì để uống chứ ?"
"Được mà!"
Tôi qua phòng mình, mang về một chai cognac và một ly thủy tinh.
"Em uống vài giọt nhé?" tôi hỏi. "Em có thể uống chút ít, em biết đấy."
Nàng nhấp một ngụm nhỏ, và một lát sau, một ngụm khác. Rồi nàng trả lại chiếc ly. Tôi rót rượu vào và uống.
"Anh không nên uống bằng ly của em," Pat nói.
"Uống như thế, càng ngon." Tôi rót thêm nữa và uống cạn.
"Không nên thế, Robby. Anh cũng không nên hôn em nữa. Anh lại càng không nên ở gần em. Anh không nên để cho lây bệnh."
"Anh sẽ hôn em, và anh không ngại gì cả."
"Không, không được. Và anh không nên ngủ trong giường của em nữa."
"Được thôi, em sẽ ngủ với anh, trong giường của anh vậy."
Nàng hé môi phản đối. "Đừng, Robby. Anh còn có một đời để sống. Em muốn anh khỏe mạnh, có một đàn con và một cô vợ."
"Anh không có vợ con nào khác, trừ em. Em là trẻ con của anh và là vợ của anh."
Nàng nằm im một lúc. "Em thích có một đứa con với anh, Robby," rồi nàng nói, dựa má vào vai tôi. "Chưa bao giờ em muốn điều ấy. Chỉ là em chẳng thể tưởng tượng ra. Nhưng gần đây, em thường nghĩ đến chuyện ấy. Cũng tốt khi ta có thể để lại một chút gì. Về sau, thỉnh thoảng khi con nhìn anh, anh sẽ nhớ đến em. Và khi ấy, em sẽ lại có mặt."
"Chúng ta sẽ có một đứa con," tôi nói. "Khi em lành bệnh. Anh muốn em sinh cho anh một đứa, Pat. Nhưng phải là con gái, và sẽ đặt tên là Pat."
Nàng lấy ly rượu từ tay tôi và nhấp một ngụm.
"Có lẽ cũng tốt nếu mình đừng có con, anh yêu. Anh cần phải quên em. Và nếu khi nào anh nhớ đến em, chỉ cần nhớ đến khoảng thời gian êm đẹp mà chúng ta đã có với nhau --không gì khác hơn. Tình mình sắp chấm dứt, và chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều ấy. Nhưng anh không nên buồn."
"Anh buồn khi nghe em nói vậy."
Nàng nhìn tôi một lúc lâu. "Khi nằm như thế này, ta nghĩ ngợi rất nhiều. Về đủ thứ chuyện mà lạ lùng sao, có lẽ ta không bao giờ nghĩ đến, trong một tình cảnh khác. Anh biết hiện nay em không hiểu gì chăng? Đó là, hai người yêu nhau như chúng ta, thế mà một người phải chết."
"Bình tỉnh em," tôi nói. "Trên đời này, một người phải mất trước người kia. Nhưng còn lâu lắm mới đến lượt chúng mình."
"Người ta chỉ nên chết khi cô độc. Hay khi căm ghét --đừng bao giờ phải chết khi đang yêu."
Tôi cố nặn ra một nụ cười. "Vâng, Pat," tôi nói, ủ đôi tay nóng sốt của nàng trong tay tôi. "Nếu chúng ta tạo dựng ra thế gian, có lẽ nó đã tốt đẹp hơn, em nhỉ."
Nàng gật đầu. "Phải đấy, anh yêu. Chúng ta sẽ không cho phép những việc như thế xảy ra. Phải chi ta được biết điều huyền diệu ẩn náu bên trong. Anh có nghĩ rằng, nó sẽ vẫn tiếp tục?"
"Vâng," tôi nói. "Nó được tạo dựng quá bết bát, nên không biết cách dừng lại."
Nàng mỉm cười. "Đấy là một cách giải thích, em đoán. Nhưng anh có nghĩ rằng vật này cũng được tạo ra một cách tồi tệ hay không?" Nàng chỉ tay vào bó hồng vàng, đặt bên giường.
"Chính xác," tôi đáp; "những chi tiết thì tuyệt vời, nhưng tổng thể lại vô nghĩa. Như thể nó được tạo dựng bởi một người điên loạn, không nghĩ ra điều gì tốt hơn những cuộc đời tuyệt đep mà người ấy sáng tạo ra chỉ để mà hủy diệt."
"Và rồi tạo dựng lại," Pat nói.
"Anh cũng không hiểu ý nghĩa của chuyện ấy. Cho đến nay, chuyện ấy chẳng mang đến kết quả gì."
"Dù sao, anh yêu," Pat nói, "tạo hóa đã không tệ lắm với cuộc đời chúng ta. Chẳng thể nào tốt đẹp hơn nữa. Chỉ tiếc là ngắn ngủi. Vô cùng ngắn ngủi."
Mấy hôm sau tôi cảm thấy nhoi nhói trong ngực và ho khan. Một ông bác sĩ đang đi trên hành lang, nghe tiếng ho của tôi, thò đầu qua cửa nhìn vào.
"Mời cậu ghé đến phòng chẩn bệnh."
"Có bệnh gì đâu," tôi nói.
"Không phải thế," ông trả lời. "Vấn đề là, khi ho như vậy, cậu không nên ngồi gần Fraulein Hollmann. Đi theo tôi, nhé."
Trong phòng khám, với một nỗi hài lòng lạ lùng, tôi cởi áo ra. Khỏe mạnh ở chốn này, dường như là một điều không thể biện bạch. Ta có cảm tưởng ta là một thằng đầu cơ tích trữ hay cáo bệnh để trốn việc.
Bác sĩ tò mò nhìn tôi. "Cậu có vẻ hớn hở nhỉ," ông nói, nhíu đôi mày.
Rồi ông cẩn thận chẩn đoán. Tôi ngắm nghía những vật dụng tươi sáng trên tường, thở mạnh và sâu, nhanh và ngắn, phình ra và hít vào theo yêu cầu của ông. Trong khi thở như thế, tôi thấy đau nhói nơi lồng ngực và tôi sung sướng, vì bây giờ tôi có ít đi lợi thế đối với nàng.
"Cậu bị cảm lạnh," bác sĩ nói. "Nằm trong giường một hai ngày, hoặc là luôn luôn ở trong phòng của cậu. Không được đi qua phòng Fraulein Hollmann."
"Tôi có thể nói xuyên qua cửa?" tôi hỏi. "Hay ngoài ban công?'
"Ngoài ban công, vâng, nhưng vài phút thôi nhé, và nói xuyên qua cửa, cũng được, miễn là cậu phải súc miệng kỹ với thuốc khử trùng. Ngoài cảm lạnh ra, cậu còn bị chứng ho của người nghiền thuốc lá."
"Còn phổi thì sao ạ?" tôi có chút hy vọng rằng ít ra cũng có một vài chi tiết trong ấy không được bình thường cho lắm. Như thế tôi sẽ cảm thấy bớt áy náy với Pat.
"Tôi có thể tách phổi của cậu làm thành ba đôi," bác sĩ nói. "Cậu là người khỏe mạnh nhất đã từ lâu tôi không gặp. Gan của cậu hơi cứng, chỉ vậy thôi. Có lẽ cậu uống rượu nhiều quá."
Ông viết toa thuốc cho tôi, và tôi trở về phòng.
"Robby," Pat gọi từ phòng của nàng, "ông ấy nói gì thế?"
"Anh không được qua phòng em, trong lúc này," tôi nói, xuyên qua cửa. Cấm ngặt. Có nguy cơ truyền nhiễm cao."
"Thấy chưa, em đã nói," nàng hoảng hốt, "em đã không muốn anh vào phòng của em nữa."
"Có nguy cơ truyền bệnh cho em, Pat. Không phải cho anh."
"Đừng nói nhảm," nàng đáp. "Hãy nói cho em biết, thực tình nhé, có chuyện gì thế?"
"Anh nói thực. Y tá ơi,"-- tôi nháy mắt với cô y tá, vừa mang thuốc đến cho tôi --"cô làm ơn bảo cho Fraulein Hollmann biết, trong hai đứa chúng tôi, ai là người nguy hiểm hơn?"
"Ấy là Herr Lohkamp," cô y tá nói. "Ông ấy không được phép vào phòng cô, để tránh lây bệnh cho cô."
Pat hết nhìn cô y tá lại quay sang nhìn tôi, đầy vẻ nghi hoặc. Tôi đưa thuốc qua khe cửa cho nàng xem. Rồi nàng nhận ra thật tế và bắt đầu cười, càng lúc càng nhiều hơn; nàng cười cho đến khi nước mắt chảy ràn rụa trên má, và nàng bắt đầu ho, khổ sở đến mức cô y tá phải chạy đến đỡ lưng nàng.
"Trời ơi, anh yêu," nàng khe khẻ nói, "buồn cười quá nhỉ! Và trông anh mới tự hào làm sao!"
Buổi tối hôm ấy nàng rất vui. Lẽ dĩ nhiên, tôi không để nàng trơ trọi một mình, mà tôi ngồi ngoài ban công đến tận nửa khuya, mặc một chiếc áo khoác dầy, một khăn choàng quấn quanh cổ, một điếu xì gà trên tay, một ly rượu trên tay kia, một chai cognac dưới chân, kể cho nàng nghe những câu chuyện đời tôi. Bị ngắt đoạn và thôi thúc bởi những chuỗi cười như chim hót của nàng, tôi nói dối như cuội già, chỉ để nhìn thấy nụ cười nở hoa trên môi nàng. Tôi ho thả dàn và uống cạn chai, và sáng hôm sau tôi khỏi bệnh.
Gió fohn lại thổi. Từng cơn gió tạt vào cửa sổ, mây xà xuống thấp, những đụn tuyết di chuyển, sụm xuống, sầm sập suốt đêm và bệnh nhân nằm trằn trọc, bức rức, lắng nghe tiếng đêm sâu. Trên những sườn đồi kín gió, hoa nghệ tây bắt đầu hé nụ, và ngoài phố, giữa các xe trượt đã lác đác có những chiếc ô tô to bánh.
Pat cứ suy yếu dần. Nàng không thể ngồi dậy nữa. Đêm đêm nàng thường bị ngạt thở. Khi ấy, nàng xám nghoét mặt vì sợ chết. Tôi lại cầm đôi tay mỏng mảnh, ướt mềm của nàng. "Nếu em có thể chịu được một giờ nữa," nàng ho, "chỉ một giờ nữa thôi, Robby. Người ta chết vào giờ này --"
Nàng sợ giờ cuối cùng, giữa đêm và ngày. Nàng tin rằng khi đêm tàn, dòng đời huyền bí sẽ héo úa và hầu như tắt lim -- và nàng chỉ sợ giờ ấy và không muốn ở một mình. Những thời khắc còn lại, nàng tỏ ra can đảm đến độ tôi thường phải nghiến chặt quai hàm.
Tôi cho dời giường mình vào phòng của nàng và ngồi với nàng, mỗi khi nàng thức và khi cái nhìn van xin, tuyệt vọng hiện lên trong ánh mắt của nàng. Tôi thường nghĩ đến những lọ morphine trong túi xách, và đã không ngần ngại sử dụng chúng, nếu như nàng đã chẳng tỏ ra tha thiết với từng ngày mới.
Tôi ngồi cạnh nàng, kể cho nàng nghe tất cả những ý nghĩ trong đầu. Nàng không được phép nói nhiều, và thích lắng nghe tất cả các sự kiện trong đời tôi. Nàng thích nhất những câu chuyện thời tôi còn đi học, và thường thì, sau một cơn nghẹt thở và nửa nằm nửa ngồi, đau đớn và xanh xao, giữa đống chăn gối, nàng sẽ yêu cầu tôi lần lượt nhại lại điệu bộ của một trong các ông giáo ngày xưa. Vừa hoa tay múa chân và quát tháo, vừa nhổ mấy sợi râu đỏ tưởng tượng, tôi sẽ bước lanh quanh trong phòng, gầm gừ những lời huấn thị vàng ngọc. Mỗi ngày tôi lại chế thêm một vai mới, và chẳng bao lâu, Pat đã quen thuộc với tất cả những đứa quậy phá và ăn mặc nhếch nhác trong lớp tôi, những đứa không ngừng bày trò trêu chọc thầy cô. Có lần, người y tá trực đêm phải đến phòng, vì lôi cuốn bởi giọng nói trầm hùng của ông hiệu trưởng; và, Pat thú vị biết mấy, khi tôi phải mất một lúc lâu mới thuyết phục người y tá rằng tôi không điên rồ, dù đang nhảy lò cò trong phòng, khoác áo choàng ngắn của Pat, đội cái mũ phớt rộng vành, đọc luật lệ của dân Medes và Ba Tư cho thằng nhóc con Karl Ossage nào đấy, bị bắt quả tang đang cưa mấy cái chân bàn viết của thầy.
Rồi ánh dương quang rót chậm vào phòng qua cửa sổ. Triền núi trở thành những hình bóng đen đen, sắc ngọt như dao. Bầu trời phía sau lui xa dần, lạnh và tái. Ngọn đèn đêm trên bàn mờ đi, thành màu vàng nhạt và Pat úp gương mặt ướt mềm trong tay tôi. "Đã xong, Robby. Bây giờ, em lại có một ngày mới."
Antonio cho tôi mượn một cái radio. Tôi nối dây với một bóng đèn và máy sưởi, và cùng với Pat, thử nghe vào tối ấy. Nó kêu rèn rẹt, xột xoẹt, rồ rồ, và rồi thình lình không còn những nhiễu âm nữa, phát ra một thứ âm nhạc ngọt ngào, trong vắt.
"Đài nào vậy, anh yêu?" Pat hỏi.
Antonio cũng đưa cho tôi một tập chương trình. Tôi vội lật ra. "Rome, anh tin thế."
Rồi gần như tức thì, giọng nói sang sảng và trầm của một xướng ngôn viên vang lên: "Đây là tiếng nói thành phố Rome - Napoli - Firenze-"
Tôi vặn nút chuyển đài. Một bản độc tấu dương cầm. "Anh không cần tìm trong chương trình," tôi nói. "Ấy là bài Waldstein Sonata của Beethoven. Có một dạo anh chơi được bài ấy --khi anh còn mơ mộng rằng một ngày nào đó, anh sẽ trở thành thầy giáo hay giảng sư nhạc viện, hay nhạc sĩ sáng tác. Bây giờ anh không thể đàn bài ấy nữa. Để anh đổi đài. Những kỷ niệm, chẳng vui vẻ gì."
Một giọng nữ trầm, âu yếm, vuốt ve: "Parlez-moi, d'amour--"
"Paris, Pat."
Một bài nói chuyện về cách diệt trừ loài nhện đỏ. Tôi lại vặn nút chuyển sang đài khác. Quảng cáo. Một bản tứ tấu. "Đài nào thế?" Pat hỏi.
"Tiệp Khắc. Tứ tấu đàn dây, Opus 59, Beethoven," Tôi đọc to.
Tôi đợi cho đoạn giao hưởng ấy chấm dứt, rồi vặn nút tiếp, và bất thình lình, có tiếng vĩ cầm, một dòng vĩ cầm tuyệt vời. "Budapest, Pat. Nhạc Gypsy." Tôi điều chỉnh nút cho đúng tần số. Làn điệu phong phú và ngọt ngào lênh đênh trên nền hợp tấu của chũm chọe, vĩ cầm và tiêu. "Thật đáng yêu, Pat nhĩ?"
Nàng lặng thinh. Tôi quay lại. Nàng đang chảy nước mắt, đôi mắt mở to. Tôi tắt máy thu thanh.
"Có chuyện gì thế, Pat?" Tôi choàng tay ôm bờ vai gầy của nàng.
"Không có gì, Robby. Em ngốc lắm. Nhưng mà khi lắng nghe -- Paris, Rome, Budapest -- trời ơi, chỉ cần có thể đi xuống dưới làng một lần nữa là em hạnh phúc rồi."
"Nhưng Pat..."
Tôi nói đủ thứ chuyện, để nàng quên. Nhưng nàng lắc đầu. "Em không buồn, anh yêu. Anh đừng nghĩ vậy. Em không buồn lúc khóc. Chỉ là, một đôi khi em không cầm được nước mắt, nhưng không lâu. Em nghĩ đến chuyện ấy nhiều quá."
"Em nghĩ đến chuyện gì cơ chứ?" tôi hỏi, và hôn lên tóc nàng.
"Chuyện duy nhất mà em có thể nghĩ đến hiện thời -- cuộc sống và cái chết. Rồi khi em buồn và không hiểu gì nữa, em tự an ủi, chẳng thà em chết khi còn tha thiết sống, còn hơn là chết khi em muốn chết. Anh nghĩ sao?"
"Anh không biết."
"Vâng, anh biết." Nàng tựa đầu lên vai tôi. "Nếu ta còn muốn sống, cần có một thứ gì đó mà ta yêu quý. Khó hơn, nhưng lại dễ hơn. Anh thấy không, em sẽ chết; và em biết ơn vì em đang có anh. Em rất có thể dễ dàng đã lâm vào cảnh cô đơn, đau khổ. Nếu là vậy, em sẽ vui lòng chịu chết. Nhưng hiện nay, rất khó cho em; để đền bù, tâm hồn em tràn ngập tình yêu, như một con ong đầy mật buổi chiều khi bay về tổ. Nếu phải lựa chọn một trong hai cách, em vẫn muốn được như hiện nay, giống hệt hiện nay."
Nàng nhìn tôi. "Pat," tôi nói, "Vẫn còn một chọn lựa thứ ba ---khi gió fohn ngừng thổi, em khỏe hơn và chúng ta sẽ đi xa, rời bỏ chốn này."
Nàng tiếp tục nhìn tôi, dò dẫm. "Em lo cho anh, Robby. Thật có rất nhiều khó khăn cho anh hơn là cho em."
"Đừng nói đến chuyện ấy nữa," tôi nói.
"Em chỉ nói để cho anh đừng nghĩ rằng em buồn," nàng đáp.
"Anh không nghĩ rằng em buồn," tôi nói.
Nàng gối đầu lên cánh tay tôi. "Anh không cho em nghe lại bài hát của những người gypsies ư?'
"Em thích nghe họ à?"
"Vâng, anh yệu."
Tôi vặn máy thu thanh, và tiếng vĩ cầm cùng với tiếng sáo và chũm chọe xập xình vang lên, ban đầu nhẹ nhàng rồi lớn dần và lớn dần, tràn ngập căn phòng.
"Đáng yêu quá," Pat nói. "Như một cơn gió nhẹ. Một cơn gió đưa hồn ta bềnh bồng trôi xa."
Đấy là buổi hòa nhạc ban đêm trong khuôn viên một quán ăn ở Budapest. Thỉnh thoảng ta có thể nghe vài mẩu chuyện trò nho nhỏ của thực khách len lỏi trong tiếng nhạc du dương, và năm thì mười họa, một tiếng la hét rộn ràng. Ta có thể tưởng tượng ra những chiếc lá đầu tiên của các cây dẻ vùng Margaretheninsel, bóng bẩy dưới ánh trăng và đung đưa như lay động bởi hơi gió từ những chiếc vĩ cầm. Có lẽ ở nơi ấy đêm đã ấm lắm rồi, và thực khách ngồi ngoài vườn, rượu vang Hungarian vàng đặt trước mặt, những người hầu bàn tất tả tới lui trong đồng phục trắng, những người gypsies dạo đàn, và rồi sau đó họ sẽ cuốc bộ về nhà, mệt mỏi, trong ánh bình minh xanh lục mùa xuân. Và Pat nằm đây, mỉm cười, và sẽ không bao giờ bước ra khỏi căn phòng này, không bao giờ bước xuống khỏi chiếc giường này.
Rồi thình lình mọi việc chuyển biến rất nhanh. Gương mặt thơ ngây vêu vao vì hao gầy da thịt. Xương gò má nhô cao, xương ở thái dương lộ rõ. Cánh tay của nàng tong teo như tay trẻ con, bẹ sườn căng dưới da và những cơn sốt mới theo nhau hoành hành trên cơ thể yếu ớt. Y tá đưa bình dưỡng khí đến phòng và bác sĩ thăm bệnh mỗi giờ.
Một buổi chiều nọ, thân nhiệt của nàng hạ thấp đột ngột, không thể giải thích. Pat thức dậy và nhìn tôi tha thiết.
"Lấy dùm em cái gương soi mặt," rồi nàng khẻ nói.
"Em cần gương làm gì?" tôi hỏi. "Nằm nghĩ, Pat. Anh tin rằng em đã qua khỏi. Em không còn sốt nữa."
"Không," nàng thều thào. "Đưa cho em cái gương."
Tôi đi vòng qua giường, cầm gương lên và buông ra. Nó vỡ nát thành nhiều mảnh. "Xin lỗi," tôi nói, "anh vụng về quá. Nó rơi khỏi tay anh và bây giờ là ngàn mảnh vụn."
"Còn một cái trong ví của em, Robby."
Đấy là một cái gương bằng kim loại bé xíu. Tôi chùi tay vào để làm mờ đi và đưa cho Pat. Nàng cố sức lau bóng và chăm chú ngắm của nàng trong đó. "Anh phải ra khỏi đây, anh yêu," nàng thì thào.
"Tại sao thế? Em không còn yêu anh nữa?"
"Anh đừng nên gặp em nữa. Em không còn là chính em."
Tôi giằng lấy gương. "Thứ gương bằng kim loại này không tốt, Pat. Em cứ thử nhìn bóng của anh. Tái và gầy. Trong khi anh nâu và khỏe. Bề mặt của nó gợn sóng không đều, chính vì thế."
"Em muốn anh giữ một kỷ niệm khác về em," nàng thì thầm. " Đi đi, anh yêu. Bây giờ em sẽ tự lo liệu cho em."
Tôi dỗ cho nàng nín. Nàng lại hỏi đến cái gương và cái ví của nàng. Rồi nàng bắt đầu tô phấn lên gương mặt tiều tụy đáng thương, lên làn môi nứt nẻ, lên quầng mắt trũng nâu. "Một ít phấn cho có thôi, anh yêu," nàng nói, cố mỉm cười. "Anh không được nhìn thấy em quá ghê rợn."
"Em muốn làm gì thì làm," tôi nói, "em không bao giờ xấu xí. Trong mắt anh, em là người đàn bà đẹp nhất mà anh đã từng gặp."
Tôi lấy lại gương và hộp phấn, rồi nhẹ nhàng đặt tay trên đầu nàng. Một lát sau, nàng bắt đầu bức rức.
"Có chuyện gì thế, Pat?" tôi hỏi.
"Nó kêu to quá," nàng khẻ nói.
"Cái gì thế? Đồng hồ của anh?"
Nàng gật đầu. "Nó làm em kinh sợ --"
Tôi tháo chiếc đồng hồ khỏi cườm tay.
Nàng lo âu nhìn cây kim phút. "Vứt nó đi, anh."
Tôi cầm cái đồng hồ, quăng mạnh vào tường. "Rồi đấy em, nó không còn tích tắc nữa. Thời gian ngưng đọng. Ta vừa làm nó vỡ đôi. Bây giờ chỉ còn hai đứa mình; hai người, em và anh và không ai khác."
Nàng nhìn tôi. Đôi mắt thật to.
"Anh yêu dấu --" nàng khẻ nói.
Tôi không chịu nổi ánh mắt của nàng. Nó đến từ một nơi xa xôi, xuyên qua tôi, tới một chốn xa hơn.
"Em thương," tôi thì thầm, "em yêu dấu, em can trường của anh."
Nàng chết trong giờ cuối cùng của đêm, trước khi ngày đến. Nàng chết khó nhọc và không ai có thể giúp được gì. Nàng nắm chặt cứng tay tôi, nhưng nàng không còn hiểu rằng tôi đang ở bên nàng.
Có lần, ai đấy nói: "Cô ấy chết rồi."
"Không," tôi trả lời, "cô ấy chưa chết. Cô ấy còn nắm chặt tay tôi."
Đèn. Sáng lòa, gay gắt, chói chang. Đông người. Bác sĩ đến. Tôi từ từ mở nắm tay của mình ra. Tay Pat rớt thụp xuống. Máu me. Gương mặt méo mó, chết ngộp. Đôi mắt thống khổ, cái nhìn cố định. Mái tóc nâu, lụa là.
"Pat," tôi gọi. "Pat."
Lần đầu tiên trong đời, nàng không đáp lại.
"Cho tôi được ở một mình," tôi nói.
"Chúng ta có nên, trước nhất....?" một người nào đó hỏi.
"Không," tôi nói. "Đi ra. Đừng đụng tới cô ấy."
Rồi tôi lau máu trên mặt nàng. Tôi như gỗ. Tôi chải tóc nàng. Thân thể nàng lạnh dần. Tôi đặt nàng lên giường của tôi và phủ khăn trải giường lên. Tôi ngồi bên cạnh và không thể suy nghĩ được gì. Tôi ngồi trên ghế và chăm chú ngắm nàng. Con chó chạy vào, ngồi với tôi. Tôi nhìn nét mặt của nàng biến đổi. Tôi không thể làm gì khác, ngoại trừ ngồi thừ ra, nhìn nàng. Rồi buổi sáng đến và không còn nàng nữa.
HẾT
|
|