Nhà văn Quỳnh Dao
Jul 8, 2022 14:55:56 GMT -6
Post by phongvien007 on Jul 8, 2022 14:55:56 GMT -6
Nhà văn Quỳnh Dao
Bài viết chuyển ngữ sau đây của nhà văn kiêm dịch giả Vi Huyền Đắc trên tờ tạp chí Văn số 68 xuất bản vào tháng 10 năm 1966 tại Sài Gòn giới thiệu đôi nét về nhà văn Quỳnh Dao. Người được mệnh danh là Nữ hoàng văn chương đẫm lệ của Đông Nam Á qua các tác phẩm tiểu thuyết trường thiên lẫn đoản thiên với những mối tình ngang trái, ướt át, đầy nước mắt và lôi cuốn của bà.
Nhà văn Quỳnh Dao
Độc giả tại Việt Nam của thập niên 60, 70 không mấy ai mà không nghe qua tên của Quỳnh Dao (tên chữ Hán là 瓊瑤, tiếng Anh viết là Chiung Yao, phát âm Quảng Đông là Thèng-Yịu, riêng cách phát âm tên của Quỳnh Dao bằng tiếng Quan Thoại thì ĐXGK không biết) qua những pho tiểu thuyết tình cảm bán chạy như tôm tươi hoặc những cuốn phim điện ảnh chiếu rạp thu hút khách như tôm hùm tại Chợ Lớn, Sài Gòn của những năm nào.
"Giới thiệu một người như Quỳnh Dao quả là một việc không dễ dàng gì cả. Vả, hiểu thấu đáo được một người đã là khó khăn rồi, huống hồ một người vào dạng đa thái, đa tư như tác giả Song Ngoại. Đã có một người bạn chí thân của cô từng nói: Kể ra, tôi hiểu Quỳnh Dao khá nhiều, nhưng càng hiểu rõ bạn tôi bao nhiêu tôi càng thấy khó nhận thức được nàng bấy nhiêu.
Quỳnh Dao (tên thật là Trần Triết) sinh ngày 20 tháng 4 năm Dân Quốc thứ 27 (1938) tại Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên. Là một đứa con song sinh, nên cô còn có người em trai (tên Trần Giác). Cha cô, một giáo sư sử học tại trường Quốc lập Sư phạm Đại học, tên là Trần Trí Bình (mẹ là giáo viên trung học tên Viên Hành Thứ). Cô và đứa em trai sinh đôi kia là hai người con đầu lòng của Trần gia vậy. (Quỳnh Dao còn có người em gái tên Trần Cẩm Xuân cùng với chồng là những khoa học gia ngành vật lý làm việc cho NASA tại Mỹ).
Hai trẻ thơ (Trần Triết-Quỳnh Dao và Trần Giác) đã chào đời giữa thời chiến tranh loạn lạc. Chúng, cùng với cha mẹ, phải sống trong một thời gian hết sức khổ cực. Mới năm 16 tuổi đầu, chúng đã chứng kiến bao cảnh chết chóc, tàn phá, do chiến tranh gây nên. Quỳnh Dao vốn là một đứa trẻ dị cảm mà lại trầm tĩnh cho nên cái giai đoạn đầy khói lửa đó đã để lại trong tâm khảm cô bé những lạc ngấn mà bao năm về sau, không sao tẩy xóa đi được. Tất cả những thảm cảnh kia đều phản ánh vào các tác phẩm của cô, như truyện Lưu Vong Khúc ở cuốn Lục Cá Mộng, trong đó, tất cả những nỗi đắng cay, đau khổ, hậu quả tàn khốc của chiến tranh đã được thực tả bằng những nét bút cực kỳ linh động.
Năm Dân Quốc thứ 38 (1949) Quỳnh Dao theo cha mẹ di cư tới Đài Loan. Cô học ở trường tiểu học, trường này phụ thuộc vào trường Sư phạm Đài Bắc. Đến khi lên Trung học, cô là một trò luôn luôn làm cho các giáo sư phải nhức óc, cha mẹ phải lo phiền. Cô chỉ để hết tâm trí vào môn Trung văn và có vẻ lơ là đối với các môn khác. Ngoài ra, cô có những ý nghĩ, những lý luận rất đỗi kỳ quái. Thường thường, cô hay phản đối giáo sư về đủ các chuyện, cô bất mãn về cái chế độ giáo dục hồi đó.
Vốn đa sầu, đa cảm, cô hay trầm tư và mê đắm trong ảo tưởng. Nhiều khi các giáo sư phải lắc đầu, bó tay trước những câu hỏi oái oăm, moi móc của cô. Cả cha mẹ cô cũng khó chịu về cái thái độ khác thường của cô. Có lúc cô hoài nghi cả sinh mệnh, lẫn cái giá trị của sự sống, của tình cảm và bao nhiêu thứ khác nữa. Ta có thể lượng đoán hình như trong cả cái thời kỳ ở trung học, cô chẳng thâu thập được bao nhiêu về các môn học của giáo khoa, vì cô chỉ để hết tâm tư vào thể nghiệm, thể nghiệm để thành trưởng, để có một cái vốn liếng phong phú do sự sống tạo nên.
Sau khi tốt nghiệp ở lớp cao trung, Quỳnh Dao có dự hai kỳ thi chuyên khoa trường Đại học, nhưng kỳ nào cô cũng bị trượt. Đây là một vết thương lòng của đời cô. Nhưng đây cũng có thể là một thứ hạnh tai, lạc họa, vì sự thất bại đó đã khích lệ cô chuyên tâm vào việc sáng tác. Cô viết để tìm lại cái bản ngã cơ hồ như bị nền giáo dục lúc ấy phao khí. Cô viết, một phần nữa do một ngọn lửa thiêng nó đang nung nấu trí tuệ và tâm tư cô, và có lẽ, cũng để minh chứng sự hiện diện của cô trong cuộc sinh tồn. Cuốn truyện ngắn đầu tay, với nhan đề Hạnh Vân Thảo, đã được thoát thai ra, để vấn thế, trong cái tình trạng này vậy.
Năm Dân Quốc thứ 48 (1959) cô đã do luyến ái mà kết hôn (chồng tên Mã Sâm Khánh). Hai năm sau, cô đã sinh hạ được một mụn con trai kháu khỉnh (mang họ mẹ, tên Trần Trung Duy). Chẳng may, hai vợ chồng đều trái tính, trái nết nhau. Tuy họ đã cố gắng hòa giải nhưng càng ngày sự xung đột càng tăng, cái tổ uyên ương đầm ấm lúc ban đầu cứ lần lần biến thành một thứ ngục thất. Năm năm sau họ phải đành tuyên cáo chia ly (Quỳnh Dao ly dị với người chồng họ Mã năm 1964). Cô thành thực nhận rằng, đó là một sự thất bại đau xót nhất trong đời cô. Cầm chén trà trên tay, cô gượng cười, trầm tư nói:
- Trên bước đường đời gian nan hiểm trở của tôi, tôi đã từng bị vấp ngã không biết bao nhiêu lần. Tuy mỗi lần tôi đều can đảm đứng lên để dấn bước, nhưng lần nào tôi cũng mang nhiều thương tích với bao dòng huyết lệ. Sinh mệnh đối với tôi quả tình không phải là không tàn khốc. Nhưng kể ra trong cuộc sống, đã mấy ai không vấp ngã kia chứ? Miễn là ta có đủ can trường để vững tâm tự tin mà mãnh tiến.
Hiện nay cô đã về ở với song thân và đứa con cô đã lớn khôn. Sự từ ái của cha mẹ, tính nết ngoan ngoãn của con, cũng đã hàn gắn được phần nào vết thương lòng của cô. Với cái bài học khá đắt đỏ về hôn nhân, cô đã rút tỉa được cái kinh nghiệm sau đây:
- Thiệt tình, ly hôn quả là một tấn bi kịch, nhưng cái cảnh đồng sàng dị mộng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, còn khổ hơn nữa, vì đó là một đại thảm kịch. Đối với một cuộc hôn nhân lý tưởng, tôi thiết nghĩ, cả hai kẻ đương sự cần phải tìm hiểu nhau, tha thiết yêu quý nhau, và thứ nhất, mỗi bên phải biết hy sinh và phụng hiếu lẫn nhau."
Nhà văn Vi Huyền Đắc dịch bài viết này của tác giả Sơn Phượng năm 1966 nên không có những chi tiết về sau như việc Quỳnh Dao tái hôn với người chồng thứ hai tên Bình Hâm Đào từ năm 1979 cho đến nay.
Độc giả Việt Nam biết đến tiểu thuyết của Quỳnh Dao khá muộn, năm 1970 nhà xuất bản Hàn Thuyên tại Sài Gòn mới cho in ấn và phát hành tác phẩm Song Ngoại qua bản dịch của Liêu Quốc Nhĩ. Ông Liêu Quốc Nhĩ dịch tất cả 10 tác phẩm của Quỳnh Dao, các cuốn còn lại thường do hai dịch giả dịch sang tiếng Việt. Sau đây là một số tác phẩm tiểu thuyết và phim truyện tiêu biểu của Quỳnh Dao:
- Hạnh vân thảo 幸運草 (1964)
- Lục cá mộng 六個夢 (1964)
- Tố thy hoa 菟絲花 (1964) - Cánh hoa chùm gửi
- Yên vũ mông mông 煙雨濛濛 (1964) - Giòng sông ly biệt
- Triều thanh 潮聲 (1964)
- Kỷ độ tịch dương hồng 幾度夕陽紅 (1964) - Tình buồn
- Thuyền 船 (1965) - Trôi theo giòng đời
- Nguyệt mãn tây lâu 月滿西樓 (1966) - Vườn thúy
- Hàn yên thúy 寒煙翠 (1966) - Bên bờ hiu quạnh
- Tử bối xác 紫貝殼 (1966)
- Tiễn tiễn phong 翦翦風 (1967) - Cơn gió thoảng
- Thái vân phi 彩雲飛 (1968) - Mùa thu lá bay
- Đình viện thâm thâm 庭院深深 (1969) - Một sáng mùa hè (tên dựng thành phim là Xóm Vắng)
- Tinh hà 星河 (1969) - Khói lam cuộc tình
- Thủy Linh 水靈 (1971)
- Bạch hồ 白狐 (1971) - Hồ ly trắng
- Hải âu phi xứ (1972) 海鷗飛處
- Bích vân thiên 碧雲天
- Băng Nhi 冰兒
- Tuyết Kha 雪珂
- Mai hoa lạc 梅花烙
- Thủy vân gian 水雲間
- Tân Nguyệt các các 新月格格
- Hoàn Châu các các 還珠格格