Câu chuyện về tác giả bức tượng Thương Tiếc
Feb 1, 2023 6:52:10 GMT -6
Post by sheen on Feb 1, 2023 6:52:10 GMT -6
Miền Nam Việt Nam trước 1975, không ai không biết đến Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa trang Quân đội trên xa lộ Biên Hòa năm 1966. Chính đứa con mà ông yêu quý nhất này đã đưa ông lên đỉnh danh vọng để rồi đẩy ông xuống đáy địa ngục. Ký ức Tháng Tư Đen cùng câu chuyện 46 năm qua lời kể của thầy tôi – Nguyễn Thanh Thu – thật nặng nề và đầy xúc động.
Ký ức về thầy
Thầy Thu tuổi Quý Dậu (1934), dạy môn hội họa cho tôi, anh em tôi và những ai đã từng học tại Trung học Võ Trường Toản (VTT) từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước, đi dạy bằng xe Jeep cao màu xanh dương, mặc áo chemise trắng, đeo cravat đỏ luồn vào trong bụng dưới khuy áo thứ hai. Cá tính rất mạnh mẽ, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archer khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học, ông chọn ra hai, ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6 cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như “người khổng lồ” so với học sinh cấp II bây giờ!
Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa trang Quân đội Gò Vấp, ngày 22-8-1966, ông được Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4 m. Nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao tượng đài là 8 m.
Về bức tượng Thương Tiếc, ông kể rằng, được Tổng thống Thiệu chọn thực hiện, từ việc thể hiện ý tưởng đến việc xây dựng tượng đài tại Nghĩa trang Quân đội.
Sau 7 ngày, ông được mời vào Dinh Ðộc Lập để trình bày 5 phác thảo nhưng vào cuối buổi, ông nói phác thảo mà ông yêu thích nhất là phác thảo thứ sáu mới vẽ nháp trên bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ trong khi chờ ngoài hành lang Dinh. Ý tưởng thứ sáu lấy từ hình ảnh hạ sĩ Võ Văn Hai khóc bạn tại quán nước trước Nghĩa trang Quân đội cũ ở Gò Vấp mà ông nhìn thấy một tuần trước đó. Phác thảo thứ sáu được chọn và chỉ sau hai tháng rưỡi, bức tượng đồng Thương Tiếc cao 9 m hình thành, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng ở tuổi 32 với sự kính trọng của giới chức và quân nhân thời đó. Tượng được khánh thành ngày Quốc Khánh VNCH 1-11-1966.
Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Ðó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thõng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng đã không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó.
Đỉnh danh vọng và đáy địa ngục
Tiếng tăm của Ðiêu khắc gia Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa khỏi quê hương. Ngày 20-7-1967, Ðại tá H.G. Fuller, thuộc Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV), gửi thư cho Ðại tá William P. Jones, Chủ tịch Ủy ban Ðài Tưởng niệm Chiến tranh Hoa Kỳ, ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh. Ông William xem ông Thu là điêu khắc gia xuất sắc nhất Việt Nam lúc ấy và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William viết: “… Xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng Raising The Flag on Iwo Jima ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai.
Nói đến Ðiêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người ta chỉ nhớ đến ông với bức tượng Thương Tiếc. Thật ra ông còn một số tác phẩm khác, chẳng hạn tượng Quyết Thắng, tác phẩm được tạc sau cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tượng cao 4m, bằng bê-tông cốt thép mô tả hình ảnh người lính Thủy quân lục chiến trong tư thế ném lựu đạn. Chân trái co thấp bước tới trước, chân phải thẳng tạo thế đứng vững chắc. Cánh tay và bàn tay trái duỗi thẳng hướng về đích đến, tay phải đưa về phía lưng, làm thân người lính vặn về phía sau, thế đứng này giúp người lính có thể ném lựu đạn đi xa nhất. Khẩu súng đặt vội giữa hai chân, nón sắt rơi xuống, phần áo phía trước phủ ra ngoài quần làm cho người xem cảm nhận được sức nóng của chiến trường. Trong khoảnh khắc sống còn, gương mặt người lính trở nên căng thẳng…
Tượng Quyết Thắng
Tượng do Ðiêu khắc gia Huỳnh Huyền Ðỏ tạc năm 1966. Ông Ðỏ là thiếu tá Bộ Tổng Tham Mưu, là bạn học với ông Thu tại Cao Ðẳng Mỹ Thuật. Ban đầu tượng được duyệt với phác thảo gồm 3 người lính nhưng khi hoàn thiện thì tượng đài chỉ có 2 người. Trong thời gian thực hiện, ông Ðỏ rút lui không rõ lý do, công việc dang dở, vì vậy được giao cho Thiếu úy Ðinh Văn Thuộc (không phải điêu khắc gia), cùng làm với sự cố vấn của Họa sĩ Lê Chánh và Lương Trường Thọ. Trong hoàn cảnh như vậy, tượng khi hoàn thành có nhiều khiếm khuyết mà tác giả của nó chắc không khỏi buồn lòng! Sóng gió của bức tượng này chưa dừng ở đó. Ngay khi tượng được dựng, dân biểu Hạ nghị viện phản đối kịch liệt, vì súng người lính hướng thẳng vào tòa nhà Quốc hội. Họ cương quyết đòi di chuyển tượng sang địa điểm khác. Ðầu năm 1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị Ðiêu khắc gia Thu làm gấp một tượng khác để thay thế. Ðó là lý do ra đời của tượng Quyết Thắng.
Chỉ 3 tháng sau khi có chỉ thị, ông Thu đã gấp rút hoàn thành Quyết Thắng với kinh phí tự bỏ 300,000 đồng. Tổng thống Thiệu muốn thay thế bức tượng trước trụ sở Quốc hội ngay và có ý đưa tượng Thủy quân lục chiến về Ngã Tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, không dễ gì thay thế biểu tượng một binh chủng oai hùng, khi ông Thiệu cùng lúc đương đầu với Thiếu tướng Bùi Thế Lân (Tư lệnh Thủy quân lục chiến) và Ðại tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng Tham Mưu). Bức tượng Thủy quân lục chiến nhờ vậy tồn tại thêm vài năm cho đến ngày 30-4 bị nhóm thanh niên “cách mạng 30-4” phá sập.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, rồi chuyển về Dĩ An. Ðến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia Ðiêu khắc gia Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Bức thư của đại tá H.G. Fuller gửi cho đại tá William P. Jones về điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Trong tù, tạc tượng ông Thiệu, thay vì Hồ Chí Minh!
Tháng Tư Ðen đã đẩy gia đình ông xuống địa ngục. Tháng 12-1975, tại lớp 10C5 Trường Võ Trường Toản (VTT), Trí – cậu con trai của ông – được lệnh rời lớp, mang theo cặp lên văn phòng. Hiệu trưởng Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, môi mỏng, đầu hói, lạnh lùng nói: “Ba em nợ máu với nhân dân, em không được học ở đây, từ hôm nay”. Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe, Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học”. Trí giấu mẹ vì sợ bà đau buồn, có thể sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui “lỗ chó” vào Sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ, nơi có tượng cụ Võ Trường Toản, do chính ba nó tạc năm 1972.
Trại tập trung Hàm Tân, một buổi sáng cũng khoảng thời gian Trí bị đuổi, Thiếu tá Thu bị gọi lên chất vấn về thành tích không khai trong lý lịch: là người đã tạc tượng Ngày về (giải thưởng văn hóa nghệ thuật Ngô Ðình Diệm 1963) và tượng Thương tiếc. Sau ít phút lắng nghe ý nghĩa của các bức tượng, sáu tên cai ngục thay nhau đánh đập ông dã man trong ba ngày. Chúng dùng cánh tay hộ pháp vỗ mạnh vào mang tai khiến ông chảy máu và điếc luôn từ ngày đó. Ông bị biệt giam trong conex. Tám tháng không thấy mặt trời. Ít lâu sau, chúng yêu cầu ông tạc tượng Hồ Chí Minh. Suy nghĩ hồi lâu, ông đồng ý với điều kiện: được về Gia Ðịnh để thăm mẹ già, vợ con và chuẩn bị vật liệu.
Ngày trở về thăm mẹ tại cư xá Việt Nam Thương Tín (Hàng Xanh), khi người em gái ý tứ giữ chân bốn tên an ninh ở phòng khách, ông Thu nghe mẹ nghiêm khắc nói: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu con muốn gì. Nếu trái ý, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Biết tính mẹ, ông đành bỏ kế hoạch trốn sau khi thăm vợ con ở Gò Vấp. Ông trở lại địa ngục, miễn cưỡng tạc tượng kẻ thù với một mật kế mới. Hàng ngày, ông nuốt vào những lời sỉ vả của chiến hữu nhắm vào ông.
Những ngày cuối tháng Tám, ông càng miệt mài thức khuya “tạc tượng”, chiến hữu càng ghẻ lạnh. Sáng ngày 1-9, cả trại tù náo loạn khi nhận ra: đây không phải tượng Hồ Chí Minh mà là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Những ngày sau đó ông sống ở đáy địa ngục. Ông chết đi sống lại nhiều lần trước những trận đòn thù hội đồng. Một ngày tháng 10, ông bị lôi ra khỏi conex lúc 4g sáng để đưa ra pháp trường. Mạng ông lớn, lệnh hành quyết được bãi bỏ ở những giây cuối cùng. Biệt giam, đòn thù, thiếu ăn…, tính mạng mong manh gần chết, cuối cùng, ông được tha năm 1983.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)
Giấc mơ cuối đời
Sau 4 năm dưỡng thương, buồn cảnh gia đình tan nát, ông vượt biên bằng đường bộ mà trong túi không có một xu theo nghĩa đen. Hành trình gian khổ ly kỳ này (sẽ được hầu chuyện vào dịp khác) đưa ông đến Thái Lan, sau đó định cư ở Mỹ hơn 10 năm, rồi trở về Việt Nam cho đến nay. Tổng thống Thiệu, trong lần nói chuyện với đồng bào tại California, cảm kích về việc ông Thu dựng tượng mình trong trại tù Hàm Tân, đã xuống tận chỗ ngồi của ông Thu để thăm hỏi.
Hơn 10 năm ở Mỹ, ông trông mong cộng đồng giúp phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “confetti vương vãi trên sàn”. Không sống được bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh xứ người. Cô độc, cuối cùng ông miễn cưỡng trở về Việt Nam. Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông tạc thêm một số tượng, dựa trên các ý tưởng hình thành từ trước như: Ðược Mùa, Cửu Long Ðược Mùa… Tuy nhiên, đó là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật.
Bây giờ, với những ngày tháng còn lại cuối cùng của cuộc đời, ông chỉ mong gặp lại ba người, trong đó có Hạ sĩ Hai, người đã ghé thăm gia đình ông vài lần trong lúc ông ở tù; và hai người phụ nữ mà ông mang ơn cứu mạng: cô Lan (bán canteen trong trại Hàm Tân), người giao cơm khi ông bị biệt giam với miếng thịt giấu ở đáy chén; cô Oanh, người tình của trùm du đãng xóm chài Sa Tưng (Campuchia). Ở tuổi 87, ông ấp ủ một việc làm cuối cùng: dựng tượng chính mình ngay sau khi tôi thực hiện xong album chân dung của ông. Cầu chúc ông sớm đạt nguyện ước để lớp hậu sinh có dịp viếng ông, nghiêng mình trước một người lính VNCH can trường.
Tác giả và ông Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)
Tượng “Ngày về” của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Trong các tác phẩm điêu khắc của Nguyễn Thanh Thu, người lính VNCH là đề tài gây cho ông nhiều cảm xúc. Khi nhắc tới tác phẩm của ông người ta thường nói nhiều tới tượng Thương Tiếc nhưng với ông tác phẩm Ngày Về lại đem cho ông niềm vinh dự lớn nhất. Đó là bước ngoặc lớn trong sự nghiệp điêu khắc vào tuổi 29.
Tác phẩm Ngày Về là một bức tượng bằng bê-tông cốt thép, cao 4m, nặng 1.5 tấn. Tượng diễn tả cuộc đoàn tụ cảm động giữa người lính VNCH trở về vinh quang từ mặt trận vừa im tiếng súng và người yêu ở hậu phương ngày đêm mòn mỏi chờ mong. Cuộc chiến quá khốc liệt, cả hai có lúc nghĩ về cuộc đoàn tụ chìm trong khói lửa. Ôm người yêu trong vòng tay, người lính ngữa mặt lên trời như chơi vơi giữa thực và mộng, giữa bom đạn và nước mắt người yêu. Cô gái kịp ngã vào lòng người lính sau khi choàng lên cổ chàng một vòng hoa chiến thắng. Với cô thế giới bây giờ chỉ có hai người và khúc nhạc:
Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng
Cùng nhau hòa câu hát thành công
Lớp áo xanh phai mầu
Thấy phất phơ ngang đầu
Ngọn cờ tung bay cuối phố…
(Bài ca chiến thắng- Minh Duy)
Để tạo nên một sự xúc động cao nhất, ĐKG Thu đã dùng thủ pháp phi tỷ lệ cho tác phẩm Ngày Về. Hai nhân vật trong tác phẩm như hòa vào một và vươn hẳn lên bầu trời cao khiến cho người xem phải ngước nhìn hạnh phúc của họ trong ngày về chiến thắng.
Tượng Ngày Về là một tác phẩm dự thi giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (giải tổng thống Ngô Đình Diệm). Có 7 tác phẩm điêu khắc xuất sắc được chọn cho cuộc triển lãm kéo dài trong 1 tháng tại công viên trước Tòa Đô Chánh. Hội đồng đã quyết định trao giải nhất với phần thưởng 35,000 Đồng cho tác phẩm Ngày Về nhân ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1963.
Ông Thu ngậm ngùi kể rằng ngày 29 tháng 10 năm 1963, trung tướng Trần Văn Đôn đã đưa ông vào yết kiến Ngô Tổng Thống thì ba ngày sau xãy ra cuộc đảo chánh và đó là lần cuối ông Thu gặp Ngài.
Tác phẩm Ngày Về cùng giải thưởng danh giá đã đánh dấu một giai đoạn vàng với hàng loạt tác phẩm để đời sau đó. Tuy nhiên cũng chính tượng Ngày Về (và tượng Thương Tiếc sau đó) đã làm cho ông phải gánh chịu bao tủi nhục trong tám năm trường trong ngục tối ở trại tập trung Hàm Tân.
Sau khi được trả tự do, ông không có một Ngày Về chiến thắng như ông đã vẽ ra 25 năm trước đó. Thật buồn. Tất cả đều tan nát, từ gia đình cho đến các bức tượng trong sân nhà. Cũng an ủi cho ông, tượng Ngày Về, nhờ che khuất bởi giàn dây leo, vẫn còn sót lại sau một cuộc đập phá điên loạn vào những ngày đầu khi Sài Gòn thất thủ.
Vô danh tưởng tượng: ngồi trước tác phẩm Ngày Về của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu mà nghe bài “Người Về” của nhạc sĩ Phạm Duy sẽ rất thấm thía thân phận của người lính trận trong thời loạn!
Người Về - Nhạc Phạm Duy - Hà Thanh hát
Người Về
Mẹ có hay chăng con về
Chiều nay thời gian đứng im để nghe
Nghe gió trong tim tràn trề
Nụ cười nhăn nheo bỗng dưng lệ nhoè
Con thấy mẹ yêu đã già
Hẳn là miền quê những năm vừa qua
Chiếc bóng in trên vách nhà
Một ngày một đêm tóc sương phai mờ
Mẹ ơi, mẹ ơi, chuông chùa nào la đà
Nhớ tới, nhớ tới những linh hồn vắng nhà
Một vòng hương trắng xóa
Tình người trong thương nhớ
Gửi người chiến sĩ chết trong xa mờ
Em có hay chăng anh về
Thoạt nhìn người yêu ngỡ trong mộng mê
Ai dám mong chi xuân về
Nào ngờ vườn đêm có bông hoa kề
Anh nhớ những khi não nề
Sầu trên nẽo xa chắn ngang đường đi
Nhưng nước non chưa yên bề
Thì đành tình duyên gát bên lời thề
Em ơi, em ơi xích lại gần đây nào
Nhớ tới, nhớ tới những duyên và số nghèo
Trời làm cơn mưa bão, tình nồng như tơ liễu
Buồn vì ai đó khóc ai trong chiều
Con có hay chăng cha về, lời ca hồn nhiên líu lo ngoài kia
Chinh chiến đã qua một thì, tuổi thơ nở trên biết bao ê chề
Thôi đã hết cơn chia lìa, từ nay mầm non lớn trong tình quê
Như gió thu sau tháng hè, thổi về ruộng nâu lúa tươi xanh rì
Con ơi, con ơi tiếng cười nở chan hòa
Nhớ tới, nhớ tới biết bao trẻ thiếu nhà
Ngoài đường trời đông giá
Một đàn chim nhỏ bé
Gọi về chia sớt miếng cơm khoanh cà.
Nhạc sĩ Phạm Duy
Thầy Thu tuổi Quý Dậu (1934), dạy môn hội họa cho tôi, anh em tôi và những ai đã từng học tại Trung học Võ Trường Toản (VTT) từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước, đi dạy bằng xe Jeep cao màu xanh dương, mặc áo chemise trắng, đeo cravat đỏ luồn vào trong bụng dưới khuy áo thứ hai. Cá tính rất mạnh mẽ, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archer khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học, ông chọn ra hai, ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6 cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như “người khổng lồ” so với học sinh cấp II bây giờ!
Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa trang Quân đội Gò Vấp, ngày 22-8-1966, ông được Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4 m. Nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao tượng đài là 8 m.
Về bức tượng Thương Tiếc, ông kể rằng, được Tổng thống Thiệu chọn thực hiện, từ việc thể hiện ý tưởng đến việc xây dựng tượng đài tại Nghĩa trang Quân đội.
Sau 7 ngày, ông được mời vào Dinh Ðộc Lập để trình bày 5 phác thảo nhưng vào cuối buổi, ông nói phác thảo mà ông yêu thích nhất là phác thảo thứ sáu mới vẽ nháp trên bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ trong khi chờ ngoài hành lang Dinh. Ý tưởng thứ sáu lấy từ hình ảnh hạ sĩ Võ Văn Hai khóc bạn tại quán nước trước Nghĩa trang Quân đội cũ ở Gò Vấp mà ông nhìn thấy một tuần trước đó. Phác thảo thứ sáu được chọn và chỉ sau hai tháng rưỡi, bức tượng đồng Thương Tiếc cao 9 m hình thành, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng ở tuổi 32 với sự kính trọng của giới chức và quân nhân thời đó. Tượng được khánh thành ngày Quốc Khánh VNCH 1-11-1966.
Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Ðó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thõng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng đã không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó.
Đỉnh danh vọng và đáy địa ngục
Tiếng tăm của Ðiêu khắc gia Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa khỏi quê hương. Ngày 20-7-1967, Ðại tá H.G. Fuller, thuộc Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV), gửi thư cho Ðại tá William P. Jones, Chủ tịch Ủy ban Ðài Tưởng niệm Chiến tranh Hoa Kỳ, ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh. Ông William xem ông Thu là điêu khắc gia xuất sắc nhất Việt Nam lúc ấy và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William viết: “… Xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng Raising The Flag on Iwo Jima ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai.
Nói đến Ðiêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người ta chỉ nhớ đến ông với bức tượng Thương Tiếc. Thật ra ông còn một số tác phẩm khác, chẳng hạn tượng Quyết Thắng, tác phẩm được tạc sau cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tượng cao 4m, bằng bê-tông cốt thép mô tả hình ảnh người lính Thủy quân lục chiến trong tư thế ném lựu đạn. Chân trái co thấp bước tới trước, chân phải thẳng tạo thế đứng vững chắc. Cánh tay và bàn tay trái duỗi thẳng hướng về đích đến, tay phải đưa về phía lưng, làm thân người lính vặn về phía sau, thế đứng này giúp người lính có thể ném lựu đạn đi xa nhất. Khẩu súng đặt vội giữa hai chân, nón sắt rơi xuống, phần áo phía trước phủ ra ngoài quần làm cho người xem cảm nhận được sức nóng của chiến trường. Trong khoảnh khắc sống còn, gương mặt người lính trở nên căng thẳng…
Tượng Quyết Thắng
Khi vừa hoàn thành, tượng Quyết Thắng được triển lãm tại công viên Ðống Ða, trước Tòa Ðô Chánh vào năm 1969. Cái thần của bức tượng cùng 7 bức tượng khác về đề tài quân đội của ông Thu tại cuộc triển lãm làm cho người xem cảm nhận không khí chiến tranh lan vào tận Ðô thành Sài Gòn. Trước đó vài năm, có một tác phẩm điêu khắc đồ sộ cùng chủ đề người lính Thủy quân lục chiến được đặt trước Quốc Hội (Hạ Nghị Viện)..
Chỉ 3 tháng sau khi có chỉ thị, ông Thu đã gấp rút hoàn thành Quyết Thắng với kinh phí tự bỏ 300,000 đồng. Tổng thống Thiệu muốn thay thế bức tượng trước trụ sở Quốc hội ngay và có ý đưa tượng Thủy quân lục chiến về Ngã Tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, không dễ gì thay thế biểu tượng một binh chủng oai hùng, khi ông Thiệu cùng lúc đương đầu với Thiếu tướng Bùi Thế Lân (Tư lệnh Thủy quân lục chiến) và Ðại tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng Tham Mưu). Bức tượng Thủy quân lục chiến nhờ vậy tồn tại thêm vài năm cho đến ngày 30-4 bị nhóm thanh niên “cách mạng 30-4” phá sập.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, rồi chuyển về Dĩ An. Ðến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia Ðiêu khắc gia Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Nhóm người hung hãn ra sức đập phá bức tượng Thương Tiếc một cách không thương tiếc và chỉ dừng lại khi tượng chỉ còn lại phần bụng và chân. Hiện nay tượng bê-tông bị đập phá này vẫn còn nằm trong sân sau nhà của ông Thu, cạnh các ngôi mộ gia tiên, cây dại che phủ nên ít ai chú ý. Sau khi đập phá bức Thương Tiếc, nhóm người này tiếp tục đập phá bức tượng lính Thủy quân lục chiến, cao 4m, chỉ để lại đầu tượng. Ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân, với thân hình tiều tụy, ông lê bước đến bên bức Thương Tiếc. Ông đã ngã quỵ dưới chân tượng và ngồi ở đó rất lâu cho đến lúc sụp tối. Ông nói sự trả thù này còn ác hơn những đòn thù mà ông phải gánh chịu trong 8 năm dài ngục tối…
Võ Văn Hai, giờ này ông ở đâu?
Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như Ðiêu khắc gia Thu, cuộc đời bí ẩn của Hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng. Không lâu sau tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời. Thật ra ông Hai chưa chết!
Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã hai lần thăm gia đình ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không thể tự đi. Ông Hai hoảng loạn, lo sợ có ngày cộng sản tìm đến ông rồi cuộc đời mình cũng chìm xuống địa ngục như Thiếu tá Thu. Ông nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của Hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ, ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích”, trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Diên Khánh, ông Thu nghĩ vậy!
Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như Ðiêu khắc gia Thu, cuộc đời bí ẩn của Hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng. Không lâu sau tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời. Thật ra ông Hai chưa chết!
Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã hai lần thăm gia đình ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không thể tự đi. Ông Hai hoảng loạn, lo sợ có ngày cộng sản tìm đến ông rồi cuộc đời mình cũng chìm xuống địa ngục như Thiếu tá Thu. Ông nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của Hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ, ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích”, trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Diên Khánh, ông Thu nghĩ vậy!
Tháng Tư Ðen đã đẩy gia đình ông xuống địa ngục. Tháng 12-1975, tại lớp 10C5 Trường Võ Trường Toản (VTT), Trí – cậu con trai của ông – được lệnh rời lớp, mang theo cặp lên văn phòng. Hiệu trưởng Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, môi mỏng, đầu hói, lạnh lùng nói: “Ba em nợ máu với nhân dân, em không được học ở đây, từ hôm nay”. Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe, Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học”. Trí giấu mẹ vì sợ bà đau buồn, có thể sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui “lỗ chó” vào Sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ, nơi có tượng cụ Võ Trường Toản, do chính ba nó tạc năm 1972.
Trại tập trung Hàm Tân, một buổi sáng cũng khoảng thời gian Trí bị đuổi, Thiếu tá Thu bị gọi lên chất vấn về thành tích không khai trong lý lịch: là người đã tạc tượng Ngày về (giải thưởng văn hóa nghệ thuật Ngô Ðình Diệm 1963) và tượng Thương tiếc. Sau ít phút lắng nghe ý nghĩa của các bức tượng, sáu tên cai ngục thay nhau đánh đập ông dã man trong ba ngày. Chúng dùng cánh tay hộ pháp vỗ mạnh vào mang tai khiến ông chảy máu và điếc luôn từ ngày đó. Ông bị biệt giam trong conex. Tám tháng không thấy mặt trời. Ít lâu sau, chúng yêu cầu ông tạc tượng Hồ Chí Minh. Suy nghĩ hồi lâu, ông đồng ý với điều kiện: được về Gia Ðịnh để thăm mẹ già, vợ con và chuẩn bị vật liệu.
Ngày trở về thăm mẹ tại cư xá Việt Nam Thương Tín (Hàng Xanh), khi người em gái ý tứ giữ chân bốn tên an ninh ở phòng khách, ông Thu nghe mẹ nghiêm khắc nói: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu con muốn gì. Nếu trái ý, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Biết tính mẹ, ông đành bỏ kế hoạch trốn sau khi thăm vợ con ở Gò Vấp. Ông trở lại địa ngục, miễn cưỡng tạc tượng kẻ thù với một mật kế mới. Hàng ngày, ông nuốt vào những lời sỉ vả của chiến hữu nhắm vào ông.
Những ngày cuối tháng Tám, ông càng miệt mài thức khuya “tạc tượng”, chiến hữu càng ghẻ lạnh. Sáng ngày 1-9, cả trại tù náo loạn khi nhận ra: đây không phải tượng Hồ Chí Minh mà là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Những ngày sau đó ông sống ở đáy địa ngục. Ông chết đi sống lại nhiều lần trước những trận đòn thù hội đồng. Một ngày tháng 10, ông bị lôi ra khỏi conex lúc 4g sáng để đưa ra pháp trường. Mạng ông lớn, lệnh hành quyết được bãi bỏ ở những giây cuối cùng. Biệt giam, đòn thù, thiếu ăn…, tính mạng mong manh gần chết, cuối cùng, ông được tha năm 1983.
Giấc mơ cuối đời
Sau 4 năm dưỡng thương, buồn cảnh gia đình tan nát, ông vượt biên bằng đường bộ mà trong túi không có một xu theo nghĩa đen. Hành trình gian khổ ly kỳ này (sẽ được hầu chuyện vào dịp khác) đưa ông đến Thái Lan, sau đó định cư ở Mỹ hơn 10 năm, rồi trở về Việt Nam cho đến nay. Tổng thống Thiệu, trong lần nói chuyện với đồng bào tại California, cảm kích về việc ông Thu dựng tượng mình trong trại tù Hàm Tân, đã xuống tận chỗ ngồi của ông Thu để thăm hỏi.
Hơn 10 năm ở Mỹ, ông trông mong cộng đồng giúp phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “confetti vương vãi trên sàn”. Không sống được bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh xứ người. Cô độc, cuối cùng ông miễn cưỡng trở về Việt Nam. Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông tạc thêm một số tượng, dựa trên các ý tưởng hình thành từ trước như: Ðược Mùa, Cửu Long Ðược Mùa… Tuy nhiên, đó là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật.
Bây giờ, với những ngày tháng còn lại cuối cùng của cuộc đời, ông chỉ mong gặp lại ba người, trong đó có Hạ sĩ Hai, người đã ghé thăm gia đình ông vài lần trong lúc ông ở tù; và hai người phụ nữ mà ông mang ơn cứu mạng: cô Lan (bán canteen trong trại Hàm Tân), người giao cơm khi ông bị biệt giam với miếng thịt giấu ở đáy chén; cô Oanh, người tình của trùm du đãng xóm chài Sa Tưng (Campuchia). Ở tuổi 87, ông ấp ủ một việc làm cuối cùng: dựng tượng chính mình ngay sau khi tôi thực hiện xong album chân dung của ông. Cầu chúc ông sớm đạt nguyện ước để lớp hậu sinh có dịp viếng ông, nghiêng mình trước một người lính VNCH can trường.
Những tâm sự trong bối cảnh Tháng Tư Ðen khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Cuộc đời sóng gió của Ðiêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã làm cho pho tượng Thương Tiếc đẹp hơn và trở nên bất tử. Những kẻ hậu sinh rồi sẽ còn nhắc về ông: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.
Tác phẩm Ngày Về là một bức tượng bằng bê-tông cốt thép, cao 4m, nặng 1.5 tấn. Tượng diễn tả cuộc đoàn tụ cảm động giữa người lính VNCH trở về vinh quang từ mặt trận vừa im tiếng súng và người yêu ở hậu phương ngày đêm mòn mỏi chờ mong. Cuộc chiến quá khốc liệt, cả hai có lúc nghĩ về cuộc đoàn tụ chìm trong khói lửa. Ôm người yêu trong vòng tay, người lính ngữa mặt lên trời như chơi vơi giữa thực và mộng, giữa bom đạn và nước mắt người yêu. Cô gái kịp ngã vào lòng người lính sau khi choàng lên cổ chàng một vòng hoa chiến thắng. Với cô thế giới bây giờ chỉ có hai người và khúc nhạc:
Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng
Cùng nhau hòa câu hát thành công
Lớp áo xanh phai mầu
Thấy phất phơ ngang đầu
Ngọn cờ tung bay cuối phố…
(Bài ca chiến thắng- Minh Duy)
Để tạo nên một sự xúc động cao nhất, ĐKG Thu đã dùng thủ pháp phi tỷ lệ cho tác phẩm Ngày Về. Hai nhân vật trong tác phẩm như hòa vào một và vươn hẳn lên bầu trời cao khiến cho người xem phải ngước nhìn hạnh phúc của họ trong ngày về chiến thắng.
Tượng Ngày Về là một tác phẩm dự thi giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (giải tổng thống Ngô Đình Diệm). Có 7 tác phẩm điêu khắc xuất sắc được chọn cho cuộc triển lãm kéo dài trong 1 tháng tại công viên trước Tòa Đô Chánh. Hội đồng đã quyết định trao giải nhất với phần thưởng 35,000 Đồng cho tác phẩm Ngày Về nhân ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1963.
Ông Thu ngậm ngùi kể rằng ngày 29 tháng 10 năm 1963, trung tướng Trần Văn Đôn đã đưa ông vào yết kiến Ngô Tổng Thống thì ba ngày sau xãy ra cuộc đảo chánh và đó là lần cuối ông Thu gặp Ngài.
Tác phẩm Ngày Về cùng giải thưởng danh giá đã đánh dấu một giai đoạn vàng với hàng loạt tác phẩm để đời sau đó. Tuy nhiên cũng chính tượng Ngày Về (và tượng Thương Tiếc sau đó) đã làm cho ông phải gánh chịu bao tủi nhục trong tám năm trường trong ngục tối ở trại tập trung Hàm Tân.
Sau khi được trả tự do, ông không có một Ngày Về chiến thắng như ông đã vẽ ra 25 năm trước đó. Thật buồn. Tất cả đều tan nát, từ gia đình cho đến các bức tượng trong sân nhà. Cũng an ủi cho ông, tượng Ngày Về, nhờ che khuất bởi giàn dây leo, vẫn còn sót lại sau một cuộc đập phá điên loạn vào những ngày đầu khi Sài Gòn thất thủ.
Giờ đây “Ngày Về” là kỷ vật vô giá duy nhất còn nguyên vẹn về một đề tài mang lại cho ông nhiều cảm xúc nhất: người lính VNCH.
Nguyễn Tuấn Khoa
Vô danh tưởng tượng: ngồi trước tác phẩm Ngày Về của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu mà nghe bài “Người Về” của nhạc sĩ Phạm Duy sẽ rất thấm thía thân phận của người lính trận trong thời loạn!
Người Về - Nhạc Phạm Duy - Hà Thanh hát
Người Về
Mẹ có hay chăng con về
Chiều nay thời gian đứng im để nghe
Nghe gió trong tim tràn trề
Nụ cười nhăn nheo bỗng dưng lệ nhoè
Con thấy mẹ yêu đã già
Hẳn là miền quê những năm vừa qua
Chiếc bóng in trên vách nhà
Một ngày một đêm tóc sương phai mờ
Mẹ ơi, mẹ ơi, chuông chùa nào la đà
Nhớ tới, nhớ tới những linh hồn vắng nhà
Một vòng hương trắng xóa
Tình người trong thương nhớ
Gửi người chiến sĩ chết trong xa mờ
Em có hay chăng anh về
Thoạt nhìn người yêu ngỡ trong mộng mê
Ai dám mong chi xuân về
Nào ngờ vườn đêm có bông hoa kề
Anh nhớ những khi não nề
Sầu trên nẽo xa chắn ngang đường đi
Nhưng nước non chưa yên bề
Thì đành tình duyên gát bên lời thề
Em ơi, em ơi xích lại gần đây nào
Nhớ tới, nhớ tới những duyên và số nghèo
Trời làm cơn mưa bão, tình nồng như tơ liễu
Buồn vì ai đó khóc ai trong chiều
Con có hay chăng cha về, lời ca hồn nhiên líu lo ngoài kia
Chinh chiến đã qua một thì, tuổi thơ nở trên biết bao ê chề
Thôi đã hết cơn chia lìa, từ nay mầm non lớn trong tình quê
Như gió thu sau tháng hè, thổi về ruộng nâu lúa tươi xanh rì
Con ơi, con ơi tiếng cười nở chan hòa
Nhớ tới, nhớ tới biết bao trẻ thiếu nhà
Ngoài đường trời đông giá
Một đàn chim nhỏ bé
Gọi về chia sớt miếng cơm khoanh cà.
Nhạc sĩ Phạm Duy