|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:52:58 GMT -6
CHƯƠNG XVI
Tiếng máy bay xa dần rồi im bặt.
Mọi người già trẻ lớn bé nhô ra từ những chỗ ẩn nấp, xôn xao hỏi han tin tức của nhau, tiếng người rộn ràng lao xao khắp mọi phía, tiếng những người đàn bà réo gọi, tiếng reo cười gặp nhau, tiếng than van hốt hoảng. Tất cả những âm thanh đó vang âm cả một góc núi đồi như tiếng của một đàn ong vỡ tổ.
Trần vẫn nằm yên trên một tảng đá lớn dưới lòng một cái khe cạn nước, hai bên tường núi dựng đứng, ở lòng khe nhìn lên thấy như mình đang ở dưới đáy giếng sâu, một chỗ trú ẩn thiên nhiên thật an toàn. Ở đây có thể yên trí làm lơ xem như không biết gì đến những chiếc máy bay của giặc lồng lộn rú rít trên không thả từng loạt bom vang dội núi rừng, sà xuống núi đồi bắn từng tràng đạn xé toang không khí.
Từ buổi sáng, sau khi chia tay Huỳnh, mỗi người đi mỗi ngã lo những công việc riêng, hẹn chiều về nhà, Trần và Quý lên bộ chỉ huy, Quý đợi Trần ở ngoài, Trần vào trong được một lát thì nghe tiếng ầm ầm như sấm động từ xa. Trong nháy mắt, một đoàn sáu chiếc máy bay giặc ào tới, một tràng bom nổ dữ dội rung chuyển cả vùng rừng núi, nhà cửa rung rinh. Mọi người nằm rạp xuống, dán sát vào mặt đất, nín thở, máu như ngưng đọng trong cơ thể. Mỗi lần một chiếc máy bay sà xuống sát những ngọn cây, những nóc nhà, tiếng rồ ngạo nghễ ghê rợn của nó như xoáy vào da thịt con người làm tê lịm nhức buốt. Hai cánh máy bay lướt qua kéo lê dưới đất một bóng rợp kinh khủng như bóng của Tử thần, những loạt đạn bay vèo vèo thành những tiếng rít đặc và xoắn lại, những cành cây kêu răng rắc, gãy đổ ầm ầm, những chiếc lá xanh tả tơi xõa nằm rã rượi trên mặt đất. Chừng mười phút sau chúng ầm ầm bay lên cao, bay xa dần, mọi người chỗi dậy xao xác.
Trần cũng dậy, chạy chồm ra ngoài tìm Quý, nhưng tìm mãi không thấy Quý đâu cả. Chợt chàng nghe một tiếng kêu vo vo trong không khí, chưa kịp nhận ra tiếng gì thì ầm một tiếng, đất dưới chân chàng chao qua chao lại như đưa võng, một ngọn khói trắng đặc bốc lên từ ngọn đồi trước mặt. Có tiếng người xung quanh la lên: “Canh nông giặc tấn công, chạy đi mau.”
Không kịp suy nghĩ, Trần chạy theo mọi người, với bản năng cầu sống. Tiếng đại bác của địch vẫn rót đều đều, mỗi lần nghe tiếng kêu vo vo, mọi người lại nằm rạp xuống, chờ tiếng nổ ầm lên dữ dội xong, họ liền chỗi dậy thấy mình còn đủ tay chân lại tiếp tục chạy. Trần cũng làm y như mọi người, cuối cùng không hiểu bằng cách nào chàng lọt xuống lòng khe này cùng một số đông người khác. Những chiếc máy bay lại trở lại thả bom, bắn phá chừng mười lăm phút lại bay đi và đại bác lại thay phiên giã từng hồi. Cứ như thế cho đến ba giờ rưởi chiều.
Trong lòng khe chồng chất rải rác những tảng đá xanh nhẵn thín đủ mọi hình thù kỳ cục, chúng ngoan ngoãn nằm yên, nhẫn nại và say ngủ trong bóng im mát rượi, như những thiêng vật đã có một thời sống động bị hóa đá bởi một cơn thịnh nộ nào đó của Thượng Đế. Những dây leo chằng chịt hai bên bờ đá, len lỏi giữa những kẽ rêu, thỉnh thoảng người ta bắt gặp một cái hoa tím biếc yểu điệu nép mình giữa chốn âm u hoang dã này. Trần và một số nam nữ cán bộ ngồi trên những tảng đá nói chuyện phiếm, cũng cảm thấy đỡ sốt ruột và qua thì giờ. Xế trưa mọi người đều mệt mỏi và đói, Trần tìm một góc khuất kín ngả người nằm trên một phiến đá, trên mặt chàng có một tàu lá chuối rừng nghiêng xuống che những giọt nắng lọt xuống từ vòm cây trên cao. Trần nằm yên, hai tay khoanh trước ngực. Giữa tiếng máy bay và bom đạn vang rền từ vách núi này qua vách núi kia, chàng nghe những tiếng rì rào nói chuyện của mọi người, xa hơn tí nữa tiếng một cây đàn guitar khẽ rung lên theo một điệu hát trầm buồn của người cán bộ trẻ tuổi, một bản nhạc kháng chiến thịnh hành của Phạm Duy. Chàng nghe cả tiếng nước tí tách nhỏ giọt từ trong khe đá.
Trần thiếp đi giữa những âm thanh đó, giấc mơ của chàng thật là quái dị nhưng cũng không kém êm đềm. Chàng thấy mình đang trôi bập bềnh trên mặt biển, mặt trời lên cao chiếu xuống mặt nước muôn ngàn chiếc vương miện chói lòa, bỗng nghe tiếng ầm ầm chuyển động dội lên từ đáy biển sâu, lòng biển sôi sục, những đợt sóng dâng lên trắng xóa uốn cong cao ngất, hùng tráng như những chiếc bờm trắng của những con sư tử. Trần nằm trên đầu một ngọn sóng cao ngất, ngửa mặt nhìn trời, ngọn sóng chạy băng băng về phía một vách núi đá to lớn sừng sững, choán cả một góc trời. Trần nghĩ trong bụng thế nào ngọn sóng cũng đưa mình đập vào ngọn núi đá ấy, ý nghĩ khiến chàng toát mồ hôi, kinh hoàng, ngọn sóng càng đến gần núi đá càng dâng cao, dâng cao mãi rồi đột nhiên hạ xuống, dàn trải ra dưới chân núi đá, đong đưa thân thể chàng một cách êm đềm như trong một cái nôi.
Và vách núi đá bỗng cúi xuống nhìn chàng, dần dần biến thành khuôn mặt của chị Hiếu đầy vẻ dịu dàng thương yêu, đôi mắt lé của chị đăm đăm nhìn chàng, dần dần trở nên to ra, to mãi đến khi nó bao trùm tất cả, không còn thấy gì nữa. Liền đó một đôi mắt đẹp tuyệt vời hiển hiện mênh mông giữa bầu trời xanh thẳm, đôi mắt của người thiếu nữ trên chuyến đò ngang trên giòng sông Hương năm nào. Trần vẫn nằm đong đưa trên mặt sóng, ngửa mặt nhìn lên đôi mắt u uẩn của nàng, chàng cảm thấy một niềm khao khát mãnh liệt muốn tìm tòi một ý nghĩ gì giấu kín trong đôi mắt đó. Đôi mắt lộ vẻ mừng tủi của cố nhân, cảm động như muốn ứa lệ, đôi mắt nói thật nhiều những điều chưa từng ai hay biết khiến lòng Trần tràn ngập một ý niệm tri ân, một nỗi bình yên khôn tả.
Trần tỉnh giấc thật êm đềm kỳ thú, dư ảnh của giấc mơ hùng tráng và diễm ảo vẫn còn quyện lấy người chàng. Chàng nằm yên lắng nghe mọi người lục tục gọi nhau đi về, chàng biết cuộc oanh tạc đã chấm dứt, một cảm giác khoan khoái nhẹ nhõm chiếm lấy thân thể và tâm trí chàng. Chàng nghe những tiếng chân của những người trú ẩn trong lòng khe đã đi xa dần, có tiếng léo nhéo của một đoàn người đi trên bờ khe, ngay phía trên chỗ chàng nằm. Tiếng một người nói: “Cháy rụi mấy gian nhà ở ngọn đồi phía Tây, một đứa bé chết cháy vì cha mẹ đi vắng, có nhiều người bị thương…”
Trần nhỏm dậy, chàng chợt nhớ đến Huỳnh, đến Quý, đến Hiếu và hai đứa bé. Chàng vội vã nhảy qua từng phiến đá tìm đến lối mòn leo lên mặt đường. Ra khỏi khe núi, đi được một quãng chàng gặp Huỳnh từ xa đi tới, thấy Trần, Huỳnh mừng rỡ:
– Đây rồi, mày làm cả nhà lo muốn chết.
Trần ngơ ngác hỏi:
– Lo cái gì?
– Thì máy bay hết bắn phá, mọi người đều tìm về nhà đủ cả chỉ thiếu có mặt mày thôi chứ còn gì nữa. Chị Hiếu lo cho mày lắm, tao và Quý chia nhau hai ngã đi tìm mày đây.
– Thì tao cũng lo nên vội về nhà tìm xem có đủ mọi người không đây.
Huỳnh ngao ngán:
– Mày vội đi về như thế này đấy hả, ai nấy trở về cả tiếng đồng hồ rồi, mày có biết mấy giờ chiều rồi không?
– Mấy giờ rồi?
– Hơn bốn giờ rồi ông tướng, ồ, thằng này làm sao thế này, Huỳnh quay lại nhìn sát vào mặt Trần, mặt mũi thế này thì vừa ngủ dậy xong phải không? Bom đạn ầm ầm suốt ngày như thế mà mày chui vào đâu ngủ được vậy mày?
– Tao ngủ dưới lòng khe từ xế trưa đến giờ. Đói bụng quá không ngủ thì làm gì được.
– Chịu mày rồi đấy. Chiến tranh đối với mày chỉ là một giấc ngủ dài thôi đấy hả?
Trần cười vẻ bí mật:
– Còn nhiều thứ nữa chứ mày, nói sao cho xiết.
Hai người rảo bước về đến nhà, Quý cũng vừa về tới, Trần hỏi Quý:
– Khi sáng bom vừa nổ xong loạt đầu, anh chạy ra tìm em ngay mà chả thấy em đâu cả. Em biến đi đâu thế?
– Thì bom vừa nổ xong là em lao ngay vào bộ chỉ huy tìm anh cũng chả thấy anh đâu cả.
Hai bé Hiền, Hòa chạy đến với Trần, Trần cúi xuống bế cả hai đứa vào lòng:
– Máy bay bắn cả ngày các cháu có sợ không?
– Sợ lắm chú ạ.
– Hòa không sợ đâu, hễ mẹ mua cho Hòa cái súng là Hòa bắn đùng đùng, như máy bay địch vậy đó.
– Nó nói dóc đấy chú ạ. Khi bom nổ cái ầm nó khóc ré lên mà bảo không sợ.
– Tại nó làm đau cái lỗ tai của Hòa chớ bộ.
– Tao cũng đau lỗ tai mà tao đâu có khóc. Ê, thế là con trai bét nhè, lêu lêu.
– Thôi thôi, đừng cãi nhau nữa, cho chú xin. Thế trưa có đói bụng không nào?
– Không, không chú ạ, mẹ vào nhà lấy cơm với khoai ra ăn.
– Máy bay bắn cả ngày thế mà mẹ làm sao chạy từ ngoài hầm vào nhà?
– Khi máy bay đi thì mẹ chạy vào, vừa trở ra hầm thì máy bay trở lại.
– Ngồi dưới hầm cả ngày các cháu có mệt không?
– Không chú ạ, chỉ buồn ngủ thôi, không có gì chơi cả.
Bé Hòa nói chả chớt:
– Hòa ngủ mà cứ nổ ầm làm Hòa giật mình hoài.
– Hừ, cái thằng Tây tệ thật, nó cứ nổ ầm làm Hòa ngủ phải giật mình, nó không biết điều chi cả, để rồi chú mắng cho nó biết ngượng.
– Nó ở đâu mà chú mắng nó được thế? Chú cho Hòa đi xem nó với.
– Ờ, ờ, – Trần lúng túng ngước mặt lên lim dim mắt, gãi gãi cái cằm.
Huỳnh phì cười:
– Bí rồi đấy nhé, nào bé Hòa bảo chú Trần dắt đi mắng thằng Tây đi.
Trần chợt nghĩ ra, mừng rỡ:
– Ừ phải, cháu yên trí, chú cháu mình không phải đi đâu hết, chú sẽ dắt thằng Tây đến đây bắt nó xin lỗi cháu, được không?
Hiền, Hòa sung sướng, bốn con mắt tròn xoe, sáng rực:
– Bây giờ hả chú?
– Ngay ngày mai.
Huỳnh hiểu ý Trần, cười ngất:
– Tao hiểu rồi, thằng này khôn thật, mày định bê thằng hàng binh Đức, thằng Koch đến đây chứ gì? Này các cháu, chú Trần sẽ mang đến cho các cháu một thằng Tây to bằng cái nhà thế này này.
Trần vẫn nghiêm trang, bảo hai đứa bé:
– Bây giờ các cháu hãy nghĩ trước những câu mắng để mai gặp thằng Tây mà trách mắng chúng nó một trận, và nếu thấy nó có vẻ dễ thương, biết lỗi thì chú cháu mình hãy tha cho nó, và nếu có thể cho nó ăn cơm với chúng mình nữa, đồng ý chứ?
Hai đứa bé gật đầu lia lịa, hai đôi mắt trong veo, lóng lánh; Trần buông hai đứa xuống đất, vỗ vào lưng Hòa một cái:
– Thôi, ra kia chơi, đừng có nghịch bẩn.
Ngồi trong bếp Hiếu lắng tai theo dõi câu chuyện ở nhà trên. Từ khi Trần trở về, lòng nàng dạt dào một nguồn hạnh phúc chứa chan. Hiếu ngồi đứng không yên từ khi Huỳnh và Quý chia nhau đi tìm Trần, nàng lo buổi cơm chiều, vừa làm việc vừa bồn chồn lo lắng, thỉnh thoảng một ý nghĩ ghê sợ thoáng qua trong đầu, nàng vội lắc đầu như để xua đuổi ý tưởng đó đi. Có tiếng một đoàn người xôn xao đi lại, đột nhiên tay chân nàng bủn rủn, trí tưởng tượng của nàng hiện ra hình ảnh người ta mang Trần về nhà trên một cái cáng, mình đẫm máu, mắt nhắm nghiền, ý nghĩ đó làm Hiếu điếng người, nỗi đau đớn khiến nàng nghẹt thở. Máy bay và đại bác im tiếng gần cả tiếng đồng hồ, mọi người đều về đủ cả. Vậy mà chờ mãi không thấy Trần. Biết làm sao với sự chậm trễ này. Lòng Hiếu như lửa đốt, quặn đau từng hồi.
Thình lình, nàng nghe tiếng cười nói vui vẻ, tiếng của Trần trầm ấm xen lẫn tiếng cười nói vang vang của Huỳnh và Quý, Hiếu buông thõng tay, sửng sờ, tim nàng nhói lên, nàng cúi xuống để mặc giòng nước mắt sướng thỏa chảy dài trên mặt.
Bây giờ thì nàng yên tâm lắm rồi, nàng tiếp tục lo cơm chiều, chắc Trần đói lắm. Cách một tấm phên tre, Hiếu yên lặng ngồi cời thanh củi trong lò, nàng theo dõi câu chuyện giữa hai con và Trần, lối nói chuyện với trẻ con của Trần làm Hiếu mỉm cười, tâm trí nàng âu yếm tưởng tượng bộ mặt quan trọng của Trần khi nói chuyện với trẻ con thật đáng yêu biết bao. Người con trai trong cơn sốt đêm trường hôm nào đã ôm nàng trong vòng tay, đã làm xáo trộn cả tâm hồn bình thản an phận của nàng, từ nay đã làm đảo lộn cuộc đời của nàng. Nàng hiểu rằng một định mệnh lạ lùng và ngang trái đã dựng lên trước mặt nàng, không còn ngờ gì nữa, tình thương yêu này là hạnh phúc tuyệt đỉnh của bây giờ và là đắng cay đau khổ của mai hậu. Nhưng nàng không mong gì hơn. Từ trước nàng đã biết rõ những gì mà cuộc đời có thể dành cho một người đàn bà cô đơn và xấu xí như nàng. Đó chỉ là sự đau khổ đơn độc, lăn lóc với thực tế cuộc đời để kiếm sự sống cho nàng và hai con, một mình chống chỏi với tất cả bất trắc của cuộc đời, và không mong được ai che chở. Nói chi tới một tình yêu thương, một vòng tay ôm ấp nâng niu, một đôi mắt thiết tha trìu mến.
Thế mà phép lạ đã hiện ra với tất cả khoan hồng mầu nhiệm của nó. Bây giờ nàng đón nhận từng giờ từng ngày ân sủng được trông thấy Trần, được nghe tiếng nói cười của chàng, được săn sóc cho chàng. Chừng đó quá đủ cho cuộc đời còn lại của nàng, bởi vì nàng biết rằng một ngày nào đó, Trần sẽ không còn bên nàng nữa, chàng sẽ mất hút trong cuộc đời đầy ngăn cách éo le này. Nàng sẽ không than van, oán hận, sẽ không để cho Trần phải khổ sở bận tâm gì đến nàng. Với Trần, Hiếu tự xóa đi thân phận của mình. Chẳng phải trước kia, nàng chỉ biết an phận thủ thường, sống chỉ là để đưa đẩy cho hai con nên người mà thôi. Hồi tưởng lại bao nhiêu ngày tháng trước đây cùng sống dưới một mái nhà, thế mà Hiếu có nghĩ ngợi gì đâu, đời sống khó khăn với hoài bão tương lai của hai đứa con thơ không cho nàng được nghĩ viển vông. Thế mà đột nhiên mối tình đã hiện ra với tất cả vẻ cảm động thiêng liêng cũng như sự say đắm phàm trần của nó.
Cho đến nay Hiếu vẫn chưa hết bàng hoàng kinh ngạc. Nàng không hiểu ra sao nữa, mỗi khi nhớ đến đôi mắt đằm thắm của Trần, đôi môi đỏ thắm khát khao của chàng tìm kiếm đôi môi của nàng, lòng nàng rung động một cách êm đềm như những cơm mưa đầu mùa tan vào lòng đất khô héo của những ngày hanh hao nắng hạn. Nàng cũng thấy mình yếu đuối, bé bỏng vô cùng, dại khờ biết bao, tình yêu ngang trái này mở ra cho nàng bao nhiêu điều lạ lùng mà nàng khó thể tin là có thật.
Đời Hiếu, Hiếu những tưởng không còn có gì khiến cho nàng ngạc nhiên nữa. Cuộc đời tối tăm từ buổi còn thơ, nàng là con thứ trong một gia đình trung lưu, từ bé nàng sống như một cái bóng bên cạnh người cha bất đắc chí trong cuộc đời, lạnh lùng thờ ơ với con cái, một người mẹ bị tê liệt nằm một chỗ năm này qua năm khác. Hiếu được học hết bậc tiểu học rồi ở nhà. Khi vừa lớn lên nàng đã biết nếm trải đau đớn tủi thân vì biết mình bị tật mắt lé, xấu xí không ai muốn nhìn nên nàng thường trốn tránh mọi người, tìm những nơi hiu quạnh ngồi đọc sách và thả hồn tưởng tượng theo những nhân vật mà tùy từng lúc vui buồn nàng nghĩ mình là họ. Nàng lấy chồng do lời giao ước giữa cha nàng với một người bạn từ khi nàng còn ở trong bụng mẹ. Trong những buổi trà dư tửu hậu hai người bạn cao hứng hứa gả con cho nhau và sau này họ quyết thực hành lời hứa đó.
Việc lấy chồng của nàng giản dị như thế, không ai buồn hỏi đến ý kiến của nàng, người ta lo liệu mọi lễ nghi theo tục lệ, một bà cô được vời tới để chỉ dẫn cho Hiếu phải may mặc ra sao, phải đi đứng lễ bái thế nào.
Người chồng, trong lễ cưới mới thấy mặt cô dâu, vô cùng thất vọng vì đôi mắt lé xấu xí buồn nản của nàng, bỏ nhà ra đi biền biệt. Mặc, cha mẹ chồng vẫn tiến hành lễ cưới và tuyên bố chỉ biết có nàng là con dâu mà thôi. Hiếu sống trong niềm tủi nhục của một cô dâu bị bỏ rơi, nhưng cuộc đời đã lãng quên nàng từ ngày thơ ấu nên rồi nàng chịu đựng cũng quen đi, nàng tập thích nghi với đời sống của gia đình chồng. Hiếu tự nghĩ mình chỉ là một người con gái bất hạnh thì dù sống dưới một mái nhà này hay dưới một mái nhà khác, với danh vị rồi cũng thế thôi. Tuy nhiên sự cam chịu của nàng, cùng tính nết hiền hậu dịu dàng của nàng đã gây được cảm tình của gia đình chồng đối với nàng. Cha mẹ chồng thương mến nàng như con đẻ, nhờ đó nàng đã sống lặng lẽ dễ chịu trong cảnh làm dâu hờ đó.
Người chồng bỏ đi ba năm lại trở về nhà, anh ta làm ra vẻ không biết đến sự có mặt của Hiếu trong nhà, lạnh lùng xa cách, nhưng dần dần nghe lời cha mẹ khuyên nhủ, người mẹ khóc lóc van lơn, viện lẽ đã cưới người ta về làm dâu, dù sao cũng mang tiếng là gái có chồng, nếu anh ta không bằng lòng thì cha mẹ sẽ mang tội bất nhân vì đã làm lỡ đời con gái của người ta.
Sau cùng vì hiếu với cha mẹ, và sống gần gũi trong gia đình, anh ta cũng có dịp để tâm đến sự yên lặng xa xôi của nàng, vẻ nhu thuận đáng quý của nàng, nên anh đành lòng mà nghĩ âu cũng là duyên số. Hiếu cũng biết chồng đã vì cha mẹ mà bằng lòng ăn ở với nàng, nhưng từ bao nhiêu năm bị đời bỏ quên, nàng hầu như thỏa hiệp với cuộc đời mà để mặc cho số phận run rủi.
Ít năm sau hai bé Hiền Hòa kế tiếp nhau ra chào đời, nhờ trời chúng rất xinh xắn dễ thương nên càng thắt chặt tình nghĩa vợ chồng của nàng. Vợ chồng Hiếu đã đến lúc gần gũi, quý mến nhau, nàng những tưởng đời nàng đến lúc yên vui. Nhưng sự tan vỡ đã đột ngột xảy ra cùng với bộ mặt ghê tởm của chiến tranh, người chồng đã ngã gục ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, chồng chết đi mang theo chút hy vọng nương tựa cuối cùng của đời Hiếu. Tai biến dồn dập, cha mẹ chồng cũng lần lượt từ giã cõi đời vì buồn phiền, vì mất con, vì già yếu quá.
Hiếu thành ra tứ cố vô thân, bồng hai con dại tản cư từ làng này sang làng khác, cuối cùng nàng trôi dạt đến vùng rừng núi chiến khu này. Nàng đặt hết tâm hồn vào hai đứa con thơ, cuộc sống khó khăn xuôi ngược nhưng lòng nàng thanh thản bình yên. Hiếu có ngờ đâu cuộc đời trôi nổi của mình lại có ngày bắt gặp khuôn mặt tình yêu chói lòa diễm phúc.
Giờ đây nàng mang một tâm trạng ngổn ngang rối bời cảm xúc, dĩ vãng u buồn dằng dặc sau lưng nàng hầu như biến dạng. Nàng như một con sùng bằn bặt nằm yên trong lòng đất sâu đen tối, bỗng một ngày phép lạ hiện ra, con sâu trắng nõn tự nhiên thấy mình trồi lên mặt đất, trên lưng mọc ra đôi cánh kỳ diệu, khẽ động cánh, tức thì thấy mình bay cao trên bầu trời xanh nguy nga lồng lộng, ánh sáng tinh khôi choáng ngợp. Thời gian bây giờ đối với nàng vô thủy vô chung. Tình yêu mang lại cho nàng nỗi bất tuyệt của kiếp sống, hạnh phúc và khổ đau đều có đủ quyền lực làm tan hoang tất cả. Nàng lờ mờ hiểu rằng phải như thế, rồi sẽ phải như thế, nhưng bằng cách nào thì nàng không thể biết. Có điều nàng biết rõ là nàng sẽ vui lòng đón nhận, và sẽ vui lòng mãi mãi.
Có tiếng chân nên mạnh xuống nền nhà đi về phía bếp, nàng biết đó là tiếng chân của Trần, nàng đâm ra luống cuống, tim nàng rộn rã. Nàng ngẩng lên, Trần đứng đó, choán hết cả khuôn cửa vào bếp, nét mặt chàng tươi cười rạng rỡ, đôi mắt đen láy sáng rực trìu mến nhìn nàng. Chàng nhận thấy ngấn nước mắt còn đọng trên má nàng, chàng tiến lại gần, nụ cười vẫn đằm thắm trên môi, Trần hạ giọng khẽ hỏi:
– Sao Hiếu khóc?
Nàng lúng túng, ngượng ngập, đưa tay lên dụi mắt, tuy cố gắng lắm mà giọng nói vẫn run, nàng chỉ vào bếp lửa:
– Tại củi tươi khói nhiều quá, nên mắt bị cay đấy chứ.
Trần bật cười, chàng thấy sự bối rối che giấu xúc động một cách vụng về của Hiếu có vẻ trẻ thơ tội nghiệp lạ, lòng rạt rào thương cảm, chàng cúi xuống, ghé gần nàng hơn nữa, giọng trêu chọc âu yếm:
– Làm gì có chuyện củi tươi, Hiếu khóc tại Trần về chậm, sợ Trần chết rồi phải không?
Hai tiếng “Trần chết” làm mặt Hiếu tái xanh, nàng hoảng hốt nhìn Trần, nàng đưa tay lên như muốn bịt miệng Trần nhưng lại bỏ thõng tay xuống, nàng nhìn Trần, vẻ trách móc:
– Đừng nói bậy như thế, không nên.
Vẻ sợ hãi kiêng kỵ của Hiếu khiến Trần thích thú, chàng sung sướng cười to, vang động cả nhà khiến Hiếu càng thêm cuống quýt, nàng khẩn khoản nhìn Trần:
– Đừng cười to vậy, cả nhà đều nghe đấy.
– Thì đã sao? – Trần lại hạ giọng – vậy thì Hiếu đừng khóc nữa kia, Hiếu thì cái gì cũng lo, cái gì cũng sợ. Trần không chết được đâu, có Hiếu mà làm sao Trần chết được. Bao giờ chết cùng chết, phải không nào?
Trần ra vẻ diễu cợt, nhưng đôi mắt vui vẻ của chàng chứa đựng một niềm ấm áp cảm động. Chàng đưa tay vén mớ tóc xõa rối trên trán Hiếu, đùa nghịch hỏi lại:
– Có phải không nào?
Hiếu gật gật đầu, nàng vội cúi nghiêng xuống, vờ chăm chú trông bếp lửa, tránh cho Trần khỏi trông thấy đôi mắt lại ẩm ướt của nàng.
Tiếng Quý gọi Trần ở nhà trên giúp nàng tránh được nỗi ngượng ngùng khó khăn đó. Trần đứng dậy đi lên nhà, còn nói to vói lại:
– Trần đói bụng lắm rồi đó chị Hiếu.
Hiếu ngửa mặt, thoáng cười một mình, nàng nhìn lửa nhảy múa trong lò, một vệt lửa lòe ra, cười lên lảnh lót, thần trí Hiếu chơi vơi, chợt chùng xuống trong một cảm giác êm ái dịu dàng.
Lần đầu tiên trong đời, nàng có những giây phút mơ mộng, tâm hồn nàng như cơn gió buổi chiều nổi lên ngoài kia, bay lướt thướt qua những ngọn đồi im bóng mây che, cuốn lại rối rắm trong những vùng u tịch hỗn mang, gây nên muôn ngàn tiếng xào xạc vu vơ, đoạn thở dài suốt qua bóng chiều huyền hoặc.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:55:38 GMT -6
CHƯƠNG XVII
– Không cái chết nào giống cái chết nào cả, bởi vì những khuôn mặt không bao giờ trùng nhau cả. Tao nghĩ đó cũng là kỳ công của Thượng Đế vậy.
– Thế nhưng mày không thấy cái dáng điệu khóc than nhếch nhác của người sống thì lại giống y hệt nhau, người nào cũng giống người nào. Đó cũng lại là một kỳ công của Thượng Đế như mày nói nữa. Tao nghĩ rằng điều đó chứng tỏ Ngài muốn rằng trong sự đau khổ mọi người đều bình đẳng.
Mặt trăng đã lên cao khi Huỳnh và Trần đi lên đến đỉnh ngọn đồi. Họ vừa đi thăm những xác chết vì máy banh oanh tạc trong ngày. Ăn cơm xong họ rủ nhau đi, có tất cả năm người chết, trong số có một đứa bé bị chết cháy. Hình ảnh đứa bé co quắp đen thui, da thịt nứt nẻ khiến họ gây gây ớn lạnh.
Từ chiều cho đến khi trăng lên, họ đã đi đến từng nơi một, hai người cùng có cảm tưởng mình là những chứng nhân khốn khổ. Họ nhìn ngắm xem xét từng nạn nhân, từng vết đạn đục khoét mang đi sự sống của con người, có những người quen và không quen, những người sáng nay còn chào hỏi, còn bao nhiêu dự tính ước mơ, bây giờ nằm im lìm không cử động, không còn biết đến ai nữa. Những người nằm xuống phó mặc cuộc đời, cuộc đời tai ác chứa chấp cùng một lúc sự sống và sự hủy diệt.
Huỳnh và Trần tìm thấy trên khuôn mặt người chết sự bình thản triết lý được rút ra từ cõi sống và trên vẻ mặt khóc than đau khổ vật vã của những người còn sống, nỗi kinh hoàng huyền nhiệm của sự chết.
Cho đến khi lòng đã quá đủ hoang tàn ngao ngán, họ rủ nhau đi lên ngọn đồi vì trăng đã lên cao, tỏa xuống khắp thung lũng một ánh sáng mờ ảo vuốt ve, có một lời kêu gọi âm thầm quyến rũ từ phía những rừng hoang bao la như ánh trăng đã lùa tới từ những vùng xa xôi ngút ngàn đó. Ngọn đồi họ đi lên mọc tuyền một thứ cây tràm thoai thoải từ đồi nọ qua đồi kia, lá cây bé nhỏ, thuôn dài như hình chiếc thuyền loáng bạc dưới trăng.
Vài đóm lửa hắt hiu mông lung dưới thung lũng chập chờn khi ẩn khi hiện trong sương. Một cánh chim vút ngang qua đồi, đôi cánh nhỏ vẫy vẫy rồi khép lại chao nghiêng, vạch một đường bay mộng mị đơn côi mất hút trong ánh trăng nhòa nhạt xa vời.
Trần và Huỳnh cùng cảm thấy buồn rầu nhưng ánh trăng quá dịu dàng hư ảo khiến lòng họ dịu bớt phần nào những ám ảnh chết chóc đen tối. Trần lên tiếng hỏi bạn:
– Thế mai mày về rồi đấy à?
Huỳnh thong thả ngồi xuống bên một bụi tràm, anh ngắt một chiếc lá, đưa vào miệng, nhằn nát, vị đắng của lá tràm tê lạnh đầu lưỡi anh, mùi thơm khuynh diệp nồng hắc khiến anh thấy dễ chịu. Anh bảo Trần:
– Ngồi xuống đây một lát mày. Ngồi xuống đây, nghĩ rằng mình còn sống, còn được ngồi giữa một đêm trăng, còn nhận biết rằng mình là hư vô và hư vô là mình. Như thế này đã là hạnh phúc lắm rồi. Ừ, mày ngồi thế trông được đấy, để ánh trăng soi vào mặt, một bộ mặt nguyên lành chưa bị bom đạn cày nát, thế là đã đẹp với trăng lắm rồi. Đêm như đêm nay tao thấy có lắm điều huy hoắc, mày có tao và tao có mày, cả hai đứa đều còn đủ mặt mũi tay chân, lại có nguyên cả một đêm trăng kỳ dị. Tao có nhiều chuyện cần nói với mày. Ngày hôm nay, có lúc tao tưởng không còn nói gì với mày được nữa. Bây giờ biết chắc là có thể nói đủ mọi chuyện với nhau. Đời kể cũng tuyệt vời đấy chứ mày.
Trần bật cười:
– Thằng này say trăng đến nơi rồi. Mày lảm nhảm gì thế? Hôm nay tao mới thấy mày nói hơi nhiều. Vì trăng hay vì thoát chết trận mưa bom ban ngày đấy?
– Cả hai mày ạ. Mày không thể biết được tao sợ chết đến chừng nào, tao sợ một mình, mặc dầu sống giữa đám đông tao vẫn không bớt cô đơn, tao hay gắt gỏng với mọi người là vì thế. Chết là phải đi một mình rồi, không còn ai ở bên để nói chuyện, để gắt gỏng, để phiền hà, để yêu thương thì cũng vậy. Đêm nay, mày thấy đó, những người kia nằm im lìm chờ sáng mai mọi người còn sống tụ tập đến tiễn đưa thân xác của họ làm một chuyến độc hành đi về với cát bụi. Buồn biết bao!
– Tao thì cho là thoát, được nghỉ ngơi linh hồn và thể xác nhọc nhằn. Chả sợ gì cho mệt xác, sống hay chết cũng vậy thôi, cả hai đều tuyệt diệu như nhau cả. Tao háo hức với đời sống cũng như nghĩ đến cái chết tao cảm thấy tò mò đến cực độ. Chắc nó phải có một cái gì đó khiến cho khi sinh ra con người phải khóc, thế mà khi chết đi con người lại mỉm cười. Mày có thấy mặt những người chết khi nãy không? Tao thấy hình như họ mỉm cười.
Huỳnh nói, giọng mơ hồ:
– Mỉm cười à? Ừ, tại sao lại không mỉm cười nhỉ? À này Trần, mày có định cưới vợ không đấy?
Trần chưng hửng ngạc nhiên, nhưng cũng phá ra cười:
– Ồ cái thằng này, hôm nay mày làm sao thế? Đang không lại nói chuyện cưới vợ trong một lúc như thế này. Mày có điên không?
Huỳnh nghiêm trang:
– Không, tao nói thật đấy. Mấy hôm nay bận nhiều việc quá nên tao chưa có dịp nói với mày về chuyện bác Thị nhắn mày về chuyện đó.
– Cô tao nhắn à, có chuyện gì thế?
– Bác Thị vừa đi Huế về bảo tao tin cho mày biết cụ của mày sắp cho con bé cháu của mày đi cùng với cô bé Thương về nhà bác Thị để gặp mày. Cụ bảo muốn lo chuyện vợ chồng cho mày và Thương sớm chừng nào hay chừng ấy vì cụ đã già quá rồi.
Trần chép miệng:
– Lại chuyện đó à. Tao cứ tưởng mẹ tao nói là nói vậy thôi chứ. Ai ngờ bây giờ lại làm như chuyện thật. Phiền quá!
– Sao lại phiền? Tao thấy cụ cũng có lý. Cụ đã già mà mày là con một, cụ không lo sao được. Vả lại tao nghe bác Thị bảo Thương rất dịu dàng, hiền hậu, và đẹp nữa.
– Rất đẹp chứ không phải đẹp mà thôi. Ngày còn bé tí nó đã có những nét thật kiều diễm thanh thoát của một thiếu nữ rồi.
– Vậy thì còn chờ đợi gì mà mày không bằng lòng, lại bảo rằng phiền?
Trần có vẻ bứt rứt không yên:
– Không phải phiền mà thôi đâu, tao e rằng sẽ phải khổ tâm nữa là khác.
– Tại sao lại khổ tâm? Mày nghĩ không thể nào yêu được Thương hay sao?
– Không phải thế, trái lại là khác. Thương rất đáng yêu, tao chắc rằng ba năm qua nàng đã trở thành một cô gái yêu kiều quyến rũ nữa. Mẹ tao không bao giờ lầm lẫn khi quyết định một việc gì, cụ đã chọn Thương tất đã phải hoàn toàn. Nhưng tao bây giờ không thể chấp thuận chuyện đó được nữa.
– Tại sao không? Bộ mày bảo đi như thế này rồi không thằng nào tính chuyện vợ con gì cả hay sao?
– Có chứ, tao đang tính chuyện lấy vợ đây, nhưng chắc chắn không phải là Thương, thế mới có chuyện.
– Như vậy nghĩa là sao? Lại rắc rối rồi, mày đang yêu một nàng nữ cán bộ nào rồi đấy phỏng? Thảo nào tao thấy vừa đi chỉnh huấn về, đau một trận suýt chết xong mà mặt mũi thằng này cứ sáng rực cả lên. Chẳng bù với hôm sắp đi chỉnh huấn, tao ngồi ở nhà cứ lo ngay ngáy, cứ sợ mày có việc gì.
Trần cười:
– Hôm đó mày trông mặt mũi tao u ám lắm hả?
– Còn hơn thế nữa, khi nghe mày trở về và đau nặng tao lại càng lo hơn vì tao biết mày sẽ chẳng nên trò trống gì với cái lớp chỉnh huấn ấy, mày đau nặng chứng tỏ điều ấy. Thế nhưng khi gặp mặt mày thì tao thấy mày vui vẻ sung sướng hơn bao giờ hết, cái mới lạ.
– Chẳng có gì là lạ. Mày nói đúng, lớp chỉnh huấn không thành công với tao hay ngược lại thì cũng thế. Nhưng mày có điều quên không nghĩ tới là cổ nhân có dạy “không thành công thì thành nhân,” đó là điều tao mong đạt đến nhất. Mày thấy tao vui vẻ sung sướng à? Phải nói là thanh thản nhẹ nhàng thì đúng hơn. Vì tao đã giải thoát được nhiều điều. Trong đó, điều đáng kể là tao không còn tức giận hằn học nữa, chẳng hạn trước kia tao ghét đắng bọn thằng Trương, thằng Việt Dũng, bây giờ tao thương xót chúng nó, tao thấy chúng nó khốn khổ hơn mình nhiều, chúng nó tội nghiệp ở chỗ chúng nó đành lòng qui thuận chịu bọc mình vào lớp vỏ cứng, kệch cỡm thảm hại, chúng nó sợ xây xát, sợ đủ thứ. Còn mình, không sợ cái gì nữa cả, tao thấy tao thênh thang, đó là lý do đủ để thấy mình yên ổn, ít nhất đối với chính mình. Chưa nói đến nhu cầu của một cuộc dự phóng, với điều đó tao chấp nhận sự sống chết ngang nhau một cách bình yên vô cùng. Thật ra thì tao những muốn phá vỡ tan hoang tất cả nhưng để làm gì mới được chứ.
– Được rồi, đâu còn có đó. Bây giờ hãy nói về nàng của mày đi. Tao muốn biết chuyện đã xảy ra như thế nào?
– À, còn chuyện ấy nữa, mấy hôm nay tao cũng định nói với mày nhưng chưa có dịp. Tao đang yêu mến một người đàn bà và tao định lấy nàng làm vợ.
Huỳnh sốt ruột:
– Thì cứ nói phứt ra là người nào để tao còn xem ra sao chứ, cứ ấm ớ hoài, mày chối nguây nguẩy không chịu lấy cô bé Thương là tao biết rồi. Vậy nàng tên gì, làm cơ quan nào ở phân khu?
Trần bật cười:
– Sao mày lại nghĩ rằng nàng phải ở phân khu kia, tại sao không là ở đây?
– Vì mày vừa ở đó về, mày ở chiến khu này ba năm nay mày có chú ý đến cô nào đâu, mà ở đây có ma nào nên thân để có thể yêu được.
– Vậy mà người ấy ở đây, và là một người mày không bao giờ ngờ tới. Bởi vì dưới mắt mọi người thì nàng không bằng ai hết. Nàng chỉ có giá trị với riêng tao thôi. Đối với tao nàng rất đẹp và chỉ có một mình tao nhìn thấy được vẻ đẹp đó mà thôi. Chính vì thế mà tao gắn bó đời tao với nàng. Mày nóng muốn biết nàng là ai phải không? Tao nói đây: đó là chị Hiếu.
– Hả? Mày nói sao? Chị Hiếu à?
– Không thể tưởng tượng được phải không? Tao cũng thế. Trước kia nếu tao nghe một chuyện tương tự như thế này, chắc tao phải cười nôn ruột. Đời lắm chuyện lạ lùng, sự có mặt của mình cũng đã là chuyện lạ rồi. Vậy thì có gì đâu mà mày phải hoảng hốt lên.
– Đúng vậy, tao hơi hoảng một chút, nhưng không sao, chuyện xảy ra từ bao giờ?
– Mới đây thôi, trong thời kỳ tao đau nặng.
– À, tao hiểu rồi.
– Không, mày không hiểu đâu. Hiếu đã thức trắng đêm này qua đêm khác để lo cho tao, nhưng không phải vì thế mà tao yêu nàng. Nếu tao mang ơn Hiếu về chuyện giúp đỡ săn sóc trong khi tao đau ốm thì sự trả ơn bằng một mối tình không khác gì một sự bội phản. Vì đó không phải là căn bản để giữ cho bền chặt một mối tình. Tình của tao đối với Hiếu chính vì nàng là hiện thân cho một nỗi bất hạnh cô độc to lớn vô cùng. Điều đó phản ảnh tâm tư của tao trong những ngày đi chỉnh huấn, trên đường về từ phân khu, trong những cơn sốt mê man một mình tao đơn độc giữa bao nhiêu sự giằng xé của thể xác lẫn tâm hồn.
Tao nói điều này mày cứ việc cười nếu mày thích, chính vì đôi mắt lé của nàng mà tao yêu thương nàng vô cùng. Tao những muốn hôn lên đôi mắt ấy không biết bao nhiêu lần và mong gìn giữ nó mãi trong đời tao. Đôi mắt của một người bị lé nó luôn có một vẻ trơ trọi cô độc lạ lùng, ai cũng có thể thấy rõ điều đó; một đôi mắt bình thường chúng nó luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng nào đó, chúng biểu lộ một sự đồng điệu, vui buồn có nhau. Trên khuôn mặt của một người có đôi mắt lé, thiếu vắng hẳn điều đó, nó lỗi điệu và tỏ rõ sự lạc lõng bơ vơ. Mày cười rồi đấy nhé, tao biết mà, điều đó đáng cười lắm, mà cũng đáng khóc nữa, cái đó còn tùy. Có một đêm tao vùng vẫy một cách tuyệt vọng để ra khỏi một cơn mơ quái ác, cho đến khi tao hét lên một tiếng mở choàng mắt ra được, mồ hôi toát ra ướt đẫm cả người, tao vẫn còn nguyên cảm giác kinh hoàng của sự cô đơn đến cùng cực. Lúc ấy khuôn mặt và đôi mắt lé của Hiếu cúi xuống nhìn tao đầy vẻ lo âu thương cảm. Tức thì tao cảm thấy chan hòa một nỗi xót xa an ủi khiến tâm trí tao dịu lại ngay. Tao thấy trong đôi mắt bất toàn ấy một nỗi lạc loài rộng lớn mênh mông bao trùm cả nỗi đơn độc của tao.
Nó có ma lực của một nhân duyên đã được an bài, cái nhân duyên nối liền một vực thẳm này đến một vực thẳm kia.
Đột nhiên Trần ngừng lại.
Từ ngọn đồi trước mặt, một tiếng chim lạ bỗng trỗi lên véo von réo rắt như những sợi tơ trăng ngâm lên rồi thốt nhiên im bặt như có sự lầm lẫn nào đó. Cả hai người bạn cùng yên lặng lắng tai nghe, ngỡ ngàng. Không khí trong suốt như được lọc từ một thiên thể khác.
Một ngôi sao băng ngang cuối trời nghe như có tiếng xé lụa trong không trung.
Tiếng Trần cười khẩy:
– Tao kể xong rồi đó, mày khuyên can gì tao không?
Giọng Huỳnh xa vắng:
– Mỗi con người đều tha hồ tưởng rằng mình đã chọn lựa, kỳ thật họ đã chọn lựa đúng cái căn phần của mình. Vậy thì tao có gì để khuyên can mày, khuyên can cái gì mới được chứ? Có điều, tao muốn nói với mày, chúng ta, ít nhất là mày và tao, đã đi từ mất mát này đến mất mát kia, dần dần sẽ không còn có gì để mà gìn giữ nữa, thêm hay bớt những mối bận tâm rồi cũng thế thôi. Từ đầu con đường, chúng ta đã đa mang thật nhiều, hành trang nặng trĩu cả vai, không những thế, lại còn ham hố nhặt nhạnh thêm ở dọc đường, rồi khi đến cuối đường, bỗng ngơ ngẩn thấy mình nhẹ tênh. Cuối cùng mình vẫn chỉ là mình, không thể là gì khác. Thực tế mà nói, để qua một bên những rắc rối không tránh khỏi với gia đình và xã hội đối với một mối tình kỳ quặc như thế, đừng quên mày là một đảng viên, Đảng theo dõi chặt chẽ tư tưởng, hành động cho đến tình cảm của mày. Một mối tình ngoại lệ được xem như một cách vượt rào, nó kéo theo những suy luận triền miên để đi đến những kết luận không ngờ nổi. Nhưng kết luận ấy nó giản dị hơn những điều mày đã kể cho tao nghe đêm nay nhiều. Nó giản dị như một viên sỏi quăng xuống bể lặn mất tăm vậy đó. Dĩ nhiên mày cũng hiểu rằng mối tình của mày và chị Hiếu sẽ đi đến đâu rồi. Dù sao, tao cũng không muốn thấy mày lâm vào tình cảnh khốn khó, nhưng nghĩ cho cùng, tao muốn hay không cũng vậy thôi.
– Rồi sẽ ra sao, đối với tao cũng không cần thiết nữa, có quá nhiều điều trước đây tao đã tưởng quan hệ lắm, bây giờ chỉ thoáng qua như không có gì cả. Mày nói cái gì căn phần đó, đúng là điều tao cảm thấy, thôi thế để đến đâu hay đến đấy.
– Còn một điều nữa, bây giờ tao phải về trả lời với bác Thị như thế nào đây?
Trần cắn môi ngẫm nghĩ:
– Kể ra thì việc đó không có gì khó, được rồi, mày cứ thưa với cô Thị là tao sẽ về, lúc nào thuận tiện tao sẽ báo trước. Từ chối sự thăm viếng của những người thân trong gia đình là chuyện vô lý, vả lại chính tao cũng mong muốn cuộc thăm viếng này. Xa nhà kể cũng lâu lắm rồi, dù sao Thể My và Thương là những khuôn mặt thân thiết gợi lại cho tao những ngày êm ấm trong gia đình, đó là quãng thời gian quá đẹp đến nỗi không lòng nào không mong gặp lại.
Huỳnh càu nhàu:
– Có trời mới theo kịp những chuyện trên trời dưới biển của mày, rồi ra khốn khổ đấy con ạ.
Trần cười tươi tỉnh, mắt sáng ngời bóng trăng:
– Sao dạo này mày không bảo tao như trước mày thường bảo: “Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao?”
Huỳnh vụt đứng dậy, sờ tay lên vai áo ẩm ướt sương đêm, giọng nói bỗng trở nên cộc cằn, gắt gỏng:
– Thôi đi về, thằng quỷ này, mới đau dậy ngồi mãi đây, muốn chết đấy hả?
Nói xong Huỳnh cắm cúi bước đi, vẻ bực dọc. Trần đứng dậy đi theo bạn, ngửa mặt nhìn trăng, chàng nhảy chân sáo theo cạnh Huỳnh, hai tay đút vào túi quần, miệng huýt sáo một điệu nhạc nhảy nhót, lang thang giữa trời khuya.
Huỳnh vẫn lầm lì bước, đầu cúi xuống vẻ lắng nghe, nét mặt anh dần trở nên dịu dàng, tiếng huýt sáo của Trần như quấn quýt lấy người anh, anh mỉm cười một mình trong khi bước qua một lối rẽ có bóng tre che khuất bóng trăng dẫn xuống căn nhà bên kia triền núi.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:57:51 GMT -6
CHƯƠNG XVIII
Mùa đông dài vô tận trong thời kỳ chiến tranh, mùa đông ở miền quê Thừa Thiên lại còn rét mướt hơn bất cứ nơi nào khác.
Mưa suốt tháng này sang tháng nọ, đất đai cây cối ủng thối, không một loài cây nào trổ trái đâm hoa được trên mặt đất lạnh lẽo này. Các loại côn trùng chui thật sâu vào lòng đất, những cánh đồng ngập nước mênh mông in bóng bầu trời nặng trĩu, mây xám như chì. Có những ngày buốt giá căm căm, cá tôm trên đồng cũng bị chết cóng, nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Sự sống gần như ngưng lại trên mặt đất, thiên nhiên cũng bị đọa đày.
Đối với dân quê miền này, mùa đông là mùa khốn khổ nhất.
Từ vụ mùa tháng bảy, số lương thực dự trữ của họ trong năm không đủ kéo dài cuộc sống lây lất, cho đến tháng mười một, tháng chạp chẳng còn lại bao nhiêu. Trừ một vài nhà giàu có trong làng, còn tất cả đều phải ăn mọi thứ gì họ bòn mót được trên mặt đất lạnh lẽo khô cằn, những củ khoai họa hoằn còn sót lại trên những thửa đất đã được đào xới kỹ lưỡng. Các loại rau dền, rau sam, rau má vị đắng chát vì cằn cỗi, dai cứng như rơm rạ vì thiếu khí ấm của mặt trời, người dân quê ăn những thứ đó thay cơm, nhưng những thức ăn đó cũng không nhiều nhỏi gì, người ta phải tranh giành nhau, chưởi bới đánh đập nhau vì một ven bờ ruộng có mọc những thứ rau ăn được.
Trước chiến tranh tình trạng không đến nỗi nào như thế, trong những tháng giá, người ta có thể đi làm thuê mướn ở các làng lân cận hoặc ở thành phố, chờ đến vụ mùa lại trở về với ruộng đất.
Bây giờ các nẻo miền đều đóng kín. Thảng hoặc một khuôn mặt lạ đi vào trong vùng đất nào để làm ăn, dù có đủ giấy tờ của chính quyền kháng chiến cấp phát vẫn bị nghi ngờ theo dõi, vô phúc cho kẻ đó nếu trong thời gian ấy có sự trùng hợp một cuộc hành quân của Pháp ngang qua hay một trận máy bay oanh tạc là đời kể như đi đứt.
Lý lẽ của chiến tranh không ngập ngừng ở một sự nghi kỵ nào hết, chém giết và chém giết liên miên, dưới mọi hình thức và phương tiện.
Như vậy, mùa đông đã vây hãm tất cả. Những khuôn mặt người lớn ốm o vàng vọt, những thân hình trẻ con ở truồng bụng ỏng chứa rặt những thứ rau hổ lốn, đứa lớn tha đứa bé lượn lờ trên đường quan, gió thổi heo hút, mặt mũi xanh bủng héo hắt.
Đó là khuôn mặt quê hương Việt Nam vừa qua cơn đói năm Ất Dậu lại rơi ngay vào vòng binh lửa chống xâm lăng. Giờ đây lại tiếp diễn cảnh nồi da xáo thịt bởi ý thức chủ nghĩa, bởi nuôi dưỡng hận thù.
Và bên cạnh tất cả đau đớn quằn quại rách nát đó là những mùa đông vô cùng vô tận, những mùa đông đói rét cơ hàn.
Những người kháng chiến phải hứng chịu sự phũ phàng của mùa đông một cách oanh liệt. Trong những ngày nắng ấm, họ còn có thể cười đùa với hiểm nguy, với mọi thiếu thốn nhưng khó ai có thể giữ mãi được nụ cười trên môi khi phải rong ruổi ngày đêm dưới những cơn mưa và gió rét căm căm quật vào mặt mũi thân thể họ như những ngọn roi da nhức buốt. Không có đủ áo ngự hàn, trên mình họ chỉ có những bộ quần áo mỏng manh chắp vá không đủ che tấm thân gầy gò run rẩy vì lạnh, vì đói. Phải, họ đói lắm, lương thực quá hiếm hoi trong mùa đông nên khẩu phần của họ cũng bị hạn chế. Những người có thể liên lạc được gia đình cũng đỡ khổ phần nào nhờ sự tiếp tế lo lắng của những người thân.
Mùa đông năm nay, một kẻ mất hút liên lạc với gia đình như Huỳnh vẫn có được chiếc áo len mặc ấm, chiếc áo của người mẹ già bên sông dành cho người con trai không thấy trở về đã đem mặc cho Huỳnh khi Trần sắp đưa Huỳnh xuống thuyền đi trên giòng sông đêm tối.
Cũng trong một đêm mùa đông, Huỳnh đã trở về căn nhà nhỏ bên sông để thăm người mẹ. Huỳnh cập thuyền vào bãi cát, anh nhảy xuống, một món quà nhỏ trong tay, lòng bồi hồi cảm động, Huỳnh đã đi ngược lên cái dốc dẫn đến căn nhà.
Chợt Huỳnh đứng dừng lại, đưa tay lên dụi mắt, anh tưởng anh đang mơ. Căn nhà không còn ở đó nữa. Huỳnh không tin rằng đêm tối đã huyền hoặc đôi mắt của anh. Huỳnh bước vội vào cái sân nhỏ, bốn bề trống vắng, chỉ còn trơ lại cái nền đất, dấu hiệu chứng tỏ trước đây đã có một mái nhà, nước mưa đọng từng vũng loáng ướt dưới bầu trời đêm.
Huỳnh đứng lặng, không biết mình đang nghĩ gì, nơi đây không còn dấu vết của người tưởng như đã lâu lắm rồi, hàng bao nhiêu năm. Lau lách bên sông xào xạc, đồng không mông quạnh trải dài đến tận những xóm làng mù khơi trong sương.
Tất cả đều lặng lẽ, câm nín. Một con cá quẫy táp bóng ở ngoài sông, mặt nước xao động một thoáng rồi loang ra thành vòng tròn tỏa rộng, mặt nước lại khép kín, lặng lờ mênh mang, cảnh trí có một vẻ gì như không thật.
Huỳnh đi lại thơ thẩn trên nền nhà, hồi tưởng đến bếp lửa vẫn lập lòe đêm đêm mới cách đây vài tháng, nghe vẳng tiếng nói nghẹn ngào của người mẹ dặn dò anh trở lại.
“Một đứa kia nó đã bỏ mẹ mà đi biệt rồi.” Còn đứa này, đứa con trai xa lạ dở sống dở chết ngã quỵ trên bậc thềm của mẹ ngày nào. Mẹ đã nâng giấc che chở thương yêu nó, với tất cả tấm lòng người mẹ. Đứa con này đã có ngày trở lại, nhưng mẹ không còn ở đây để chờ đợi đêm đêm nữa. Mẹ bây giờ ở đâu? Về tá túc dưới mái nhà họ hàng nào đó hay đã đi mãi vào lòng đất yên nghỉ ngàn năm? Hay chính cả mẹ cũng không bao giờ có thật? Người mẹ một đêm mùa xuân đã dang tay đón Huỳnh trên bậc thềm này chỉ là linh hồn của người mẹ Việt Nam lang thang suốt đầu ghềnh cuối bãi nhặt nhạnh từng đứa con thân yêu của quê hương chiến tranh đau khổ này.
Một cơn gió từ ngoài sông thổi tạt vào, lướt êm như tiếng thở dài nhẹ trôi qua cánh đồng mênh mông hiu quạnh, có đám mây trắng nõn bỗng nhiên sà xuống, lơ lửng trên mặt sông mang hình thù một chiếc thuyền giương buồm trắng bọc gió đang bay lên. Huỳnh sẽ không lấy làm lạ nếu hốt nhiên thấy hình ảnh người mẹ hiện ra trên chiếc buồm mây đang tản mạn dần thành từng dải trắng quấn quýt trôi đi.
Nỗi buồn hoang lạnh chiếm lấy tâm hồn anh, anh ngậm ngùi cúi xuống gói quà trong tay, đó là một chiếc khăn quàng bằng nhiễu màu lục mà Huỳnh ước ao được tự tay phủ lên vai gầy của mẹ. Huỳnh chậm chạp bước xuống sân, bên chiếc vại nước đã vỡ làm đôi, có gốc mai già trụi lá nghiêng xuống, dáng mảnh khảnh trơ trọi. Huỳnh đứng dừng lại đó, mơ màng.
Huỳnh tháo gói quà trên tay, mở rộng chiếc khăn nhiễu màu lục, bằng cử chỉ âm thầm và cẩn trọng, anh khoác chiếc khăn lên cành mai thấp nhất, bàn tay Huỳnh khẽ vuốt ve trên mình chiếc khăn mềm và mịn; đoạn Huỳnh thong thả bước xuống bãi cát, nước sông rào rạt xô dồn vào bãi, chiếc thuyền nhỏ chờ anh tròng trành đu đưa trên mặt sóng. Người chèo thuyền vẫn yên lặng như từ lúc đưa anh tới.
Huỳnh bước lên thuyền, ra hiệu bảo chèo đi. Chiếc thuyền từ từ rời xa bãi cát.
Căn nhà nhỏ bên sông kể từ nay không còn nữa, nó biến đi lúc nào không ai hay biết. Nhưng người mẹ già đơn côi đứng trên chiếc sân nhỏ trông vời sông nước mong ngóng con về vẫn còn hình tượng cây mai già yếu trơ trụi nghiêng mình bên chiếc vại nước vỡ làm đôi.
Nghe theo lời Trần, Huỳnh đã hoãn lại việc gởi về trung ương bản điều trần về việc cải cách ruộng đất. Theo Trần thì đề cập đến việc đó bây giờ chưa phải lúc. Riêng Đảng đã phát động chính sách này ở những vùng an toàn ngoài miền Bắc, hiện người ta đang rút tỉa dần dần những kinh nghiệm để nghiên cứu, soạn thảo, hoàn thành một chính sách chung. Ở những vùng có giặc chiếm người ta chưa thể nghĩ đến việc kiện toàn những biện pháp cải cách đó. Cho nên, cũng theo ý Trần, cần phải có thời gian theo dõi mọi diễn tiến về những sự việc này ở miền Bắc để nhận định những điều cần thiết cho bản điều trần được thêm phần chân xác, tránh những ngộ nhận đáng tiếc về sau.
Như vậy, cái việc đáng kể mà Huỳnh mong làm cho mảnh đất quê hương này vẫn chưa thực hiện, trong khi đó, càng ngày những người kháng chiến càng đi sâu vào tình trạng không lối thoát.
Do sự thanh lọc thành phần giai cấp, Đảng đã đặt ra phong trào biên chế. Những người bị xem như giai cấp tiểu tư sản, có tinh thần kháng chiến thuần túy chứ không thích hợp với không khí đảng phái đều thực sự bị loại trừ khỏi hàng ngũ kháng chiến, viện lẽ cần có người về tăng gia sản xuất ở hậu phương.
Hàng trăm người bị dồn vào đường cùng. Họ bỏ nhà ra đi những mong đem lại một ngày vẻ vang cho đất nước, vậy mà nay, quân giặc vẫn còn nghinh ngang trên xứ sở, mặt mũi nào họ trở về với gia đình để nói rằng Tổ quốc không còn cần đến tôi nữa. Chưa nói đến những thành tích chiến công của họ đã dứt hẳn lối về với gia đình của họ, phần đông đều ở quanh vùng địch chiếm. Có biết bao nhiêu người bơ vơ lạc lõng đi lang thang suốt miền nọ đến miền kia để cuối cùng đi vào những cái chết vô nghĩa đầy rẫy trong chiến tranh hoặc chấp nhận những cuộc sống thừa tàn tạ chứa chất uất nghẹn và đau thương của những chí trai không thỏa.
Cũng trong mùa đông này số người đi kháng chiến bỏ súng trở về vùng giặc chiếm càng ngày càng tăng thêm. Huỳnh chứng kiến biết bao bạn bè đã tìm đường trở về thành phố Huế, trong đó có những con người trước đây tràn đầy kiêu căng khí phách. Do đâu mà họ đã chấp nhận sự ô nhục của một cuộc đầu hàng? Tuy Huỳnh hiểu rõ hơn ai hết, rằng phần đông không phải là họ đầu hàng giặc, mà là đầu hàng số phận, số phận đau đớn mỉa mai của đất nước, mà cũng chính là bản thân của họ. Thế nhưng lòng Huỳnh vẫn không khỏi tê tái khi sớm mai thức dậy được tin một đồng đội đã từng nằm sương gối đất với mình, cùng chia nhau từng nắm cơm gạo hẩm, cùng vui cười bên nhau giữa mưa nắng đường trường, đã rời bỏ hàng ngũ để trở về bên kia vùng địch chiếm. Con chim đã lìa bỏ bầy, bỏ bạn để bay đến một nơi không còn lẽ sống, cánh chim buông xuôi cho một kiếp lưu đày. Họ bị lưu đày chính trên quê hương của họ.
Kể từ nay, họ trở thành kẻ bơ vơ, không còn lý tưởng, không có niềm tin. Họ bị kể như những kẻ phản bội, những tên Việt gian khốn nạn dưới cái nhìn thông thường của người đời.
Huỳnh buồn rầu nghĩ đến những thân phận đen tối ràng buộc với vận mệnh không may của xứ sở này. Có lúc anh bàng hoàng tự hỏi tại sao mình lại ở đây để làm gì, có ích gì cho ai đâu, nhưng cuối cùng rồi Huỳnh cũng chọn lựa sự ở lại, ở lại cho đến cùng, dù ở lại chỉ để nhìn quê hương dần dần biến dạng, dù ở lại cũng không hơn gì những kẻ đã ra đi về bên kia, cam chịu một cuộc đầu hàng.
Mùa đông năm 1950 mang theo nỗi tàn phai một mùa lý tưởng của những người Việt Nam yêu nước. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa, những nỗi niềm phấn khởi đam mê, những gian lao cơ cực, hết thảy đều bị phụ phàng.
Những kẻ còn say mê hay đã tỉnh cơn mê đều soi rõ khuôn mặt mình trên chiếc gương định mệnh, một định mệnh chỉ còn in dấu của tang thương.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:59:53 GMT -6
CHƯƠNG XIX
Cuộc hẹn gặp của Trần với gia đình tuy đã định vào tháng chín nhưng mãi đến cuối tháng chạp Trần mới có dịp thu xếp để về gặp Thảo My, cháu gái chàng và Thương, người con gái mà mẹ chàng muốn chàng cưới làm vợ.
Sau trận đau, hơi bình phục chàng đã chỗi dậy nhận công tác đi liên miên vùng này qua vùng nọ. Cuối tháng mười một, cơ quan Trần có lệnh rời chiến khu về trú đóng ở đồng bằng. Ngày Trần và Quý dọn dẹp tài liệu và vật dụng để rời khỏi căn nhà của Hiếu, nhìn vẻ mặt âu sầu lặng lẽ của nàng lòng Trần se sắt, xót xa. Cuộc đời của người đàn bà chàng yêu thật quá đỗi bấp bênh, dạo rày nàng phải nhận thêm công tác vào nội thành nguy hiểm vô cùng. Từ đây cơ quan của Trần rời hẳn miền xuôi, hai người lại càng hiếm hoi có dịp gặp nhau hơn nữa. Tuy chàng cố an ủi nàng, rằng chàng sẽ trở về với nàng luôn, rằng chàng mãi mãi nghĩ đến nàng, nhưng những ngày xa cách chàng vẫn thấy nét mặt buồn rầu cam phận của nàng hiện ra trong trí chàng mỗi khi chiều xuống. Hình ảnh người đàn bà đáng thương lủi thủi đi về một mình trên những nẻo đường kháng chiến in sâu trong tâm khảm chàng, là mối bận tâm lo nghĩ của chàng, khiến lòng chàng mang nặng một nỗi nhớ thương sâu đậm vô cùng mà chàng không hề ngờ tới.
Cơ quan của Trần trú đóng cách nhà bà Thị đi nửa ngày đường và phải qua sông. Trần rẽ vào lối ngõ nhà cô của chàng, tự nhiên thấy lòng mình rộn ràng xôn xao. Không biết tại không khí buổi chiều cuối năm khiến một kẻ lăn lóc gió sương như chàng bỗng thấy lòng mềm yếu khi sắp đối diện với những khuôn mặt thân thuộc của gia đình, hay tại chàng sắp gặp một người con gái có liên quan đến nhiều vấn đề trong đời chàng hiện tại? Có lẽ cả hai.
Từ ngoài sân, chàng nghe tiếng cọ rửa nồi niêu chén bát lanh canh ở phía cầu ao sau nhà, mùi thơm khói chiều lan tỏa, có tiếng người nói cười vui vẻ bên dãy nhà ngang. Trần đi về phía đó. Chàng nghe một chuỗi cười phá lên trong trẻo, mà chàng đoán là của Thể My cháu gái chàng, cái con bé vẫn như ngày nào, đang không nó cũng reo cười lên được. Tiếp đó, chàng lại nghe tiếng chân chạy đuổi nhau, tiếng bà Thị la lên âu yếm: “Khéo vấp ngã bây giờ, thôi đừng đuổi nó nữa con.”
Trần lách qua cánh cửa bước vào, bà Thị quay lại trông thấy chàng reo lên:
– Đấy, tao nói có sai đâu, đúng là giờ này nó về tới mà.
Thương đang chạy đến góc nhà ăn thông lên nhà trên, thấy Trần vào bỗng đứng dừng lại, bối rối nhìn Trần, mặt đỏ bừng, lúng túng. Nàng mặc một bộ đồ trắng, khoác bên ngoài chiếc áo len màu xanh nhạt. Trần nhìn sửng sốt, cô bé gái mảnh mai xinh xắn trong trí chàng ba năm về trước, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ dung mạo vẹn toàn. Trần đã nghĩ rằng nàng rất đẹp, nhưng không ngờ nàng đẹp đến thế. Thấy Trần ngắm mình, Thương thẹn thùng, nét mi e ấp cúi xuống càng tăng vẻ kiều diễm thanh tú của sống mũi thẳng và cao, khuôn mặt trái xoan trắng ngần như sữa, đôi môi tươi hồng màu nắng mai mím lại trong một vẻ hờn dỗi đáng yêu. Thương đứng đó, quanh người nàng tỏa ra một sức sống dịu dàng tươi mát vô cùng.
Bà Thị thấy Trần ngẩn người đứng ngắm Thương, vẻ hài lòng hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu, bà cười nụ kín đáo, vừa định mở miệng nói thì Thể My từ nhà trên phóng xuống như một cơn gió, cô bé reo to lên, ôm chầm lấy Trần:
– Cậu Trần, cậu Trần đây hả?
Trần phì cười, cảm động ôm cháu vào ngực, nhại lại:
– Thể My, Thể My đây hả?
Cả nhà đều cười vì sự ngộ nghĩnh của hai cậu cháu. Trần nắm hai tay cháu dang ra, ngắm cháu từ đầu đến chân, Thể My có một tầm vóc cao lớn hơn Thương, mặc dầu kém Thương hai tuổi. Cô bé có một vẻ đẹp mạnh khỏe tràn đầy sinh lực, hai gò má hồng hào, đôi mắt sáng rỡ tươi cười, cái trán hơi gồ nhưng được mái tóc xõa lơi làm dịu bớt, nét môi đầy đặn dưới sống mũi hơi cong lên, toàn thể gương mặt cô bé biểu lộ sự tinh quái thông minh rất đáng yêu.
– Cháu vẫn nghịch ngợm y như trước, lớn quá rồi còn gì. Ngày cậu đi cháu chỉ mới bằng này này.
Trần đùa nghịch lấy tay làm hiệu thấp sà gần mặt đất. Thể My la to nũng nịu:
– Ôi, cháu không chịu đâu, ngày cậu đi cháu đâu có lùn tịt đến như vậy.
Trần cười vui vẻ, chàng quay lại nhìn Thương, giọng chàng êm ái:
– Thế còn Thương, Thương không mừng cậu Trần ư?
Trần buông Thể My, chìa hai tay về phía Thương:
– Nào, lại đây Thương, đừng làm người lớn với cậu Trần chứ, bộ không phải là bé Thương của cậu đó sao?
Đôi mắt Thương chợt ngời sáng, nàng vụt chạy đến nắm tay Trần, dáng thơ ngây mừng tủi:
– Thưa cậu ạ.
Âm thanh của ba tiếng “thưa cậu ạ” trong như chim hót của Thương bỗng khiến cho Trần thấy tâm hồn bâng khuâng dao động. Những ngày Thương còn bé nàng vẫn chào chàng như vậy mỗi khi chàng đi đâu về. Âm thanh đó làm hiển hiện cả chuỗi ngày niên thiếu êm đềm đã chìm sâu trong tiềm thức, gợi lại tiếng võng đưa kẽo kẹt của buổi trưa hè, hình ảnh giòng sông lấp lánh đã hơn một lần chàng vùng vẫy bơi lội để làn nước mát mơn trớn da thịt trai trẻ của mình, những bài thơ tin yêu trọn vẹn, hàng cây lá biếc trên hè phố xa xưa.
Trần nao nao nắm chặt bàn tay mịn màng ấm áp của Thương, như để xác nhận với chính mình rằng những hình ảnh xưa kia đã có lần có thật. Giọng chàng đầm ấm:
– Ừ, có thế chứ, tưởng không thèm nhìn cậu nữa. Cậu bây giờ già lắm rồi, kháng chiến mau già lắm cháu ạ.
Thể My liến thoắng cãi cọ:
– Đâu có, cậu già đâu mà già. Cậu đẹp và oai ghê đi. Bà ngoại mà thấy cậu như thế này bà mừng phải biết. Bà nghe cậu bị đau bà khóc quá. Cháu cứ tưởng cậu đen thui và gầy như que củi, tại cháu đi xem ciné nó chiếu dạo thấy người kháng chiến bị bắt đều ốm nhom và đen thui như nhau cả. Ai mà ngờ cậu đẹp cứ như tài tử cinéma ấy thôi. Tụi bạn cháu ở Huế mà được thấy cậu là chúng nó mê phải biết, chúng nó mơ người kháng chiến lắm.
Nói đến đấy Thể My đột ngột ngừng lại, nhìn Thương cười láu lỉnh, đưa tay bụm miệng cười khúc khích:
– À quên, xin lỗi chị Thương nhé.
Đoạn cô phá lên cười vang trêu chọc. Thương đứng im, hai má nàng ửng hồng, nàng nhìn bà Thị, tỏ vẻ cầu cứu.
Bà Thị cười hiền hậu:
– Cái con Thể My cứ nghịch phá chị Thương mày hoài, khi nãy nó cũng vừa trêu Thương như vậy bị Thương đuổi cho bỏ chạy may mà không vấp ngã đấy. Nào, hãy để cậu cháu ngồi xuống cái đã, cứ ríu ra ríu rít như chim cả ngày.
Trần thoáng hiểu vì sao khi chàng mới vào Thương đang chạy đuổi Thể My thấy chàng nàng dừng lại lúng túng đến như vậy.
Chàng ngồi xuống ghế, đánh trống lảng, hỏi bà Thị:
– Mẹ cháu có mạnh không thưa cô? Năm nay cụ phải ăn Tết một mình sao? Thương và Thể My đều về đây cả rồi.
– Mẹ cháu không một mình đâu, năm nay nhà mình trên ấy rộn rịp lắm, anh chị cháu ở Sàigòn mang hết con cái về ăn Tết với cụ. Vì thế hai cháu gái mới về đây với cô cháu mình được đấy.
Trần hỏi:
– Em Tâm đâu rồi thưa cô?
– Nó vừa đi cúng tất niên ở nhà thờ họ ở xóm trên, cháu nghĩ có tội nghiệp cho thằng bé không, mới mười tuổi đầu phải thay mặt cha trong những việc họ việc làng. Tết nhất mà dượng không về được biết làm sao.
Trần chép miệng:
– Tết này dượng khó về được lắm, là cán bộ cao niên, dượng phải đảm nhận công tác tổ chức lễ lạc cho đoàn thể, cho anh em trên ấy, có lẽ phải qua Tết dượng mới về thăm nhà được.
Bà Thị buồn rầu:
– Ấy cô cũng biết thế nên có than thở gì được.
Thể My đến sau lưng ghế Trần, quàng tay ôm lấy cổ chàng, ngả đầu trên vai chàng:
– Ba mẹ cháu ở Sàigòn về mang theo bao nhiêu là quà, thế mà phần cháu ít quá, cái gì bà ngoại và ba mẹ cũng bảo để dành mang ra cho cậu, thế cậu có chia cho cháu không nào?
Trần cười xoa rối đầu tóc cháu:
– Chưa chi đã lo vòi vĩnh, cái con bé chó con của cậu, vẫn chứng nào tật ấy, lớn rồi đấy nhé, không bé bỏng gì nữa đâu, ừ, cậu cho hết đấy, khỏi chia, có bằng lòng không?
Thể My sung sướng vỗ tay nhảy lên reo mừng:
– A, thích quá, cháu không lấy hết của cậu đâu, cháu chỉ xin con búp bê thôi, ai lại cậu là con trai lớn thế kia mà chơi búp bê, mẹ cháu thật kỳ, phải không cậu? Cháu xin con búp bê mấy cũng không được, nhất định đòi gởi cho cậu Trần thôi.
Trần ngơ ngẩn:
– Búp bê à, mẹ gởi búp bê cho cậu à?
– Vâng, búp bê đẹp lắm, búp bê có nhạc nữa cậu ạ, nó biết nhắm mắt mở mắt nữa. Mẹ còm-măng ở bên Tây kia lận.
Con búp bê quả là xinh đẹp thật, mái tóc vàng óng long lanh xõa xuống trán, xuống quanh cổ và đôi tai hồng hào trông thật là ngộ nghĩnh, nó có một nét mặt ngu ngơ lạ lùng, nét mặt biến đổi luôn luôn, khi đặt nằm xuống nó nhắm mắt lại, bình yên chìm sâu trong giấc ngủ hồng, khi bế ngồi lên nó mở mắt ra ngơ ngác dại khờ như sắp thốt lên một tiếng bập bẹ u ơ nào đó. Nó được mặc một chiếc áo màu trời xanh thêu hoa trắng, Thể My vặn một cái nút sau lưng, tức thì một điệu nhạc thảnh thót trỗi lên nhẹ nhàng, những nốt nhạc nhảy nhót như nẩy lên từng giọt âm thanh.
Trần nhắm mắt, điệu nhạc ru đưa chàng với những lời ca thần tiên trong sáng thuở nào:
“Mes amis, la vie est belle Malgré les peines Qui nous enchaînent…”
Lòng Trần nao nao, chị Tú của chàng đã gởi con búp bê này vì chị biết lòng đứa em trai của chị vô cùng. Những tháng năm dầu dãi phong sương sẽ được xóa đi trong một thoáng bềnh bồng ru đưa về những ngày thơ ấu vui tươi của hai chị em mà búp bê mang theo điệu nhạc làm thiên thần sứ giả từ miền quê hương bát ngát của những ngày thần tiên, cách biệt hẳn chuyến độc hành đi vào cuộc đời ngút ngàn khói lửa của em trai chị.
Trong khi Thể My và Thương say mê ngắm con búp bê và chăm chú nghe điệu nhạc với những đôi mắt ngời sáng, Trần ngồi yên lặng đọc thư của người chị:
“Em có nhớ ngày em giành con búp bê của chị đang chơi, chị không cho, em nổi xung giựt đứt chiếc hoa tai của chị làm rách mất trái tai bên trái của chị không? Sau này em lớn khôn mỗi khi em nổi giận, chị chỉ cần đưa em xem chiếc trái tai bị rách của chị là em dịu lại ngay. Kỷ niệm buồn và đẹp em nhỉ? Chị gởi con búp bê này cho em do kỷ niệm đó. Em có buồn cười chị lẩn thẩn không? Em bây giờ đã là một chiến sĩ xông pha, can trường cứng cỏi rồi, đâu có còn bé bỏng như những ngày chơi đùa tranh giành đồ chơi với chị nữa. Phần chị thì cũng đã có chồng, có con khôn lớn, những ưu phiền của cuộc đời cũng đã chồng chất đầy trên hai vai chị. Nhưng mỗi khi trở về mái nhà của chúng ta, chị vẫn nhìn thấy rõ ràng hình ảnh tuổi thơ của hai chị em mình nô đùa chạy nhảy lẩn quất sau những khóm cây trong vườn nhà, hoặc ẩn nấp trong những kẹt xó của ngôi nhà thân yêu. Đứa bé gái và thằng em trai nhỏ ngày xưa hình như vẫn còn chơi cút bắt nhau đâu đó. Mỗi khi trở về nhà chúng mình, chị thấy thời gian không hề trôi đi, thời gian đã ngưng đọng lại.
Bao giờ thì em trở lại ngôi nhà của chúng mình em nhỉ? Ba năm em đi xa, mẹ của chúng ta đã già quá đi rồi, vì lo âu phiền não. Cũng may là cháu Thể My và Thương luôn luôn ở bên cạnh mẹ. Chắc cô Thị đã nói với em về ý muốn của mẹ mong em và Thương sẽ thành thân sau này. Chị nhớ ngày Thương còn bé nó cũng đã thương mến quấn quýt em và khi Thương lớn lên, khi em đi xa, Thương cũng cùng chia sẻ với gia đình ta nỗi lo buồn thương nhớ em. Thương mồ côi và gia đình ta đã là một nơi trú ẩn tốt đẹp che chở cho nó từ tấm bé nên chị nghĩ rằng Thương không còn muốn rời xa mẹ để đi đâu nữa. Tuy nhiên, mẹ muốn để cho em toàn quyền quyết định nên đã dàn xếp cuộc về quê này cho Thương và Thể My về gặp em trong dịp Tết này, mẹ còn bảo…”
Trần gập phong thư, mọi người đã xuống hết nhà dưới, Trần nghe vẳng tiếng bà Thị dặn dò người nhà lo buổi cúng giỗ cuối năm, tiếng Thể My ríu rít chuyện trò với Thương ngoài hàng hiên trước, cô bé đã ôm con búp bê ra ngoài.
Trần nhìn chiếc sập ngổn ngang những đồ vật mẹ và chị gởi cho chàng, có những đôi bít tất bằng len thật nhẹ và thật mỏng để “buổi tối con mang vào mà đi ngủ cho ấm,” mẹ dặn trong thư như thế; lại có một cái gối nhỏ thật mềm, tự tay chị Tú thêu một cái bao gối vẽ hình khuôn mặt ngộ nghĩnh của một đứa bé trai hai mắt nhắm nghiền trong giấc ngủ say, nghiêng má gối trên một cánh bướm màu vàng trong tư thế chập chờn bay.
Trần mỉm cười, thật mẹ và chị không hề biết chiến tranh là gì cả. Trong trí hai người đàn bà thân yêu của chàng có lẽ chiến tranh chỉ là một trò chơi hào hùng mã thượng, hơi có phần nguy hiểm, nhưng vẫn là trò chơi mà đứa con và em của họ đã hồn nhiên đi vào đó, tháng năm qua, mắt vẫn sáng, môi vẫn đỏ, tóc vẫn xanh, hồn vẫn còn nguyên vẹn.
Trần chép miệng:
– Thôi cũng được đi, cứ như thế lại đỡ khổ cho mẹ và chị nhiều. Lại còn chuyện bé Thương nữa, – Trần lại lắc đầu mỉm cười – thế là mẹ và chị không bỏ sót thứ gì cả đấy nhé.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:01:50 GMT -6
CHƯƠNG XX
Phút ngượng ngập buổi ban đầu qua đi, dần dần Thương đã chuyện trò tự nhiên với Trần, do thái độ ân cần thân ái của Trần khuyến khích. Đêm giao thừa khi cả nhà ngồi quanh bếp lửa nấu bánh tét, Thương kể cho Trần nghe việc nhà, chuyện học hành, chuyện những bà con quen biết cũ ở Huế.
Thương yêu mến Trần từ ngày còn bé, hình ảnh cậu Trần dắt bé Thương và Thể My đi lang thang trên bờ sông, bắt cho hai đứa vài con châu chấu, tìm hái cho hai đứa những chùm dẻ dại. Có những ngày hè lộng lẫy, Trần trèo lên cây phượng vĩ hái xuống cho hai đứa những chùm hoa to đỏ thắm và bao giờ cũng dành cho Thương cành hoa đẹp nhất. Trong giấc mơ của một thời thơ dại, đối với Thương, cậu Trần là người tốt nhất, đẹp nhất, đáng yêu đáng quý nhất.
Năm Thương lên mười bốn tuổi, một hôm cậu Trần ngồi nói chuyện với vài người bạn trai trên hàng hiên trông ra vườn nhãn bên hè nhà, tình cờ Thương đi qua nghe một người bạn trêu chọc Trần về một người con gái nào đó, Thương nghe tiếng cười sung sướng của Trần, giọng Trần say đắm:
– Có phải thế không? Nàng đẹp như trong truyện thần tiên, làm sao ngăn được lòng mình khỏi chết đuối trong đôi mắt trăng sao của nàng.
Nghe đến đó, không hiểu sao Thương thấy xây xẩm mặt mày, Thương muốn bước đi, rời khỏi chỗ ấy, nhưng người Thương lao đao muốn ngã; Thương nép vào một bụi cây ngâu gần đó, gượng níu lấy một cành ngâu, ngồi thụp xuống đất, đầu óc quay cuồng như muốn ngất lịm. Nghe tiếng động Trần quay lại, thấy bụi ngâu rung rinh, Trần gác chân qua thành lan can, nhảy xuống đất đi về phía đó. Trần tìm thấy Thương ngồi nép dưới bụi ngâu, mặt xanh ngắt, run rẩy, hai mắt mở rộng nhìn Trần.
Trần kêu to:
– Thương, cháu làm sao thế này, đang chơi trốn bắt với Thể My hả? Sao mặt mày tái ngắt thế này?
Trần đặt tay lên trán lạnh ngắt lấm tấm mồ hôi của Thương:
– Không chừng bị gió rồi đây, chết thật, đau đến nơi mà vẫn còn chơi đuổi nhau cho được. Đi vào nhà với cậu.
Thương theo Trần vào nhà như người mất hồn, cô bé để yên cho mẹ Trần đỡ lên giường nằm, xoa dầu khắp cả người. Cho đến khi mẹ Trần ra khỏi phòng, còn lại một mình, Thương nằm yên để cho nước mắt tuôn dầm ướt đẫm gối, dần dần Thương thấy dễ chịu và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sau đó Thương thường nghĩ bâng quơ về cậu Trần và không hiểu được vì sao hôm ấy mình lại như thế. Thương sợ hãi không dám nghĩ rằng mình đã yêu Trần, ai lại như thế, mình còn bé mà, vả lại cậu Trần là cậu mà. Thế nhưng từ đó lòng Thương vẫn buồn bã không đâu, cô bé thường tránh tất cả mọi người. Nhất là những khi Trần hỏi han chăm chút đến Thương, Thương cảm thấy một tình cảm ngổn ngang khó chịu vô cùng.
Nhưng tình trạng đó kéo dài không lâu; thời cuộc biến đổi, Trần rời bỏ gia đình đi kháng chiến. Thương vẫn lặng lẽ sống trong gia đình Trần và càng lớn lên Thương càng thấy mình hiểu biết. Nàng chấp nhận cái buổi chiều ngất lịm bên khóm hoa ngâu như một khám phá tuyệt vời trong cùng thẳm tâm hồn bé nhỏ đơn côi của nàng. Trong thâm tâm nàng hòa hợp mối tình từ buổi thơ ngây với hình ảnh của Trần đã trở nên thánh hóa. Vốn trầm tĩnh ít nói, nàng biểu lộ nỗi nhớ thương sâu đậm với kẻ ra đi bằng cách săn sóc quyến luyến mẹ của Trần.
Cho đến một ngày Thương sửng sốt khi nghe Thể My trêu ghẹo nàng, cho nàng biết mẹ Trần có ý định cưới nàng cho Trần. Ngoài mặt Thương làm ra vẻ bình thản, không quan tâm, nhưng trong lòng nàng xiết bao kinh ngạc, nàng khó có thể ngờ rằng giấc mơ của nàng lại có ngày thành tựu.
Ba năm Trần xa vắng, Thương chỉ biết mơ hồ về Trần qua cô Thị của Trần. Những lúc bà Thị ở nhà quê lên, mẹ Trần kéo bà vào phòng, ở đó hai bà nói chuyện thật nhỏ, vẻ bí mật sợ hãi và sau đó là những giọt nước mắt của mẹ Trần. Đêm đêm tiếng tụng kinh gõ mõ của mẹ Trần thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông ngân dài trong ngôi nhà rộng vắng, như tiếng thở dài của người mẹ qua những tháng ngày hiu quạnh. Dần dần, Thương cảm thấy hình ảnh Trần bỗng trở nên hoang đường như một chuyện huyền thoại, vừa thân yêu vô cùng, vừa xa cách biết bao.
Đêm giao thừa này, ngồi nhìn Trần trầm ngâm yên lặng nhíu đôi lông mày sậm nhìn đăm đăm vào bếp lửa bập bùng, khuôn mặt chàng tranh tối tranh sáng trong bóng lửa lung linh vờn múa. Có một cái gì trong tận cùng đáy mắt của chàng, có lúc lóe lên như lằn chớp của một cơn bão tố, có lúc sâu thẳm chìm đắm như một nỗi đau thương kỳ lạ. Ánh mắt đó khiến Thương linh cảm một nỗi cách biệt muôn trùng, nó làm cho nàng thấy lạnh. Nàng cảm thấy mình bé bỏng xiết bao, tội nghiệp xiết bao, lạc lõng xiết bao trong tình yêu đơn giản thơ ngây của nàng.
Lạ lùng làm sao, Trần càng tỏ sự thân thiết trìu mến đối với nàng bao nhiêu, nàng càng cảm thấy những cử chỉ thân thuộc đó minh xác một cách rõ ràng sẽ không bao giờ có sự gì xảy ra giữa hai người khác hơn mối thân tình cậu cháu của những ngày thơ ấu đã đi qua. Rằng giờ đây chỉ còn một mình nàng bơ vơ đứng lại trong dĩ vãng hoa mộng êm đềm của nàng. Người nàng yêu đang ngồi đó, trước mặt nàng mà như đang mất hút vào một cõi trời bao la rộng lớn ngút ngàn vô tăm vô tích.
Cảm giác đó khiến cho nàng đau đớn, nàng tự trấn an mình, cho rằng hạnh phúc được gặp lại chàng quá ư to lớn cho nên nàng đã lo sợ viễn vông như vậy. Trong đời có những hạnh phúc mà người ta không dám tin là có thật. Với tâm trạng rối bời như thế, bề ngoài Thương vẫn giữ vẻ điềm đạm trả lời những câu hỏi của Trần và yên lặng ngồi nhìn chàng, nghe chàng kể chuyện. Nàng để mặc cho tâm trí mình bị dụ hoặc bởi tiếng nói trầm ấm của Trần, nàng nhìn Thể My đang ôm chặt cánh tay Trần, ngả đầu trên vai Trần thỉnh thoảng lại reo to thích thú:
– Chuyện có thật không hở cậu? Ai lại thế hở cậu? Ai lại đi kháng chiến mà lại thuê mọi cõng đi?
– Có thật đấy cháu ạ, ở ngoài Quảng Bình trẻ con nó có hát câu đồng dao “Ai coi lên núi mà coi, coi bà cán bộ cưỡi voi không bành” đấy.
– Như thế thì có thật rồi còn gì. Chuyện ly kỳ đấy nhỉ, chị Thương nhỉ?
Trần mỉm cười nghĩ thầm, ấy thế mà chàng chỉ mới kể cho các cô cháu của chàng nghe nội cái chuyện cô nữ cán bộ thuê người thiểu số cõng đi thôi đấy, chàng mà kể thêm cái vụ “khô quá cô ơi” cho mà nghe thì phải lăn đùng ra chết giấc. Ai lại kể chuyện đó cho cháu gái nghe bao giờ, chàng nghĩ thấy buồn cười nên lại mỉm cười.
Thể My tò mò nghiêng đầu nhìn chàng:
– Cậu cười cái gì mà có vẻ bí mật thế? Chuyện có thật không nào, hay là cậu cười chúng cháu dễ tin chứ gì?
– Cháu không tin thì thôi, thế nếu cháu đi kháng chiến, cháu có thuê người thiểu số cõng đi không nào, đi bộ đau chân lắm đấy cháu ạ.
– Đời nào cháu làm như thế, đã ra đi vì nước ai lại lẩn tránh đau khổ hiểm nguy bao giờ. Cháu mà được ba mẹ cho phép thì cháu đi phải biết.
– Sao cháu hay nói “phải biết” thế?
– Vâng, cháu quen đi rồi, không những cháu đi kháng chiến mà thôi, mà mấy bà cán bộ trưởng giả thuê người thiểu số cõng đi ấy vô phúc mà gặp phải cháu giữa đường thì phải biết.
Trần vui vui hỏi trêu cháu:
– Ừ, phải biết, thế thì cháu làm gì người ta nào? Cháu xin cô ta cho cháu cõng hộ chứ gì?
– Vâng, có thể là như vậy, để rồi sau đó đi qua cái cầu nào, cháu thả bà ta rơi tõm xuống sông cho bỏ ghét.
– Ơ, trên núi làm gì có sông?
– Thế có gì hả cậu? Thế mấy năm nay cậu bơi ở đâu? Hồi ở nhà ngày nào cậu không ra sông bơi thì cậu không chịu được mà.
– Ờ, ờ, có suối cháu ạ.
Thể My reo to:
– A, suối hả cậu? “Suối mơ bên giòng thu vắng, giòng êm đưa lững lờ ngoài nắng” ấy hả cậu? Thế suối của cậu có đẹp như trong bài “Suối mơ” không hả cậu?
– Đẹp hơn nhiều lắm cháu ạ.
– Thế hả cậu, thế thì tuyệt quá, thế có ai “từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối” không cậu? Và có “đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi” không hở cậu?
Thể My hỏi bằng một giọng liến thoắng dễ thương vô cùng.
– Có đấy cháu ạ. Cậu có vợ chồng một thằng bạn, chúng nó làm một cái nhà bằng tranh trên một cây cao bên bờ suối, phải leo lên nhà bằng một cái thang cây. Trông cứ y như là một cái tổ chim, xinh đáo để.
Thể My ngẩn người, chớp chớp đôi mắt sáng trong:
– Tuyệt diệu, cháu thích một cái nhà như thế lắm. Cậu làm một cái nhà như thế bên bờ suối để cháu xin bà và ba mẹ cho cháu và chị Thương ra ở với cậu đi.
– Không được đâu cháu ạ.
– Tại sao lại không được hả cậu?
Trần làm bộ mặt thảm sầu:
– Cậu chưa nói hết chuyện mà.
Thể My băn khoăn hỏi:
– Có chuyện gì vậy cậu?
Trần cúi mặt, che giấu một ánh mắt tinh nghịch, lấy giọng buồn rầu kể lể:
– Một ngày nọ, có một cơn bão rừng. Bão mạnh lắm làm trốc gốc cái cây to có cái nhà xinh như tổ chim của hai vợ chồng trên đó. Khi ấy người chồng đi công tác vắng, chỉ có người vợ ở nhà mà thôi. Cả cái cây bị ngã ầm xuống giòng suối nước chảy mạnh như thác đổ, cái nhà bị cuốn đi cùng với người vợ trong đó.
Thể My tròn xoe đôi mắt kinh hoàng, hỏi dồn:
– Rồi sao nữa hả cậu?
Thương cũng nín thở, nét mặt căng thẳng lo lắng, nhìn Trần đăm đăm, chờ đợi. Bà Thị đang bổ cau gần đấy cũng dừng tay lắng nghe.
– Khi người chồng trở về, cơn bão đã dứt, trời đã quang, mây đã tạnh, nắng chan hòa lấp lánh trên giòng suối chảy hiền hòa. Người chồng lội ra giữa giòng, leo lên ngồi trên những chạc cây bị đổ xuống, anh ta ngồi đó mãi đến chiều, sau đó anh ta xuôi giòng suối lội theo hướng cái nhà và người vợ bị trôi đi. Từ đó không còn ai trông thấy anh ta đâu nữa.
Bà Thị cúi xuống tiếp tục bổ cau, thở dài kín đáo. Thương cúi đầu yên lặng.
Thể My chép miệng:
– Tội nghiệp ghê hả cậu? Thế họ là bạn cậu đấy à?
– Ừ, vậy cháu còn muốn làm nhà bên bờ suối nữa không?
– Thôi, cậu ạ, chuyện buồn quá như thế cháu sợ lắm. Cháu không thích nữa đâu, thôi, về nhà mình mà ở cho rồi.
– Ừ, có thế chứ. Cháu ngoan lắm đó Thể My.
Thể My ngước lên, vừa thoáng bắt gặp một tia tinh quái lóe lên trong mắt Trần. Cô bé buột miệng la to lên:
– Ơ, cậu lại đặt bày nữa rồi, cháu biết cậu muốn dọa cho cháu sợ không dám vòi ở với cậu nữa chứ gì. Cháu không chịu đâu, cháu không thích bị lừa đâu, bắt đền cậu đấy.
Cô bé ôm lấy cánh tay Trần, vùng vằng nũng nịu, Trần cười ha hả thích thú.
Cả nhà thấy cảnh tượng ấy đều vui cười. Thương nhẹ nhàng thở ra, cười thoải mái hỏi Trần:
– Thế không có chuyện họ bị trôi đi phải không cậu?
Trần vừa gỡ cánh tay bị Thể My lay giật, vừa vỗ vỗ trên đầu Thảo My, cười nụ:
– Không có đâu Thương ạ, cháu không thích chuyện xảy ra như vậy sao?
Bà Thị cười hiền hậu, xen vào:
– Hỏi hay nhỉ, ai mà thích chuyện xảy ra như vậy. Cái thằng thiệt quá tay, đặt chuyện hay đến nỗi nghe cứ tưởng như thật, làm cô mất công bùi ngùi thương xót nữa chớ.
– Thưa cô, chuyện bịa hay chuyện thật cũng vậy cô ạ. Có khi chuyện thật còn bi thảm hơn nữa kia. Vả lại chuyện như vậy cũng có thể là thật lắm.
Thương bỏ thêm củi vào bếp, lắng nghe tiếng sôi sục của nồi bánh, nàng dịu dàng nói:
– Vâng, thưa cậu, cháu xem truyện cũng biết rằng đời còn có nhiều chuyện đau thương hơn nữa. Nhưng ai lại cậu bịa đặt ra cái chuyện chi buồn quá, đến bây giờ cháu biết là chuyện không có rồi mà cháu vẫn buồn.
Trần cười xí xóa:
– Thôi, cho cậu xin lỗi nhé, tại Thể My nó đòi đi ra kháng chiến cậu nghe sợ toát mồ hôi, cậu phải bịa đặt cho nó nản.
Thể My phụng phịu:
– Thế sao cậu đi được mà cháu đi không được hả cậu? Cháu có nhiều đứa bạn học cùng lớp chúng nó cũng bỏ học ra đi kháng chiến nhiều lắm.
– Ấy chính vì cái chuyện bỏ học ấy mà cậu không muốn cháu dại dột làm cái chuyện như những đứa bạn của cháu đấy.
– Tại sao đi kháng chiến chống Pháp để cứu nước giành độc lập mà cậu lại bảo là dại dột hả cậu? Thế hồi cậu bỏ nhà đi cũng dại dột lắm sao, cậu cũng bỏ học đấy thôi.
Trần thấy rõ ràng mình bị kẹt, cái con bé thật quá tay, thứ này mà học đòi làm cán bộ rồi giở biện chứng pháp ra thì mệt bở hơi tai với nó đấy nhé.
Trần quàng tay ôm ngang vai cháu, giọng chàng trở nên trang nghiêm:
– Cháu nói rất đúng, cũng có thể là hồi cậu ra đi cậu đã làm một việc dại dột, này nhé, bỏ học hành, bỏ mẹ già, bỏ ngôi nhà, thành phố, giòng sông, bỏ lại tất cả những gì yêu quý thiêng liêng nhất, như thế là dại dột quá rồi còn gì. Nhưng cái dại dột của con trai khác với cái dại dột của con gái cháu ạ. Đó là điều cậu muốn nói với cháu. Nếu còn có những thằng con trai ưa dại dột như cậu, cũng chẳng làm sao. Nhưng những đứa con gái như cháu thì lại là chuyện khác.
Thể My vẫn tỏ vẻ không bằng lòng:
– Thế bộ con trai yêu nước được còn con gái thì không hay sao thưa cậu?
Trần kiên nhẫn:
– Có chứ, một ngày nào đó, hoặc ở một lĩnh vực nào đó. Cháu có thể làm những công việc hợp với cháu để đem lại lợi ích cho xã hội, cho Tổ quốc, còn chuyện đánh giặc là chuyện của con trai, mà hiện giờ là lúc chúng ta đang phải đánh giặc.
Thể My đã buồn ngủ díp cả mắt lại nhưng vẫn cố cãi bướng:
– Cháu cũng đánh giặc được vậy.
Trần vuốt ve mái tóc óng ả của cháu, dỗ dành:
– Ừ, thì cháu cũng đánh giặc được. Bây giờ hãy đi ngủ, cô bé anh hùng rơm của cậu.
Thể My ngả đầu trên vai Trần, giọng lè nhè:
– Không, cháu không đi ngủ đâu, cháu còn đợi giao thừa mà.
Ngay lúc đó, từ xa, rất xa, có tiếng chuông nhà thờ đổ hồi vọng lại trong đêm giá rét căm căm. Tiếng chuông vang vọng, dư âm lãng đãng quấn quýt từng hồi, lan tỏa trong không gian, tiếng chuông như thoát ra từ một cõi miền đầy ánh nến nguy nga lộng lẫy. Đâu đây như có tiếng những đôi cánh trắng mỏng manh bay xào xạc, mang theo thông điệp của một năm mới đã bắt đầu.
Mọi người đều ngẩng đầu lên, nghe ngóng hồi hộp. Thể My vùng nhảy lên, la to:
– A, giao thừa rồi!
Cô bé xoay người một vòng, di động ra một vầng ánh sáng rực rỡ của bếp lửa đang reo, nét mặt cô bừng dậy tươi hồng, môi mắt sáng ngời rạng rỡ:
– Cháu phải đi mặt áo Tết đây.
Nói xong cô bé vụt biến mất trong góc tối của căn nhà ngang như một vì tiên bé bỏng trong mơ.
Bà Thị nhìn theo lắc đầu âu yếm:
– Nó đã lớn mà cứ như hồi còn bé, không thay đổi gì cả.
Bà đứng dậy, vươn vai, bảo Trần và Thương:
– Các cháu sửa soạn đón năm mới nhé, cô đi gọi bé Tâm đây.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:03:54 GMT -6
CHƯƠNG XXI
Con chó già khoanh mình nằm ngủ dưới một cành mai nở vàng biếc. Ánh nắng đầu xuân phủ lên lớp lông xám nhạt của nó một lớp gợn sáng rung rinh.
Một con bướm cánh màu xanh ngọc có điểm chấm màu nâu bay lượn trong nắng đáp xuống đậu trên cái tai nhỏ bé của con chó. Con chó già đang ngủ nhưng vẫn biết có con bướm mùa xuân đến đậu trên lỗ tai mình. Nó khẽ máy đôi tai, tức thì con bướm bay cao lên đến đậu trên một hoa mai, cánh hoa mỏng manh trĩu xuống, bướm lại khoan thai bay qua một chùm hoa khác, một ít phấn vàng dính theo chân bướm.
Tuy cái Tết năm nay chồng bà Thị không về được nhưng trong nhà không khí Tết cũng đầy đủ và trang trọng với căn nhà thờ xanh biếc ánh nến và trầm hương.
Mặc dù đêm qua cả nhà đều thức khuya nhưng sáng nay mọi người đều dậy sớm. Tất cả đều y phục chỉnh tề để đón năm mới. Người ta lễ bàn thờ tổ tiên và chúc tụng lẫn nhau.
Hơn hai năm nay từ ngày người con gái của bà Thị mất đi. Tết năm nay trong nhà bà mới lại thấp thoáng những tà áo màu tha thướt của các cô gái, nó làm cho căn nhà trở lại sống động và có vẻ Tết hơn bao giờ cả.
Sáng nay Thương mặc một chiếc áo dài lụa màu túy ngọc, chiếc quần sa tanh trắng có viền thêu rất công phu dưới gấu, nàng mang một đôi giày da đen bóng, nàng đi lại trong nhà, châm thêm nước trên bàn thờ, giúp bà Thị sắp đặt lại cỗ cúng. Khuôn mặt trắng mát tươi đẹp, dáng điệu dịu dàng trang trọng của nàng tương phản với Thể My riu ríu như chim khuyên trong chiếc áo dài gấm màu vàng hoàng hậu, mái tóc thắt hai cái nơ trắng dát kim tuyến óng ánh trên màu tóc đen huyền. Nhìn hai cô gái ở thành phố về quê Trần liên tưởng đến những người con gái của miền kháng chiến, quanh năm suốt tháng họ chẳng có cái gì ngoài những bộ áo bà ba màu nâu hoặc đen trắng, chân mang dép cao su đen. Thế mà họ vẫn có những vẻ đẹp thanh thoát lạ lùng không thua kém gì những cô gái đài trang trong thành phố.
Bà Thị vừa lễ bàn thờ cúng mồng một Tết xong. Bà mang một nén hương ra khấn vái ngoài sân. Bà vái lạy khắp bốn phương, đoạn mang nén hương ra cắm ngoài cổng ra vào, để cho những linh hồn trong gia tộc phiêu dạt khắp nơi, mùa xuân đến cũng nương theo khói hương mà trở về dưới mái nhà xưa của họ lúc sinh thời.
Giữa buổi sáng đầu xuân, ánh nắng chiếu trên khuôn mặt của người đàn bà hiền hậu phảng phất một vẻ buồn kín đáo, vẻ buồn khiến ta liên tưởng đến bao mùa xuân lộng lẫy xa xưa. Tóc bà vấn trần, một đôi hoa tai ngọc bích xanh đậm trên đôi tai đầy đặn. Bà mặc một chiếc áo dài bằng hàng len màu xám, quần đen bằng hàng lĩnh tuyết nhung, chân vận đôi hài nhung màu đen, vóc người hơi mập, cử chỉ chậm rãi oai nghiêm, bà Thị là hiện thân cho những gì bền vững và ấm cúng của những gia đình Đông phương. Hiện giờ bà đang có việc phải nghĩ ngợi, đó là việc hôn nhân của Trần và Thương mà mẹ Trần đã giao phó nhờ bà thu xếp. Thương và Thể My chỉ còn ở lại đây ba ngày, sáng mồng bốn hai cô gái đã phải trở về thành phố. Từ chiều hôm qua khi Trần trở về, cùng gia đình canh nồi bánh tét trò chuyện tới khuya, bà đã âm thầm theo dõi thái độ cử chỉ của Trần đối với Thương, nhưng linh cảm của đàn bà khiến bà nhận thấy sự trìu mến hồn nhiên của Trần đối với Thương chỉ là sự vui mừng gặp lại người thân thuộc của gia đình sau bao năm xa cách mà thôi. Có một cái gì nơi Trần khiến bà thấy mọi sự có vẻ không xuôi chèo mát mái. Cũng bằng linh tính của đàn bà mà bà rất hiểu rõ lòng Thương. Người con gái mồ côi cha, mẹ đi lấy chồng, đã về ở trong gia đình Trần từ thuở bé, nàng đã dành cho gia đình Trần một tấm chân tình ngây thơ cảm động, riêng đối với Trần, nàng đã để lộ niềm yêu thương thắm thiết. Bà Thị mải mê suy tính trong lòng, bà sẽ dàn xếp cho chúng có dịp nói chuyện riêng với nhau để gần gũi nhau hơn nữa. Thời buổi bây giờ không còn như trước, phải để cho đôi trẻ được quyền tự định đoạt lấy việc đời của họ, bà chỉ âm thầm khuyến khích mà thôi. Nghĩ đến đấy, trong óc bà thoáng hiện một sự sắp đặt khá tinh tế. Bà mỉm cười một mình, quay bước trở vào nhà.
Vừa ngang qua sân, bỗng bà đứng khựng lại, một tràng súng nổ rền vang về phía cánh đồng xa, những tiếng nổ ròn khô khan, xoáy mạnh như ghim vào từng bụi cây đám cỏ. Con chó già đang ngủ vụt dậy sủa vang lên, rồi cúp đuôi chạy biến ra sau vườn. Con bướm có đôi cánh xanh biếc đang đậu trên cành mai vàng chợt chao cánh, hốt hoảng như muốn lộn lèo giữa khoảng không. Những cánh hoa mai rung động, bàng hoàng run rẩy. Bà Thị vẻ mặt lo lắng nhưng vẫn bình tĩnh bước vào nhà.
Trần đang đánh cờ tướng với Tâm, con trai bà Thị, Thương và Thể My ngồi xem hai bên. Nghe tiếng súng hai cô bé đứng bật dậy, vẻ mặt lo sợ. Trần vẫn cúi đầu nghĩ ngợi nước cờ, chàng hơi nhíu mày, nhưng không ngẩng lên. Tâm ngước mắt nhìn Trần, hơi e ngại, nhưng thấy chàng vẫn chú tâm vào ván cờ, nó cũng yên lặng cúi xuống tiếp tục nghĩ thế cờ.
Bà Thị từ ngoài bước vào:
– Không biết cái gì mà súng nổ gần như thế?
Người lão bộc, già Mót, đang ngồi sưởi trong bếp, đứng dậy đi thẳng ra ngoài:
– Để tôi đi ra xem cái gì.
Thể My chạy đến bên Trần:
– Có sao không hả cậu, cháu sợ quá.
Trần không nói gì; lấy tay đẩy một con cờ, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Tiếng súng lại nổ vang lên, nghe gần hơn. Có tiếng chân người chạy dồn dập ngoài đường quan. Tâm nhẹ nhàng nhắc lên một quân cờ, chiếu tướng. Trần thở ra:
– Anh chịu thua em rồi đó.
Bà Thị lắc đầu:
– Súng nổ thế mà hai anh em cứ chúi vào bàn cờ. Tết nhất mà họ làm gì thế chả biết.
Trần đứng dậy, khoác vai Thể My:
– Nào, cô bé của cậu, đừng có hốt hoảng lên thế, vậy mà cứ đòi đi kháng chiến, cháu của cậu anh hùng ghê, để cậu xem nào, nghe tiếng súng có vẻ gần vậy chứ kỳ thật là nó nổ xa lắm. Tận làng dưới, ngoài sông kia lận. Tuy nhiên phía đó cơ quan của cậu đóng ở đó. Có lẽ cậu phải về xem sao.
Bà Thị nhìn Trần lo sợ:
– Đâu có được, súng đang nổ dữ dội, chưa biết tình hình ở ngoài ra sao, làm sao mà đi được.
Thương đứng lặng, đôi mắt trân trân nhìn Trần có vẻ cầu khẩn van lơn. Thể My níu cứng cánh tay Trần:
– Cháu không cho cậu đi đâu, cậu bỏ bà và hai đứa cháu ở lại như thế này mà cậu yên tâm đi được hay sao?
Già Mót bước vào, giọng khinh khỉnh:
– Cái tụi Tây thiệt không ra gì hết. Ngày Tết của người ta mà cũng làm rộn. Tây ở đồn làng trên sáng nay qua bên kia sông làm gì không biết, đụng nhau với mấy bộ đội của mình đang đánh nhau bên đó. Lại có cả ca nô chở lính ở trong Huế về nhiều lắm, ba bốn chiếc ca nô đang đi ngoài sông đó.
Lão nhổ toẹt xuống đất, đưa tay gãi gãi cái đầu cạo trọc, tóc bạc trắng lởm chởm:
– Thiệt là cái lũ vô đầu vô vị, được ba ngày Tết người ta cúng giỗ tổ tiên mà chúng nó cũng kéo nhau đi phá làng phá xóm cho được, bắn dữ rứa thì ông bà mô mà thèm về nữa.
Mọi người yên lặng lắng nghe, ngoài sông có tiếng động cơ rù rù vọng lại, Trần nói:
– Như thế này là chúng lợi dụng ngày Tết, ai nấy đều lo lễ lạc không đề phòng nên chúng tập trung quân đổ về tấn công các đơn vị kháng chiến của mình đấy cô ạ.
Vùng của ta không sao đâu vì không có bộ đội ta đóng và cũng nhờ gần Huế. Nhưng bên kia sông và miệt dưới thì có nhiều cơ quan và các đơn vị của ta đóng. Cháu e rằng đánh to đây, bây giờ cháu phải đi, vì cháu cần có mặt bên các bạn cháu.
Trần không nhìn ai cả, quay lưng đi thẳng lên nhà trên. Trong khi chàng đang lúi húi xếp những đồ vặt vãnh vào ba lô, bà Thị theo lên một mình. Bà buồn rầu hỏi Trần:
– Cháu đi như thế này cô lo sợ quá, và còn chuyện Thương nữa, cháu đã có ý định gì chưa, cô sẽ trả lời với mẹ cháu ra sao đây?
Trần nhìn cô, chàng hơi nhíu mày, nhưng giọng chàng vẫn ôn tồn:
– Xin cô đừng lo, cháu thuộc đường sá quanh vùng này, các trạm liên lạc của ta sẽ cho cháu biết tin tức và đường đi nước bước, cháu không sao đâu mà cô lo. Còn về chuyện vợ con của cháu, xin cô hãy kể lại cho mẹ cháu nghe hôm nay cháu phải rời nhà ra đi sớm hơn ngày đã định ra sao, mẹ cháu tất sẽ hiểu. Ngay trong lúc này cháu đang ở đây, có bao nhiêu bạn đồng đội của cháu đang lâm trận, cũng có thể có người đang gục ngã, làm sao cháu có thể nghĩ đến chuyện đó bây giờ cho được. Xin mẹ cháu và cô khoan vội lo việc đó, vì cháu chắc cô cũng thấy là không phải lúc.
Bà Thị chép miệng:
– Cháu nói vậy cô cũng đành vậy. Nhưng còn Thương cô biết là nó cũng nghĩ đến cháu nhiều, mà đâu phải tính ngay bây giờ, chỉ cần cháu bằng lòng một tiếng rồi bao giờ cũng được.
Trần nói với cô bằng giọng nhẫn nại:
– Thưa cô từ bao lâu chúng ta đã xem Thương như người trong gia đình, Thương có quyến luyến cháu là do tình cậu cháu chơi đùa với nhau từ thuở bé mà thôi. Hiện Thương cũng còn thơ ngây lắm, chưa biết gì đâu, chúng ta nên để cho Thương học hành, đừng gieo vào trí óc nó chuyện người lớn làm gì. Cháu quý Thương cũng như Thể My và không thể mỗi lúc xem khác đi được. Xin cô hiểu và nói với mẹ cháu. Cháu sẽ viết cho mẹ và chị cháu sau. Bây giờ cháu phải đi, xin cô đừng buồn, hãy cầu nguyện cho cháu. Nhé, cô nhé.
Bà Thị lặng lẽ gật đầu, Trần xốc quai ba lô lên vai, cúi chào cô đoạn bước vội xuống nhà ngang. Thương và Thể My đứng đó, vẻ chờ đợi. Thể My chạy lại ôm lấy Trần:
– Cậu đi thật đấy à? Sao cậu lại đi trong lúc súng bắn nhiều thế kia? Cháu sợ quá, bà ngoại mà biết cậu đi như thế này thì bà khóc lắm, cháu cũng khóc nữa.
Cô bé mếu máo, nước mắt tuôn ra ràn rụa. Trần xúc động, chàng cố gượng cười, vỗ về cháu:
– Ơ, chỉ thiếu chuyện khóc nhè nữa mà thôi đấy nhé. Bây giờ thì đủ rồi, cô chiến sĩ can đảm của cậu, hãy để cậu đi ra ngoài một tí xem sao, lát dứt tiếng súng, yên cậu lại về mà, có gì đâu, cháu đừng làm vậy, cậu buồn.
Thương đứng yên, hai mắt mở rộng nhìn Trần, khuôn mặt nàng trắng bạch. Hai ngày nàng về đây, được thấy mặt người nàng yêu, không hiểu sao nàng có linh cảm rằng chàng đang sống giữa mọi sự bất ổn về tinh thần, điều đó in dấu trên ánh mắt ưu tư, trên nét mặt khắc khổ của chàng. Trong những mẩu chuyện mà chàng vui đùa với Thể My, chàng đã để lộ cho nàng thấy đời sống của chàng chứa chất biết bao đắng cay đau khổ. Bây giờ chàng lại sắp ra đi, tiếng súng ác nghiệt ngoài kia thúc giục réo gọi chàng. Bây giờ nàng đang nhìn tận mắt tính mạng của chàng đang bị đe dọa, chàng sắp rời khỏi căn nhà này, đi về phía có tiếng súng vang âm từng tràng sau những cánh đồng, những lũy tre, những hàng cây xanh um kia.
“Chàng đi đến đó làm chi kìa?” Nàng đau đớn tự nhủ, hai tay nàng buông thõng. “Nhưng chàng đã sẵn sàng để đi, trông kìa, không ai có vẻ sẵn sàng hơn thế nữa, chàng đứng đó mà tâm trí chàng đã thoát đi tận đâu đâu, về phía tiếng súng khủng khiếp vẫn nổ giòn ở xa kia, quả thật, chàng không bao giờ, không bao giờ có thể là của mình cả, cũng không thể là của ai cả. Mình chỉ là một đứa bé mơ ước hão huyền. Chàng sắp đi đến đó, đi đến với cái số phận khắc nghiệt của chàng, còn mình, ở lại đây, trơ trọi, không có gì cả, không còn gì nữa.”
Thương hoang mang tự hỏi: “Có thật đúng như vậy không?”
Nàng mơ hồ thấy Trần tiến lại bên nàng, quàng tay qua vai nàng siết nhẹ, giọng chàng trầm ấm:
– Thương buồn à? Cậu đi một lát cậu về ngay thôi mà.
Chàng cúi nhìn sâu vào mắt Thương:
– Nào, cháu can đảm lên chứ, hãy cười cho cậu đi được may mắn xem nào. Cậu cần Thương can đảm, có như thế cậu đi sẽ được bình yên. Ừ, có thế chứ, cháu cười đẹp lắm, đó là dấu hiệu chúc lành. Thế là không có súng đạn nào động đến cậu được đâu.
Chàng hôn phớt trên mái tóc Thương:
– Thôi cậu đi nhé.
Chàng nựng cằm bé Tâm đứng gần đó:
– Đợi anh về đánh cờ nhé.
Tâm la lên: – Anh về ngay nhé.
Trần gật gật đầu băng ngang qua già Mót đang đứng nhìn chàng băn khoăn, chàng đặt tay lên vai ông lão:
– Tôi đi già Mót nhé.
Đoạn chàng đi thẳng ra sân, khuất sau hàng giậu chè tiên xanh ngắt có những sợi tơ vàng óng ả uốn lượn bên trên.
Tiếng súng bên kia sông vẫn nổ suốt ngày mồng một, lúc gần lúc xa, nhưng khi chiều xuống, đêm về, mang trả lại sự tĩnh mịch cho đồng quê. Sự yên lặng của đêm đen đè nặng xuống tâm tư mọi người. Bà Thị và hai cô gái thức rất khuya để chờ Trần về. Mỗi tiếng xào xạc của lá cây lay động ngoài vườn, tiếng đập cánh của một con chim đêm, tiếng gió luồn qua khe cửa đều làm cho họ nhìn nhau nghe ngóng hy vọng.
Đúng như Trần đã nói, trận chiến xảy ra suốt mấy ngày đêm, luôn ba ngày Tết, máy bay Pháp bay ra bắn phá, giội bom liên miên những làng miệt dưới bên kia sông.
Suốt ba ngày, ba người đàn bà ra sân đứng nhìn những chiếc máy bay lồng lộn trên không phận cuối lũy tre xa xa xanh thẳm, thả hàng giây bom nổ rền trời, và sà xuống bắn phá không ngừng trên những làng mạc, ở đó họ biết rằng Trần đang có mặt. Lại những đêm về chờ đợi, những ngày đón nghe tin tức, người chết, nhà cháy, giặc đi lùng, hãm hiếp.
Thể My không cười vui nữa, nét mặt vô tư hồn nhiên của cô bé đã vương nếp buồn đau, khắc khoải.
Thương im lìm câm nín, nàng âm thầm cầu nguyện cho Trần, nàng niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin che chở cho chàng. Giữa những phút giây cầu nguyện, thỉnh thoảng một ý nghĩ kinh hoàng len vào tâm tư khiến người nàng lạnh tê buốt cóng. Nàng run rẩy đi tìm bà Thị, nàng tìm thấy bà quỳ trên chiếu trải trên nền gạch, trước bàn thờ Phật, nét mặt hiền hậu của bà thành khẩn trong dáng điệu cầu xin, ngước lên tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, đôi mắt thiết tha thờ phụng, tay bà lần tràng hạt, quang cảnh ấy khiến lòng Thương dịu lại, như được nâng đỡ, nàng rón rén quỳ xuống bên cạnh bà Thị, ngẩng lên nhìn Đức Phật, nét mặt từ bi nhân ái của Ngài mang lại cho lòng nàng niềm yên ủi vô biên. Mắt đẫm lệ, Thương miên man cầu nguyện không nhận thấy Thể My cũng nhẹ nhàng quỳ bên cạnh nàng từ bao giờ không biết.
Ngày mồng ba, tiếng súng đã ngớt, buổi chiều có một người lạ tạt qua nhà bà Thị, đưa một mảnh giấy rồi đi ngay. Mảnh giấy nhàu nát, không có phong bì:
“Cháu bình yên, chưa thể về được, xin cô và cả nhà đừng lo. Thương và Thể My về nhà cho cậu gởi lời thăm bà Ngoại và ba mẹ. Hai bé chóng ngoan, học giỏi cậu mừng. Trần.”
Mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, vui mừng, không ai nghĩ đến việc Trần không thể trở lại như chàng đã hứa. Thương không ngớt thầm lập đi lập lại trong trí: “miễn là chàng còn đó, miễn là chàng vẫn còn đó.”
Ngày mai Thương và Thể My trở về thành phố Huế, đêm hôm ấy nàng đi tha thẩn khắp căn nhà bà Thị, ở đây nàng đã gặp lại Trần, dù chỉ trong khoảnh khắc, ở đây nàng đã thấy chàng cười nói như trong giấc mơ, nàng đã thấy chàng rời khỏi nơi đây một cách đột ngột, lạ lùng khôn xiết. Nàng còn nhớ đôi mắt dịu dàng, ẩn náu một nỗi đau thương kỳ dị của chàng cúi nhìn sâu trong đáy mắt nàng, giọng nói trìu mến ấm áp của chàng, chiếc hôn phớt nhẹ trên mái tóc như đó chỉ là hơi thở. Ngày mai nàng sẽ trở lại đời sống êm đềm phẳng lặng của nàng trong ngôi nhà của mẹ Trần ở thôn Vĩ Dạ, ở đó nàng đã lớn lên, ở đó nàng xây những ước vọng đầu tiên, ở đó nàng đã mơ mộng qua những buổi chiều trong khu vườn rợp bóng những cành cây nhãn, những chùm nhãn đầu mùa ngọt lịm nhắc nhở ngày chớm sang thu, giòng sông ngang qua sau vườn lăn tăn gợn sóng vàng ánh nắng chiều. Trên những bậc đá xây xuống bến sông, Thương đã bao lần đứng đó, bứt từng chiếc lá tre thả trôi theo giòng nước, buông trôi theo giòng bao nhiêu mộng mơ của tuổi thơ, của tình yêu, của tương lai hoài bão. Người con gái mồ côi là nàng vẫn còn một mái ấm để trở về, để tiếp tục chuỗi ngày bình yên buồn nản, để cầu nguyện mãi mãi cho một người đã dấn thân vào cuộc sống vô thường, đầy nắng rát và lửa đạn. Nàng sẽ chờ cánh chim bay mỏi có lúc phải ngừng, nàng biết rằng nàng sẽ chờ đợi được. Trong tâm hồn trẻ trong suốt của nàng, mối tình từ ngày thơ bé đã khắc ghi như một lời son sắt, cũng như biết bao tâm hồn phụ nữ phương Đông, tình yêu của nàng không mong bù đắp. Yêu là cho tất cả và chấp nhận mọi thua thiệt đau buồn.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:06:05 GMT -6
CHƯƠNG XXII
Lương và Hà đã hẹn nhau chỉ đi ba tháng rồi trở về, nhưng bệnh tình bé Cao kéo dài mãi nên đến gần Tết Hà mới nhắn về cho Lương biết nàng và hai con sẽ trở về trước Tết.
Những buổi chiều cuối năm, chiều nào Lương cũng ra bến đò chờ đợi, nhưng cho mãi đến chiều ba mươi Tết, chuyến đò cuối cùng cập bến cũng không hề mang theo bóng dáng vợ con anh. Lương buồn bã, cúi đầu quay gót trở về. Anh lang thang dọc theo con đường ngoài bờ sông thật lâu mới rẽ vào làng, làm như đi gần giòng sông chừng nào Lương càng có cảm tưởng gần gũi vợ con anh hơn chừng ấy.
Sáng mồng một Tết, Lương mở mắt với nỗi bàng hoàng quạnh quẽ, quanh mình chẳng có một ai, anh buồn bã chỗi dậy mặc áo quần, chiếc áo sơ mi trắng Hà gởi về, anh chưa kịp nhuộm màu nâu hay màu xám đậm cho dễ tránh máy bay, anh chép miệng:
– Thôi hãy mặc Tết cái đã, rồi hãy nhuộm sau cũng được.
Lương ra khỏi nhà, ngơ ngác không biết mình đi đâu, có một cái gì thu hút khiến bước chân đưa Lương đi mãi về hướng bờ sông. Ánh nắng mai nhuộm vàng mặt sóng phản chiếu lên người Lương những bóng sáng nhảy múa rập rờn. Khí lạnh buổi sáng làm anh lạnh buốt rùng mình, anh tự trách mình đãng trí quên không mặc thêm áo ấm. Một người làng từ bến đò đi ngược về phía Lương, Lương nghe người ấy cất tiếng chào kèm theo một câu chúc Tết thì phải, Lương cũng chào đáp lễ và cũng chúc lại người ấy một câu. Lương tiếp tục đi mải miết cho đến khi bến đò vắng vẻ và con đập kéo dài ra tận giữa sông hiện ra trước mắt anh. Anh đi chậm lại, lần bước đi ra giữa đập, cho đến khi đi hết con đập anh mới dừng lại, đứng sững nhìn mặt sông, hình ảnh một chiếc thuyền từ từ cập bến hiện ra trong trí anh. Lương thấy Hà tươi cười, hai mắt sáng lóng lánh, xanh biếc như ngày mới yêu nhau, nàng từ trong khoang thuyền bước ra, đưa cao trên tay bé Mai hồng hào xinh đẹp như một đóa hoa, bên cạnh nàng bé Cao khỏe mạnh, cao lớn hơn ngày đi, đang reo mừng muốn nhảy ra khỏi mạn thuyền để ôm lấy cha. Lương bước tới một bước; hai tay anh run run đưa tới trước trong một cử chỉ đón nhận, nhưng hình ảnh bỗng mờ dần, chỉ có tiếng nước sông rào rạt vỗ vào bờ đập. Lương chợt bừng tỉnh, cảm thấy đau đớn trong lòng. Hơn bao giờ hết, anh nhớ quay quắt mùi sữa trên cổ con anh, mùi thơm ngai ngái trên mái tóc của vợ hiền.
Bây giờ Hà và hai con anh đang làm gì trong ngày đầu xuân này? Các con có hỏi mẹ chúng rằng cha ở đâu không? Hà sẽ trả lời con anh ra sao? Cả trăm ngàn ý nghĩ dồn dập trong trí Lương, anh đứng lặng một lúc lâu, thân hình anh cao lớn chơ vơ tận đầu bờ đập, gió thổi mạnh luồn vào chiếc áo sơ mi trắng của Lương làm phồng vạt áo sau lưng, kêu phần phật. Lương cảm thấy run cầm cập nhưng anh vẫn đứng yên, nhìn chăm chú theo một luồng nước chảy quanh co giữa giòng sông như một con đường được vạch ra giữa sông. Lòng thương nhớ vợ con khiến Lương nghĩ rằng đó là con đường mà chiếc thuyền mang vợ con anh sẽ theo đó mà xuôi đến bến này. Anh không thể hiểu được có việc gì khiến Hà không thể mang con về như đã hứa với anh.
Bên tai Lương chợt có tiếng rù rù vẳng lại từ đàng xa. Anh định thần lắng nghe xem đó là thứ tiếng gì, có lúc giống như tiếng một con bò rống vang qua cánh đồng xa, cũng có lúc nghe như tiếng gió vi vu, mãi đến khi mắt anh nhận thấy những chấm đen lạ hiện ra trên giòng sông lòa nắng từ xa thật xa, lúc đầu thật nhỏ, sau rõ dần dần. Lương giật mình, máu trong người anh như đông đặc lại, “đúng là ca nô của địch.” Có đến năm hay sáu cái. Lương vội cúi khom người chạy ngược vào bến. Từ bến đò Lương chạy băng qua cánh đồng, anh thở hào hển, men theo những con đường có bụi cây che khuất, chạy mãi, trong khi tiếng động cơ của ca nô địch mỗi lúc một lớn hơn từ ngoài sông.
Vào đến đường làng, anh nghe có nhiều tiếng người la lên từ đầu xóm, nhưng những con đường trong làng vẫn còn vắng hoe vì sáng mồng một Tết, mọi người đang bận lễ buổi sớm, chưa ai ra khỏi nhà.
Một tràng súng nổ vang giòn giã từ phía xóm nhỏ ngoài sông. Lương chạy vội về nhà, cất giấu một vài đồ đạc, thay một bộ áo quần đen. Vừa lúc ấy cả làng đều được báo động, người ta truyền miệng nhau, giặc về làng, đang đụng nhau với bộ đội ở ngoài xóm bến. Tức thì làng trên xóm dưới, những trai tráng và phụ nữ trẻ tuổi đều lũ lượt rời khỏi các căn nhà, dìu dắt nhau chạy ra những đụn cát trắng phau trùng điệp sau làng. Trong làng chỉ còn lại những người già và trẻ con ở lại giữ nhà mà thôi.
Độn cát của miền này rộng mênh mông trắng xóa, đồi cát nọ nối tiếp đồi cát kia kéo dài ra tận bờ biển Thái Bình. Ở vùng này, mỗi khi Tây về khủng bố, mọi người trong làng đều chạy ra ẩn núp trong các làng chài lưới dọc bờ biển khuất sau những đồi cát chạy dài như một tiểu sa mạc. Tại đây màu cát trắng xóa dễ dàng tố cáo bóng dáng quân giặc xuất hiện từ xa hàng vài cây số. Họ có thể cứ thế dọc theo bờ biển chạy mãi cho đến khi hết tiếng súng, nghe ngóng tin giặc đã rút lui, mọi người mới lần bước trở về thôn xóm của họ.
Lương chạy qua nhà Huyên, cách nhà anh một khu vườn. Vừa ra đến đầu đường, Lương gặp Huyên đang chạy về phía anh:
– Em định qua mừng tuổi anh không ngờ lại rủ anh chạy giặc.
– Thì anh cũng sang rủ em chạy giặc đây.
Hai anh em cùng cười, thong thả sóng bước bên nhau đi theo con đường dẫn ra ngoài đồi cát.
Tiếng súng vẫn còn ngoài sông xa nên mọi người trong làng đều dừng lại, quanh quẩn ven hàng dương liễu sau làng để nghe động tĩnh, xem tình hình ra sao, chưa ai muốn chạy đi xa.
Lương và Huyên đứng dưới một cây dương liễu, bóng đổ che nắng từ trên cao tỏa khắp một vùng cát trắng. Từ trên đồi dương nhìn xuống, hai người trông rõ nhà cửa làng mạc và cánh đồng trải dài đến tận bờ sông. Bấy giờ những chiếc ca nô địch chạy ngoài sông đang quay mũi vào cái xóm nhỏ ngoài bến sông. Từng loạt súng nổ vang rền, thỉnh thoảng một trái phá từ tàu địch bắn vào, sau tiếng nổ dữ dội một vầng khói trắng đục bốc lên sau lùm cây.
Trên đồi dương liễu sau làng, mọi người bàn tán lao xao, tiếng nói chuyền từ cây nọ qua lùm cây kia.
– Chà, tiếng súng nổ giòn quá, tụi Tây đi chúc Tết bà con mình đấy mà.
– Kể ra thì bộ đội mình lịch sự thiệt, mang đãi khách toàn kẹo đồng nổ như bắp rang.
– Thật đúng là cái tụi đi cướp nước, chúng nó biết hôm nay là Tết của dân mình chớ, vậy mà cũng kéo nhau đi khủng bố cho được. Chẳng may đụng phải bộ đội rồi, phen này thì cho chết cả lũ.
– Ừ mà cũng lạ thiệt, bộ đội về đóng ở xóm ngoài hơn một tháng nay thôi, vậy mà tàu chúng nó ra là đổ bộ ngay chóc lên xóm ngoài, đụng nhau ngay.
– Thì bao giờ cũng có Việt gian chỉ điểm cho chúng nó, chứ chúng nó thì biết cóc khô gì.
– Ừ, thật đấy, chúng nó thì biết cái khỉ khô gì, chung quy cũng tại mấy thằng Việt gian bán nước cả. Tao ghét tụi nó còn hơn ghét Tây, bắt được tụi nó tao đâm liền, băm vằm làm trăm mảnh cũng chưa hả giận. Ngày Tết mà nó làm mình phải bỏ ông bà ông vải mà chạy có khói, ra đứng lóng ngóng giữa trời như thế này.
Tiếng một người con gái cất lên, giọng hằn học:
– Thôi im đi, đừng đứng đó mà nói tào, cái thứ đồ trói gà không nổi mà đòi giết ai. Nội một việc xóc cái bó lúa không lên nổi mà cứ lo nói trạng.
– Sao em khó quá vậy em, bởi vì anh học trò nên chưa quen gánh lúa, thương em rồi anh sẽ tập lần. Chữ nghĩa học mới khó chớ còn chuyện gánh lúa thì học mấy hồi em.
– Này đừng có đứng đó mà nói trây, ai anh em gì với cái mặt chú, cứ xưng học trò để làm biếng làm nhác. Không có chữ đui nào trong bụng cả mà cứ làm bộ làm tịch hoài ai mà thèm ưng lấy mấy thứ đó kia chớ.
Cô gái quê nguýt dài ngoe nguẩy bỏ đi một nước, chiếc áo cánh đen may sát bó chặt vào người làm nổi bật thân hình chắc nịch, đầy sức sống. Mọi người cười ồ, trong khoảnh khắc ai nấy đều cảm thấy vui vui, quên đi nỗi lo sợ của chiến tranh chết chóc kề cận.
Huyên nhìn theo cô gái:
– Ai như chị Chắt ấy anh nhỉ, sao hôm nay chị ấy trở chứng chua ngoa như thế chứ thường ngày em thấy chị ấy hiền và ít nói lắm mà.
Lương mỉm cười:
– Ừ, cô Chắt đó. Em vừa đi xa về nên chưa biết. Thằng Đại con ông Còm ở xóm dưới đó, hồi nhỏ học đâu được hết lớp năm, đọc chữ qua loa rồi bỏ học đi lêu lỏng, sau vào Huế học nghề chụp ảnh, lúc tản cư về làng nó làm dáng lắm; tóc chải láng mướt, áo quần chải chuốt, đi đâu cũng kè kè cái máy ảnh. Sau này chạy giặc cực quá nên cũng bớt đi, nhưng về nhà quê mà nó không chịu làm lụng gì cả, ngày chí tối lượn lên lượn xuống trong làng, o bế mấy cô con gái. Nghe đâu gần đây ông Còm cha nó đi dạm hỏi cô Chắt cho nó, nhà cô Chắt bằng lòng nhưng cô ấy chê thằng kia là thứ lỡ ông lỡ thằng, không chịu, cha của cô ấy thì cứ nhất quyết đòi gả cho được.
Huyên gật đầu:
– Chị ấy nghĩ phải đấy chứ anh nhỉ, ở nhà quê mà lấy mấy thứ đó làm gì. Tội nghiệp chị ấy thật, em nghĩ phong tục ở quê mình nhiều cái thật kỳ cục, con không ưng thì thôi lại cứ bắt ép phải lấy. Như vậy thật khổ phải không anh?
Lương nhìn em, anh vói tay gỡ một lá dương liễu vương trên tóc Huyên:
– Em nói thế bộ em quên ông nội của em bên nhà cũng nghiêm khắc lắm, luôn luôn gả các cháu gái theo ý mình, không thèm hỏi ý kiến bao giờ cả. Anh thấy các chị con các bác của em bên ấy đều gả như vậy cả, em nhớ không?
– Vâng, em nhớ, cũng may mà các chị ấy đều lấy chồng tốt cả. Thôi cũng được.
Lương trêu em:
– Thôi cũng được là thế nào? Còn em thì định sau này lấy chồng ra sao đó?
Huyên cười:
– Làm sao được hả anh? Đó là chuyện ngày sau. Bao giờ em gặp lại gia đình đã rồi mới nghĩ đến chuyện đó được. Em vừa nhận được tin nhà, mẹ em nay đau ốm hoài, gia đình em đang lâm vào cảnh túng quẫn, các em của em đang cực khổ lắm ở trong Hàn. Trong khi đó thì em ở đây, như bị giam lỏng, không làm gì được cả, vì mình chỉ là thành phần tiểu tư sản vô tích sự. Thậm chí em xin đi dạy học không lương để khỏi phải ở không người ta cũng hẹn rày hẹn mai. Em không biết rồi sẽ ra sao đây anh ạ.
Nét mặt Lương bỗng tối sầm lại:
– Anh hiểu, anh hiểu, lại vẫn cái trò đó. Dù sao thì chuyện đó đối với một cô bé như em không đến nỗi nào đâu em ạ. Em còn trẻ, còn nhiều thì giờ, còn nhiều điều có thể đính chính. Không ai có thể bắt buộc lớp người trước người sau phải chấp nhận tư tưởng của nhau. Anh nghĩ rằng với em, em còn đủ thì giờ để chọn lựa em ạ.
Huyên ngỡ ngàng nhìn anh:
– Anh nói cái gì em chưa hiểu, chọn lựa cái gì, hả anh?
– Ờ, thì cũng có lúc mình phải chọn lựa một cái gì đó. Không cần phải hiểu chi cho lắm. Hiểu thêm cực, em ạ.
Lương ngừng bặt, anh đưa mắt nhìn sang sông, tiếng súng vẫn nổ đều về phía xóm bên:
– Chả biết đánh đá ra làm sao ngoài ấy, gần trưa rồi, rút đi cho người ta về ăn cơm chứ.
Bỗng có tiếng ồn ào, từ phía truông có nhiều người rầm rập chạy tới, Lương chưa kịp hỏi han, nhưng nhìn ra cánh đồng, anh hiểu ngay. Những chiếc ca nô địch đã cập vào bờ, quân giặc đổ bộ lên dàn thành hàng ngang từ ngoài đồng tiến vào làng, chúng đi rải rác, lom khom, súng hờm trong tay, từ trên đồi dương sau làng trông xuống mọi người thấy những chấm nhỏ di động giữa đồng lúa xanh rờn.
Tiếng người la lên trong những lùm cây:
– Chạy đi thôi, Tây vào làng rồi đó.
Lương kéo Huyên chạy ra đồi cát, cát nóng luồn qua kẽ chân lọt vào giữa đôi dép cao su đen làm rát bỏng da chân, nhưng không ai nghĩ đến, mỗi bước đi trên cát làm họ trụt lại sau một chút nên vất vả lắm họ mới qua được bốn năm đụn cát. Xế chiều hai anh em ra đến đụn cát cuối cùng, họ đứng trên đỉnh, phóng tầm mắt nhìn biển cả hiện ra mênh mông như một tấm thảm xanh lơ vĩ đại bao la tiếp giáp với trời.
Từ xa, sát ven biển, những làng chài lưới cách khoảng nhau chừng vài ba cây số dọc theo bờ biển. Mỗi làng có độ hai chục nóc nhà, phần nhiều lợp bằng lá sơ sài. Có độ một hai căn nhà lợp bằng ngói đỏ, đứng chơ vơ giữa vùng cát trắng, không có một thứ cây cối gì tô điểm cho đỡ trống trải ngôi làng, ngoại trừ vài gốc dừa nghiêng ngả lẻ loi đầu ngọn gió biển. Quanh bãi biển ngoài làng những đám cỏ bồng vàng úa bò lan trên cát biển.
Tiếng súng xa xa vẫn nổ đì đùng sau lưng họ, gió biển tạt vào mặt họ mang theo hơi lạnh của cả một mùa đông lạnh buốt. Hai anh em đi chầm chậm trụt xuống đồi cát biển đến một ngôi làng.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:07:43 GMT -6
CHƯƠNG XXIII
Đã có nhiều người từ các nơi khác chạy giặc tới đó trước Lương và Huyên, trong số đó có Huỳnh và bộ tứ Hoàng, Bửu, Hồ, Phong. Mọi người đều vui mừng gặp lại nhau, kể từ cái ngày tháng bảy ăn cơm ở nhà Lương đến bây giờ họ chưa hề có dịp gặp lại nhau.
Mãi chiều có tin giặc đã rút ra tàu nhưng vẫn đậu ở bến chứ chưa đi, giặc bắt ông già bà lão khuân vác ra tàu bao nhiêu heo gà lúa gạo chúng lùng tìm được. Một vài căn nhà không có người giữ bị đốt phá. Dù sao, mọi người chưa thể tính chuyện trở về làng được vì người ta ức đoán rằng giặc có thể trở lại ngày mai.
Huyên lo công việc mua gạo và thức ăn để lo cơm chiều. Họ ở lại trong một căn nhà khá khang trang, có sân lát gạch, chủ nhà quen biết với Lương, thường vào ra nhà Lương mua đổi cá mắm và lúa gạo.
Dân các làng biển vùng này thường nghèo đói. Đời sống của họ không khác chi dân du mục, tuy họ sinh sống ở một nơi cố định. Họ ở cách những làng ruộng chỉ có bốn năm đồi cát, nhưng vì đời sống của họ quá gần với thiên nhiên, giữa trời cao biển rộng, vùng cát trắng phau, quanh năm chỉ nghe tiếng sóng gào gió thét nên con người sống gần như một thời ăn lông ở lổ. Ở đây những người đàn bà con gái che kín khoảng ngực của họ bằng một cái yếm, mặc quần vải thô màu xanh chàm hoặc màu xanh đen. Còn đàn ông và trẻ con thì thẩy đều trần truồng. Gió và nắng pha hơi muối mặn của trùng dương ươm lên thân thể khỏe mạnh của những trai tráng trong làng một màu nâu sậm như đồng hun. Người lạ từ xa đi vào làng, nhìn những người đàn ông khỏa thân đi lại tự nhiên, họ làm việc, phơi lưới, kéo thuyền trên bãi cát, trét lại những đáy thuyền, sẽ có cảm tưởng như mình đang đến thăm hòn đảo của những người sống theo chủ nghĩa tự nhiên lấy sự khỏa thân làm mục đích. Ở đây, những con người đơn thuần mộc mạc không cần vâng theo một quan niệm phức tạp nào hết. Họ sống, trần truồng theo nhu cầu của nghề nghiệp chài lưới, giữa thiên nhiên vô cùng, giữa biển và cát từ đời này qua đời khác. Những quan niệm táo bạo mới mẻ của những lớp người tự cho là văn minh tiến bộ thật ra chỉ lập lại những hình thái nguyên thủy vẫn còn luân lưu trong tiềm thức của con người mà thôi.
Ở đây mỗi khi có khách đến nhà, người đàn ông gia trưởng biểu lộ một cử chỉ lịch sự bằng cách chào hỏi khách xong, đoạn ông ta quơ một cái khố treo bên vách trịnh trọng quấn phần thân thể bên dưới, gọi vợ con pha nước chè rồi mới vui vẻ mời khách ngồi trên tấm phản giữa, tự mình ngồi xếp bằng xuống trước để làm gương cho khách ngồi theo.
Mùa biển tốt, đánh được nhiều tôm cá, người kẻ biển sống rất phủ phê, ăn uống nhậu nhẹt tối ngày, họ không có ý thức để dành tiền và thực phẩm. Vì vậy cho nên đến mùa biển động, họ thường chịu đói rét cơ hàn. Trong những mùa đói khổ đó, họ thường mang những đồ đồng xưa, mâm nồi, những bộ lư hương tam sựvào cầm cố trong làng ruộng. Người trong làng ruộng thường bóp chặt hết sức tàn nhẫn, đến nỗi qua mùa cá người kẻ biển không còn mong lấy lại được những của cải xem như gia bảo của mình. Nhiều khi cùng quẫn quá, đêm đêm họ rủ nhau vào các làng ruộng ăn trộm, thường bị dân làng đuổi đánh, có khi bị chết chóc hoặc bị thương tích què quặt.
Thế nhưng mỗi khi những người ở trong làng ruộng ra biển, luôn luôn được tiếp đãi ân cần với một sự rộng rãi mà chỉ người kẻ biển mới có, chính biển cả đã dạy cho họ lòng khoan dung, dễ tha thứ, dễ yêu đời.
Ngay trong thời chiến tranh này, người kẻ biển đã dang tay đón nhận những người từ trong làng ruộng chạy ra ẩn núp trong làng họ, ở đây tương đối được yên ổn hơn trong ruộng nhờ những độn cát trắng phau làm thành lũy cho họ canh chừng giặc đến. Khi một bóng địch quân xuất hiện từ xa trên cát trắng, mọi người đã nhận biết ngay, họ có đủ thì giờ bỏ tất cả vật dụng lên thuyền, đẩy thuyền ra khơi trước khi giặc đến làng.
Chiều nay hai anh em Lương và những người bạn có thể yên ổn ngồi ăn bữa cơm chiều dọn ra giữa sân trong một cái nia to tướng dùng để phơi cá hoặc phơi lúa. Họ ngồi quanh mâm cơm đặt ở giữa nia, bữa cơm chỉ có mỗi món tép kho, món ăn độc nhất của dân làng biển trong mùa tháng giá, biển động không ra khơi được. Ngoài ra họ còn được hưởng chút hương vị Tết nhờ người chủ nhà đã có nhã ý biếu họ một đòn bánh tét với một dĩa thịt heo kho đông.
Hoàng cười thoải mái:
– Chạy giặc như thế này chạy hoài cũng được, không gì cũng được một buổi tối tự do khỏi phải họp hành sinh hoạt gì cả, cũng khỏe.
Hồ làu nhàu:
– Chưa chắc, không chừng chặp tối ăn cơm xong các ông ấy chả có việc gì làm bèn nổi hứng lên cho đi tìm mấy thằng nhỏ về hành hạ cho vui không biết chừng. Chớ có vội mừng.
Bửu nói lửng lơ:
– Tới đó rồi hay. Hãy biết bây giờ ăn cơm xong ta đề nghị kéo nhau ra bãi biển chơi, đuổi bắt mấy con còng mang về tối nay đốt lửa nướng ăn. Trời lạnh, sóng biển ào ạt, cả bọn ngồi quanh bếp lửa, nướng từng con còng, tối trời cho nên béo ngậy, mùi còng nướng cứ dậy lên, thơm phức, tuyệt.
Bửu vừa nói vừa hếch mũi lên, hít từng hồi như mùi thơm của những con còng nướng đang phảng phất đâu đây.
Huyên nghe vậy cũng náo nức:
– Để Huyên hỏi mượn cái giỏ tí nữa mang theo bắt còng bỏ vào đó mang về nhé.
Huỳnh quay sang Huyên:
– Hơi sức nào mà Huyên lo việc ấy. Cứ để cho các ông ấy tha hồ mơ mộng, nói cho sướng miệng đấy thôi. Cứ ra bãi biển bảo tụi cua còng nó sắp hàng đứng sẵn đó cũng chưa chắc ông nào chộp lấy được một con chứ đừng nói, toàn là công tử Huế cả mà bày đặt đòi đi làm kẻ biển.
– Anh lầm to rồi đấy nhá, để chốc nữa tôi bắt cho anh coi, bắt thật nhiều nữa là khác. Chiều nay bác chủ nhà ở đây đã chỉ dẫn cẩn thận cho tụi tôi rồi. Này nhé, chỉ cần một bó đuốc, một cây sào dài, cứ đưa cao bó đuốc chạy dọc theo mé nước, trời tối lũ còng bò lên cả bãi biển ngắm sao, thấy ánh đuốc bèn lấy làm lạ ngẩn tò te đứng nhìn, thế là người cầm cây sào quơ gạt hẳn chúng nó lên trên bãi xa hẳn các lỗ hang của chúng nó, không còn chạy trốn vào đâu được nữa. Thế là ta ung dung thò tay hốt vào giỏ, mang về nướng, ra chi béo, ra chi thơm, tuyệt vời.
– Ừ, tuyệt lắm, giặc mà nó thấy ánh đuốc ngoài bãi biển lại càng tuyệt hơn nữa, thịt của lính kháng chiến cũng ra chi béo, ra chi ngọt, ra chi thơm đấy nhỉ.
Bửu ngẩn người rầu rĩ:
– Ờ nhỉ, thật muốn quên chiến tranh một phút cũng không xong, thôi vậy.
Nói xong, Bửu buông chén cơm đã ăn xong, lại ngồi trên một cái đòn dài giữa sân, buồn rầu đưa mắt nhìn quanh quẩn, mặt trời đỏ au đã xuống dần trên mặt biển, làm thành một vệt dài đỏ tươi chói lọi như sắc máu, phản chiếu lên nền trời đầy những áng mây bay tan tác, một vùng hào quang sáng chói kỳ dị, nổi bật lên giữa biển cả và không gian bao la đang chìm đắm trong bóng chiều dần tối. Tiếng gió rên dài qua trùng dương thổi lại lạnh buốt, sóng biển ào ào, có khi như những tiếng thì thầm, có khi như từng hồi cuồng nộ.
Mọi người lần lượt ăn xong, Huyên rót cho mỗi người một bát nước chè tươi, họ ngồi rải rác trong sân, ai nấy yên lặng nhấm nháp bát nước chè, lặng lẽ theo đuổi những ý nghĩ riêng tư. Trong không khí của buổi chiều đầu xuân nơi góc biển heo hút này, trong trí mỗi người đều hiện rõ hình ảnh gia đình đầm ấm với bàn thờ khói hương nghi ngút.
Bửu bỗng gọi Huỳnh:
– Này anh Huỳnh, Tết này anh Trần thế mà sướng được nghỉ phép ba ngày về thăm gia đình ở một vùng yên ổn gần thành phố, khỏi phải phiền vì những vụ Tây đi lùng như thế này, lại có hai người đẹp, nữ sinh Đồng Khánh về thăm. Tuyệt đấy chứ, anh Huỳnh nhỉ?
Huỳnh chưa kịp đáp, Lương quay sang hỏi Huỳnh:
– Có phải cái chuyện anh kể mấy tháng trước đó không? Thế ra mẹ Trần đã sắp đặt cho cô bé về gặp Trần để tính chuyện hôn nhân cho Trần thật rồi đấy à?
Phong la to:
– Lại có chuyện đó nữa ư? Thế thì ly kỳ thật, anh Trần gặp rắc rối rồi đấy nhé. Tôi vừa nghe mấy người bên Đảng bộ Tỉnh ủy bàn tán chuyện anh Trần vừa nạp đơn xin Đảng cho phép cưới chị Hiếu đây mà.
Huỳnh hơi sửng sốt, anh hỏi gặng Phong:
– Thật à, họ nói ra sao?
– Thì như vậy đó.
Huỳnh lẩm bẩm một mình:
– Cái thằng liều thật.
Huyên tò mò hỏi:
– Thưa anh sao anh lại bảo là liều? Nếu anh Trần anh ấy yêu người nào thì cưới người ấy, sao lại bảo là liều hở anh?
Lương phụ họa với em gái:
– Ừ, tôi cũng nghĩ vậy, nếu Trần yêu một người con gái ở miền kháng chiến này thì Trần có quyền đi cưới chứ đâu phải nhất thiết là phải cưới người do cha mẹ định đoạt mới được?
Huỳnh nói chậm rãi:
– Không phải thế, anh chưa hiểu. Chuyện không giản dị như thế đâu.
Huỳnh ngừng lại, khum tay che gió quẹt diêm châm một điếu thuốc, anh rít một hơi dài, ngẫm nghĩ, anh đang tìm lời để nói, thật khó mà nói cho người khác hiểu được mối tình ngang chướng của Trần và Hiếu mà có thể tránh được sự ngộ nhận lố bịch trong ý thức của người nghe. Trong lòng Huỳnh, sự giằng co giữa lòng thương mến đối với cả Trần và Hiếu, với ý muốn tách rời Trần ra khỏi mối tình kỳ quặc mà Huỳnh linh cảm thấy sẽ gây nhiều bất lợi cho Trần, mỗi khi nghĩ đến chuyện này Huỳnh lại thấy bực dọc không lối thoát. Bóng tối đã phủ đầy, nền trời lưa thưa vài ngôi sao nhỏ bé xa vời, từng đám mây lớn nối nhau bay qua bầu trời, biến đổi thành đủ mọi hình thù quái đản.
Tiếng Huyên cười nhỏ, hồn nhiên:
– Huyên cứ nghe các anh nhắc mãi về anh Trần mà Huyên chưa hề thấy mặt mũi anh ấy ra sao cả. Anh Lương cứ nhắc nhở bảo thơ hai anh Huỳnh và anh Trần hay vô cùng, rằng hai anh là thần thơ chứ không phải là thi sĩ nữa.
Phong đáp lời Huyên:
– Đúng vậy Huyên ạ. Thơ của anh Huỳnh và Trần là thơ gối đầu của thế hệ chúng mình hôm nay đó. Huyên sẽ có dịp được nghe, ờ mà Huyên chưa gặp anh Trần nhỉ, anh ấy rất trẻ, lớn hơn tụi tôi một chút thôi, người cao, gầy rất đẹp trai, thế mà hiện giờ anh ấy đang yêu một người đàn bà ngoài ba mươi, lớn hơn anh ấy cả chục tuổi, góa chồng, có hai con, không nhan sắc nếu như không muốn nói là xấu xí nữa.
Hoàng thong thả tiếp lời Phong:
– Kể ra thì chị ấy cũng không đến nỗi xấu nếu chị ấy đừng có đôi mắt lé quá nặng nề như vậy. Nhưng bù lại thì tính tình chị ấy rất đôn hậu, đáng quý. Có lẽ vì sống gần nhau lâu nên anh Trần cảm chị ấy vì tính nết mà không để ý đến vẻ ngoài và tuổi tác của chị ấy chăng. Dù sao thì cũng phải là nghệ sĩ thì mới yêu như thế được.
Lương sửng sốt hỏi Huỳnh:
– Chuyện đến thế kia à? Như vậy thì quả Trần liều thật, cái căn nghệ sĩ của Trần làm khổ Trần mất rồi.
Huỳnh gật đầu:
– Nó như vậy đó, tôi phân vân chưa biết nói thế nào cho anh và Huyên hiểu. Chỉ nội cái chuyện tình của nó cũng đã phi lý lắm rồi, bây giờ nó lại còn bày đặt thêm cái trò xin phép đảng của nó để cưới nữa thì rồi không biết sẽ tới đâu. Tôi lo ngại cho nó quá anh ạ. Cái thằng trông vậy mà gan lì không chịu nổi.
Huyên nói, giọng nao nức:
– Lạ quá nhỉ, Huyên muốn gặp anh Trần để xem anh ấy ra sao mà chuyện của anh ấy cứ y như tiểu thuyết ấy thôi. Tuyệt đấy chứ, anh Lương nhỉ.
Lương mỉm cười khoan dung, mắng yêu em:
– Cô thì chuyện gì mà chả tuyệt, anh đã bảo rằng cô nhìn thấy cái hay cái đẹp ở khắp mọi nơi mà lại, trai tơ với gái góa mà tuyệt cái nỗi gì. Anh cũng lo như anh Huỳnh đây, chuyện sẽ không tuyệt như các cô cậu tưởng đâu. Đừng quên Trần là đảng viên, rồi sẽ còn mệt nhiều đấy.
Có tiếng động ngoài ngõ, mọi người nhìn ra, một bóng người cao lớn đang đi vào, dáng thẳng tắp in lên nền cát trắng phía sau. Vào đến sân, người ấy lên tiếng:
– Chà, vui vẻ quá nhỉ, quý vị họp mặt ở đây vui vẻ như thế này báo hại tôi chạy đi tìm muốn chết.
Mọi người ồ lên mừng rỡ:
– À, Trần đây rồi.
– A, anh Trần, anh linh thiêng thật, mọi người đang nhắc anh thì anh tới.
– Tao tưởng mày đang ở nhà cô Thị chứ, sao lại dẫn xác về đây?
– Huyên đang mong gặp anh Trần thì anh Trần đó, Huyên thấy anh ấy thế nào?
Trần hỏi: – Huyên nào thế?
Lương giới thiệu:
– Đây là Huyên, em gái tôi, còn đây là anh Trần đó Huyên.
Trần chào Huyên, mặc dầu trời đã nhá nhem tối, không trông rõ mặt người:
– Chào Huyên, anh Lương hay nhắc đến một cô em đang đi học ngoài Khu Tư với chúng tôi luôn, có phải là Huyên đấy không?
Lương đáp: – Phải đấy Trần ạ, Huyên vừa trở về mấy tháng nay. Nó nghe chúng tôi nhắc đến anh nhiều quá nó sốt ruột cứ mong gặp anh để xem ra sao đấy.
– Các ông ấy nói gì tôi thế hả Huyên? Bây giờ Huyên gặp tôi rồi đó, có giống tí nào như các ông ấy diễn tả không?
Huyên cười nhẹ: – Trời tối quá Huyên có nhìn thấy anh rõ đâu mà anh bảo Huyên thấy anh thế nào.
Câu trả lời mà không trả lời gì cả của Huyên làm mọi người cười vang.
Lương xốc lại cổ áo ấm, gật đầu nói:
– Ừ, tối quá rồi thật, và lạnh nữa, nên vào trong nhà cho ấm thì hơn.
Mọi người lục tục kéo nhau vào trong nhà, người chủ nhà lăng xăng mời khách lên nhà trên, ông ta thắp thêm một dĩa đèn dầu phụng, châm thêm một ấm nước nóng, đoạn cùng vợ con rút lui xuống căn lều dưới dùng làm nhà bếp, và cũng là chỗ ngủ của gia đình họ.
Bửu hỏi Trần:
– Sao anh lại ở đây? Anh đang được phép về thăm nhà mà, tôi đang thèm được như anh. Tết nhất mà cứ lủi thủi mãi ở những nơi khỉ ho cò gáy này, rầu thúi ruột. Nghe nói anh có hai cô nữ sinh ở Huế về thăm phải không? Đời tươi như vậy mà bỏ về đây sao đành?
Trần cười, hàm răng sáng chói dưới ánh đèn dầu lạc:
– Sao đành về đây à, ừ nhỉ, ta cũng quên chưa hề tự hỏi như thế bao giờ. Để ta xem nào, về đây để góp mặt với các cụ như thế này có được hay không?
– Được quá đi rồi, sao anh biết tụi tôi ở đây mà đi tìm?
– Tôi ra biển từ chiều, ở làng trên kia, có người nói gặp Huỳnh và các cụ ở dưới này, ăn cơm xong tôi xuống ngay, ban chỉ huy chỉ qua bên này, họ bảo các cụ đang ăn cơm với người nhà, tưởng ai té ra anh Lương và Huyên. Tối mồng một Tết, anh em gặp nhau đông đủ thế này còn đòi chi nữa. May nhờ Tết nhất nên mới được thả lỏng đi tìm nhau như thế này chứ không thì giờ này còn sinh hoạt kiểm thảo chán, kêu rên gì nữa.
Hoàng nói:
– Tôi cũng vừa nói như thế mà mấy thằng nó cứ được voi đòi tiên đấy, cái thứ gì mà sướng không biết hưởng.
Lương gật gù:
– Đời cũng lạ thiệt, sáng mồng một thức dậy một mình buồn quá, tôi đi lang thang ra bờ sông, xuống bến đò nhìn chỗ vợ con ra đi mấy tháng trước cho đỡ nhớ, thình lình thấy tàu địch xuất hiện từ xa, thế là lo chạy giặc, những tưởng cái Tết này thế là đi đứt, chẳng có gì vui, không ngờ lại gặp anh em đông đủ như thế này, lại có cả Trần, thật hiếm khi được như thế này. Đêm nay Trần và Huỳnh ngâm thơ cho anh em nghe nhé, nếu được thì cuộc đời quả thực chưa đến nỗi nào.
Trần lục xắc, lấy ra một gói bánh ngọt và một gói mứt gừng, khi đi bà Thị đã vội vàng nhét theo:
– Có mứt bánh bà cô tôi nhét theo đây, sáng nay tôi ở nhà cô, đang đánh cờ tướng với thằng em, cuộc đời đang ung dung nhàn nhã thì nghe tiếng súng nổ nơi hữu ngạn dưới này, lại thấy ca nô địch từ từ đi ngoài sông, biết thế nào cũng có đánh nhau to, mới vội về đây chứ. Thôi tối nay mình hưởng tạm hương vị Tết ăn mứt gừng, uống nước chè tươi vậy. Ngày mai coi bộ vất vả đấy, tụi Tây chúng nó không để mình yên mấy ngày Tết đâu.
Huyên xuống nhà mượn vài cái đĩa bày bánh mứt ra, nàng thong thả pha nước, đưa bánh mứt mời mọi người. Cô gái đi lại trong nhà, ánh đèn dầu phụng lu mờ chiếu hắt cái bóng mảnh khảnh lên vách tường như một nỗi buồn mong manh.
Mùa xuân đến đâu đây, trong đêm đen, giữa một miền cát ròng sóng biển, những kẻ gặp nhau tình cờ trong mùa loạn lạc, đêm nay bỗng thấy ấm lòng.
Trong phút chốc mọi người đều yên lặng, trầm lắng giữa mộng mơ và thực tế. Mùa xuân len lỏi vào những mạch ngầm của u hoài và phiền muộn, của ly loạn và đau khổ, của tang thương và bất tuyệt.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:11:09 GMT -6
CHƯƠNG XXIV
Đêm càng về khuya, trong không khí hắt hiu cô tịch, tiếng thơ thâm trầm cảm khái của Huỳnh và Trần hòa lẫn tiếng sóng đại dương gầm thét chuyển động cả lòng đất sâu.
Cả vùng trời biển bao la có lúc như ngưng đọng, run rẩy theo lời thơ như bão táp mưa sa, như suối nguồn giải thoát biết bao ràng buộc u mê hạn hẹp.
Lời thơ làm rung chuyển bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu mộng mị của Huyên, người con gái bé nhỏ đang sống những ngày vô định, lạc lõng chưa biết về đâu. Lời thơ mang mang đưa Huyên về những miền tình người bát ngát, những cõi miền đầy nước mắt đau thương nhưng không vương mang thù hận.
“Thuở ấy quê hương tôi đau khổ, chìm đắm trong ô nhục, tất cả mọi người trên quê hương đều than khóc; nước mắt chảy thành suối thành nguồn thành sông thành biển. Tôi mang số kiếp người nghệ sĩ, tôi đã được khóc thật nhiều, tôi hòa chung những giọt nước mắt sướng thỏa trong nỗi đau thương với đồng loại.
Nhưng có một ngày, một luồng sáng lóe lên từ chân trời ảo ảnh, người người đều bị choáng ngợp mừng rỡ, tất cả đồng thanh hoan ca, nhân loại kết nhau thành từng dải, nắm tay nhau nhảy múa reo cười, mê cuồng say đắm.
Từ chân trời ảo ảnh, luồng sáng phóng ra kết tụ thành một mê cung, ở đó nhân loại dắt díu nhau đi lang thang hàng đoàn, ngày đêm cười lên từng tràng mê sảng.
Giờ đây chỉ còn mình tôi cô đơn ở lại giữa hư vô, chỉ còn mình tôi vẫn còn biết thương đau, giờ đây chỉ một mình tôi khóc.
Tôi không còn tìm đâu ra mảnh đất để gieo hạt giống sầu thương.
*** Đêm vừa tàn, trời mưa vừa tạnh, em bàng hoàng, chới với vì anh vừa thốt tiếng chia ly. Em cuống quýt, mê man vì đau đớn, em nguyện cầu xin Trời hãy cho mưa trút nước cho thành lụt, cho khỏi con thuyền cách bến sang.
Nhưng rồi anh cũng ra đi, anh rời khỏi vòng tay em, dấn thân vào vòng đam mê, đỏ tươi rừng rực lửa đạn bạo tàn.
Anh đi rồi, em vẫn còn ngồi mãi bờ sông khóc tận chiều, em khóc cho mối tình không chắc, lệ có vơi cùng đau quạnh hiu, tiễn anh này dạo mùa thay lá, mai ngày nếu anh hy sinh trước hay em trước, ta nguyện ôm mồ chôn kiếp yêu.”
Tiếng ngâm của Huỳnh bỗng trở nên khờ dại:
“Lòng em là mẹ bầy con dại Mẹ bé mồ côi khổ rất nhiều, Lòng khổ đi tìm thương xót khổ Khổ trần xin họp bến nâng niu.”
*** “Này, hãy nghe đây, có một nước cộng đồng. Ở đó có nghìn Chúa bay lên, nghìn Chúa xưng tên, không thiết nhìn nhau, rằng đó là nhau.
Này, hãy nghe đây, ở nước cộng đồng người người đều no lành, sức người không hề nghèo, hoa đời không hề tàn.
Này, này, hãy nghe đây, ở nước cộng đồng đầu đầu quầng mười vầng thần trí, người người quầng mười vầng từ bi.
Này, này, hãy nghe đây, người hãy gắng sức đi tìm một nước cộng đồng như thế trên vũ trụ biến động khôn lường này.”
Đó là những điều mà Huỳnh đã gởi gắm trong thơ của anh. Tiếng ngâm của Huỳnh vang vang niềm ưu ái xót thương.
Lời thơ như hơi thở cúi xuống thổi đi chút bụi mờ trên giòng đá khắc, khuôn mặt Huỳnh ẩn hiện dưới ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ, râu tóc phủ kín mặt anh chỉ để lộ sống mũi cao và đôi mắt ngời ngời một nỗi bi thương giữa một thế giới hoang tàn. Huyên xúc động sâu xa, một chân trời vừa mở trước tuổi thơ thần thánh có những suy tưởng đam mê đến cùng cực. Từ bao lâu Huyên đã buông mình trôi bềnh bồng trong đó, có một cái gì trong Huyên từ chối một sự thức tỉnh, nàng biết rằng đàng nào cũng chỉ đưa đến một sự giằng co rách nát tâm hồn mà thôi.
Trong muôn ngàn mớ cảm nghĩ hỗn độn đau buồn đó, Huyên mơ hồ nghe những tiếng thơ của Trần nối tiếp.
“Mưa rừng. Ngày này qua ngày khác, những cơn mưa kéo dài lê thê dưới bầu trời nặng trĩu mây đen. Cả vũ trụ ướt sũng vây hãm lấy ta. Rừng sâu rạp mình dưới cơn mưa ngàn thác lũ, không một lời chim vọng lại, bao lâu ta thức trong lòng lá, nghe suối trường thiên kể nỗi niềm.
Rồi một ngày, mây đen dàn thành hàng theo gió bay đi, mở hé một mảnh trời xanh như thoáng hiện thiên đường, có tia nắng lọt qua kẽ mây chiếu xuống khu rừng một chớp lóe tinh khôi. Tức thì rừng sâu xao xác, vạn vật cựa mình, ta nghe muôn ngàn tiếng chim trỗi lên lảnh lót.
Đột nhiên tiếng chim tắt nghẹn, vạn vật im lìm, rừng thiêng cúi lặng, ta lạ lùng chẳng hiểu từ đâu, ngẩng trông lên, tia nắng phỉnh phờ không còn nữa, bầu trời giăng giăng một màn mây xám xịt.
Tia nắng đã có ma lực sai khiến chim rừng mừng hão vội ca vang, từng tràng lanh lảnh nhưng rồi ngậm, ta ngẩng trông trời xám sắc mây!!!”
***
“Em nằm đó, đất ấm êm ôm ấp da thịt tươi nồng của em. Mồ thì xanh, xanh quá, lá say đời. Hàng cây lá lướt thướt nghiêng xuống mồ em, rỏ lên thi thể còn xanh của em những hạt lệ tao phùng. Đêm đêm, có ánh sao khuya băng mình qua hàng ngàn thế kỷ đến đậu trên hàng mi em, trên mắt em khép kín một giọt sáng long lanh.
Em nằm đó, thời gian ân cần đón nhận em vào lòng Mẹ Thiên Thu. Em buồn chi em, có anh, người thi sĩ quỳ xuống bên em, có môi anh hôn lên vết thương se sắt của em, có môi anh hôn lên đầu mũi tên tẩm độc, có bàn tay anh vuốt mặt cho em, bàn tay anh xin em xóa hết hận thù.
Trả lại cho thế nhân bao căm hờn phi lý, trả lại cho người ngọn lửa dữ hung tàn. Bao kinh hoàng đớn đau xưa không còn nữa, xin em rủ lòng thương lũ người quay lại giày xéo lên nhau.
Đồng loại em đánh đuổi em ra khỏi cuộc đời, em nằm xuống đây, Đất Trời giao hòa thương mến, em nằm xuống đây, yên hàn thư thái, đợi chờ đồng loại thoát kiếp u mê, trở về cùng em trong lòng hư vô bất tuyệt.”
Tiếng thơ đã dứt từ lâu, mọi người chưa hết bàng hoàng. Gió lộng từ trời cao xoáy sâu xuống lòng biển rộng, bùng lên một âm ba chấn động khiến không gian khép nép.
Ngọn đèn dầu khô cạn, không ai buồn nói năng. Huyên kinh ngạc đến toàn thân bất động, có cái gì đâu đây, một ý thức vạn năng của kiếp sống, có một điều gì đó, lần đầu tiên trong tâm trí non nớt của Huyên bỗng nhiên thấy mình trở nên cao cả, vĩ đại vô cùng. Huyên nhìn quanh những khuôn mặt đều trở nên gần gũi thân thiết biết bao.
Đêm nay tâm hồn Huyên chùng xuống, cảm thông với cõi miền vô cùng vô tận. Đêm nay giữa lòng quê hương chiến tranh hận thù chất ngất, người thơ đã vượt muôn trùng, giữa sóng gào gió thét, mang về một chút bình yên trong lòng người thế hệ.
Có tiếng đập cửa, mọi người choàng tỉnh cơn mơ, Huỳnh bước ra mở hé cánh cửa, một liên lạc viên của ban chỉ huy cho biết có lệnh mới, mọi người phải trở về đơn vị để chuẩn bị cuộc hành quân trước buổi sáng mai.
Trần, Huỳnh và Hoàng, Bửu, Hồ, Phong từ giã hai anh em Lương để trở về đơn vị của mình.
Lương và Huyên tiễn những người bạn ra sân, hai anh em nhìn theo những bóng người áo xám chìm khuất trong sương khuya, không ai nói với ai một lời.
Đêm tối mịt mùng không có một vì sao, tiếng chim đêm thất thanh vang lên trong độn cát mênh mông báo hiệu có những bước chân di động để lại vết hằn trên cát trắng.
Nhưng trước khi bình minh ló dạng, cơn gió ban đêm đã xóa mờ dấu vết, đùn lên những gợn sóng cát thiên thu.
Không ai biết những bước chân đi qua đêm là của bạn hay của thù.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:17:44 GMT -6
CHƯƠNG XXV
Lương bị bắt vào ngày mồng năm, hai ngày sau khi chạy giặc trở về nhà. Huyên sửng sờ đau đớn, nàng câm nín nghe người làng bàn tán.
– Thằng Việt gian này ghê thật, học hành nhiều cũng có khác, nó thu xếp cho vợ cơn nó đi vào Huế trước rồi mới chỉ điểm cho giặc về phá làng phá xóm sau. Chả trách máy bay giặc thả bom tan nát cả làng mà nhà nó vẫn y nguyên, không biết nó làm dấu cách nào mà tài thế.
– Thì ra lâu nay làng xóm mình ấp rắn độc trong lòng mà không biết. Cái thứ đồ tiểu tư sản trí thức địa chủ thối nát ấy rồi chỉ đến bán nước là cùng. Công an mình cũng sáng suốt lắm, đã biết trước nhưng chưa có bằng chứng, cứ làm ngơ để đấy, bây giờ tội trạng đã rành rành mà nó còn leo lẻo kêu oan nữa đấy.
– Làm sao mà mình có được bằng chứng nó làm Việt gian thế?
– Ối dào, bằng chứng thì thiếu gì, này nhé, suốt mấy ngày gần Tết chiều nào nó cũng đi dọc bờ sông ra dấu hiệu cho đồng đảng của nó bên kia sông để liên lạc về dưới đồn làng Hạ. Nó lại còn kêu oan, nó bảo nó ra bến đò để đón vợ con ở Huế về, nghe kể cũng xuôi ta, nhưng đón ở bến đò thôi chứ, việc gì lại đi dọc bờ sông tháng chạp trời lạnh buốt thế, bộ đi hóng mát hay sao. Rõ ràng hơn nữa là sáng mồng một Tết, đúng ngày Tây đổ bộ vào làng, hôm ấy nó ra khỏi nhà từ sáng sớm trong làng chưa nhà nào mở cửa cả. Nó lại ra bờ sông, đò Huế về buổi chiều chứ làm gì có buổi sáng mà bảo đi đón vợ con, nó lại mặc một cái áo trắng cho Tây dễ nhận ra nữa chứ, lại ra đứng tận đầu bờ đập ở giữa sông để ngoắc tàu địch tới, thiệt nó không coi ai ra gì hết chỉ nghĩ đến chuyện rước giặc vào làng mà thôi. Nghĩ mà hú vía, hôm đó nếu không có bác Còi đi thăm mấy cái đơm đó đặt ngoài bờ lác bắt gặp nó ngoài sông thì làng mình còn nhiều trận điêu đứng nữa chứ chẳng chơi đâu. Bác Còi bác ấy bảo rằng khi nó bị bắt gặp đi một mình ngoài sông vào giờ ấy, bộ tịch nó lúng túng ra mặt, bác ấy chào và chúc Tết nó, nó cũng không dừng lại nữa.
– Ai mà ngờ nhà ông Nghè ăn ở tử tế như thế lại sinh ra một thằng Việt gian như thế. Cho con ăn học cho biết nghĩa lý hóa ra nó học tiếng Tây nó đi theo liếm gót thằng Tây. Nhà cửa ruộng vườn dư ăn dư để, đến nỗi gì mà phải làm bậy. Thiệt là lòng tham không đáy, chắc tụi Tây nó trả lương cho vợ con nó trong Huế cũng nhiều lắm.
– Nhiều là cái chắc, người làng mình vô Huế thấy mụ vợ thằng Lương ăn bận sang trọng, vàng đeo đầy mình đi trên chiếc xe hơi bóng lộn. Không có tiền của Tây trả lương bán nước cho thằng chồng ngoài này mà con vợ trong ấy lại được như vậy à.
– Tôi nghe nói gia đình bên vợ chú Lương giàu lắm, xe hơi hai ba chiếc, không chừng thím Lương đi xe của cha mẹ thì sao?
– Ơ, cái thằng này muốn bênh Việt gian địa chủ hay sao đó. Ai chẳng biết hồi mụ ấy ở đây nó giúp cho chú đem tiền về lo thuốc thang cho mẹ chú đau nặng. Chú thật ngu ngốc, cứ tưởng thế là nó tốt bụng, nó cho một nó lấy lại mười, chú làm việc cho nó thí chết chẳng kể đêm ngày chứ tốt lành gì mà bày đặt thương Việt gian địa chủ.
– Đừng nói thế tội chết. Nói là nói vậy chứ ai mà ưa được cái giống địa chủ Việt gian.
– Ừ, có thế chứ, dù sao thì tối nay họp tổ nông dân, chú cũng nên tự kiểm thảo sự yếu đuối đó để cho đoàn thể giúp đỡ cho chú dứt khoát tư tưởng với tụi địa chủ phong kiến đi nhé.
– Có gì đâu mà dứt khoát, tôi có thương tiếc gì họ đâu mà anh nói thế.
– Hừ, nếu chú không đưa ra thì tôi cũng phải đưa ra, phải xây dựng cho chú tiến bộ kịp với đà cách mạng vô sản chứ.
– Cái đó tùy anh.
Những luận điệu như thế cứ ngày này sang tháng khác gặm mòn tâm trí của Huyên. Nàng bước đi, lòng hoang mang sợ hãi đến cùng cực. Người anh họ mà Huyên thương mến nhất, quý trọng nhất giờ đây đã trở thành một người xấu xa tồi tệ nhất dưới mắt mọi người. Việt gian, không có danh từ nào nhục nhã cho bằng.
Huyên âm thầm đau đớn, ngoài mặt nàng không dám tỏ lộ với ai ngay cả những bà con ruột thịt gần gũi nhất. Nàng hiểu thân phận nàng cũng chẳng hơn gì anh Lương của nàng, người ta còn để yên nàng vì nàng chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi mà thôi.
Lương bị bắt mang đi đâu không ai biết đã hơn một tháng, cả làng sau một hồi xôn xao bàn tán rồi cũng nguội dần đi. Không một ai dám tỏ vẻ lo lắng thương xót, mọi người đều nhất loạt biểu lộ sự căm hờn đến tột độ, tưởng chừng như nếu người ta đưa anh về làng lúc đó, dân làng sẽ ùa ra băm nát anh lập tức.
Huyên hết sức dè dặt trong việc đi tìm hỏi thăm tin tức của người anh. Nàng nói với người nhà rằng nàng đi qua bên kia sông để thăm người cô lấy chồng bên đó. Huyên tìm đến cơ quan của Huỳnh, gặp luôn cả Huỳnh và Trần trong một căn nhà trống trải. Hai người đang ngồi nói chuyện, vừa thấy Huyên, Huỳnh đứng bật dậy, ra đón Huyên từ ngoài sân, Huỳnh nói nhanh:
– Anh biết Huyên tìm anh về việc gì rồi. Hãy vào đây, có anh Trần ở đây nữa, chúng ta nói chuyện.
Huỳnh đưa Huyên vào nhà, chỉ một cái ghế cho Huyên ngồi, như cái máy Huyên ngồi xuống ghế, nhìn Huỳnh, đôi mắt buồn bã, chờ đợi.
Huỳnh trầm giọng nói:
– Anh và Trần đang định tìm gặp Huyên, vì biết rằng sau khi anh Lương bị bắt, Huyên ở bên ấy không còn ai nữa. Anh cũng biết rằng Huyên mong biết tin tức của Lương.
– Vâng, em lo lắng cho anh em quá mà không dám hỏi ai cả. Tội nghiệp anh em bị bắt oan, hai anh cũng biết đó. Chỉ vì anh ấy thương nhớ vợ con quá, lại có cái tật khi buồn thì ưa đi lang thang mà ra nông nỗi.
– Anh ấy bị bắt không oan đâu Huyên ạ.
Huyên mở to mắt nhìn Huỳnh:
– Cả đến anh mà cũng có thể nghĩ là anh Lương em làm Việt gian ư?
Trần mỉm cười chua chát:
– Huyên không hiểu, đó chỉ là một cách nói của anh Huỳnh đó thôi. Anh Huỳnh nói thế có nghĩa là chuyện người ta bắt anh Lương là một việc có dự liệu ở trong chính sách chung. Còn có tội hay không điều ấy không thành vấn đề.
Huỳnh ngắt lời Trần, đôi mắt bừng lên sắc giận:
– Anh ấy có tội chứ, tại sao không? Nhưng không phải bị tội làm Việt gian đâu, Việt gian chỉ là cái cớ để bắt mà thôi. Anh ấy có cái tội to lắm, tôi đã biết từ lâu, đó là tội tiểu tư sản trí thức, địa chủ phú hào, Huyên hiểu rõ chứ?
Huyên tái mặt, đôi môi nhợt nhạt của nàng run lên:
– Nếu thế thì nguy cho anh Lương em lắm rồi, em có nghe những chuyện như thế ngoài miền Bắc, không ai thoát chết được cả, miền Bắc cứ hễ địa chủ là có sẵn tội cường hào ác bá rồi.
– Đó là những vùng tương đối yên tĩnh, xa hẳn vùng địch chiếm, trái với miền Trung chúng ta, sát nách các đồn Tây, lại ở gần các thành phố của địch, cho nên để bắt đầu chính sách tiêu diệt giai cấp, người ta phải có những thủ đoạn thích hợp với từng địa phương, Huyên hiểu rõ điều đó chứ? Trí não của con người tinh vi lắm Huyên ạ.
Huyên tỏ vẻ nôn nóng:
– Hai anh có biết bây giờ anh Lương em ở đâu không?
Giọng Trần ôn tồn:
– Khi Lương mới bị bắt đưa lên tỉnh, anh có đến thăm, chả nói được gì nhiều, Lương nhờ nhắn với vợ con cứ ở yên trong Huế, đừng về làng nữa, việc ấy anh đã nhờ cô anh nhắn lại rồi. Lương rất bình tĩnh, đàng hoàng, tuy người tiều tụy lắm. Tất cả anh em chúng ta đều đau buồn khi nghĩ đến Lương trong tình trạng bi đát này, nhưng chúng ta cần phải bình tĩnh mới được Huyên ạ. Riêng các anh không biết phải làm sao đây, khoanh tay ngồi nhìn một người bạn bị hãm hại oan ức, những thằng con trai như các anh lại càng nhục nhã hơn Lương đang chịu cảnh giam cầm nữa.
Huyên cúi đầu:
– Vâng, em hiểu.
Huỳnh cười khẩy:
– Đừng hiểu gì cả mà đỡ khổ Huyên ạ. Huyên còn trẻ quá, hãy vui đời, hãy hồn nhiên mà sống, như thế lại hơn. Có thương anh Lương thì để bụng. Huyên đùng nghĩ rằng người ta có thể bằng lòng để yên cho một cô gái nhỏ tỏ lòng thương xót một người thân thích của mình. Thương Việt gian, thương địa chủ tội nặng lắm đấy. Khi về bên làng Huyên nên thận trọng là hơn. Hiện giờ các anh không thể biết Lương đang ở đâu, công an viện cớ giữ gìn bí mật chuyên môn nên không thể tiết lộ chỗ giam Lương cho ai biết, họ cho biết đây là trường hợp tội phạm chiến tranh rất nguy hiểm.
Huyên lặng người, nàng không thể khóc, cũng không nói gì được nữa.
– Anh đang nhờ những người quen có thế lực hỏi giúp, có gì anh sẽ cho Huyên biết. – Trần nói bằng giọng xót xa.
Huyên vâng dạ, một lát nàng đứng dậy buồn bã cúi chào Huỳnh và Trần để ra về.
Hai người tiễn Huyên ra cổng, Huỳnh nhìn theo dáng người gầy nhỏ của em gái bạn, nói với Trần:
– Tao e rằng cô bé này cũng khó ở yên với cái tụi ủy ban xã ở bên ấy, vì cô bé quấn quýt thương mến Lương quá đỗi. Bây giờ Lương bị bắt, không biết cô bé sẽ ra sao.
Trần nghiến răng:
– Có Trời mới biết được những gì có thể xảy ra giữa thời buổi này. Vậy mà không thấy Trời can thiệp gì cả, bộ mảnh đất này bị Trời bỏ quên hay sao.
Huỳnh chua chát:
– Nếu không bỏ quên thì cũng là không muốn nhớ, đằng nào cũng vậy thôi.
Huyên thất thểu đi xa dần tầm mắt của Huỳnh và Trần, vừa thì thầm khấn nguyện, trong khi đôi mắt nàng đẫm đầy lệ:
– Xin Trời thương anh con, xin Trời rủ lòng thương xót tất cả chúng con.
Huyên không nhớ mình đã đi qua bao nhiêu chiếc cầu nhỏ bắt từ xóm này qua xóm khác. Đang lầm lủi bước đi Huyên nghe tiếng người gọi tên nàng. Nàng ngẩng lên thấy Phan, một người bạn học cùng trường ở Hương Khê ngày nàng còn học ở Liên khu Tư.
Phan đứng trong sân một ngôi nhà nhỏ, chàng mặc quân phục, nét mặt đẹp đẽ cương nghị, đôi mắt trong sáng tươi cười nhìn Huyên. Huyên dừng lại, cảm thấy lòng êm ả dịu dàng, mọi lo âu đau đớn trong lòng hầu như tan biến khi nhìn thấy người bạn của một thời đi học, một thời mà những giấc mơ tròn đầy thắm thiết.
– Anh đóng ở đây à? Huyên hỏi.
– Vâng, đơn vị tôi về đóng ở đây vài tháng nay. Huyên vào chơi đã.
Huyên tạt vào, buổi chiều đi qua ngoài kia, trong khi câu chuyện hàn huyên không dứt giữa hai người bạn học. Hình ảnh mái trường xưa đầy rêu phong, những cây cau trong sân trường, những ngọn đồi đầy hoa sim tím phía sau đồng cỏ may sau lưng trường học. Hai người nhắc đến hai cây bàng liền cành nhau trên con đường dốc trước cửa trường đổ xuống thôn Gia Ninh, nơi họ ở trọ học. Ở đó, khi mùa trăng đến, ánh trăng loáng bạc trên những tàng lá to xòe rộng như những chiếc dù, che chở ngôi làng chìm ngủ trong bóng đêm yên tĩnh tràn đầy ơn phước, những cây cam, cây bưởi, mùi hoa thoáng động trong đêm.
Và giòng sông Ngàn Sâu chảy ngang qua thôn Gia Ninh, băng qua Chu Lễ xuôi về Châu Phong, Đức Thọ, thuận giòng trẩy đến Nam Đàn, Đô Lương, những bờ đê những nương dâu, câu hò tiếng hát đêm trăng lướt qua cánh rừng hoa trảo trắng muốt liêu trai. Biết bao địa danh thân thiết, biết bao khuôn mặt thầy học, bạn bè thân thuộc, luyến lưu, Phan và Huyên cùng lần lượt nhắc nhở, cùng chung một niềm hoài tưởng.
Huyên từ giã Phan ra về khi nắng xế nghiêng trải dài một làn gợn sóng lăn tăn trên sông xanh biếc ngoài kia.
Phan hỏi xin Huyên chiếc quai nón của nàng làm bằng một dải len màu hồng tết bím. Chàng nói để chàng thắt một cái nơ trên quyển vở của chàng và tết một sợi dây trên chiếc huy chương chiến sĩ của chàng. Huyên cười hồn nhiên, nàng tháo quai len màu hồng đưa cho Phan. Khi ra ngoài đường ngang qua một bụi chuối, Huyên dừng lại, nàng tước một sợi dây chuối đã gần khô, màu nâu xốp, cột vào chiếc nón bài thơ của nàng.
Huyên trở về làng, trên thuyền đi qua sông, nàng thấy mình đang đi ngược giòng thời gian. Cuối sông những lá hoa xưa đang phất phới vẫy gọi nàng từ một miền thiên đường bát ngát, ở đó có trường xưa, có thầy và bạn, có giòng sông, có những tàng cây to loáng ướt sương trăng, có một mùa hoa trảo trắng ngời, có những đồi sim ảo mộng.
Từ cõi miền đó, chiều nay khuôn mặt Phan tươi cười rạng rỡ đã đưa Huyên trở lại quê hương của tuổi thơ, giây phút thần tiên ngắn ngủi lãng quên đi thực tại đau buồn.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:19:26 GMT -6
CHƯƠNG XXVI
Trần cúi xuống, khuôn mặt người đàn bà tắm đẫm ánh trăng sáng ngời lên màu sữa, những giọt nước mắt lóng lánh đọng lại trên hàng mi khép hờ của nàng. Trần đặt môi lên giòng nước mắt nóng ấm, vị mặn chát thấm lan đầu lưỡi chàng. Trong một thoáng, hình ảnh người con gái bị hành hình trong khu rừng già ngày nào với đôi mắt khép kín còn hoen ngấn lệ bỗng hiện ra trong trí chàng.
Trần lắc đầu, như muốn xua đuổi cảm giác nôn nao bất ổn xâm chiếm tâm hồn, chàng cúi xuống tìm môi Hiếu, đôi môi nồng ấm, hơi thở dịu dàng mê man của người yêu làm chìm lắng xô dạt về chốn hư vô nào đó mọi ý tưởng đau thương xa xót. Những lá cỏ rung rinh lấp loáng quanh hai người. Một cơn gió lạ bay quanh suốt ngọn đồi, lang thang bay mãi lên cao, cuốn theo những dải mây trắng trôi đi hàng hàng lớp lớp. Trăng thượng tuần cũng lang thang đi ngược chiều giữa những đám mây bay, cô đơn và lạnh lẽo.
Trần nằm ngửa nhìn mây bay ngang trời có khi bóng trăng bị mây che khuất kéo lê những vệt mờ rối trên lưng đồi, thân thể Trần cũng bềnh bồng như muốn trôi đi. Chàng hỏi Hiếu ngồi yên lặng bên cạnh chàng:
– Hiếu có nhìn thấy trăng đang đi không?
Hiếu ngẩng nhìn trăng nói thật thà:
– Hồi còn bé tôi nhìn trăng bao giờ cũng thấy trăng đi, nhưng không hiểu sao lớn lên có khi tôi để ý nhìn mà không thấy trăng đi nữa, trăng cứ đứng yên giữa trời. Có lẽ ngày bé chưa biết buồn, còn đang vui nên thấy trăng đi, thấy ngày chóng qua, còn bây giờ đời đã buồn nên ngày tháng không đi, trăng cũng không đi.
Trần chép miệng thở ra:
– Ăn nói như thế làm gì mà người ta không mê.
Hiếu quay lại nhì Trần ngẩn ngơ:
– Tôi có nói gì đâu nào?
Trần vòng tay kéo mặt Hiếu xuống sát mặt mình, hôn dài trên khuôn mặt chìm trong bóng tối.
– Hiếu có biết không? Hiếu nói những câu mà Hiếu thường không biết là mình đã nói gì, Hiếu có biết như thế đáng yêu biết chừng nào không?
Hiếu để yên cho Trần hôn mình, đoạn nàng dịu dàng gỡ tay Trần ra, ngồi thẳng lên, giọng buồn bã:
– Không, tôi không thể biết được.
Trần nghiêng mình trên cỏ may, nhìn hình dáng Hiếu ngồi yên trên sườn đồi, in lên nền trời phía sau, Hiếu ngoảnh nhìn đi chỗ khác để tránh cái nhìn nồng nàn say đắm của Trần khiến nàng xôn xao không chịu nổi, nét bán diện của nàng trong bóng trăng mờ ảo có một vẻ trẻ thơ thanh thoát lạ lùng.
Trần buột miệng nói:
– Chả trách các cụ mình ngày xưa thường bảo “nhất vợ nhì trời” cũng phải.
Hiếu ngạc nhiên:
– Tại sao Trần lại bảo vậy?
Trần cười mơ hồ trong ánh trăng:
– Chứ không phải sao, này nhé, nằm như thế này mà nhìn lên thì trời ở trên kia xa quá, vợ thì ở ngay trước mặt, thế không phải là “nhất vợ nhì trời” thì là gì nào?
Thấy Trần dùng tiếng “vợ” để chỉ mình, Hiếu xúc động nghẹn ngào, nàng ngồi yên, nước mắt nàng lại trào ra. Trần kéo nàng sát vào người chàng, quàng tay ôm chặt lấy nàng, thì thào:
– Lại khóc rồi, xấu lắm, bộ không phải là vợ anh rồi đấy ư?
Giọng Hiếu chìm trong tiếng nấc:
– Tôi sợ, tôi sợ lắm.
– Em sợ gì?
– Tôi sợ làm khổ anh.
Trần bật ngồi dậy, chàng nghiêm giọng gọi:
– Hiếu, hãy quay lại nhìn anh đây này.
Hiếu sợ hãi quay lại nhìn Trần, nước mắt trên má nàng chảy thành vệt dài sáng ướt dưới trăng.
– Việc Đảng không chấp thuận cho anh cưới em không thành vấn đề. Kể từ nay, em là vợ của anh mãi mãi, từ nay chúng mình vui buồn có nhau, sống chết có nhau. Anh có trách nhiệm lo cho em và hai đứa bé, từ nay không có sức mạnh nào có thể chia rẽ anh và em được nữa, em hiểu chưa?
Hiếu cui cúi đầu, khổ sở:
– Nhưng tôi biết rõ rằng họ sẽ không để yên cho chúng ta đâu, Trần ơi, phần tôi thì không sao, tôi chịu khổ đã quen đi rồi, tôi chỉ sợ cho anh, tôi sợ lắm, nếu anh có bề gì, tôi không thể nào sống nổi.
Trần vuốt ve mái tóc Hiếu, giọng chàng dỗ dành thương cảm:
– Họ không làm gì anh đâu, em đừng lo. Hiện giờ cơ quan không giao công tác cho em nữa, như thế càng hay. Từ lâu anh đã có ý không muốn cho em nhận lãnh những nhiệm vụ nguy hiểm quá đối với một người đàn bà yếu đuối và còn có con dại như em, chưa biết làm thế nào thì bây giờ họ kiếm chuyện cho em nghỉ việc, như thế cũng lại là một dịp may. Từ nay em có thể rảnh rang để lo cho anh và hai con mà thôi. Mẹ và chị có gởi cho anh ít tiền và vàng, anh chẳng dùng đến, em giữ lấy để sống qua lúc này và buôn bán gì thêm. Rồi chúng mình sẽ liệu sau, bây giờ em đừng khóc nữa, chúng mình có rất ít thì giờ được gần bên nhau như thế này, ngày mai anh lại phải đi rồi, đừng để khi anh đi xa, cứ nghĩ đến em là thấy mặt em đầm đìa nước mắt, anh buồn. Anh chỉ còn góc núi này có em thương yêu và hai bé Hiền Hòa thơ dại. Em không thể biết được khi ở dưới kia, sát bên đồn địch, hay giữa mặt trận, hình ảnh em và hai đứa bé đã theo anh đi khắp mọi nơi như thế nào. Ừ, có thế chứ, em tươi lên như thế làm anh vui biết bao. Em không thể biết được em đẹp đến như thế nào Hiếu ạ.
Hiếu quay đi, giọng trách móc:
– Đừng nói thế, làm tôi thêm tủi, tôi mà đẹp cái nỗi gì.
– Không có người đàn bà nào xấu cả, và người đàn bà nào khi yêu cũng đẹp tuyệt vời, mà em thì yêu anh vô cùng, phải không Hiếu? Anh biết thế vì anh thấy em đẹp quá, nhất là đêm nay, tại sao em đẹp thế, hở em?
Hiếu cảm thấy nóng bừng hai má, cái nhìn nóng bỏng, giọng nói du dương của Trần như ru nàng trong một vùng khí hậu ấm áp chan hòa hạnh phúc vô biên. Bỗng dưng thẹn thùng như ngày mới lớn, nàng cuống quýt bảo Trần:
– Thôi đừng nói thế nữa, Trần kỳ cục lắm, ai lại đi yêu một người xấu xí và lớn tuổi hơn mình mà lại cứ bảo đẹp hoài. Trần hay nói nhảm lắm.
Hiếu nghiêng đầu nhìn Trần, vẻ tò mò:
– Tại sao, tại sao vậy hở Trần, tại sao lại đi yêu tôi, một người đàn bà xấu xí và lớn tuổi hơn Trần nhiều vậy?
Trần cười lớn, giọng ngạo nghễ:
– Em tưởng là em lớn hơn anh ư? Như vậy là em lầm. Để anh nhắc lại cho em nhớ kẻo em quên nhé. Ngày xưa chúng mình là Kim Đồng và Ngọc Nữ ở trên trời, hai đứa quấn quýt thương yêu nhau lắm, chạy nhảy nô đùa với nhau cả ngày. Một đêm trăng như đêm nay, hai chúng mình tò mò vén mây nhìn xuống trần gian, thấy trên một ngọn đồi bóng mây bay lướt thướt, cảnh trí thật huyền ảo, có hai người nam nữ yêu nhau ngồi dưới bóng trăng thủ thỉ với nhau những lời thật nồng nàn, tha thiết, cũng như chúng mình đêm nay vậy. Họ hôn nhau những cái hôn dài mê man tưởng như đất trời không còn nữa như thế này này. Ơ, đừng vùng vằng như thế chứ, để anh kể tiếp, thế rồi Kim Đồng Ngọc Nữ bỗng thấy động lòng trần tục, hai đứa nhìn nhau, cùng ngây ngất đọc thấy trong mắt nhau sự say đắm, ước muốn, nhìn quanh chúng thấy cảnh trời chán ngắt, buồn hiu. Hai đứa bèn rủ nhau xuống trần gian, hẹn sẽ yêu nhau làm vợ làm chồng. Nói là làm, Ngọc Nữ là con gái nên mau mắn lắm, cô bé cứ để chân trần phóng nhanh xuống trước, còn Kim Đồng là con trai nên chậm chạp, tính nết lại lo xa sợ đường trần đầy chông gai nên lo đi tìm giầy dép mang vào chân, cẩn thận rồi mới xuống sau, vì vậy Kim Đồng xuống trần chậm hơn Ngọc Nữ mười phút, thế nhưng mười phút trên trời bằng mười năm dưới trần thế. Vì thế nên khi xuống trần Kim Đồng bị sinh ra sau Ngọc Nữ mất mười năm, lạc nhau mất mấy mươi năm sau mới gặp lại nhau, bây giờ tìm gặp nhau rồi họ không bao giờ để mất nhau nữa, họ trở lại ngọn đồi tiền kiếp trong một đêm trăng để thực hiện mộng ước của họ khi ở trên trời. Em nhớ không em? Có đúng như vậy không em? Tại sao em rùng mình? Em lạnh phải không em? Ờ, sương xuống ẩm ướt cả vai em rồi đây này, chúng mình trở vào nhà em nhé, ừ sao em nhớ rõ ngọn đồi này mà đến đây làm nhà bên sườn đồi để chờ anh vậy? Cái gì xui khiến anh tìm đến đây để được gặp em? Phải có sao chứ phải không em? Chúng mình có tiền duyên với nhau mà. Em buồn vì em không được đẹp ư? Em không hiểu vì sao em không đẹp mà anh yêu ư? Bởi vì Trời giận sao em lại rủ anh xuống trần đấy, Trời thử thách xem chúng mình có yêu nhau thật không đấy. Nhưng anh nghĩ thế lại hay bởi vì chỉ có một mình Kim Đồng có thể nhận ra Ngọc Nữ mà thôi, người phàm mắt tục không ai nhìn ra được cả, như vậy chúng mình chỉ có thể là của nhau mà thôi. Ơ, anh đã ủ em trong tay anh kín như thế này mà em vẫn còn rùng mình, lại run nữa đây này, thôi để anh bế em vào nhà vậy. Có gì đâu nào, người em nhẹ quá, cứ như bế trẻ con ấy thôi.
Đêm nay vợ chồng mình thức suốt đêm với nhau em nhé. Trăng đã lặn sau đầu non kia rồi, em biết tại sao không? Trăng tủi thân đấy, vì cô đơn giữa trời, vì nhìn thấy hạnh phúc của chúng ta đó em. Biết đâu đêm nay trên trời cũng có một đôi Kim Đồng Ngọc Nữ vén mây nhìn trộm chúng mình mà mơ ước. Có lẽ bây giờ họ đang nương theo bóng trăng bay xuống trần thế rồi đó em, anh mong họ đang nắm tay nhau mà bay, đừng để lạc nhau lâu quá như chúng mình.
Em, hãy ôm anh thật chặt, như vậy đó, em có ấm không em? Thế này thì mãi mãi chúng mình sẽ không bao giờ lạnh nữa, không bao giờ lạnh nữa, phải không em?
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:23:49 GMT -6
CHƯƠNG XXVII
Trong góc quán, Trần ngồi thẳng, yên lặng, mắt đỏ ngầu, điếu thuốc trên tay cháy gần chạm ngón trỏ, chàng vẫn không động đậy. Cốc cà phê còn lại một chút đen sánh dưới đáy, nguội lạnh, hờ hững như quang cảnh đêm tàn trong quán nhỏ.
Ngọn đèn dầu khô cạn, một chút lửa yếu ớt đậu lại trên cái tim đèn gầy guộc, lu mờ như chỉ chực bùng lên rồi tắt ngấm. Chiếc bàn đặt giữa quán, ngọn đèn được khêu sáng suốt đêm, ở đó có hai người cán bộ bày ra một cỗ cờ tướng, họ đánh với nhau suốt đêm trong yên lặng, thỉnh thoảng họ xuýt xoa tấm tắc khen nhau một nước cờ hay. Tiếng những quân cờ lách cách rời rạc trong đêm khuya. Sau mỗi ván cờ, những con cờ bị xáo trộn kêu rào rào, tim đèn lại được khêu lên cho thêm sáng, bình nước trà lại được nghiêng qua châm đầy hai chén nhỏ, họ vấn lại điếu thuốc, nói khẽ với nhau vài câu chuyện bâng quơ, rồi lại tiếp tục cúi xuống nghĩ ngợi trên cuộc cờ.
Chiếc bàn ở góc đối diện với bàn Trần có hai ba người gục đầu lên bàn ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng một người lại ngóc đầu dậy ngơ ngác nhìn quanh với đôi mắt lạc lõng bất thiết rồi lại gục xuống ngủ lại.
Ở góc trong cùng có một người nằm trên chiếc ghế dài bằng gỗ dương, ngủ say sưa từ hồi tối, tiếng ngáy to đều đều như kéo gỗ.
Bên ngoài trời vẫn còn tối mờ mờ, bụi tre trước quán cựa mình kêu ken két, chòm tre xào xạc, những chiếc lá thuôn dài đu đưa trong bóng đêm ẩn hiện vài ánh sao yếu ớt đã bắt đầu nhòa nhạt. Có bóng người gánh hàng kẽo kẹt đi qua chiếc cầu bắc ngang qua lạch nước chảy qua trước quán phía bên kia đường. Không khí bên ngoài lùa vào quán qua chiếc cửa sổ ngay sau lưng Trần có chấn song bằng những mắt tre, nồng mùi từ con lạch trộn lẫn mùi sương đêm đầm đầm hơi giá lạnh.
Ngôi quán nằm ở chặng chót từ chiến khu đổ về mở ra nhưng lộ trình xuôi về những làng mạc đồng bằng hay những vùng phụ cận thành phố Huế. Thường thường những người cán bộ kháng chiến từ chiến khu về đến đây là trời đã tối, họ ngủ vạ vịt qua đêm trong quán để chờ sáng lại tiếp tục rẽ đi những nẻo đường khác nhau.
Vợ chồng người chủ quán đã dậy sau một hồi chợp mắt, có tiếng động sau bếp, từ tấm phên đan bằng những thanh nứa thưa thớt, chiếu hắt ra những tia sáng của bếp lửa hồng vừa nhóm. Mùi khói của loại cây chàm trổi nhóm bếp tỏa ra khắp quán một mùi thơm nồng hắc.
Tiết trời cuối hạ mang hương vị nồng nàn của cơn gió nam lùa tới từ những vườn cây trái chín đầy mật ngọt giao thoa với hơi thu e ấp tản mạn trong không gian khiến con người cảm thấy bứt rứt như thể có những nỗi u hoài đang bị lãng quên mà có cố gắng mấy cũng không thể nào nhớ ra được.
Tựa hồ trên những cánh đồng vàng óng chưa từng có dấu vết của súc vật hay của loài người đã lướt qua, tựa hồ tiếng côn trùng rì rào trong đêm dài mùa hạ chưa từng gặm nhấm tâm tư của lữ khách trong cơn chợt tỉnh chợt mê của đêm trường quán nhỏ.
Trần vẫn ngồi thẳng tắp trong chiếc bàn góc quán như thế không biết bao nhiêu lâu, điếu thuốc trên tay chàng rơi tàn lả tả xuống tập giấy trước mặt. Chàng đăm đăm nhìn ngọn đèn dầu sắp lụn với đôi mắt nhìn mà không trông thấy gì cả, những đường gân máu đỏ ngầu kéo chằng chịt trong đôi mắt chàng chiếu ngời lên một gợn sóng ẩn ức lung linh. Mãi cho đến khi đầu lửa đỏ của điếu thuốc cháy xuống nung bỏng da, Trần mới khẽ động ngón tay, di chuyển đầu lửa nhích ra một chút, chàng cúi xuống nhìn điếu thuốc trên tay mình một cách chăm chú, in thể đó là một vật lạ lùng lần đầu chàng mới trông thấy, khuôn mặt chàng chợt trở nên trầm lắng xa vời, chàng đưa điếu thuốc chỉ còn một mẩu ngắn lên môi, rít một hơi dài. Đốm lửa sáng ngời loe ra từ môi chàng theo bàn tay búng luôn xuống nền đất, chàng di một bàn chân lên điếu thuốc rồi để yên đó không buồn kéo chân về chỗ cũ. Chàng ngước lên buồn bã nhìn tập giấy với những hàng chi chít nhảy múa trước mặt chàng, chàng nghiêng đầu thổi những mẩu tàn thuốc rơi vương vãi trên mặt giấy. Chàng nhìn những hàng chữ của chàng trên đó, “Bản án,” danh từ ấy vang lên trong tiềm thức của chàng suốt đêm khi chàng nhìn tập giấy mang những lời lẽ thỉnh cầu xin rút lui ra khỏi Đảng của chàng. “Ra khỏi Đảng,” mấy chữ ấy làm tim chàng nhói buốt. “Bản án,” hai tiếng ấy lại nổi lên trong trí chàng, dữ dằn, hung bạo, như chiếc vồ đập mạnh vào đầu chàng. Quả vậy, với tập giấy gần sáu trang, chàng trình bày với Đảng tình tự đất nước của chàng với tình yêu con người khốn khổ trên quê hương xứ sở này, một tình tự đơn sơ thuần khiết khác biệt với chủ trương đường lối sắt máu của Đảng. Với ý thức đó chàng cho rằng sự có mặt của chàng trong hàng ngũ của Đảng không còn đem lại lợi ích gì cho Đảng nữa, những mâu thuẫn nội tâm sẽ giết dần mòn tình yêu của chàng đối với Đảng, do đó chàng nêu lên ý muốn cuối cùng của chàng xin Đảng chấp nhận cho chàng ra khỏi Đảng. Như vậy chàng vừa ký xong bản án tự lưu đày, hay tự xử thì cũng vậy.
Từ ngày dấn thân vào cuộc sống phong trần gian khổ này, Đảng trong tâm tư chàng như suối hiền, như bóng mát, đã biết bao lần chàng lặn ngụp trong ảo tưởng chói lòa đó mà khắc phục được bao cơn hiểm nghèo, qua khỏi những lúc chồn chân mỏi gối. Giờ đây, ánh hào quang lộng lẫy trong tâm hồn chàng đã vụt tắt, trung thực với chính mình và thương tiếc chút dư vang của tình yêu lý tưởng thần thánh đã đi qua, chàng không muốn bày trò dối trá. Lưu lại Đảng với một tấm lòng không còn như xưa nữa, với trái tim không còn đập những tiết điệu ấm áp mê say nữa, đó mới chính là điều ghê tởm. Nhưng cũng như khi hết yêu một người tình lòng không còn đam mê tha thiết nữa, nhưng sự dứt bỏ tránh sao cho khỏi đau đớn rã rời.
Cũng lạ lùng làm sao, bên sự nhói buốt đến tê dại cả toàn thân, tâm linh chàng bỗng nhiên nhẹ hẫng như vừa được giải thoát ra khỏi một sự băng hoại triền miên từ bao nhiêu năm tháng. Trong trạng thái trống rỗng đó, chàng nhận thức một cách rõ ràng rằng từ nay chàng chỉ có một mình, không còn đồng chí, không còn bạn bè, không còn một ngọn lửa nào có thể thắp sáng lại được nữa.
Huỳnh đã bị bắt, người bạn duy nhất vừa là cứu cánh của chàng trong những thao thức của nội tâm bị dằn vặt, là nguồn cội sức mạnh tinh thần bền bỉ chịu đựng của chàng, giờ đây không còn bên cạnh chàng nữa.
Huỳnh bị bắt sau khi đệ trình bản điều trần về chính sách cải cách ruộng đất lên cơ quan hữu quyền xin chuyển về cấp lãnh đạo trung ương. Khi nghe tin Huỳnh bị bắt, Trần lập tức tìm đến những đồng chí chỉ huy cao cấp có thẩm quyền để phản đối việc bắt giữ Huỳnh và xin trả lại tự do cho Huỳnh. Đề nghị của chàng bị từ chối, chàng được giải đáp cách dung dị rằng với bản điều trần đó, Huỳnh đã công khai chống lại đường lối của Đảng, thêm vào đó những bài thơ của Huỳnh đã gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ bộ đội kháng chiến rất nhiều, rằng những hành động đó được xem như phản động, được tạo nên bởi một nguyên động lực nào đó người ta đang còn tìm hiểu. Có thể là do kẻ thù thúc đẩy, cũng có thể là do tinh thần hèn nhát khiếp nhược của đương sự, và để biết rõ căn do, người ta đã giao Huỳnh cho cơ quan chuyên môn để điều tra cho được rõ ràng.
Về thái độ phản đối và phẫn nộ của Trần, những đồng chí cao cấp khuyến cáo chàng không nên đặt tình cảm riêng tư lên trên đại cuộc và chính nghĩa.
Tiếp đó Đảng đề ra một cuộc học tập tại cơ quan Huỳnh để giải thích về việc tại sao bắt giữ và loại trừ Huỳnh ra khỏi hàng ngũ bộ đội kháng chiến. Trong những buổi học tập đó, những người có thiện cảm và hiểu biết Huỳnh đều im lìm thất sắc, không hề dám lên tiếng. Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, không ai nói với ai, đều có cảm giác sợ hãi rùng rợn vô cùng. Từ đây họ đã hiểu rõ thêm con đường họ đang đi sẽ mở ra cho họ những ngõ ngách ranh giới nào. Trong nỗi hoang mang cùng cực đó, họ xòe rộng bàn tay, cúi tìm trên đó chút số phận của mình.
Dù là một đảng viên được ưu đãi, Trần cũng không thoát ra ngoài tâm trạng đó. Chàng không xin gặp Huỳnh vì chàng thừa biết sẽ bị từ chối. Chàng đau xót nhớ lại gần đây sức khỏe của Huỳnh càng ngày càng sa sút, bệnh tim làm cho tính tình anh càng thêm gắt gỏng, thêm vào đó những nỗi ưu tư phiền muộn khiến anh càng ngày càng thêm xơ xác. Vốn đã xuề xoà không hề chú ý đến phục sức bề ngoài, gần đây Huỳnh lại càng tệ hơn nữa, anh chẳng hề tắm rửa, thậm chí có những ngày anh không thiết rửa mặt đánh răng, râu tóc phủ kín cả mặt mày, áo quần đầy cáu ghét dơ bẩn. Trần cằn nhằn thì Huỳnh nói:
– Mày tính sống giữa thời buổi này, ở sạch làm gì cho uổng, phải ở bẩn mới hòa mình được với thứ người ngợm xung quanh chứ.
Trần đã đau khổ nên chàng hiểu và thương bạn vô cùng.
Trời trắng dần, ánh sáng nhợt nhạt len lách vào cửa sổ làm sáng dần từng góc tối, từng xó xỉnh nghèo nàn trơ trụi của cái quán. Thốt nhiên Trần nhớ lại hình ảnh một buổi sáng trên chuyến đò ngang qua bến Phu Văn Lâu. Hôm ấy chàng đến bến đò trễ hơn thường lệ. Vào tiết lập xuân, mặt trời chưa ló dạng, ngày bắt đầu với một ánh sáng buồn bã, người con gái chàng yêu đã ngồi đó, trên mạn thuyền nàng nhìn chàng bằng một thoáng nhìn mừng đón thầm lặng rồi e thẹn cúi xuống quay sang chỗ khác, chiếc nón bài thơ và mái tóc rũ xuống che khuất một bên mặt. Chừng đó đủ cho lòng Trần rộn ràng ngây ngất. Chàng bước lên đò, chiếc đò khẽ tròng trành, khi cúi xuống tìm chỗ ngồi, chàng nhìn thấy một con cá giếc thật to, có lẽ người lái đò mua lại của người đơm cá đâu đó ven sông. Con cá bị một sợi dây lạt xỏ qua mang cột vào một cái cọc bằng gỗ bên dưới đáy thuyền, cả mình con cá mẩy mập với những miếng vẩy trắng ngời được thả ngập xuống vũng nước đọng giữa lòng thuyền. Cái miệng nó há căng tròn trịa vì sợi dây cứng xâu qua mang, nó cố gắng ngáp ngáp, thỉnh thoảng lại quẫy mình một cái. Khi đã ngồi xuống mạn thuyền gần như đối diện với người thiếu nữ, Trần vẫn cúi nhìn con cá đang chao qua chao lại trong vũng nước theo đà tròng trành của chiếc đò với những cái ngáp khó khăn tội nghiệp. Vô tình tia nhìn của chàng di chuyển sang một bên, bắt gặp đôi bàn chân của người thiếu nữ đặt trên sàn thuyền lát gỗ cạnh đấy, đôi bàn chân như hai búp hồng xinh đẹp với hai gót mịn đỏ như thoa son vận trong đôi guốc mộc lên nước bóng như hai phiến ngà. Vẻ đẹp bất ngờ khám phá làm tim Trần đột nhiên thắt lại, không hiểu vì đâu chàng chợt thấy ngậm ngùi. Trần ngạc nhiên không hiểu có sự liên hệ nào giữa hình ảnh con cá đang ngáp hấp hối kia trong những miếng vẩy sáng ngời như nạm bạc và đôi bàn chân xinh đẹp của người yêu làm cho nỗi xúc động của chàng mang một sắc thái bùi ngùi xa xót đến như vậy.
Giờ đây chàng nhớ lại rõ ràng như đang sống trong cảnh mộng xưa, cảm giác ngậm ngùi vẫn còn nguyên vẹn. Cái gì đã khiến cho chàng trong giây phút bải hoải trầm trọng giữa hủy diệt và tái sinh, lại nhớ đến con cá lập lờ nằm ngang ngáp những cái ngáp đáng thương hấp hối dưới lòng thuyền và đôi bàn chân hồng mịn của người con gái chàng yêu đang dẫm những bước lên ngôi thần nữ trong lòng chàng?
Có một con ve không biết ở đâu đến đậu trên mắt tre trên song cửa sổ, mình mẩy xù xì, hai con mắt tròn xanh như hai viên ngọc bích, đôi cánh trong suốt dài thượt khẽ rung động kêu rọt rẹt. Trần quay lại nhìn, chàng chiếu đôi mắt mệt nhọc vì mất ngủ nhìn con ve một cách khó khăn. Con ve có một vẻ quen thuộc như nó đến đây từ mùa hạ nào rực rỡ vàng tươi của những năm mà tình đời hãy còn nguyên vẹn. Những buổi trưa hè trong vườn cây xanh mát ran ran tiếng ve kêu bên giòng sông hiền hòa lấp lánh của khung trời Vĩ Dạ. Sao con ve lại rời bỏ khu vườn mùa hạ đó để đến đây làm chi kìa? Như để trả lời câu hỏi đang trì chậm lướt qua trong trí óc mụ mẫm nặng nề của chàng, con ve lại khẽ rung động đôi cánh kêu rọt rẹt rồi thình lình nó vụt bay ra ngoài trời khuất dạng. Trần gật gù ra dáng tán thành, “Ừ, phải đó, với đôi cánh mỏng trong suốt như thế kia, có khó gì việc bay trở về tìm lại khu vườn mùa hạ cũ, ở đó ve có thể thoát xác để trở lại hình thái của buổi ban sơ tao ngộ với cuộc đời, và ở đó, ve có thể mơ dài qua hết kiếp phù sinh.
Chỉ có ta đành ngồi lại nhìn tất cả đi qua, không phương níu giữ, chỉ có ta không có đôi cánh mỏng huyền diệu trong suốt có thể trông xuyên qua cả cõi trời, chỉ có ta lủi thủi độc hành tới một mùa đông trắng xóa. Con đường ta đi cực kỳ vắng vẻ, nhưng không sao, hành trang ta mang theo trong trái tim dày dạn đau thương này là chút lửa chắt chiu gìn giữ từ mùa hạ cũ. Với chút lửa đó ta hồn nhiên đặt lên canh bài định mệnh, ở đó những quân bài là những thân phận bọt bèo rẻ rúng trên xứ sở lầm than yêu dấu này. Ôi, sao ta nhìn thấy những khuôn mặt của người Việt Nam sao mà khắc khoải đau buồn, những khuôn mặt thảy thảy mang hình tượng mẹ ta, bạn ta, người yêu ta, vợ ta, con ta chưa ra đời và cả chính ta đây nữa; sao những khuôn mặt đều dúm dó biến dạng đến như thế kia nhỉ? Ôi, ta đã làm gì, các đồng chí của ta đã làm gì, Đảng của ta đã làm gì trên nước non này, những ngày đã qua, những ngày sắp tới?”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:27:58 GMT -6
CHƯƠNG XXVIII
Chưa bao giờ anh cảm thấy được gần gũi em bằng lúc này Lan ạ. Chưa bao giờ tâm trí anh, thể xác anh được hoàn toàn giao phó cho em như bây giờ.
Khi anh hồi tỉnh lại trong nhà giam này, hình ảnh em chập chờn lãng đãng trong mù sương trước mắt, anh đưa tay lên dụi mắt để được nhìn thấy rõ em hơn, cánh tay anh nhức nhối, nứt nẻ, thâm đen, ai đã làm gì nó nhỉ? Anh mơ hồ tự hỏi, người anh đau đớn như dần, mỗi cử động như xé gan xé ruột. Dần dần anh nhớ lại, những trận mưa đòn, những câu hỏi dồn dập, người ta hỏi anh những gì nhỉ, để anh nhớ rõ hơn một tí nữa, à, đại khái là những câu hỏi như thế này, “ai đã xúi giục anh phản bội?” “anh nhận lệnh của ai để hành động chống lại nhân dân, chống lại vô sản?” Ai nhỉ, anh ngơ ngác nhìn quanh, mãi không nhận diện được một khuôn mặt nào quen thuộc đã xúi giục anh làm như thế. Nhưng anh không ngơ ngác được lâu, cơn mưa roi cá đuối trút xuống thân thể anh, từng làn roi rứt đi từng miếng da miếng thịt của anh. Anh ngất đi, tỉnh lại rồi lại ngất đi, da thịt anh rên lên từng cơn quằn quại rách nát, trong cơn ngất lịm, anh thấy em hiện ra, nét mặt em khoan hòa thuần hậu, em cúi xuống, môi em hồng mịn ấm áp đặt lên những lằn roi, anh nghe những vết thương tê điếng, một cảm giác rùng rợn thống khoái vô biên.
Khi anh tỉnh lại, người ta hỏi anh có oán hận vì bị tra tấn không, nếu được thoát ra có đi theo Tây ngay tức khắc để trả thù kháng chiến không? Mắt anh, mũi anh, miệng anh sưng vếu, anh có muốn trả lời cũng không cử động nổi những thớ thịt trên môi trên mặt, anh đành nghĩ thầm vậy. Anh nghĩ rằng tại sao lại oán hận nhỉ, tại sao lại cứ phải oán hận mới được, mà oán hận ai, những kẻ tra tấn đánh đập anh ư? Họ biết gì về những việc họ đã làm? Vả chăng anh có phàn nàn gì nữa? Thân xác này từ khi xa mẹ, xa em, đã phó mặc cho Tổ quốc, Tổ quốc có giằng xé nó ra, giựt đứt đi của nó từng mảnh da mảnh thịt, máu anh đó, thịt da anh đó, vung vãi trên nền đất quê hương này, ấm êm như trẻ thơ được đặt về lòng mẹ, có gì khiến anh ân hận đâu em?
Bây giờ anh đã khá thong thả, người ta đã để yên cho anh, người ta giao phó cho anh giấy bút để viết bản kiểm thảo, tự thú. Anh đang thành khẩn thú nhận đây, anh xin thú với em, Mặc Lan yêu dấu, hãy nghe đây, anh yêu em, suốt đời anh chỉ yêu có một mình em, vì em anh đi giành lại quê hương đất nước, vì em anh đã yêu thương loài người, vì em mà anh xin loài người đừng dựng nên thù hận, vì em anh vui lòng hứng chịu vết đạn của ngoại nhân xuyên qua thân thể cũng như những ngọn roi ác liệt của quê hương xé rách thịt da. Vì em tất cả đó em.
Giờ đây anh mang thân tù tội, chốn giam cầm này không có tường đá, không có cửa sổ chấn song sắt như những nhà lao mà em có thể tưởng tượng được. Ở đây đã có rừng già vây bọc, địa thế cheo leo hiểm trở, người ta không cần canh giữ gắt gao, anh và các bạn tù có thể đi lại, xuống suối giặt giũ, vào rừng chặt tre nứa vác về dựng lên những cái lều được xem như nhà giam của mình vậy, vót những cái chông nhọn hoắc để làm những cái bẫy, những hầm chông vây hãm lấy khu rừng mình sống ở đó. Em thấy không, tuyệt diệu đấy chứ, ngục thất của quê hương mà mình tự dựng lên để giam giữ mình trong đó chứ đã ai giam được mình, em thấy không em?
Em ơi, có những buổi chiều anh ngồi trên phiến đá của anh ở góc sân trại giam, nhìn về phía mặt trời sắp lặn sau rặng núi sẫm màu phương Tây. Cái bóng của anh nghiêng dần cho đến khi nó đổ dài về phía sau lưng anh, có khi quay lại anh giật mình thảng thốt tưởng như có ai đang rình rập phía sau. Anh ngồi như thế cho đến khi mặt trời lặn hẳn, sương và gió núi thấm vào tận xương da anh, lạnh tê buốt dại cả toàn thân, anh vẫn ngồi yên như thế cho đến khi nghe tiếng cồng tập họp vang lên âm u rền rĩ lướt qua những căn lều tăm tối, chấm dứt những giờ sám hối trong ngày.
Từ khi anh đến đây, qua những thủ tục đầu tiên, những trận đòn chí tử, những cơn chết đi sống lại, bây giờ người ta bằng lòng cho anh sống để xét mình và sám hối. Người ta đưa anh ra góc rừng chỉ cho anh một phiến đá, mỗi buổi chiều sau một ngày làm việc lao nhọc trong rừng, anh phải đến ngồi trên phiến đá đó nhìn đăm đăm về phía mặt trời sắp lặn để kiểm điểm lại những tội lỗi của mình đã phạm đối với nhân dân, với Tổ quốc bởi vì anh đã hành động trái với chính nghĩa. Từ đây anh sẽ ngồi ở đó chiều này qua chiều khác cho đến khi nào anh giác ngộ, thấy rõ được sự lầm lỗi của anh, ăn năn hối cải viết tờ kiểm thảo thú nhận sự phản bội của mình.
Phiến đá của anh nó mòn trơn nhẵn bóng, gần như lên nước em ạ, phải nhìn thấy nó tận mắt thì mới được. Những bạn tù của anh đều có mỗi người một phiến đá như vậy, chúng nó đều giống nhau đến ngộ nghĩnh, mặc cho hình thù vóc vạc to nhỏ tròn dài có khác nhau. Có lẽ vì nó vốn chân phương là đá. Hồi nhỏ anh đã yêu đá vô cùng, con sông Rù Rì nhỏ bé chạy vắt qua cánh đồng của quê anh, anh còn nhớ cứ hễ mùa mưa đến đá mất tăm mất tích, nhưng khi đến mùa nắng, nước sông rút cạn là đá lũ lượt trồi lên.
Ngày còn bé anh thường ra sông chơi, lũ đá lớn đá bé quen thuộc với anh biết bao, mỗi phiến đều có một tiểu sử oanh liệt và chúng đều lần lượt kể lại cho anh nghe, bằng lối nói chuyện riêng của đá.
Hỏi có chi tuyệt vời cho bằng dĩ vãng của đá? Hỏi có chi gây xúc động sâuxa cho bằng biết từ đỉnh non nào đá đã từ đó lang thang qua biết ngàn vạn năm nào để đến tận lòng sông của quê hương anh, để cùng một đứa bé trai ngây dại là anh nô đùa với nhau qua những mùa hạ biếc.
Em biết không, khi mùa mưa tới, mực nước dâng cao, đá lặng lẽ nằm yên trong lòng nước, đã có lần nhớ quá, anh lặn xuống thăm đá, anh bơi chuyền từ phiến này qua phiến khác, sờ mó vuốt ve từng phiến, trong bóng sáng lờ mờ long lanh của lòng sông quê hương anh, đá và anh đã cho nhau những giây phút thần tiên diễm ảo tuyệt vời.
Anh lớn lên, say mê những chân trời mới lạ, mỏi mê theo đuổi hào quang không tưởng của cuộc đời, quên bẵng mất những người bạn lặng lẽ của thời thơ ấu. Có ngờ đâu đến ngày nay, khi nước non chưa tàn cuộc, khi đã thành kẻ bị bỏ rơi ở xó rừng tù tội này, đá vẫn một lòng chung thủy có mặt bên anh, khi anh đã trắng tay, người bạn xưa lại đến với anh. Lạ một điều là anh chỉ tìm lại mối tình đá xưa kia khi lòng anh đã hoàn toàn thanh thản như đứa bé ngày xưa chưa biết âu lo chi đến cuộc đời.
Phiến đá của anh bây giờ cho anh biết thật nhiều điều bí ẩn và nó biết trấn an anh một cách thần tình em ạ. Nó nói với anh về những người đã ngồi đây trước anh, về mặt trời mỗi chiều lặn dần sau rặng núi phương Tây kia, về sự câm nín vĩ đại của vô cùng. Dần dà nó biến nỗi khắc khoải đau thương trong anh trở thành mối hân hoan mới mẻ kỳ lạ.
Những cán bộ phụ trách cái Trung tâm Cải hối Tây Hạ này họ sành kỹ thuật tâm lý lắm em ạ, họ biết rõ tác dụng của cái cảnh mặt trời sắp lặn, bóng tối rình rập úp chụp xuống thân phận con người, cái cảnh thê lương của gió núi mây ngàn khi hoàng hôn xuống, những kẻ bị giam cầm rồi cũng đến buông xuôi tất cả, cam tâm đầu hàng số phận trong tâm trạng “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” này.
Riêng anh, nhờ nghe được lời của đá, cho nên anh hiểu được ý nghĩa chân xác của mặt trời buổi chiều vàng vọt lặn xuống phương Tây để sớm mai lại mọc lên rực rỡ từ phương Đông như thế nào.
Từ đó anh biết rằng bình minh lộng lẫy cũng như tà huy ảm đạm, nỗi vui sướng cũng như niềm đau khổ, mọi thứ đều dàn trải ra đó, đều có sẵn ở đó, nhưng tất cả chỉ là hư vô, tất cả đều chỉ có vẻ có thật khi có mặt của con người.
Không có con người tất cả đều trở thành vô nghĩa, vậy thì chính con người thật quý hóa biết bao, em ơi, đá khôn ngoan đã dạy anh như thế, nhờ đó anh yêu sự sống vô cùng, anh không còn mỏi mê chán chường nữa, lòng anh bừng lên một niềm ham sống vô bờ. Lạ lùng thay, chưa bao giờ anh cảm thấy tự do như lúc này, những buồn thương giận ghét thường tình không còn ràng buộc anh được nữa.
Trước kia anh luôn luôn bị dằn vặt ray rứt, những đau đớn âu lo đầy rẫy trong cuộc đời vây hãm lấy anh, có lúc làm cho anh không còn nhớ ra em nữa. Bây giờ thì anh rảnh rang, chúng ta bắt đầu lại tất cả nghe em. Nay anh chặt cây đã thạo không khác một tiều phu. Anh làm việc quần quật từ sáng tinh sương cho đến xế chiều không có thì giờ nghĩ ngợi lôi thôi nữa. Ấy cũng hay, cái chính sách lao động nó cũng được việc đấy em ạ.
Em, bây giờ ý nghĩa duy nhất của cuộc đời đối với anh là, miễn là anh còn sống, miễn là một ngày nào đó anh sẽ trở về được với em. Phép lạ sẽ xảy ra khi anh tìm lại được em, anh sẽ đưa em trở về giòng sông khô cạn của quê anh, sẽ giới thiệu với em từng viên đá của thiên đường tuổi thơ, sẽ cùng em trở lại góc rừng u tối này, sẽ chỉ cho em phiến đá bầu bạn, phiến đá ân nhân của những tháng ngày đau thương tù tội.
Mai sau các con của chúng ta sẽ truy nguyên từ phiến đá này, xây lên đền đài kỷ niệm, sẽ biến góc rừng Tây Hạ này thành chốn danh lam, những máu thịt vô danh vung vãi trên mảnh đất tù này sẽ về nguồn về cội.
Em ơi, mai sau những vết thương xưa sẽ liền da liền thịt, vì chúng mình đã tìm lại được nhau, anh sẽ làm thơ ca tụng nhan sắc em như tự bao giờ.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:29:57 GMT -6
CHƯƠNG XXIX
Lan, anh chưa có án nhưng Lương bạn anh thì đã có án em ạ. Án tử hình. Em nghe những tiếng ấy có thấy gì không em? Tính mạng của một người được định đoạt trong ba tiếng ghê rợn ấy. Em thấy đó, làm sao không thiết tha với sự sống cho được.
Từ ngày anh vào đây, gặp Lương, Lương và anh cùng ở với nhau một căn lều, Lương có vợ và hai con hiện ở trong thành phố Huế em ạ. Bây giờ thì anh ấy không còn ở chung với anh nữa, người ta giam riêng người có án tử hình qua một khu khác. Tuy nhiên Lương vẫn còn một tia hy vọng, con vật nào mà lại không hy vọng hở em? Ấy là sáng nay khi nghe tuyên đọc cái án tử hình, sau đó người ta cho Lương ký vào lá đơn xin Chủ tịch ân xá. Lúc đó anh nhìn thấy một tia sáng bừng lên trên khuôn mặt đã tắt hết sinh khí của Lương; khi người ta áp giải Lương đi qua khu đặc biệt, Lương còn ngoái lại nhìn anh, anh còn thấy tia sáng ấy rỡ ràng trong đáy mắt Lương, em ơi, tia sáng ấy nói với anh nhiều hơn tất cả những lời than van rên siết trong cuộc đời này. Nó làm tim anh nhói buốt như muốn ngừng đập.
Anh chưa nói với em về Lương nhỉ, anh sắp nói đây, để em có thể biết vì sao chút tia sáng nhỏ nhoi trong mắt người bạn có án tử hình đã làm cho anh nhức buốt đau đớn hơn tất cả những lần anh bị tra tấn đánh đập.
Anh không nhớ rõ đã quen Lương từ hồi nào, có lẽ vì vẻ hiền lành mơ mộng của Lương đã làm cho sự có mặt của anh ấy trở nên mờ nhạt đối với mọi người chung quanh. Từ khi ra kháng chiến, anh thường đi công tác qua lại vùng Lương ở nên thỉnh thoảng anh thường tạt lại thăm Lương.
Trong thời kỳ này anh có dịp gần gũi Lương hơn và cũng lạ lùng về Lương nhiều hơn. Anh không hiểu nổi tại sao lại có thể có người mang một tấm lòng tin yêu cuộc đời một cách tuyệt đối và hồn nhiên đến như vậy. Thật thế, mặc những gập ghềnh bất ổn mà Lương luôn nhìn thấy một cách sáng suốt, Lương vẫn tiếp tục yêu thương cuộc đời và tin tưởng tương lai một cách vô điều kiện, không hề trả giá bao giờ. Là một loại người trí thức hoàn toàn thiên về văn học, triết lý và những mộng mị tương tư, Lương không có một ý thức nào về chính trị, nhưng khi cuộc kháng chiến trên quê hương ta bắt đầu, Lương cho rằng bổn phận của mình là phải có mặt. Thế là anh ấy ở lại quê làng tình nguyện tham gia kháng chiến. Người ta giao cho anh ấy dạy bình dân học vụ và trông coi trường tiểu học, anh chấp nhận công việc một cách vui vẻ, tận tụy với trách nhiệm của mình như vốn anh ấy sinh ra để làm một hương sư vậy.
Mặc dù thế người ta cũng không thể dung cho Lương yên ổn trong phận sự đó, bởi vì Lương là thành phần địa chủ phú hào, đã thế Lương lại mắc thêm cái tội thương nhớ vợ con, ưa đi lang thang mơ mộng đầu ghềnh cuối bãi, vì thế cho nên Lương đã bị bắt. Lan đừng hỏi anh tại sao, tại sao người ta lại có thể bị bắt bớ giam cầm vì những tội không phải là tội như vậy.
Anh không thể giải thích cho em hiểu được đâu, em quá đẹp, quá thần tiên để có thể hiểu nổi những điều như vậy. Để anh kể tiếp, dù sao cũng phải có một cớ hợp lý để bắt người chứ, vậy thì người ta cho Lương một cái tội, tội làm Việt gian, ghê không em, Việt gian, quá nặng nề em ạ, cái tội ấy thật quá ê chề nhục nhã.
Anh những tưởng Lương đau đớn vô cùng vì cái danh từ Việt gian ấy, nhưng lạ lùng thay, khi gặp Lương ở đây, anh ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mặt Lương yên hàn vô sự một cách vô lý. Khi nói đến nỗi oan ức của Lương, Lương chỉ nói thật giản dị:
– À, chẳng qua họ lầm, người ta ai chả có lúc lầm lẫn, mọi việc rồi sẽ sáng tỏ chứ. Dù sao tôi cũng mong mọi việc điều tra chóng xong để trở về trước ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám để tổ chức lễ kỷ niệm cho học trò của tôi kẻo tôi vắng mặt cũng khá lâu rồi, công việc ở trường chả biết ra sao.
Lan ơi, còn có niềm tin yêu nào trong cuộc đời này thiết tha hơn câu nói của người bạn đáng thương của anh nữa không? Đất nước ơi, còn những đứa con chân tình như thế sao đến nỗi đọa đày? Anh không nói thêm với Lương về việc đó nữa, anh nghĩ nếu Lương đã tin tưởng như thế, những ngày tháng tù đày gian lao ở đây cũng bớt khắc nghiệt đi nhiều.
Lan ơi, Lương đã nằm xuống vĩnh viễn rồi Lan ạ. Anh đã nghĩ phải cố gắng lắm mới nghĩ được rằng Lương đã chết, và nghĩ như thế rồi, anh cảm thấy một ý niệm thờ ơ khôn tả đối với mọi thứ còn sót lại trên đời này. Thoạt tiên anh muốn thét lên, nhưng tiếng kêu thất thanh của anh tan loãng mất hút vào cõi hư vô, xác bạn bây giờ đã nằm yên trong lòng đất. Có còn gì đáng gào lên nữa đâu. Anh nhớ lại hình như lâu lắm rồi, những chuyện đã xảy ra, như trong cơn mộng dữ nào từ tiền kiếp.
Trời tháng bảy ở đây thấy rõ hơi thu hơn bất cứ nơi nào khác, sáng ra thấy lòng suối sâu hơn, sương lạnh bốc lên từ đó dày hơn, nắng quái buổi chiều nhuộm vàng cây lá sẫm màu hơn, bất chợt có lúc một luồng ớn lạnh chạy suốt qua tâm hồn giá buốt của anh. Hôm qua Lương đi rồi, anh ngủ trong căn lều của anh có một mình, con trai như anh mà đêm đầu tiên không có Lương, anh nhìn chỗ nằm của Lương bên cạnh anh, cứ nghĩ như có một thây ma đang nằm đó, anh không ngớt lập đi lập lại trong trí rằng Lương không chết, Lương sẽ không bao giờ chết, Lương sẽ được ân xá. Làm sao một người có thể cam tâm chết được khi có một người vợ và hai đứa con ngây thơ vô tội đang chờ. Thế nhưng cái chết cứ ám ảnh anh làm cả người anh căng thẳng, có lúc rã rời, nhức nhối. Quá nửa đêm anh thấy trong người gây gây sốt, tâm trí chập chờn nửa tỉnh nửa mê. Anh nghe như có tiếng người lao xao, tiếng chân người chạy rầm rập, như có nhiều bóng đuốc lướt ngang qua lều anh, cơn mê nhận chìm anh xuống, người anh nặng như chì, không cử động nổi. Mắt anh có lúc lóa lên, có lúc tối sầm hẳn lại, không thể nào mở mắt ra được nữa, cuối cùng anh nghe những tiếng súng nổ mơ hồ như vang vọng từ nơi nào xa xôi lắm, như từ một kiếp khác. Anh thiếp đi không biết bao nhiêu lâu, cho đến khi nghe tiếng người giữ tù mở khóa cửa lều nghe loảng xoảng, anh vụt thức dậy, người anh mệt lả, miệng nhạt thếch, cơn sốt còn váng vất. Người coi tù càu nhàu:
– Dậy đi, nhanh lên cho, ngủ kỹ thế ông, dậy đi, lo đi chôn xác tù vượt ngục hồi hôm chứ.
Anh chợt thấy người tỉnh hẳn, nhẹ tênh, anh nhỏm dậy thật nhanh, lòng thầm mong linh tính mình bị lầm lạc, trong khi tim anh thắt lại, đập thình thịch từng hồi chuông báo nguy: “Tù vượt ngục? Ai, ai thế?”
– Còn ai vào đấy nữa, thằng Lương vẫn ở đây với anh đấy thôi. Anh làm bộ không biết gì à, cả đêm nó báo hại chúng tôi phải vất vả, cả trại báo động xôn xao cả lên, bộ đội đuổi theo chặn đúng phóc con đường lòng chảo dọc suối đi về phía bắc. Đ.M. thằng nào vượt ngục cũng mưu toan chạy về phía đó, giặc nó chờ sẵn, nó đón rước mà. Hừm, cứ tưởng bở, cho chết, đáng kiếp cái thứ đồ Việt gian.
Anh đứng lên, loạng choạng suýt ngã, anh lảo đảo bước ra ngoài, qua mặt người coi ngục, bỏ hắn lại đó với câu chửi thề treo trên đôi môi xám xịt.
Trời chưa sáng, bóng tối còn vương vất trên những bụi cây đám cỏ, anh nhìn thấy một đám tù nhân tập hợp ở cuối sân trại, dưới ánh đuốc lập lòa. Anh đi về phía đó, có tiếng người nói oang oang:
– Đáng lẽ chúng tôi quăng xác nó xuống lòng khe cho quạ mổ diều tha cho rồi, nhưng thượng cấp ra lệnh mang nó về cho các anh trông thấy đó làm gương. Đấy, chống con mắt lên mà nhìn, đừng anh nào làm chúng tôi nhọc xác nữa đấy nhé, khôn hồn cho nó, để bắn chết chứ bắt sống về thì có mà nhừ đòn. Rừng Tây Hạ này đừng có hòng mà trốn, trại cải hối này còn kiên cố hơn tường đá cửa sắt nữa kia, có ngu thì mới tưởng bở là trốn được.
Anh tiến đến gần giọng nói và ánh đuốc, Lương nằm dài trên đất, một manh chiếu rách đắp sơ sài trên thi thể. Anh đứng lặng, người anh trống rỗng, vô hồn, không còn cảm giác gì nữa. Một người bạn tù biết chúng anh là bạn thân, có nhã ý cúi xuống lật manh chiếu ra đưa cao bó đuốc soi sáng mặt Lương. Anh cúi xuống, ánh lửa bập bùng trên khuôn mặt người chết gây một cảm giác sống động. Đột nhiên anh đọc thấy trên khuôn mặt đó những chuỗi ngày bình yên thơ mộng xa xưa, từ đứa bé tươi hồng thả một cánh diều dài suốt một dải chiều quê mênh mông thoáng gió đến gã thư sinh say ngủ trong khoang thuyền đầy trăng lồng lộng tiếng hò mái nhì vời vợi qua phá Tam Giang không bờ không bến. Bây giờ là đây, cái thân xác cứng đờ im lìm nơi đất tù hoang dã, anh quỳ bên Lương, nắm chặt bàn tay cứng lạnh, hơi lạnh này lạ nhỉ, thuở nhỏ anh nghe người ta nói cái lạnh của người chết không giống một hơi lạnh nào khác, có lẽ là như thế này đây. Bây giờ còn chi mà nghĩ nữa, Lan ơi, hãy đưa bàn tay của em cho anh nắm, một bàn tay ấm áp, mềm mại, một bàn tay sống.
Ôi, sự sống, phải nắm một bàn tay đã chết rồi mới biết được, đó là bàn tay của một kẻ lạ, không thể là bàn tay của người đã từng trò chuyện thân thiết, yêu thương trong cõi đời. Anh ngẩng lên nhìn quanh, họ đều đứng đó, những kẻ coi anh là thù, cũng như những người coi anh là bạn, họ đang còn những bàn tay ấm áp, những bàn tay thuận tiện cho cái siết chặt tay gắn bó, họ không là kẻ lạ, có lẽ lần lượt, một ngày nào đó, sẽ đến phiên từng người, nhưng bây giờ thì họ vẫn còn ở đó.
Lan ơi, hòn đất cuối cùng vừa lấp kín thi hài bạn anh thì ánh mặt trời vừa ló dạng, ánh vàng rực rỡ dát lên từng đám cây rừng, từng phiến đá xanh. Mặt trời soi sáng những khuôn mặt võ vàng vì sợ hãi, vì thiếu ăn thiếu ngủ, vì lao nhọc của những người tù đi chôn xác chết, trong đó có anh. Anh nhìn nắm đất đỏ dậy vừa được vun lên, ngu ngơ thầm nghĩ: “Lẽ ra ánh mặt trời này còn chiếu sáng khuôn mặt của Lương, dù chỉ một ngày, dù chỉ một ngày nữa thôi.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:32:30 GMT -6
CHƯƠNG XXX
Cơn sốt hành hạ Huỳnh suốt tuần lễ cho đến khi Trần tới.
Lúc ấy vào khoảng bốn giờ chiều, Huỳnh ngồi co ro run rẩy trên phiến đá của anh sưởi chút nắng chiều hanh hao cố gắng chống chỏi với cơn rét run từng hồi từ trong ruột gan, trong từng thớ thịt. Huỳnh cúi gập người lại, hai tay ôm chặt lấy hai vai gầy, ngực gò xuống, lưng nhô lên hai cục xương nhọn hoắc. Chợt anh nghe như có tiếng ai gọi tên mình, anh ngẩng lên, Trần đang lừng khừng bước tới, dáng thẳng tắp, nụ cười khinh bạc trên môi, người coi tù đi kèm một bên.
Huỳnh ngẩn ngơ hỏi:
– Mày đến thăm tao đấy à? Sao mày biết tao đau mà đến?
Trần chưa kịp đáp, người coi tù đã thúc vào lưng Trần, gắt gỏng:
– Chỗ của anh ở đằng kia kìa, không phải lúc trò chuyện lôi thôi.
Trần thản nhiên đi thẳng, ngang qua mặt Huỳnh chàng vừa đi vừa nói nhưng không quay lại:
– Mày hãy yên chí, tao đã xin ở cùng lều với mày, để tao săn sóc mày đau, bằng lòng chứ?
Cơn rét tự nhiên biến mất, Huỳnh rướn người nhìn theo Trần, anh không hiểu người anh lúc ấy ra sao nữa, nói là ngao ngán buồn phiền thì đúng hơn.
Nhưng dù sao, từ ngày vào tù đã hai tháng cho đến nay, chưa bao giờ Huỳnh cảm thấy lòng mình dễ chịu bằng chiều nay khi nhìn thấy bạn đi qua trước mặt mình.
Tuy nhiên Huỳnh cũng bực dọc lẩm bẩm: “Nó lại làm cái trò gì để đến nỗi bị người ta tống vào đây đó không biết.”
Huỳnh nhìn theo Trần và người coi tù đi đến góc sân tận đằng xa, anh buột miệng nguyền rủa một câu khi thấy người coi tù chỉ cho Trần phiến đá còn bỏ trống của Lương. Trần tiến đến phiến đá, đứng lại ngắm nghía một chút, đoạn chàng xoay người lại, nói một câu gì đó với người coi tù, chàng đĩnh đạc ngồi xuống phiến đá, nhẹ đưa tay phẩy một chút bụi dính trên ống quần, cử chỉ đẹp đẽ uy nghi như chàng đang chiếm ngự một ngai vàng, đưa mắt lơ đãng nhìn bao quát cả một vùng rừng núi.
Người coi tù đứng tần ngần một lát, rồi bỏ đi. Quanh sân trại, rải rác mười lăm người tù ngồi trên những phiến đá, ngẩng mặt nhìn ra thung lũng phía Tây, mặt trời chiều nghiêng dần chiếu lên những gương mặt ốm o buồn thảm một ánh sáng bềnh bồng hiu hắt.
Căn lều nhỏ bé của Huỳnh trống trải quá chừng, vách lều bằng những thanh nan đan lại thưa thớt, bên ngoài có ráp thêm một lớp tranh mỏng. Mái cũng lợp bằng tranh có nhiều chỗ lộ thiên, nằm trên chiếc giường ghép bằng những thanh nứa có thể nhìn thấy những ngôi sao lấp lánh qua những khe hở của mái tranh.
Đêm nghe tiếng rừng mênh mông vây bọc trại giam Tây Hạ, chung quanh được rào bằng những thân cây vạt nhọn trồng san sát nhau chạy dọc từ cánh rừng lồ ô vòng quanh thung lũng phía Tây cho tới giáp bờ suối. Trăng thật sáng, mênh mang ngoài kia, gió núi nổi lên, cây rừng xào xạc, tiếng một con mang lạc bầy đi lang thang giữa rừng khuya, kêu lên những tiếng rã rời thê thiết.
Người coi tù vừa khóa xong cửa lều, tiếng chân y bỏ đi nghe xa dần, Huỳnh chỉ lên chiếc giường độc nhất giữa lều bảo Trần:
– Mày nằm đây, còn tao nằm chỗ này.
Trần sờ tay lên trán Huỳnh, trán anh nóng như lửa, Trần lo ngại hỏi:
– Họ có cho mày uống thuốc gì chưa?
– Từ hôm tao bị sốt, mỗi sáng chúng nó phát cho tao hai viên gì trắng trắng, tao độ chừng là ký ninh. Vào những buổi sáng thì tao vẫn tỉnh táo, vẫn được cắt đi chặt cây như thường.
– Mày bị sốt bao nhiêu ngày rồi?
– Một tuần đúng, kể từ ngày Lương mất.
– Cách đây năm ngày tao còn gặp vợ Lương, chị ấy về hỏi thăm tin tức chồng, Huyên đưa chị ấy đi tìm tao, trông chị ấy tiều tụy quá, chị ấy nhờ tao lo cho Lương được tha. Tội nghiệp cho chị, trông mong vào một thằng hết thời, rách nát như tao.
– Thế chị ấy chưa biết tin Lương chết à?
– Chưa, làm sao mà biết được, tao cũng vậy, hôm qua đến đây mới biết đấy chứ.
– Thế mày bảo chị ấy sao?
– Thì còn bảo sao hơn, tao khuyên chị ấy nên trở về Huế lo cho hai con kẻo ở lâu ngoài này không yên ổn chút nào, nhất là trong hoàn cảnh của chị. Tao bảo rằng Lương không hề gì đâu, người ta chỉ giữ một thời gian cho rõ trắng đen rồi sẽ trở về, rằng tao sẽ cố tìm đủ mọi cách để giúp Lương, lo cho Lương ra khỏi tù.
Trần ngừng lại, cười khẩy:
– Mày biết không, tao nói cứ như thật vậy, chả vậy mà chị ấy có vẻ tin tao lắm, yên tâm ra mặt. Chỉ có Huyên nó biết là tao nói dối, cô bé nhìn tao đăm đăm, đôi mắt có vẻ tội nghiệp cho tao phải nói dối. Tao phớt tỉnh, nói thao thao bất tuyệt, miễn sao cho chị ấy yên lòng chịu trở về Huế thì thôi.
Huỳnh thở ra: – Rồi sao nữa?
– Chị ấy bằng lòng trở về Huế ngay hôm sau chứ sao nữa. Khi hai người ra về, Huyên nói cảm ơn tao và nhờ tao nếu gặp mày nói giùm cô ấy gởi lời thăm mày.
– Không biết cô bé có được yên ổn với chúng nó không, mày không hỏi à?
– Có, cô ấy cho biết cũng không ổn thỏa gì lắm, nhưng chắc không sao. “Em con gái mà, lại còn nhỏ nữa, họ đâu thèm bắt làm gì,” cô ấy bảo thế.
– Ờ, thì cũng mong được như vậy, chứ biết sao bây giờ.
– Có một điều lạ lắm mày ạ.
– Cái gì lạ?
– Là đôi mắt của Huyên giống hệt đôi mắt của người tao yêu trên chuyến đò ngang hồi ở Huế ấy.
– Thế à, hay là mày cảm Huyên rồi đó?
– Nói bậy, nó cũng như em mình vậy, vả chăng tao coi như có vợ rồi.
– Có vợ là có vợ chứ coi như là thế nào?
– Họ không cho tao cưới Hiếu thì chúng tao lấy nhau luôn, như thế cũng coi như vợ chồng chứ gì nữa. Tao đi tù phần tao sao cũng được, chỉ tội cho Hiếu bụng mang dạ chửa thôi.
Huỳnh nhỏm dậy:
– Lại còn cái chuyện đó nữa à?
Trần gật đầu: – Ừ, hai tháng rồi.
Huỳnh nằm vật xuống thở dài:
– Mày thật là chúa rắc rối, không hề bao giờ chịu yên cả, rồi sẽ ra sao đây? Đã vậy lại còn làm gì để chúng nó tống cổ vào đây vậy? Vào đây là cuộc đời kể như lúa rồi, mày biết quá đi rồi.
– Tao biết chứ, nhưng khó thể làm khác hơn được, biết sao bây giờ, chẳng thà vào đây để đỡ phải thấy nhiều chuyện còn hơn. Mà nào tao có làm gì cho cam, tao chỉ làm đơn xin ra khỏi Đảng, sau đó Đảng lập tức đình chỉ công tác của tao, tao tán thành, vui vẻ bàn giao công việc lại và về ở nhà với Hiếu, định phá rẫy trồng trọt sống qua ngày đấy chứ. Ấy thế mà họ chưa chịu, quyết định tống tao vào đây cho được. Ừ, thì vào tù, ở đâu thì cũng vậy. Khi công an đến bắt tao chúng nó chỉ bảo là có lệnh gọi thôi, tội nghiệp Hiếu chạy theo khóc lóc, tao sợ có hại cho cái thai, phải làm bộ giận dữ Hiếu mới đứng lại nhìn theo, bây giờ tao còn nghe văng vẳng tiếng Hiếu gọi làm tao chịu không nổi. Vào đây hôm qua chúng nó mới cho biết tao có tội liên lạc với địch, tao nghĩ mãi không ra chuyện gì cả, mãi sau chúng nó mới hài ra rằng tao về nhà cô Thị, tức là liên lạc với địch đó.
– Tại sao về nhà cô Thị là liên lạc với địch?
– Cách đây mười ngày tao về đồng bằng đến nhà cô Thị để hỏi tin nhà, đồng thời định xin mẹ tao gởi về ít tiền sống tạm qua ngày, phần Hiếu thai nghén đi lại khó khăn. Đến nơi thì mới biết cả nhà dọn lên ở hẳn trên Huế rồi, ông dượng tao rời bỏ vùng kháng chiến đưa gia đình về thành phố, người ta sắp biên chế ông và rục rịch đưa ông ra tố khổ vì ruộng đất của ông khá nhiều. Thế là ông già đành từ bỏ giấc mộng đem những ngày còn lại dâng cho Tổ quốc. Hừ, những ngày còn lại dâng cho Tổ quốc, đẹp đấy chứ mày nhỉ. Tội nghiệp ông già, tao còn nhớ mỗi lần gặp ông đi công tác trên đường núi, ông bị chứng suyễn kinh niên, cái thứ đó kỵ miền núi lắm, ông phải luôn luôn quấn quanh cổ một cái khăn lông to tổ bố, khuôn mặt tái mét, hai mắt thâm quầng, đường núi mưa trơn trợt, dượng tao phải chống gậy và mang bao nhiêu là thứ, ba lô, bị gạo, soong chảo, nom đến tội. Thôi thế cũng hay, từ nay ông có thể yên ổn tuổi già, đến tụi mình mà cũng bị xếp vào xó rừng này thì ông cụ lận đận cho lắm làm gì. Sau đó chán quá tao mới đi lang thang một lúc, trở về lại chỗ tao đóng lúc trước vừa gặp Huyên và vợ Lương đấy chứ. Tao trở lên núi hai ngày sau thì bị bắt. Họ bảo rằng tao về nhà cô Thị tức là liên lạc với địch. Gia đình cô Thị bây giờ là địch rồi đó.
– À, ra thế.
Huỳnh lặng yên hồi tưởng những ngày nằm dưỡng thương ở nhà người cô của Trần. Đó là những ngày êm dịu nhất trong đời sống kháng chiến của Huỳnh. Khi đã lành mạnh trở lại cuộc sống xuôi ngược đó đây, luôn luôn trong lòng Huỳnh vẫn nghĩ đó là nơi chốn để ghé về tìm lại chút bóng mát ân cần trìu mến. Nhưng bây giờ anh đã bị giam cầm, nơi chốn đó cũng không còn nữa. Đột nhiên Huỳnh rầu rĩ:
– Buồn quá mày nhỉ?
– Ừ, buồn.
– Tao thấy mày không có vẻ gì buồn cả.
– Bây giờ thì hết rồi, tao trống rỗng, chẳng buồn cũng chẳng vui gì ráo. Đau khổ nó cũng qua rồi, cái tột đỉnh của đau khổ là trống rỗng. Tao như thế từ khi quyết định xin ra khỏi Đảng, kể cũng khá thảnh thơi.
– Ừ, khá thảnh thơi đấy chứ, tụi nó chưa dần cho mày một trận nào ư, trông mày còn sắc quá.
– Ồ, tao được coi là khách quý ở đây mà, hôm qua khi áp giải tao đến đây, thằng giám thị của trung tâm có vẻ nể tao ra mặt, nó ân cần bảo tao: “Tôi được nghe tiếng anh đã lâu, không ngờ gặp anh trong hoàn cảnh này, anh sẽ được đối xử tử tế khi anh ở đây miễn là anh tôn trọng kỷ luật của trại đừng làm gì gây khó khăn cho công việc của chúng tôi, dù sao anh cũng đặc biệt hơn những người khác.”
Tao bảo tao không đòi hỏi được sung sướng hơn các anh em tù khác, rằng tao chỉ xin được ở chung với mày, “vì người bạn tôi hay ốm đau, tôi muốn ở gần để săn sóc nó,” tao bảo thế nó biết ngay là mày, nó bảo: “Anh Huỳnh đang bị sốt rét y sĩ cho biết anh ấy còn bị đau tim nặng, tôi đồng ý cho anh ở chung lều với anh Huỳnh.” Đó mày thấy chưa, dù sao mọi sự cũng chưa đến nỗi dở, tao với mày còn gặp lại nhau, còn đốt chung với nhau điếu thuốc này, mày thấy tao đi tù mà có vẻ vui hơn ở ngoài ư? Có lẽ thế thật, tao lúc này dễ dãi với hạnh phúc lắm mày ạ. Điếu thuốc ngon quá, nhất là trong hoàn cảnh này, còn đòi chi hơn nữa, hử, mày nghĩ còn đòi chi hơn nữa?
Huỳnh yên lặng, anh nghĩ mình không đòi chi cả, ngoại trừ một điều, điều đó ám ảnh Huỳnh từ ngày Lương mất, Huỳnh rất sợ chết, anh có thể nói trắng ra như thế, mọi người quanh anh đều có thể thấy rõ điều đó. Nhưng nếu phải chấp nhận cái chết anh bằng lòng chấp nhận nó đến từ trước mặt. Anh vô cùng ghê tởm và kinh hãi với ý nghĩ nó đến đàng sau lưng anh lúc nào không biết. Cái chết của Lương làm anh nghĩ đến thân phận của mình, các bạn tù và giờ đây lại thêm Trần là người bạn mà anh thương yêu hơn cả chính mình. Huỳnh nghiệm ra không có một ai đã đến đây mà được trở về cả, nghĩa là không ai thoát cả.
Sau ngày Lương mất, nhân một buổi đi chặt cây trong rừng, một người bạn tù đã tiết lộ cho Huỳnh biết sáng hôm sau khi Lương trốn khỏi trại giam và bị bắn chết, người ta thấy cửa phòng giam Lương không khóa, người coi ngục không bị sự trừng phạt nào về tội bất cẩn bỏ ngỏ cửa cho phạm nhân trốn ra khỏi trại.
Người bạn tù kể cho Huỳnh nghe và kết luận:
– Chẳng qua người ta muốn gieo ý nghĩ tuyệt vọng cho Lương với cái án tử hình thúc đẩy Lương đi đến cái chỗ liều lĩnh đem thân vào chỗ chết. Họ muốn giết người và phủi tay, đổ tất phần lỗi về Lương, xem như bắt buộc họ phải giết Lương, thế thôi. Tội nghiệp Lương như con thú bị dồn đến đường cùng. Và chúng ta đây nữa, chúng ta cũng như những con thú đang trên đường chạy đến ngõ cụt, nhưng không biết dưới hình thức nào đây. Chẳng thà bắn ngay trước mặt sau khi tuyên cái án tử hình còn hơn, lại bày đặt ân xá với chẳng ân xá.
Huỳnh âm thầm nhớ lại những câu người bạn nói, anh cảm thấy thân thể rời rã. Bất giác Huỳnh trở mình, nắm chặt lấy bàn tay của Trần, Trần ngạc nhiên hỏi:
– Mày sao thế?
– Bàn tay của mày, tao muốn nắm lấy bàn tay của mày. – Huỳnh lẩm bẩm.
Trần nhỏm dậy, sờ trán Huỳnh lần nữa, chàng lo sợ:
– Mày nóng quá, bị mê sảng mất rồi.
– Không, không đâu, tao đang sốt, nóng lắm thật, nhưng tao không mê sảng đâu. Bàn tay mày mềm và ấm lắm, tao muốn nắm lấy nó thế thôi.
– Thằng này điên rồi, mày lảm nhảm gì thế, bàn tay tao làm sao?
– Có một lần, cũng như bây giờ, tao thèm nắm một bàn tay thật mềm, thật ấm, thèm đến điên cuồng. Mày chưa bao giờ cảm thấy thế sao? Bàn tay Lương hôm ấy cứng và lạnh vô cùng, vô cùng.
Trần siết chặt tay bạn, tay Huỳnh ướt đẫm mồ hôi, nóng hổi, giọng Trần thương cảm, dỗ dành:
– Bây giờ mày hãy ngủ đi, mày cần phải ngủ, có tao bên cạnh mày đây này, mày hãy nhớ như thế, hãy luôn luôn nhớ như thế mới được.
|
|