|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:34:53 GMT -6
CHƯƠNG XXXI
Hiếu run rẩy đứng nép vào gốc cây to trước cổng Trung tâm Cải hối Tây Hạ.
Mưa to quá, mưa giăng kín bầu trời không có một góc nào sáng cả, Hiếu cố thu chiếc giỏ xách trên tay vào chiếc tơi lá để tránh những hạt mưa tới tấp chảy ròng ròng từ trên những tàng cây xuống người nàng. Thỉnh thoảng một tiếng sét xé không gian, chớp nhoáng sáng rực cả khu rừng, nước mưa thấm vào người nàng. Hiếu đứng đây từ sáng cho đến bây giờ đã xế chiều để chờ người ta cho phép Trần ra gặp mặt, người nàng ướt sũng, lạnh run.
Mưa không hề ngớt.
Hiếu vẫn kiên nhẫn chờ đợi, từ ba tháng Trần bị giam tại đây, chủ nhật nào Hiếu cũng đi thăm Trần để bới xách cho chàng. Nàng phải đi từ tờ mờ sáng đến gần trưa mới tới trại Tây Hạ, thường tù nhân được ra gặp thân nhân vào ngày chủ nhật, Hiếu đến nơi là có thể gặp Trần ngay, nhưng hôm nay người gác cổng bảo trong trại có cuộc học tập bất thường, cổng trại đóng chặt nên nàng phải chờ đợi.
Tháng chín trời mưa liên miên, đường núi nhẽo nhoẹt trơn trợt nên sự đi lại của Hiếu càng ngày càng khó khăn, nhất là bụng nàng đã to và nặng nề. Mỗi lần nàng đến với mái tóc ẩm ướt, với nụ cười yếu ớt chiếu sáng khuôn mặt xanh xao mệt nhọc, với giỏ đồ nặng trĩu trên tay là Trần đau đớn buồn phiền, chàng căn dặn nàng đừng đi lại thường như vậy nữa, nhưng rồi chủ nhật sau lại vẫn có nàng trong số những người đi thăm tù nhân như thường. Dù bận rộn buôn bán đến đâu, Hiếu không chịu bỏ lỡ một chuyến viếng thăm nào cả, nàng biết trong cơn khó khăn này Trần rất cần có nàng. Ngay cả Huỳnh cũng cảm động vui mừng mỗi khi thấy nàng. Hiếu đã lo lắng thuốc men cho Huỳnh trong những ngày Huỳnh bị sốt rét và nhờ đó Huỳnh đã dứt hẳn được những chuyến lên cơn.
Trần thường trỏ Huỳnh bảo Hiếu:
– Thằng Huỳnh nó sợ chết lắm, sợ khiếp đi lận, em có lo thì lo cho nó chứ anh như thế này, có gì mà em lo.
“Chàng không mạnh khỏe như chàng tưởng đâu,” Hiếu nghĩ thầm như thế nhưng không nói ra, nàng lo sợ thấy Trần ngày càng héo hắt, mặt chàng trắng xanh dễ sợ, đôi mắt chàng lơ đãng như có một sự trống vắng mênh mông. Thỉnh thoảng chàng chú mục nhìn nàng như cố tìm tòi một cái gì vừa bị mất mát. Từ lâu Hiếu đã quen chịu đựng cái nhìn của Trần, điều mà nàng không hề chịu được ở bất cứ ai khác. Mặc cảm mình xấu xí với đôi mắt lé khiến nàng rất sợ bị người khác nhìn lâu. Nhưng đối với Trần cái nhìn của chàng có một sức mạnh khiến nàng không hề nghĩ đến sự xấu xí của mình nữa, nàng để yên cho Trần nhìn nàng thật lâu trong những lúc yêu đương ân ái, những lúc chàng bực bội trách cứ nàng, cả những khi chàng trầm tư u uất.
Tình yêu của Trần đã mang lại cho nàng một cảm ứng thần thông để hiểu rằng dung nhan xấu xí của nàng không làm giảm bớt lòng chàng yêu thương nàng, trái lại nữa là khác, nàng hiểu rằng những thiệt thòi mà nàng hứng chịu trong cuộc đời chỉ làm tăng thêm lòng ưu ái sâu sắc trong lòng chàng. Từ ngày chàng bị giam giữ, mỗi lần gặp nhau chàng hay bất thần nhìn nàng thật lâu như thế. Tuy đã quen với tính tình đột biến của Trần, nhưng lòng nàng vẫn lo ngại vô cùng. Những lúc chàng vui vẻ hiền hòa, chàng có vẻ thơ trẻ biết bao, dịu dàng biết bao, nhìn Trần cười nói, Hiếu thấy lòng mình như mở hội, nàng tưởng như hai người đang có riêng biệt với nhau một cõi đời, không hề có chiến tranh, không hề có những đau thương ray rứt, không hề có trại giam Tây Hạ. Đó là những lúc chàng nói đến đứa con sắp sửa ra đời của hai người.
– Em phải giữ gìn đi đứng cẩn thận nghe em, bởi vì con chúng ta và thế hệ của nó sẽ tạo lập nên một thế giới mới, một thế giới không hận thù, không chia cách. Con chúng ta sẽ làm nổi điều đó, bởi vì tuy nó có một người cha vô tích sự như anh, nhưng nó có mẹ nó là em thật nhân ái, thật hiền hòa, thật thuần hậu. Con anh sẽ một đời làm thơ yêu Mẹ, yêu Người, yêu cả những con người bội bạc, độc ác, bất nhân, tàn nhẫn phũ phàng. Không, anh không nói mê đâu em, đừng nhìn anh bằng đôi mắt lo âu như thế. Em, hãy nghe anh nói và em hãy nhìn cho rõ, hãy nhìn bằng tim chứ không phải nhìn bằng mắt đâu em. Này nhé, con chúng mình rồi sẽ ra đời vào một buổi sớm mai, nó cất tiếng khóc chào đời giữa muôn ngàn chim ca hót, giữa lúc nhân loại đang bừng tỉnh giấc nồng. Tiếng khóc của thằng bé vang vang, chà, chú bé tí teo mà tiếng khóc mới lạ lùng cho chớ. Em có thấy lạ lùng không? Nó khóc như thể tình yêu của cả nhân loại này không đủ để làm yên lòng nó, như nắng hồng rực rỡ ngoài kia không đủ làm ấm hình hài nhỏ bé của nó, như góp hết trăng sao trong vũ trụ này không đủ thắp sáng mơ ước mai sau của nó. Mà nó mới xinh làm sao, em thấy không? Tóc nó như tơ lưa thưa có vài sợi óng nuột, trán nó rộng và cao vút, đôi mắt nó sáng rực mới tinh khôi, mũi nó thon và cao đấy chứ em, ai bảo dân da vàng thì mũi tẹt, ăn nói thật hồ đồ, à mà màu đỏ môi con mình mới lạ chứ em, nó chói rạng như luôn luôn có nắng mai chiếu lên đó, con chúng mình nó xinh đẹp như vậy đó em, em nghĩ coi có sá gì cái thân anh tù tội đâu em, anh còn có thể chờ đợi, còn có quyền mơ ước thật nhiều mà em.
Đấy, chàng ăn nói như vậy đó, giọng chàng thật du dương đầm ấm, nàng nghe say mê không biết bao nhiêu lần, và lần nào nàng cũng bị lạc vào một cõi mông lung nào đó không có lối ra.
Hiếu đưa tay vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt, mưa thế này biết bao giờ cho ngớt. Nàng không hy vọng có thể gặp được Trần hôm nay, đã chiều quá rồi, những người đến thăm thân nhân đã lần lượt ra về, Hiếu nghĩ đến đường về mà thấy nản lòng. Nàng phải băng qua khỏi cánh rừng trước khi trời đổ tối, phải lần qua một chiếc cầu bắt ngang con suối đổ về cuối thôn Mai Lĩnh, chiếc cầu thật cheo leo, vỏn vẹn một thân cây ngã dài từ bờ suối bên này bắt sang bờ bên kia, phía trên có tay vịn bằng một thân cây nhỏ hơn được nối liền hai bên bờ bằng những khúc cây gác tréo, người đi đường vịn vào đó mà đi trên thân cây cầu lâu ngày nên tróc vỏ trơn tuột. Mỗi lần đi thăm Trần, Hiếu phải vất vả lắm mới một mình lần qua chiếc cầu với cái giỏ nặng trong tay.
Hiếu cúi đầu, nhìn nước mưa xẻ con đường thành nhiều rãnh nước chảy băng băng như những con thác nhỏ. Nước mưa rơi trên mặt nước nổi lên những chiếc bong bóng ngũ sắc, thoắt tan đi, rồi thoắt hiện ra, những chiếc bong bóng mưa làm mặt đất như sủi bọt. Hiếu nghĩ thầm: “Mưa như thế này chắc còn lâu lắm.” Nàng nhìn về phía trại giam, cửa nẻo vào trại đóng im ỉm, nàng nhìn quanh, khu rừng bây giờ hoàn toàn vắng vẻ, chỉ còn lại mình nàng và cơn mưa như trút nước, không thể biết bây giờ là mấy giờ chiều, áo quần nàng ướt sũng dán sát vào người, nàng lạnh cóng, cố cắn chặt răng mà vẫn run cầm cập, tê buốt cả toàn thân. Cái thai trong bụng nàng chợt cựa quậy thật mạnh khiến nàng xây xẩm mặt mày, nàng cố gắng đứng tựa vào thân cây, cánh tay nàng bỗng rã rời, nàng không buồn nhấc tay lên vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt nữa. Chợt nàng thảng thốt buông rơi giỏ đồ trên tay xuống đất, nàng cúi gập mình lại, một cơn đau lạ lùng xoáy thẳng vào ngực nàng khiến nàng nghẹt thở, nàng lảo đảo bước tới vài bước, cơn đau như xé lại tiếp theo, lần này dữ dội gấp mấy lần trước, như có một con bạch tuộc cuốn tất cả gan ruột nàng dâng lên thắt chặt lấy tim. Nàng ngã vật xuống vũng nước mưa trộn màu đất sét đỏ au. Trước khi ngất đi, qua màn nước mưa chảy tràn qua đôi mắt, nàng còn thấy lờ mờ một cái bong bóng mưa trong suốt trôi lại gần mặt nàng, nó to dần, to dần, rồi úp chụp lấy nàng.
Khi Hiếu tỉnh lại, nàng thấy mình được quấn trong một chiếc khăn khô ấm bên cạnh một đống lửa thật to cháy rần rật. Trần ngồi bên cạnh nàng, chàng ủ hai bàn tay lạnh ngắt của nàng trong hai bàn tay ấm áp của chàng, mắt chàng đăm chiêu lo lắng. Thấy động dưới chân, Hiếu nhìn xuống, nàng thấy Huỳnh đang hơ tay lên lửa cho thật nóng đoạn chà xát hai bàn chân của nàng thật mạnh, mùi dầu khuynh diệp nồng hắc cả căn lều.
Thấy nàng mở mắt, Trần mừng rỡ, chàng la to:
– Hiếu tỉnh rồi, Hiếu, Hiếu ơi, có phải em tỉnh rồi đấy không?
Hiếu yếu đuối gật đầu, người nàng bải hoải, không cử động nổi, Trần ôm choàng lấy nàng, chàng úp mặt vào mặt nàng, lặng đi một lúc lâu, Hiếu nghe giòng nước mắt nóng ấm trên mặt chàng, chảy qua má nàng, người nàng chợt rung động, một nguồn sinh lực mới mẻ chạy suốt châu thân, nàng nhấc tay lên thấy nhẹ hẫng, vuốt ve mái tóc bù rối của Trần. Trần ngước lên, mắt chàng ướt đẫm nhưng sáng rực, chàng lẩm bẩm: “Tạ ơn Trời, xin tạ ơn Trời, nàng không chết, nàng không thể chết.” Chợt chàng la to:
– Em đừng chết, nghe em.
Nụ cười yếu đuối thoáng trên môi Hiếu, nàng lại gật đầu, đôi mắt nàng nhìn Trần tỏ vẻ âu yếm hân hoan.
Trần lại la to:
– Không, em nói đi, hãy nói cho anh nghe, em không chết chứ.
– Vâng, em không chết, không bao giờ chết được.
Tiếng nói của Hiếu bật ra, gọn và rõ ràng từng tiếng một, như tiếng học trò trả bài. Trần tỏ vẻ hài lòng, chàng lại lẩm bẩm: “Ừ, có thế chứ.”
Huỳnh cũng vui mừng, chàng nhẹ nhàng đắp chăn kín hai chân của Hiếu, lặng lẽ đi pha sữa vào cái chén bằng đất nung mang lại:
– Chị gắng uống tí sữa cho nó tỉnh táo nào, chị bị thấm lạnh nên bị ngất đi thôi chứ không sao đâu, cái thằng Trần thật ngu, chết thế nào được mà chết.
Trần đỡ Hiếu dậy ngồi tựa vào người chàng, cầm chén sữa nâng niu kề vào miệng Hiếu, nàng uống từng hớp nhỏ, lửa cháy to làm cho người nàng nóng đều, nàng bàng hoàng tưởng như mình nằm mê, nàng không thể ngờ được trong hoàn cảnh này mà nàng có thể được ở bên cạnh Trần trong căn lều giam này. Trời ngoài kia đã nhá nhem tối, cơn mưa vẫn ào ào không dứt, tiếng người qua lại xôn xao ngoài sân trại lẫn trong tiếng mưa rơi khiến Hiếu cau mày, lo lắng, nàng tỏ vẻ áy náy không yên.
Trần hiểu ý, dịu dàng nói:
– Không sao đâu, em cứ yên tâm, em uống thêm một chút nữa rồi nằm nghỉ, anh đã xin ban Giám đốc cho phép em ở lại với anh đêm nay rồi.
Tiếng cồng tập họp tù nhân vang lên cuối trại rền vang qua tiếng mưa rào rào. Huỳnh đứng dậy, làu nhàu trong miệng những tiếng gì không rõ, đoạn đẩy cửa bước ra ngoài, Hiếu nhìn Trần:
– Anh không đi với anh Huỳnh à?
– Không, anh đã xin được miễn sinh hoạt tối nay để ở lại săn sóc em rồi.
– Anh đưa em vào đây từ bao giờ?
Trần rùng mình như chợt nhớ ra một điều gì thật ghê gớm, chàng cúi ghì sát Hiếu vào trong lòng, chàng bắt đầu kể:
– Học tập xong, chúng anh giải tán ra sân đã năm giờ chiều. Hôm nay có phái đoàn Việt Bắc vào phổ biến tin tức chiến thắng Cao Bắc Lạng, suốt ngày anh và các bạn tù phải ngồi yên nghe cán bộ nói mãi về thành tích chiến thắng của bộ đội ta cũng như những thắng lợi về các cuộc đấu tố tiêu diệt giai cấp địa chủ ở Việt Bắc. Dù sao anh cũng biết ơn họ, vì chính nhờ phái đoàn cán bộ này khi ra về họ mới phát giác ra em đang nằm bất tỉnh trên vũng nước mưa trước cổng trại. Nếu không có mấy người đó ra về thì buổi chiều gần tối trời mưa không ai ra khỏi trại làm gì, chắc em nằm chết cóng ngoài trời đêm nay luôn; khi mang em vào đây, anh thay áo quần cho em, quấn chăn, đốt lửa lên, em vẫn bằn bặt thiếp đi không biết gì cả. Y tá của trại có tiêm cho em một mũi, giọt cho em mấy giọt thuốc gì đó, em cựa quậy, mở mắt ra một chút rồi lại mê trở lại. Trời ơi anh không dám nghĩ là em có thể đi luôn, chao ôi, em ơi, nếu em có mệnh hệ nào thì anh biết sống sao đây.
Trần đặt Hiếu nằm xuống, nâng niu gượng nhẹ như một vật quý giá mỏng manh nhất:
– Em nằm yên, nghỉ một tí nhé.
Hiếu ngoan ngoãn gật đầu, nhìn Trần đăm đăm không dứt bằng đôi mắt tật nguyền buồn bã của nàng. Trần mang chén sữa Hiếu uống được lưng nửa để ở góc bếp, bếp là ba hòn đá chụm lại ở góc lều để nấu nước khi cần. Chàng bỏ thêm củi vào đống lửa yên lặng nghe mưa rơi trên mái lều, đôi mắt chàng chìm đắm vào một vùng u tối. Hình ảnh Hiếu khi chiều hiện lên rõ rệt trong trí chàng, những người bạn tù mang nàng vào trại, khuôn mặt trắng bệt lấm láp bùn đất, miệng nàng khẽ hé mở như một tiếng van xin mơ hồ, hai mắt nhắm nghiền ướt đẫm, mái tóc dài xõa ra bết lại rũ xuống lòng thòng nhỏ giọt nước mưa, áo quần sũng nước dính bết vào người làm nổi lên cái bụng có thai căng phồng, tròn trĩnh; khi nhìn cái bụng đột nhiên một ý tưởng xẹt qua đầu Trần khiến tim chàng nhói lên sợ hãi. Chàng thấy hình thù cái bụng chửa của người yêu trông như một nấm mộ nhỏ. Giờ đây ý nghĩ ấy lại trở lại với chàng, như một tương quan kỳ bí về sự sinh và tử. Tại sao lại có cái hình thức giống nhau giữa con người khi sắp sinh ra được che chở bằng cái bụng của người mẹ trong hình thái một cái bầu tròn hình bán nguyệt với con người khi đi vào lòng đất được đánh dấu bằng một cái gò nổi cao lên cũng giống một cái hình bán nguyệt hay dưới bất cứ hình thức nào thì cũng thế. Những điều ấy nói gì đây, nó chứng tỏ gì trong cái khôn cùng của đời sống này? Trần cúi đầu, lấy hai tay đỡ vầng trán mệt mỏi của chàng, chàng đã lo sợ đặt tay lên bụng Hiếu biết bao nhiêu lần, khi nàng còn mê man bất tỉnh, chàng vẫn nghe có dấu hiệu của sự sống cựa quậy nhè nhẹ dưới làn da bụng của nàng, không biết đứa bé có sao không, có bị ảnh hưởng cơn đau lạnh của mẹ nó không? Tự nhiên chàng thấy tràn ngập một nỗi xót xa thương yêu vô cùng đứa con chưa ra đời của chàng. Chưa chi nó đã chia sẻ đau thương với cha mẹ nó ngay khi chưa biết mặt cuộc đời. Rồi đây nó sẽ ra sao, khi cha thì tù tội, lạc lõng, mẹ thì yếu đuối, cô đơn? Nó sẽ ra sao khi sinh ra trên xứ sở ngùn ngụt căm thù và lòng người ngăn cách này?
Trần buồn rầu nhìn về phía Hiếu nằm trên giường trong chiếc chăn mỏng quấn lấy người, nàng yếu đuối, tội nghiệp biết bao, giờ này nàng còn có chàng bên cạnh, nhưng ngày mai, và những ngày sau nữa, nàng không có ai, không còn có chàng, trong những giây phút nguy nan như thế này, cả khi nàng sinh nở, rồi sẽ ra sao đây.
Trong khi đó, chàng vẫn ở lại đây, hai tay trống trơn, bình sinh trắng toát.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:36:42 GMT -6
CHƯƠNG XXXII
Huỳnh trở lại, cái tơi lá ướt nước chảy ròng ròng xuống nền đất, chàng đặt trước mặt Trần một gói cơm trộn sắn màu xám ngoét và một con cá mắm khô quắt đen sì:
– Ăn đi, nhà bếp nó cho lấy phần mày, cũng khá tốt đấy, ăn đi mày, cả ngày đói khát ngồi nghe giảng chiến thắng Cao Bắc Lạng trong khi bị cầm tù chưa đủ, tối lại cho ăn bữa cơm chết toi này xong là bắt họp kiểm thảo tư tưởng, hỏi cả ngày học tập tin chiến thắng ai có ý nghĩ gì hãy khai ra. Tao khai ngay là tao mệt mỏi, chỉ muốn ngủ, thế là cán bộ chủ tịch buổi họp lạnh nhạt nhìn tao bằng cặp mắt trắng dã của nó, và bảo: “Được lắm, vậy cho anh về lều đi ngủ.” Tao chỉ mong có thế, tao đứng dậy đi liền một mạch ra nhà bếp xin cơm cho mày rồi về đây.
Trần cau mày:
– Mày chọc chúng nó làm gì, lại thêm rắc rối chứ có ích gì đâu.
Huỳnh không trả lời; chàng đến gần giường Hiếu nằm, đặt tay lên trán Hiếu; thấy mái tóc Hiếu còn ẩm ướt, Huỳnh kêu lên:
– Thằng này thật không biết gì cả, sẵn lửa sao không hong tóc cho chị cho khô, để ướt như thế này nó thấm vào đầu không tốt.
Trần nghe lời, chàng đỡ đầu Hiếu gối lên đùi chàng, xõa mớ tóc dài của nàng ra trước ngọn lửa, chàng thong thả gỡ những lọn tóc ướt của nàng bằng cái lược thưa, buổi chiều khi người ta đưa nàng vào trại, mưa từ ngoài rừng cho đến căn lều này đã gội đi nước bùn đất dính trên tóc nàng, nên bây giờ được hong khô bên lửa, tóc nàng đã trở nên sạch sẽ óng ả đen mượt. Như sực nhớ ra Hiếu nói với Trần:
– Sáng nay trên đường đến đây tôi có gặp anh Hòa, anh Thành và cô Huyên. Họ hỏi thăm anh và anh Huỳnh, họ có viết thơ cho hai anh nữa, ở trong túi áo của tôi đó, chắc bị ướt cả.
Trần quay lại bảo Huỳnh:
– Mày xem trong túi áo của Hiếu hong ở kia xem có thư không?
Huỳnh làm theo Trần bảo, lấy trong áo Hiếu ra ba cái thư, chàng mang lại bên lửa, định mở ra xem, bỗng chàng lim dim mắt có dáng tư lự:
– Tao nghĩ thật bậy quá mày ạ.
– Cái gì bậy?
– Thằng Hòa, thằng Thành dám viết thăm tụi mình cũng được đi, tụi nó đang có thế lực, người ta đang còn cần đến chúng nó, còn Huyên mà cũng cả gan bày đặt viết thư thăm tù Tây Hạ thì con bé quả thật là liều hết sức. Ai khiến nó không biết, thăm với viếng làm gì, đáng đánh đòn con bé về tội này.
Huỳnh lật ngắm nhìn phong thư nhỏ nhắn nhất:
– Lại ẩu nữa rồi, mày xem, bé Huyên nó đề bì thư như thế này: “Kính gởi anh Huỳnh và anh Trần, tù Văn Nghệ, trại Tây Hạ.” Có chết không chứ.
Trần bật cười:
– Đúng là chó con không biết sợ cọp, nó ngộ nghĩnh thế, chắc cũng chẳng ai làm gì nó đâu, mày đừng lo.
Huỳnh lần lượt bóc mấy cái thư, chàng vừa đọc vừa nói với Trần:
– Huyên đang lên tỉnh xin giấy tờ để đi học lại, có thể là sẽ vào Khu Năm, cô bé bảo có nhiều trở ngại nhưng cô bé cũng có nhiều hy vọng rời khỏi Thừa Thiên vào đầu năm tới, cô bé hỏi hai anh ở trong ấy có hay ngâm thơ với nhau không, nếu có thì vẫn vui như thường, ở ngoài này buồn và vắng lắm, mong hai anh chóng được ra để mọi người gặp lại. Còn thư của Thành và Hòa chúng nó bảo anh em ở ngoài đang lo vận động cho chúng mình ra khỏi đây, chỉ còn chờ thời gian, chúng nó chúc mạnh khỏe, chúc sáng tác thật nhiều, dặn chúng mình đừng quên Tổ quốc và nhân dân đang chờ đợi. Hừ, chờ đợi, chờ đợi những gì nhỉ, chờ những chiếc pháo bông chớp lòa rực rỡ cả bầu trời để rồi tắt ngấm, trả đêm về lại cho đêm chứ gì. Tụi thằng Thành thằng Hòa coi cũng khá mà bây giờ cũng dùng sáo ngữ với anh em. Nhưng thôi, cứ kể thì cũng có tình lắm mới dám viết cho mình trong lúc này.
– Chậc, mày khó tính vừa chứ, chúng nó không dùng sáo ngữ ấy thì làm sao mà viết được thư cho chúng mình?
– Ờ, cũng có lý.
– Huyên nó bảo ở ngoài buồn và vắng lắm, là sao nhỉ?
Hiếu cựa quậy trong lòng Trần, nàng trở mình nằm nghiêng, ngước mặt về phía Huỳnh:
– Cô Huyên bảo tôi nói lại với hai anh là ở ngoài ấy các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã bỏ về thành hết rồi, không còn ai ở lại nữa.
Hiếu ngừng một chút để thở rồi nói tiếp:
– Mà không còn ai thật, dạo này họ về thành nhiều quá, anh Hoài cũng mang vợ ra Huế tháng trước, họ đi về ngã Cầu Đôi, anh Tùng về ngã làng Nguyệt, chú Thảo đi qua Tây Hồ lên Huế, còn nhiều nhiều lắm, tôi nhớ không xiết, toàn những người khá cả, thật là uổng.
Trần cười buồn cúi hôn lên mắt Hiếu:
– Thật uổng, thật uổng là sao em? Như Trần của em và thằng Huỳnh đó, bây giờ mang thân tù tội thế này có uổng không em?
– Ai cũng cảm thấy uổng cả đấy chứ, không biết sao họ để vậy. Anh Thành nói với tôi là anh em bộ đội bên trung đoàn xin cấp trên thả hai anh ra, họ đòi sự có mặt của hai anh bên cạnh họ. Ấy thế là những người chủ xướng một số thì bị đổi đi ra mặt trận Quảng Bình, còn số khác thì khôn hồn đi luôn về thành trước khi bị đẩy đi xa.
Huỳnh thở ra:
– Tụi điên khùng chúng nó còn lạ gì tình cảnh này mà làm vậy, chỉ thêm rách nát chứ ích gì đâu, hai thằng tôi thì đáng giá gì mà đòi với hỏi.
– Vâng, tôi nghe vậy cũng thầm lo cho số phận của những anh em thương mình, nhưng anh Thành bảo dầu sao việc đó cũng gây được tiếng vang đáng kể trong bộ đội và quần chúng bên ngoài và do đó người ta không thể bạc đãi hai anh quá ở trong tù, bởi vì người ta còn phải ước lượng phản ứng của chiến sĩ và nhân dân mến mộ tư tưởng và thi văn của hai anh.
Huỳnh cười chua chát:
– Chị chưa hiểu hết ý của thằng Thành muốn nói, nó nói vậy là nó không muốn nói rằng nhờ sự theo dõi và mến mộ của đám quần chúng và bộ đội đối với chúng tôi nên người ta sẽ không dám thủ tiêu chúng tôi một cách dễ dàng như xưa nay người ta vẫn thường làm vậy đó thôi.
Hiếu rùng mình, hốt hoảng, nàng quay lại ôm chặt lấy Trần:
– Không, không thể như thế được, đừng nói thế anh Huỳnh, không, không phải như vậy phải không Trần?
Trần siết chặt thân hình nhỏ bé của Hiếu vào lòng, vỗ về:
– Không đâu em, không phải vậy đâu em, đừng có nghe cái miệng của thằng Huỳnh, anh đã nói với em rằng nó sợ chết kinh khủng, nó sợ điên lên lận, cho nên cái gì cũng khiến nó nghĩ đến chuyện giết chóc. Em còn yếu, hãy nằm yên nghỉ cho khỏe, đừng lo nghĩ gì hết, không nên cho em, không nên cho con chúng mình nữa. Anh đang ở bên em, không đủ sao, hãy nhắm mắt lại đi em, anh ôm em và con như thế này suốt đêm nay, suốt cả đêm nay, còn hơn cả một đời, cứ nghĩ như vậy, vì một phút của chúng ta bằng một năm của cả đời người mà, em có nhớ không em? Em có nhớ có lần anh đã bảo em như thế rồi mà.
Trần ru đưa Hiếu trong cánh tay chàng, chàng nói bằng giọng nói trầm ấm cố hữu của chàng, cố ru ngủ tiềm thức bí ẩn hoang dại trôi nổi giữa hư vô, ở đó lô nhô những nấm mồ, những ánh thép lóe lên chớp lạnh giữa không gian, những giòng nước mắt đóng thành băng giá, những đôi mắt khép hờ để vậy ngàn năm.
Huỳnh lục đục trải chiếc tơi lá bên cạnh đống lửa, chàng ngả mình trên đó, lấy chăn đắp kín người, càu nhàu:
– Nó nói phải đó chị Hiếu, có lẽ tôi bị ám ảnh nên nói bậy đó, không có gì đâu, những thằng chúng tôi phải sống chứ, những thằng này phải sống thì đất nước này mới còn chứ, những thằng này mà chết đi để cho quê hương xứ sở này chúng nó đem làm mắm à. Tao có sợ chết là phải lắm chứ Trần, con người chỉ có một thân xác thôi chứ có bao lăm mà đem chấp cái chết. Xuống nằm dưới mộ cho dế nó kêu ri rỉ trên đầu, buồn nhức xương, mà tao lại hay buồn. Đêm kia tao nằm thấy Lương, tao thấy mắt nó thật buồn, thôi tao bắt đầu đi ngủ đây, mày đi ăn cơm đi rồi còn ngủ một chút, chị Hiếu cũng gắng ngủ một chút cho chóng mạnh. Ngày hôm nay, thế là quá đủ, thật quá đủ.
Huỳnh ngáp dài, nhắm mắt, nằm yên lặng.
Tóc Hiếu đã khô, Trần đỡ nàng nằm xuống giường âu yếm: “Chờ anh một chút,” đoạn chàng đứng dậy cầm một thanh củi khều ngọn lửa cháy bùng lên, vói tay lấy ba cái thư Huỳnh để gần đó. Chàng cầm nắm cơm Huỳnh mang về lúc nãy vừa nhai vừa soi thư vào ánh lửa xem lại một lượt. Xem xong chàng bỏ từng cái thư vào lửa, chàng ngắm những tờ thư lần lượt cháy sém ra tro, lòng chàng bỗng trở nên bình thản. Chàng nghe tiếng chân quen thuộc của người giữ tù đi lại dừng trước cửa lều, tiếng khóa xích sắt kêu rổn rảng, tiếng chân người đi xa dần, rồi lặng yên. Chàng nhai nghiền ngẫm miếng cơm trộn sắn với miếng cá mắm khô trong miệng, mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa.
Cơn mưa đã dứt từ lâu, hơi nước trong không gian vẫn còn trĩu nặng, đâu đó những giọt tranh kêu tí tách, rời rạc, khiến chàng nhớ câu nói của Trường, một bạn tù, vào một ngày đi chặt cây trong rừng, thình lình trời đổ mưa, cả bọn phải chui vào một hốc đá dưới tàng cây rậm lá để ẩn cho qua cơn mưa. Gió tạt mạnh vào chỗ ẩn không kín đáo gì cho lắm cho nên cả bọn đều không tránh khỏi bị ướt. Có năm sáu người chụm lại trong một cái hốc không đầy một thước vuông, nước mưa từ tàng cây cao rơi xuống vòm đá nhô ra làm thành một cái rèm bằng nước, thỉnh thoảng gió thổi mạnh kéo dài rèm mưa từ bên phải sang trái hay ngược lại rồi đổ dồn về một phía, chảy dài xuống đất, để lại một khoảng trống ở giữa, mưa tha hồ tạt vào đám người trú ẩn. Trường lớn tuổi nhất trong bọn, vào khoảng bốn mươi, anh ta bị ướt như chuột lội, anh nhìn mưa đâm ra cảm khái:
– Nghĩ cái thân phận của một hạt mưa còn long đong như thế huống hồ cái thân tù của anh em mình, nước từ suối đổ ra sông, từ sông ra biển, từ biển bốc thành hơi nước bay lên trời, thành mây bay lang thang, chán mới tụ lại thành giọt mưa rơi trên ngọn lá, từ ngọn lá rơi xuống mái hiên này, lượn qua lượn lại kéo dàykéo mỏng còn chán khó khăn mới rơi được xuống để thấm vào lòng đất. Khó lắm anh em ơi.
Cả bọn vỡ ra cười. Trần nhìn mọi người lúc đó, những tiếng cười òa vỡ từ những khuôn mặt hốc hác vô vọng, trên đó có những đôi mắt im sửng, khô khan, tiếng cười phát ra từ những cái miệng há ra với một thanh âm mà người ta gọi là cười. Đã có lần Trần bực dọc vì những nụ cười đó, chàng nhớ không biết có ai đã nói: “Người Việt Nam mình cái gì cũng cười, vui cũng cười, buồn cũng cười, người ta tử tế với mình cười đã đành, mà người ta đá đít cũng cười, nản thật.” Hồi đó Trần đồng ý cho rằng nụ cười đó thật là ngu xuẩn, nhưng bây giờ nhìn những nụ cười của những bạn tù, những người đã hơn một lần kiêu hãnh chấp nhận nghiệp chướng của quê hương làm nghiệp chướng của mình, Trần bàng hoàng nhận ra rằng đó chính là nụ cười đích thực của người Việt Nam. Tất cả người Việt Nam đều cười như thế cả. Họ cười như thế khi bị chà đạp, bị lừa dối, bị đối xử tàn nhẫn phũ phàng, bị đem làm hình nhân thí nghiệm trăm ngàn mớ lý thuyết quái đản khác nhau. Họ đều cười như thế trước tham vọng của kẻ mạnh, trước đớn hèn quỳ gối của kẻ yếu, trước những giá trị không hề có thật.
Người Việt Nam cười, nụ cười như những giọt mưa mang biết bao ảo ảnh phù du trong bóng sáng của mình.
Trần ngoảnh nhìn Hiếu nằm ngửa trên giường với cái bụng nhô lên dưới lần chăn mỏng: “Rồi đây con ta cũng sẽ cười như thế, bởi vì ngay khi chưa ra đời, nó đã cùng cha mẹ nó sống qua cái đêm tù ngục này. Và mùa mưa trong rừng chỉ mới bắt đầu.”
Một nỗi ngậm ngùi thương xót thấm lạnh hồn Trần, chàng đứng lên, đến nằm bên cạnh Hiếu, chàng vòng tay ôm lấy người nàng, chợt nàng đưa cả hai tay níu chặt lấy cánh tay chàng, run rẩy siết vào ngực, cử chỉ yếu đuối, tội nghiệp như một nắm nuối vô vọng, như chới với ôm vào người một khoảng trống không. Lòng Trần rung động tràn ngập thương yêu, chàng cúi xuống đặt môi trên trán người yêu, nghe cơn mưa trở lại, rào rạt từ rừng xa đổ tới rõ dần.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:39:23 GMT -6
CHƯƠNG XXXIII
Hiếu cựa mình trên cánh tay Trần choàng qua cho nàng gối, cánh tay yêu thương khép lại ôm kín thân hình nàng, bàn tay chàng thỉnh thoảng vỗ nhẹ trên người nàng. Nàng không biết Trần thức hay ngủ, cử chỉ vỗ về của chàng như lời ru trong tiềm thức.
Ngọn lửa giữa lều đã gần tàn, một chút lửa xanh yếu ớt liếm qua lại trên khúc củi tròn đen nám, mưa nhỏ hạt chỉ còn rả rích xa xôi. Bên ngoài trời còn tối lắm, rừng sâu bằn bặt trong giấc ngủ hoang liêu; hốt nhiên trong bóng tối Hiếu nhìn thấy rõ ràng hình ảnh chiếc bong bóng trong suốt loang loáng phản chiếu hình trời mây cây cối, nó trôi nhẹ nhàng tới sát mặt nàng, nó to dần, to dần rồi úp chụp lấy nàng. Một cơn gió hoang tàn nổi lên trong cùng thẳm tâm hồn khiến Hiếu cảm thấy cả người gai lạnh, nàng thảng thốt đưa hai bàn tay về phía trước như chống đỡ, như van xin. Thấy động Trần trở mình ôm chặt Hiếu, hỏi dồn:
– Em làm sao thế em? Em làm sao thế?
– Em sợ.
– Em sợ gì?
– Em sợ trời chóng sáng.
Trần nín lặng, chàng ôm thật chặt thân hình run rẩy của Hiếu trong tay, áp sát mặt nàng vào ngực mình, bàn tay chàng vỗ nhịp đều đặn trên lưng Hiếu, lời ru câm nín xót xa. Hơi thở ấm áp, mùi da thịt thơm nồng của Trần làm dịu đi nỗi đau đớn của Hiếu, chiếc bong bóng lãng đãng trôi xa dần vào một vùng mênh mông sáng chói, nó vỡ làm đôi, làm tư thành những bong bóng nhỏ đoạn ghép lại liền liền thành những hình kỷ hà trong như pha lê, trong mỗi hình kỷ hà biến chuyển không ngừng đó đều phản chiếu hình ảnh của chính nàng lang thang giữa khoảng không trắng ngời.
Giữa cơn mê tỉnh đó, vòng tay Trần bỗng dưng nới lỏng, chàng xoay người quay mặt ra ngoài nghe ngóng. Hiếu bàng hoàng định thần lắng nghe, có tiếng chân nhiều người đi lại phía lều này, tiếng người dừng lại trước cửa lều, ánh đèn pin quét một vệt sáng bên ngoài, chiếu lướt qua khe nứa. Trần và Hiếu cùng ngồi bật dậy, tiếng mở khóa xích sắt ngoài cửa kêu lách cách, cánh cửa vụt mở, ánh đèn pin chiếu thẳng vào chỗ hai người làm họ lóa mắt, cùng lúc tiếng người hỏi to, giọng cộc cằn:
– Phạm nhân Phạm Huỳnh, dậy mau, đi theo chúng tôi.
Huỳnh choàng dậy trên chiếc tơi lá trải dưới đất, chàng nhìn quanh ngơ ngác, cơn ngái ngủ còn vây bọc lấy chàng. Tiếng người lại thúc giục, gắt gỏng, mũi súng lạnh lẽo thúc vào vai Huỳnh:
– Dậy đi.
Huỳnh đứng lên như một cái máy, trong ánh đèn pin, chàng nhìn thấy người coi tù đứng trước mặt, tay cầm xâu chìa khóa, bên cạnh có hai người công an cầm súng chĩa mũi vào chàng, trong một giây, tim Huỳnh dội lên rồi lặng đi như ngừng đập, cả người Huỳnh tê dại.
Một trong hai người công an lập lại, giọng nghiêm trọng gay gắt hơn:
– Phạm Huỳnh, có lệnh cấp trên gọi, hãy đi theo chúng tôi.
Trong trí Huỳnh, tiếng chuông báo nguy vang vang từng hồi chát chúa, chàng cảm thấy nghẹt thở như muốn lịm đi, ý nghĩ trốn chạy vút ngang qua đầu chàng, không suy nghĩ, chàng dợm phóng tới trước, chiếc chăn vướng dưới chân làm người chàng chúi nhủi, loạng choạng suýt ngã nếu không có cánh tay Trần đưa ra đỡ kịp. Trần quay lại mấy người kia, ôn tồn hỏi:
– Xin các anh vui lòng cho biết, cấp trên gọi Huỳnh đi đâu trong giờ khuya khoắc như thế này?
Người công an trừng mắt gằn giọng:
– Tôi không có bổn phận phải trả lời câu hỏi của anh, lệnh gọi ai đi là người ấy phải đi, thế thôi.
Trần gật đầu thản nhiên:
– Nếu vậy tôi cũng xin đi theo.
– Không được, không có lệnh gọi anh.
Huỳnh đã bình tĩnh trở lại, chàng nói thật dịu dàng thân ái:
– Không, Trần không đi đâu cả, hãy ở lại săn sóc chị Hiếu, chị đang run lên vì lạnh kia kìa, hãy đốt lửa lên cho chị sưởi.
Huỳnh nhìn thẳng vào mắt Trần một giây, trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn pin, Trần thấy mặt Huỳnh xanh ngắt, nhưng đôi mắt thật xa vắng khôn dò.
Huỳnh quay lại mấy người công an, nói rõ ràng từng tiếng một:
– Thôi, chúng ta đi chứ.
Huỳnh ngẩng cao đầu, quay lưng lại Trần và Hiếu, bước đi thật thẳng, tự để người lọt vào giữa hai mũi súng, đi thẳng ra ngoài. Người coi tù khóa cửa lách cách, những bước chân đi xa dần.
Căn lều vụt trở nên đen tối hoàn toàn.
Hiếu bám lấy cánh tay Trần run rẩy:
– Người ta mang anh Huỳnh đi đâu thế hở anh?
Trần đứng yên trong bóng tối, lặng lẽ đưa tay nắm chặt bàn tay Hiếu đang níu lấy cánh tay chàng, cúi đầu suy nghĩ. Bỗng chàng khẽ kêu lên:
– À, có thế chứ.
Chàng quay lại ôm choàng lấy Hiếu, cúi hôn trên tóc nàng, dìu nàng lại giường:
– Em ngồi xuống đây, ngồi yên đấy, đừng bước đi, tối quá dễ bị vấp ngã đấy. Để anh đi đốt lửa chờ Huỳnh về.
Hiếu nghẹn ngào:
– Liệu có trở về không anh? Đang giữa khuya thức tù dậy mang đi, có sao không anh?
Trần quẹt một que diêm, ánh lửa loe ra cho Hiếu thấy rõ nét mặt trầm lặng khắc khổ của chàng.
– Không sao đâu, anh vừa nghĩ ra rồi, em có nhớ không? Hồi đầu hôm Huỳnh đi ăn cơm trở về có kể cho chúng mình nghe cơm xong cán bộ bắt họp kiểm thảo, Huỳnh nói thẳng ra rằng nó mệt mỏi, muốn đi ngủ, cán bộ bèn cho nó về ngay. Anh đã lo ngại khi nghe Huỳnh về kể lại, thì bây giờ họ bắt đầu trị rồi đó, gọi dậy nửa đêm mang đi hành hạ về cái tội dám bướng bỉnh với cán bộ. Gia dĩ họ lại còn biết Huỳnh đau tim và rất sợ chết nữa, bằng cách này họ đánh mạnh vào tâm não của Huỳnh rất hiệu quả, kể cũng ghê gớm và tinh thật đấy. Em đừng sợ chuyện mang đi thủ tiêu, chúng anh không đến nỗi bị thủ tiêu dễ dàng như thế, tuy nhiên anh vẫn e ngại từ nay sẽ càng thêm rắc rối khổ sở với chúng nó nhiều.
Lửa cháy bùng trên mồi lá khô bắt vào củi cháy rực lên sáng cả căn lều.
Trần bảo Hiếu:
– Em đến ngồi gần đây cho ấm, không biết sao em cứ run hoài, em run mãi như thế thì sợ con anh sau này nó sẽ rét mướt cả đời thì sao?
Hiếu lóng cóng đến ngồi cạnh Trần, nàng thì thầm như sợ ai nghe được:
– Vâng, thế thì anh Huỳnh sắp trở về với chúng mình đấy anh nhỉ, không biết giờ họ đang làm gì anh ấy, liệu anh ấy có chịu đựng được không anh?
Trần ngồi yên, ánh mắt chàng chợt sáng lên dữ dội, nét mặt chàng đanh lại khiến Hiếu sợ hãi không dám hỏi nữa, nàng ngồi cố thu người thật nhỏ bên cạnh Trần.
Đã hơn một tiếng đồng hồ mà chưa thấy Huỳnh trở lại, tâm trí Trần càng căng thẳng trong sự chờ đợi. Tuy chàng biết người ta mang Huỳnh đi để trừng phạt cái thái độ ngang bướng của Huỳnh hồi tối mà thôi, nhưng những bóng đen cứ lởn vởn trong trí óc của Trần mỗi lúc một quái đản hơn, mỗi lúc một to lớn hơn lên.
Một con chim lạ rúc lên một tiếng não nuột trong rừng sâu đen tối, cơn gió mang tiếng chim sầu não lướt qua làn nước mưa đọng trên những tầng lá trên cao rớt lợt đợt xuống mái tranh sũng ướt. Các lều bên cạnh có tiếng người nói rì rào, tiếng sột soạt của đồ vật bị xê dịch, Trần nghĩ là anh em tù bên các lều lân cận đều không ngủ, họ đều đã thức giấc khi nghe tiếng công an gọi Huỳnh dậy mang đi.
Và giờ đây họ cũng đang âm thầm chờ đợi để biết số phận của Huỳnh, như niềm khắc khoải cho chính số phận của họ vậy.
Trần vụt đứng dậy, cơn giận âm ỉ trong lòng chàng chực bừng lên, chàng trút sự nóng nảy lên bước chân nện mạnh đi quanh căn lều chật hẹp như một con thú bị thương.
Cơn cớ nào mà chàng và các bạn tù phải rời bỏ cuộc đời yên vui để xông pha vào vòng chiến tranh gian khổ, để đi đến bước giam cầm tù tội bởi những kẻ ở cùng một chiến tuyến như thế này? Cứ thế ngày rồi đêm, mặt trời hiện lên rồi lặn xuống biến mất sau dãy núi phương Tây, đám tù nhân khốn khổ ở đây vẫn hoàn toàn vô vọng. Không một ai có hy vọng trở về.
Tin chiến thắng Việt Bắc vẫn tung bay, những chiến dịch dưới đồng bằng vẫn tiếp diễn, máu khắp nơi vẫn chảy, chảy vì đấu tranh chủ nghĩa, vì cốt nhục tương tàn nhiều hơn chảy vì chiến đấu chống ngoại xâm. Tiếng hoan hô đả đảo ngày đêm không dứt, đất nước vẫn điêu linh, Mẹ quê hương đã mỏi mòn kiệt lực.
Chúng nó nhân danh Mẹ giết dần mòn những đứa con yêu quý Mẹ mang nặng đẻ đau. Chúng nó múa may khắp nơi, những gót chân chúng nó không hề chạm đất, có những móng vuốt nạm vàng nạm bạc sáng lòa. Chúng nó rung những dây chuông trên những mắt xích vang lên từng tràng nhạc hấp dẫn yêu ma.
Tuy nhiên, đồng bào trên quê hương chưa nhận diện được chúng nó, chưa có một giới danh rõ rệt nào để đặt cho chúng nó, bởi vì kẻ thù xâm lăng của dân tộc đang sừng sững trước mặt choán lấp những hiện tượng quái đản, cái nguy cơ trầm trọng đó.
“Và ta thì bất lực đi quanh căn lều ẩm ướt này, và bạn ta thì tính mệnh không biết ra sao ngoài kia.”
Trần nắm chặt bàn tay lại, đấm vào lòng bàn tay kia, chàng muốn gào lên, thét lên, muốn giật tung căn lều khốn nạn này, cho hai bàn tay bật máu tươi ra, cho thịt da rách nát ê chề. Chàng muốn xông ra ngoài, chàng sẽ gọi đích danh chúng nó và chửi vung lên, hừ, chúng nó sẽ vớ ngay được dịp, khỏi cần phải mất công bày mưu tính kế thủ đoạn lôi thôi, những mũi súng sẽ chĩa theo kẻ điên cuồng, kẻ nổi loạn, những mũi súng sẽ nhắm thật trúng đích, bởi vì đó là những tay súng đã được huấn luyện thuần thục để bắn kẻ thù.
Nãy giờ Hiếu âm thầm buồn bã dõi mắt nhìn theo Trần đi đi lại lại, lòng nàng nặng trĩu lo âu và sợ hãi, thế này vẫn chưa đủ ư, còn phải chịu đựng thêm những gì nữa đây? Hiếu nhắm mắt lại, không dám nghĩ tiếp, nhưng trái tim khốn khổ của nàng vẫn vẽ ra trong trí tưởng tượng một đêm nào đó, đến lượt Trần bị người ta gọi dậy thúc mũi súng vào lưng mang ra giữa rừng tăm tối như Huỳnh đêm nay vậy. Nghĩ đến đó Hiếu cảm thấy máu trong người đông đặc lại, thân hình bé nhỏ của nàng run lên cầm cập mặc dầu ngọn lửa vẫn rần rật cháy to giữa lều, hơi nóng tỏa ra rát cả mặt mày.
Trần đang dằn dọc bước đi bỗng đứng dừng lại, có tiếng chân người ngoài kia, Trần bước nhanh về phía cửa hồi hộp chờ đợi. Tiếng chân người dừng lại trước cửa, tiếng mở khóa, cánh cửa mở hé vừa vặn Huỳnh bị xô vào bước lảo đảo rồi đứng yên. Sợ dây xích kêu loảng xoảng, tiếng khóa kêu tách bên ngoài, cùng tiếng chân người rời xa.
Trần mừng rỡ, đưa tay đón lấy bạn, bỗng Huỳnh lùi lại, đôi mắt chàng tối sầm như không trông thấy ai hết, chiếc áo thâm cũ nát của chàng bị toạc một miếng trên vai trễ xuống lộ ra chiếc xương vai nhô lên.
– Huỳnh, mày làm sao thế hở? – Trần nóng nảy lo ngại hỏi to.
Tiếng gọi của Trần như đánh thức Huỳnh trở về từ cõi u mê nào đó, Huỳnh thõng tay xuống, nhìn Trần, ngu ngơ hỏi:
– Trần đấy à? Mày đang làm gì thế?
Trần đến sát bên Huỳnh, quàng tay ôm vai bạn, dìu bạn đến bên bếp lửa:
– Mày sao thế, chúng nó làm gì mày? Hả, chúng nó đưa mày đi đâu?
Huỳnh ngồi sụp xuống trước ngọn lửa, cười vu vơ thật hiền:
– Sáng quá nhỉ, ấm quá nhỉ, tuyệt thật.
Trần và Hiếu nhìn nhau, không ai nói với ai, họ cùng thấy nỗi lo ngại mỗi lúc một tăng. Trần nắm chặt cánh tay Huỳnh lay giật như Huỳnh đang trong cơn mê ngủ:
– Huỳnh, Huỳnh, hãy quay lại nhìn tao đây này, tao muốn…
Huỳnh chậm chạp quay lại, tầm mắt chàng lơ đãng lướt qua mặt Trần:
– Tao muốn gì đâu nào, à, ừ, tao muốn ngủ, hãy để cho tao ngủ.
Dứt lời, Huỳnh đặt mình nằm nghiêng xuống ngay trên nền đất lạnh lẽo ẩm ướt, hai chân chàng dính đầy bùn đất co lên tận ngực, hai cánh tay gầy guộc ôm lấy đầu, nhắm nghiền mắt lại.
Trần lắc đầu, chàng thở dài thật mạnh như muốn trút cả khối nặng đang đè trong lồng ngực chàng, chàng kéo cái tơi lá lại sát bên Huỳnh, đẩy người Huỳnh nằm lọt vào cái tơi, Huỳnh để mặc cho Trần day trở người mình, chàng vẫn nằm co quắp, mắt nhắm chặt như ngủ say.
Trong khi Hiếu loay hoay đắp chiếc chăn lên người Huỳnh, bỗng Huỳnh mở choàng mắt ra, nhìn Hiếu đăm đăm, chàng cất tiếng nói thật dịu dàng:
– Lan, em đấy ư? Anh chỉ là một kẻ hèn mọn, có đáng gì đâu, sao em cứ quanh quẩn bên anh hoài vậy?
Huỳnh sụp mi mắt xuống, giọng nói thoảng nhẹ xa xăm:
– Hãy hát đi em, hãy hát ru cho anh ngủ.
Hiếu trên tay vẫn còn nâng một mí chăn lên nửa vời, nàng ngây người, sửng sờ, đôi mắt nàng đẫm lệ nhìn Trần. Trần nhìn Hiếu gật đầu, chàng khẽ mấp mấy môi, đưa tay ra hiệu. Hiểu ý người yêu, Hiếu cúi xuống, kéo mí chăn lên đắp kín cổ cho Huỳnh đoạn cất tiếng ru nho nhỏ, lời ru nghẹn ngào, chìm xuống, tiếng đục buồn tênh thấm qua hơi ẩm của gian lều cỏ:
“Trăm năm dầu lỗi hẹn hò Cây da bến cũ con đò khác đưa, Cây da bến cũ còn lưa Con đò đã thác năm xưa đi rồi.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:42:06 GMT -6
CHƯƠNG XXXIV
Tháng 10 năm 1951
Người ta giải đến trại thêm thật nhiều tù nhân, kể có đến hàng trăm, con số nhập trại cao nhất từ trước đến nay, công tác dựng thêm lều trại được tiến hành gấp rút, lều của Trần và Huỳnh được nhận thêm hai người nữa, một người đứng tuổi gốc Bình Định tên Liêu, và một người trẻ tuổi tên là Bằng, người Bắc.
Tuy những vết đòn vọt trên mình hai người tù mới chưa lành hẳn, sáng nay họ phải đi theo Huỳnh và Trần cùng các tù nhân khác vào rừng lồ ô để chặt nứa. Những ngày có nắng thật hiếm hoi trong mùa này, nhưng nắng lại càng làm hơi lạnh khí núi thêm rét buốt. Những tù mới đều ngạc nhiên khi thấy trời lạnh như cắt ruột mà đám tù cũ đều nhất loạt cởi áo nhét vào bụi tre gần đó để mình trần lạnh run mà làm việc, họ đốn ngã nhưng thân cây lồ ô già vàng cả gốc để về đập dập ra ráp lại thành những tấm phên để dựng lên những lều mới.
Huỳnh giải thích cho Bằng và Liêu, hai người mới đến cùng ở chung lều với mình nghe:
– Những cành lồ ô nó có mắt bén nhọn như dao, mình phải rọc hết cành lá nó đi để dễ vác cây về, có lúc cành nó bật lên móc vào áo rách nát tả tơi là thường, như vậy rất có hại các cụ biết không. Thà chịu lạnh một chút rồi làm việc, đẵn cây đều đều nó nóng người lên, chứ áo mà rách thì lấy gì mà vá, mùa đông còn dài dặc thế kia.
Bằng nhìn những vết xây xát chi chít trên mình Trần và Huỳnh, có vết sẹo như dao chém, nhíu mày hỏi:
– Những vết gì trên người các anh thế kia?
– Cành lồ ô nó bật lên, nó chém phải đấy.
Bằng chán nản.
– Nó không móc rách áo, mà nó chém bật máu mình ra thì cũng vậy.
Huỳnh bổ nhát rựa ngập sâu vào một thân cây lồ ô xanh ngắt:
– Cũng vậy sao được, da thịt con người bị rách thì còn mong ăn no ăn đói gì nó cũng liền lại, chứ áo mà rách thì còn nhiều khốn đốn. Hãy nhớ cho kỹ nguyên tắc đó mới mong sống qua mùa đông ở đây đó, các cụ ạ.
Trần giục giã hai người bạn mới:
– Thôi xin hai ông cởi phăng áo ra mà làm việc ngay cho con nhờ, kẻo tụi kiểm soát nó đến nó thấy các cậu ấm đứng phất phơ tán gẫu nó lại phạt nằm hầm tối đút chân vào cùm tha hồ cho rệp đói nó ăn thịt bây giờ.
Liêu nghe lời, anh ta cởi áo ra trước, vừa run lẩy bẩy vừa nói với Bằng bằng giọng đặc Bình Định của anh ta:
– Cởi áo ra đi em, không lạnh lắm đâu, lạnh như vậy thấm tháp gì, hồi trước mình đi hành quân đánh đồn nửa đêm tháng chạp có lúc phải lội qua suối, nước dâng ngập đầu lạnh như có ai cầm dao cắt ruột mà cũng chẳng chết ai, huống chi chừ, chừ thì ăn thua gì nữa, tới đây là cùng tận rồi, khỏe rồi, cởi áo ra đi em.
Nét mặt chất phác thật thà của Liêu không biểu lộ vẻ gì cả, người ta khó đoán được khi nói như vậy anh ta buồn hay vui. Trần nhìn da mặt rám nắng đã ngả màu tro của Liêu, đôi mắt thật tròn, thụt sâu vào, cái nhìn rụt rè lẩn tránh, sống mũi thô tháp gồ lên, miệng anh ta cong một tí đầu khoé môi khi cười có vẻ móm, chiếc cằm vuông đều đặn, người ta không thể đoán được Liêu bao nhiêu tuổi, từ ba mươi đến năm mươi, tuổi nào cũng có vẻ thích hợp với anh ta. Nghe giọng nói rặt thổ âm của Liêu, Trần nghĩ đến xứ dừa xanh ngắt, chàng đã từng ở Tam Quan một năm khi còn bé theo cha đến làm việc ở đó. Sau lưng người tù trung niên này có những hàng dừa xanh bát ngát trùng điệp, bóng mát rợp che chở quê hương anh, mái nhà, mảnh sân của anh im mát từ sáng đến chiều, có những cô gái má hồng môi thắm bện vỏ dừa căng dây dưới những gốc cây lả ngọn xanh mướt, hò hát qua những đêm trường, ánh trăng lọt qua kẽ lá dừa rơi vãi tung tóe loang lổ cả mảnh sân, bóng cành lá đu đưa theo câu hò giọng hát trong tiếng sóng biển rạt rào. Ở đó Liêu đã sinh ra, đã lớn lên trong bóng dừa im mát đó, trong ánh trăng câu hò điệu hát đó, trong tiếng sóng biển rào rạt muôn trùng đó. Trần nghĩ đến những cơ duyên phi lý và không kém phần thảm khốc của cuộc đời đã bứng con người ta ra khỏi cội rễ của nó, lăn nó qua ghềnh qua thác để đến đây, với thực tại một hình hài trơ xương gầy guộc đang run đây đẩy trước mắt chàng, trong khu rừng lồ ô nơi thâm sơn cùng cốc này. Người con trai xứ dừa Bình Định ngày nào đứng hiên ngang trên bãi biển quê hương cho nắng gió mang mùi trùng dương ươm lên tấm thân trai tráng, giờ đây chỉ còn là kẻ tội tù ngơ ngáo, cũng như Trần, cúi đầu đẵn những gốc lồ ô này vác về để dựng nhà giam chính mình, vót những vạt nhọn để làm những hầm chông gài bẫy chính mình.
Bằng vùng vằng cởi áo ra như muốn giựt đứt những khuy áo ra:
– Tôi đâu có sợ rét, nhưng khốn nạn, những vết thương trên người tôi nhức nhối quá, ừ, cởi bố nó ra lại đỡ vướng, đỡ đau, hừ, không gãy cái xương sườn nào cả thì cũng lạ. Hãy nhìn đây này.
Bằng trạc hai mươi tuổi, dáng người cao, mảnh khảnh vẻ thư sinh, hắn có một cái nhìn tăm tối, hoài nghi, đôi mày rậm, hai đầu mày gần như giao nhau, đôi mắt phủ đầy bóng tối dưới hai hàng lông mi dài thượt, sống mũi thanh tú, vừa vặn làm hiền bớt vẻ dữ tợn của đôi môi thật đẹp luôn luôn mím chặt. Y đột ngột quay lại hỏi Trần:
– Anh đã bị chúng lấy chày giã gạo tộng vào ngực anh chưa?
Trần điềm đạm trả lời: – Chưa.
– Thế chúng nó trị anh bằng loại gì?
– Không bằng loại gì cả.
Bằng bực tức:
– Như thế có nghĩa là anh không bị tra tấn đánh đập?
– Đúng như vậy.
Bằng nhìn Trần với ánh mắt thù nghịch, những bóng tối trong đôi mắt trẻ trung của y gần như tụ lại, y đổi giọng:
– Ê, tớ nói thật, người anh em ở cùng lều với tớ cứ tha hồ mà báo cáo với tụi cán bộ nhé, tớ đếch có sợ gì nữa. Hồi tớ hoạt động bí mật trong nội thành, tụi mật thám Tây nó bắt được tớ chúng nó nện cho tớ nhiều trận ra trò nhưng phải ra kháng chiến rồi bị kháng chiến bỏ tù tớ mới nếm cái trò lấy chày giã gạo mà tộng vào ngực đấy, làm như ngực mình là cái cối gạo không bằng. Trò này không vỡ tim thì cũng vỡ phổi, không vỡ phổi cũng vỡ mật, không vỡ mật cũng gãy xương sườn. Tớ thấy cấn cái trong này quá, – Bằng lấy tay chỉ vào ngực – chả biết trong này có cái gì đã nát ra thành cám chưa. Tớ đếch có đẵn cây, lỡ trong ngực tớ tim hay phổi nó đã long ra rồi nhưng còn dính lủng lẳng chưa rời ra, đẵn cây bổ mạnh xuống nó theo đà, nó rơi tuột ra luôn thì bỏ mẹ. Tội nghiệp mẹ tớ, níu lấy tớ khóc ròng mà tớ cứ dứt ra đi theo chúng nó cho bằng được, bây giờ tớ cố níu giữ cái tim phổi tớ thì cũng như vậy, mà nào có níu giữ được, nó cứ chực tuột ra đấy thôi.
Bằng ngồi bệt xuống đống lá ẩm mục, ôm ngực, mặt tái mét, lải nhải:
– Ừ, tớ đếch có đẵn cây làm gì cả, tớ bỏ nhà ra đây để đánh Tây, bảo tớ tiểu tư sản không cho tớ đánh Tây thì tớ về với mẹ tớ. Giản dị có thế thôi mà chúng nó cũng không chịu, lôi tớ trở lại đem bỏ tù lại còn lấy chày giã gạo giã vào ngực tớ, giờ lại bắt tớ đẵn cây cho tim phổi tớ nó tuột hẳn ra, thà không xài cứ việc bắn chết, so sánh thì tụi mật thám Pháp chúng nó còn nhân đạo hơn người kháng chiến đối xử với nhau như thế này nhiều. Tớ nói thế đấy, người anh em được chúng nó đối xử tử tế không đánh đập cứ việc đi báo cáo đi. Tớ thích một viên đạn vào đầu còn hơn cái chày giã gạo nện vào ngực tớ.
Trần nhìn bên ngực Bằng bầm đen một khoảng rộng ở giữa, trên vai, trên hai cánh tay hắn chằng chịt những vết roi lở loét mưng mủ, chàng nghĩ chắc sau lưng hắn cũng bèo nhèo không kém, những chỗ da còn lại thật mịn màng còn giữ sắc mơn mởn của tuổi trẻ mới lớn lên. Chàng dịu giọng nói với Bằng:
– Này chú bé, nếu chú thật tâm thích một viên đạn vào đầu thì rồi chúng ta hãy tính sau. Bây giờ hãy đứng lên đi, vắt nó bò đầy cả lên quần và chân chú kìa, giống vật nhỏ bé này nó cũng làm đổ máu không kém mật thám Pháp, không kém phòng tra tấn của trung tâm Tây Hạ này đâu. Ừ, phủi nó đi, còn hai con ở bên kia nữa, thôi hết rồi đấy, chú mày cũng khá đấy. Mặc áo vào kẻo cái rét này nó cũng rút được tim phổi chú mày ra ngoài được đấy, đừng có bày đặt. Này, hãy cầm cái rựa này cho sẵn trong tay, chịu khó đi quanh quất đâu đó, để chúng ta đốn cây cho chú, miễn có đủ số thì thôi, nếu cán bộ kiểm soát nó có đi trờ tới, xin chú mày chịu khó bổ vài nhát vào cây cho tôi nhờ, đừng làm rắc rối thêm, sức chú mày chịu đựng thêm nữa không nổi đâu. Tối nay về ta sẽ săn sóc cho chú mày, không chết đâu mà sợ, trông mặt chú mày không đến nỗi nào đâu. Đứng quanh quẩn đây thôi chứ đừng đi đâu xa, nhất là đừng nghĩ đến chuyện trốn, nhớ kỹ như vậy, chưa phải lúc, rừng quanh đây có rất nhiều hầm chông. Chúng ta xem như được tự do đi trong khu vực được chỉ định, nếu đi quá sẽ mất mạng như bỡn với hầm chông.
Bằng làm theo lời Trần nhưng vẫn giữ vẻ hậm hực, y hỏi gặng:
– Thế anh là cái thá gì, bộ anh là cha chúng nó hay sao mà vào đây không bị chúng cho nhừ đòn? Nếu không phải là chúng nó cho anh trà trộn vào chúng tôi để dò xét hành động ý nghĩ của chúng tôi để tâu lại với chúng nó, trò đó xưa nay ai còn lạ gì.
Huỳnh tự nãy giờ vẫn chặt cây đều đặn, bỗng dừng tay gọi:
– Ê, chú bé, thắc mắc hoài, để ta giải thích cho, thằng này không phải là cha chúng nó đâu, mà là ông cao tằng cố tổ của chúng nó lận, mà chúng nó thì mới đánh cha, tổ ông nội thôi chứ ta chưa thấy nói chúng nó tố khổ đánh đập đến ông cao tằng cố tổ của chúng nó được. Thôi, giải thích như vậy được rồi chứ, bây giờ chú xê ra chơi đi cho các anh làm việc, phải chặt thêm cho đủ số hai chục cây của chú mày không phải chuyện đùa. Hồi ta mới vào đây ta bị chúng nó tẩn còn kỹ hơn chú mày bây giờ nhiều, bằng lòng chứ. Thôi đi chỗ khác cho nó mát, mau lên, kẻo ta lại đập thêm cho một trận bây giờ.
Bằng vùng vằng xách cái rựa đi tới khóm lồ ô gần đó:
– Tôi cũng đi chặt cây đây, tôi đếch cần các anh chặt hộ, tớ không thích làm chứ tớ đếch sợ chết đâu.
Huỳnh hầm hừ:
– Hừ, ta cũng đếch cần biết chú mày thích hay không thích cái gì. Nói dai như giẻ rách, nhức cả óc.
Có đám mây đen đùn lên như một chiếc nấm khổng lồ che khuất cả mặt trời, một đường mỏng sáng chói viền quanh đám mây, khu rừng đột nhiên âm u như chiều gần tối; có tiếng trời gầm chuyển động khắp nơi, xế trưa không khí trở nên oi nồng ngột ngạt.
Trong phút chốc đám mây lan tỏa khắp bầu trời, những tia chớp sáng lòe giữa không trung, một cơn gió nổi lên ào ào, cả rừng lồ ô vặn mình kêu răng rắc, cùng lúc cơn mưa trút xuống, những giọt mưa thật lớn rơi xuống kêu bồm bộp.
Ngọn gió mãnh liệt cuốn màn mưa vút nghiêng quất xéo xuống khu rừng đang rạp mình như chịu tội trước cơn lôi đình của tạo hóa.
Thỉnh thoảng một lằn chớp xanh lòe, những tiếng nổ ầm tiếp theo một tiếng sét xé trời. Đám tù nhân không ai bảo ai, mọi người đều mạnh ai nấy chạy tìm chỗ ẩn núp. Khi Trần, Liêu và Bằng chui lọt vào trong một cái chòi bằng lá mà tù nhân che rải rác trong rừng để đề phòng những trận mưa bất thần, Trần quay lại kêu lên:
– Quái lạ, không biết thằng Huỳnh nó chạy đi đâu mà không có ở đây nhỉ, vừa mới thấy nó chạy sau chúng mình mà.
Liêu gật đầu:
– Tôi cũng thấy anh ấy chạy sau, chắc anh ấy tạt vào đâu đó, không muốn chạy xa, sợ ướt chứ gì.
Cả ba người đều bị ướt cả thật, tóc họ xõa xuống trán, nước từ mái tóc chảy giọt xuống mặt họ. Họ rũ những chiếc áo ra để mặc vào người. Khi chạy ngoài mưa họ vo tròn áo lại, ôm vào ngực cho khỏi bị ướt, những cái áo bây giờ mặc vào trông nhàu nát bẩn thỉu với những chỗ ướt chỗ khô lem luốc. Nhưng không ai chú ý đến điều đó. Trần nhìn Bằng lầm lì ngồi giạng chân trên một thanh củi cháy nửa chừng, gương mặt ủ rũ, miệng hơi há ra để thở vì phải chạy một quãng đường khá xa. Trần chú ý đến gương mặt đẹp trai và xanh ngắt thật trẻ trung của Bằng và đôi mắt u tối một cách lạ lùng. Chàng buột miệng hỏi:
– Bằng đi kháng chiến bao lâu rồi?
Không buồn quay lại, Bằng xòe ba ngón tay bỏ thõng xuống đầu gối, trả lời nhát gừng:
– Ba năm.
Một cơn gió xoáy mạnh vào chỗ ngồi của họ, tạt mưa và một luồng hơi lạnh từ dưới đất dội lên, hắt vào mặt họ. Mùi lá cây ẩm mục, mùi hơi đất khét lẹt, nhưng trong đó, còn trộn lẫn một cách mơ hồ, không phân biệt nổi, một làn hơi nồng ấm buồn buồn của mùa thu đã đi qua đây, hãy còn ngập ngừng luyến tiếc.
Trần đưa tay vuốt nước mưa tạt vào mặt, lẩm bẩm:
– Mưa thế này dễ thường đến chiều mới tạnh.
Chàng quay sang Bằng, hỏi tiếp như câu chuyện còn đang bỏ dở:
– Rồi sao nữa Bằng?
– Sao nữa cái gì?
– Chuyện ra sao mà Bằng đến đây?
Đôi mắt Bằng vụt lóe sáng:
– A, anh quan tâm đến chuyện đó lắm hả, vậy còn anh? Làm sao mà anh đến đây? Thì nó cũng giống nhau cả.
– Giống nhau thế nào được, mỗi trường hợp mỗi khác chứ.
– Khác thế chó nào được mà khác, – Bằng nhổ toẹt xuống đất – thằng nào cũng như thằng nào, bao nhiêu năm nhồi nhét vào trong sọ lui tới rồi cũng chừng ấy thứ kinh nhật tụng, nào quan điểm cách mạng, nào quan điểm quần chúng, nào học tập đấu tranh, tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt giai cấp, nào nuôi dưỡng căm hờn, nuôi dưỡng thù hận và cả trăm thứ y chang như vậy. Nhồi nhét cho lắm vào, xông pha tên đạn cho lắm vào để bây giờ chúng nó tống cha cả lũ vào đây, được nện chày giã gạo vào ngực, được đi chặt cây bằng thích. Thử hỏi anh khác cái gì nào, nói nghe, ừ, khác cái gì?
Người Bằng run lên, hắn nói như quát tháo, nét mặt khích động một cách bất ngờ. Hắn nhìn thẳng vào mặt Trần, đôi mắt sáng ngời nẩy lửa, bóng tối thường trực trong đôi mắt hắn xô dạt vào hai hàng mi dài thượt, hắn dang tay ra, trỏ thẳng vào mặt Trần, cao giọng kẻ cả:
– Nghe đây, muốn biết vì sao tôi đến đây hả? Vì không có con đường nào khác con đường đi đến đây, hiểu chưa? Còn anh, anh có con đường nào nữa không? Nói đi, ừ, có giỏi thì nói đi.
Bằng quát to hơn, vẻ chói lói gay gắt trưởng thành tương phản nét mặt còn in nét ngây thơ trong trắng. Trần sửng sốt và thú vị một cách bất ngờ với cảm tưởng trong cơn gió mưa sấm sét giữa rừng già này, chàng đã hốt nhiên chứng kiến một cơn thịnh nộ của thiên thần. Bằng càng hét to, phẫn khích:
– Không nói gì hả? Vậy còn hỏi nữa thôi, hãy để yên tôi, nghe không. Tôi thích vuốt ve đầu mũi chày nện vào ngực tôi ngàn lần hơn là lải nhải kể chuyện cổ tích, chuyện cổ tích nhàm chán của cái thiên đường ghê tởm, anh đã hiểu chưa?
Trần mỉm cười, yên lặng lơ đãng nhìn cơn mưa rầm rộ như ào tới từ bốn phía rừng, chàng nghe câu phàn nàn của Liêu với giọng nói đặc Bình Định của anh ta:
– Cái thằng, nói chuyện lúc nào cũng như muốn đánh lộn với ai. Anh em mình, trong cảnh tù đày, thương nhau không hết, gây gổ nhau hoài làm chi.
Trần tiếp tục đắm mình trong suy tưởng, trong khi cơn mưa vẫn nặng hạt. Quả thật nếu mọi sự việc trong đời đều do Trời sắp đặt thì Trời quả thật là một đại nghệ sĩ. Đấng Toàn Năng phải thật là nghệ sĩ mới tạo nên được những cơ duyên mang lại cái tư cách kiêu bạc khiếp đảm đến thế kia nơi một gã thư sinh mặt trắng.
Cuộc kháng chiến này đã biến đứa trẻ Việt Nam thành chiến sĩ anh hùng, chưa đủ, Thượng Đế còn bắt người Việt Nam gánh chịu một thử thách đau thương vĩ đại, cuộc vật lộn cam go giữa con người thuần khiết Á đông gìn giữ giá trị chân tuyền của lẽ sống với con người tham vọng cùng những giấc mơ kỳ bí quái đản, nhưng đam mê dữ dằn khốc liệt của loài người.
Giữa một quê hương Việt Nam đang ê chề đau khổ bởi nô lệ, bởi chiến tranh và những con người tham vọng từ trong da trong thịt, đã mang dân tộc lầm than đói rách này ra làm thí nghiệm một lý thuyết chủ nghĩa. Giữa cuộc nước này và cơn đau nọ đã tạo nên cơn thịnh nộ của tuổi trẻ thiên thần, của tuổi trẻ khắc khoải cô đơn. Cơn thịnh nộ của Bằng làm Trần bàng hoàng như vừa chứng kiến một vẻ đẹp tinh khôi có một không hai. Vẻ đẹp đó chỉ có thể có bởi cơn tao loạn này, vẻ đẹp như một lằn chớp lóe sáng chói lòa giữa đám mây vần vũ xám xịt.
Trần kiêu hãnh nghĩ thầm rằng vẻ đẹp đó chỉ có người Việt Nam mới có, đó là vẻ đẹp của một loại cây nhân sinh mà nhân loại ra công tìm kiếm nhưng lại từ chối đau thương ngại sông ngại biển. Và Thượng Đế, vị đại nghệ sĩ đã chọn để gieo cái nhân quả đó xuống quê hương nhỏ bé này, đã tạo nên cái đẹp đích thực cho muôn đời.
“Ta mơ những chân trời thanh bình óng ả, những cánh đồng phì nhiêu thẳng tắp, những vườn cây trái ươm trĩu nặng. Ta mơ dân tộc ta được sống hài hòa an vui, tự chủ, tự cường giữa trời quê hương xanh biếc, giữa những đêm trăng nồng nàn câu hò tiếng hát xa đưa.
Bên cạnh giấc mơ bình dị nhưng chưa hề đạt được đó, ta sẽ không bao giờ quên vẻ đẹp chói chang kỳ lạ mà ta trót thấy hôm nay, vẻ đẹp không gì có thể sánh được trên đời.
Bởi vì đó là vẻ đẹp của đau thương, mà quê hương ta là Định Mệnh.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:44:14 GMT -6
CHƯƠNG XXXV
Đang chạy theo các bạn tránh cơn mưa, Huỳnh bỗng đứng dừng lại, tim Huỳnh đập thình thình thình nhức nhối khó chịu, tiếng đập của tim vang lên tận đầu chàng thành những tiếng bình bình át cả tiếng giông tố và mưa rơi ào ạt.
Huỳnh bước chậm lại, đi thong thả như một người nhàn rỗi bách bộ ngắm cảnh. Huỳnh quay ngược lại con đường mòn các bạn chàng vừa chạy qua, đi về hướng bờ suối.
Nước từ trời cao giội xuống người Huỳnh, chảy xối xả trên mình trần của chàng, chàng cảm thấy thênh thang, nhịp tim chàng dần dần dịu lại, Huỳnh thấy dễ chịu sảng khoái một cách lạ lùng.
Huỳnh bước đi chậm rãi giữa cơn giông tố gầm thét xé toang rừng thẳm, Huỳnh cảm thấy bằng lòng lắm với thái độ yên hàn vô sự của mình như chế ngự được sấm sét mưa ngàn. Huỳnh không có gì phải vội vàng cả, tại sao phải vội vàng chạy trốn cơn giông tố nhỉ. Chẳng phải cuộc đời vẫn luôn luôn có những giông tố mà càng cố tránh bao nhiêu lại càng thảm hại bấy nhiêu. Tại sao không chấp nhận như đó là nguồn cội của giá trị đời sống. Cơn gió vùn vụt quất những hạt mưa trên đầu Huỳnh để trần, trên vai, trên ngực, lên lưng, lên hai cánh tay và hai chân trần trụi của chàng khiến chàng có một cảm giác tự hào lực lượng, bước chân chàng đi vững chắc trên đường đất núi trơn trợt như mỗi bước chân đều lún sâu vào đất. Huỳnh nhìn quanh, khu rừng trong cơn gió mưa sấm sét vụt trở nên đẹp đẽ dị thường. Sự đẹp đẽ đó xâm nhập vào da thịt để trần mỏng manh của chàng, thấm sâu vào từng thớ thịt khiến tim chàng ngây ngất rung động, tâm não chàng giãn ra trong một tiếp nhận khoái cảm dị kỳ.
Khu rừng như được tắm gội mới mẻ trẻ trung hẳn ra, tinh khiết, thanh tân như một trinh nữ trong cuộc dâng hiến trọn vẹn đang quằn quại vật vã khoái trá trong đôi cánh tay mê cuồng điên loạn của gã tình nhân bão tố.
Huỳnh chậm rãi đi, giữa cơn giao hoan của Trời Đất, trên môi chàng nở một nụ cười vu vơ say đắm, những hạt mưa quất vào mặt chàng, ngực chàng rát bỏng, Huỳnh càng thêm vui thú, chàng đi dần xuống bờ suối.
Huỳnh lội xuống suối, giòng nước dâng cao chảy cuồn cuộn gầm réo lên dữ tợn khi vấp phải một tảng đá chận đường. Trận mưa ồ ạt trên cao trút xuống gặp phải sự hung hãn mãnh liệt của giòng suối chảy xiết xô dồn tới trước, gầm réo như điên, đành phải nhượng bộ, những hạt mưa tự để mình tan biến không để lại dấu vết nào trên giòng nước lồng lộn như một con quái vật bất kham.
Giòng suối này thường ngày vẫn là nơi lý tưởng cho những giờ nghỉ ngơi tắm rửa của tù nhân Tây Hạ. Xuôi giòng độ một phần tư dặm rẽ khuất bên trái có một lòng trũng tỏa rộng như một cái hồ, giữa hồ rải rác nổi lên vài phiến đá phẳng nhẵn thín, nước mưa nhỏ giọt trên những tàng cây rũ xuống che kín mặt hồ xoi thành những vết rỗ thiên thu trên mặt những phiến đá. Giòng suối cuồng nộ gầm thét hỗn độn từ phía trên đổ xuống gặp mặt hồ tức thì biến dạng như có một phép lạ hiển nhiên nào đó, làn sóng đột nhiên uốn cao lên uyển chuyển múa lượn nhịp nhàng trước khi nghiêng xuống dàn trải ra mặt hồ, hài hòa đằm thắm như một bạo chúa hung hăng say máu, bất chợt để lòng mình ngây ngất trước một hình bóng giai nhân, đã tự biến mình thành tên nô lệ hiền lành vô hại dưới gót ngọc kiêu sa của nàng.
Những giờ nghỉ trưa tù nhân được phép lội xuôi giòng suối xuống lòng trũng này để tắm gội. Nước từ trên mặt hồ đầy tràn chảy xuống vực sâu bên dưới làm thành một giòng thác như một dải lụa sáng ngời vắt từ trên cao xuống đáy vực ước chừng ba chục thước, tự đó vẳng lên những tiếng ầm ầm xa xôi man rợ, hơi nước
tung tóe bốc lên bao quanh ngọn thác một lớp bụi mờ, những ngày trời nắng, đứng trên tảng đá trên cao này nhìn xuống, nắng chiếu qua lớp hơi nước thành một cái cầu vồng ngũ sắc dâng lên cuốn quanh chân thác.
Vực sâu này còn là tử lộ chận đứng những cuộc chạy trốn của tù nhân Tây Hạ. Trên mặt đất trong rừng khắp nơi đều chi chít những hầm chông đủ loại, chỉ còn một con đường dọc suối là để trống mà thôi. Những tù nhân chạy trốn đều ôm mộng bám vào thành đá cheo leo từ trên mặt hồ trụt xuống đáy vực, nhưng từ trước đến nay chưa có ai thoát cả.
Huỳnh lội xuôi xuống lòng trũng, chàng để mình nằm đu đưa trên mặt hồ, một giọt nước rơi vào mắt khiến Huỳnh phải nhắm mắt lại, mưa vẫn tiếp tục rơi trên mình chàng.
Một cành hoa túy tử quét ngọn qua ngực Huỳnh, nhột nhạt khiến Huỳnh mở mắt nhìn những chùm hoa xanh nhạt có cái nhụy vàng giống hình vương miện rũ xuống trên người Huỳnh. Mặt nước quanh chàng rải rác những cánh hoa túy tử và những chiếc lá xanh vừa bị cuốn rụng sau cơn cuồng phong vừa qua. Gió đã dịu, nhưng những lằn chớp vẫn liên tục với tiếng sấm sét rền trời. Mưa vẫn càng ngày càng nặng hạt. Huỳnh trở mình xuống, chàng bơi nhẹ nhàng thong thả dưới những cành hoa túy tử xanh biếc trong khi cơn mưa rào rạt quanh hồ, chàng đưa tay rẽ một rèm lá rũ dày trước mặt để bơi tới một ghềnh đá gần đó. Thốt nhiên, Huỳnh lặng người, sự kinh ngạc lên đến tột độ.
Trên ghềnh đá mà Huỳnh đang định bơi đến, một người con gái không biết từ đâu đến đang ngồi thẳng tắp như một pho tượng nữ thần trang nghiêm. Nàng ngửa mặt lên trời như để hứng những hạt mưa từ trên cao rơi xuống, nét bán diện của nàng có một vẻ đẹp nửa hư nửa thực, lẩn khuất trong mưa, mắt nàng khép hờ, đôi môi mở hé, chiếc cổ vươn cao trong một tư thế khát khao kỳ dị, mái tóc dài đen buông thả sau lưng, ướt lướt thướt dán sát từng lọn trên làn da trắng muốt.
Nàng quấn một chiếc khăn màu xanh ngang ngực, nếp khăn nhô cao trên bộ ngực như khiêu khích đón mời, rũ xuống thành những nếp mềm mại quyến luyến buông lơi trên cặp đùi thon dài vắt chéo lên nhau duỗi dài trên ghềnh đá. Đôi cánh tay để trần trắng muốt của nàng chống ra sau như để giữ cho tấm thân mảnh dẻ của nàng ưỡn về phía trước một vẻ kiêu sa.
Huỳnh bàng hoàng, chàng nín thở, chàng sợ hơi thở cùng tiếng tim đập mạnh của chàng sẽ dễ dàng đánh thức cơn mơ mộng của nữ thần giòng suối hơn tất cả những tiếng gió mưa sấm sét của đất trời hiện tại. Quái lạ, sao lại có thể có một người con gái dám một mình ngồi trên mặt hồ trong cơn giông tố nơi chốn rừng sâu tù tội này được nhỉ. Vô lẽ ma quái hay thần suối hiện hình lên trêu ghẹo mình chăng. Được lắm, muốn là gì mặc lòng, miễn là nàng vẫn còn ở đó, trước mặt Huỳnh, đẹp một cách phi phàm, trong làn chớp giật loang loáng trên đầu nàng, trong cơn mưa vây phủ người nàng, vẻ đẹp của nàng manh một định mệnh tàn khốc quyến rũ tuyệt vời. Nước mưa chảy xuống mắt Huỳnh nhưng Huỳnh vẫn mở to mắt không dám chớp, Huỳnh sợ nếu chớp mắt chàng sẽ thấy lại ghềnh đá trống không, ý nghĩ đó khiến Huỳnh hoảng hốt, không kịp nghĩ thêm chàng vội lao mình tới trước.
Tiếng nước khua động làm người con gái quay lại, nàng không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy Huỳnh rẽ nước tiến về phía nàng, nàng ngồi yên, có vẻ chờ đợi. Huỳnh đến bên cạnh nàng, hai tay níu vào thành đá, ngước nhìn nàng bằng đôi mắt chiêm ngưỡng si dại. Nàng cúi nhìn Huỳnh lặng lẽ, đôi mắt có ý hỏi han, nhưng vẫn không chịu lên tiếng trước. Nàng đẹp quá, đẹp hơn cả chàng đang mong đợi khi nhìn nàng từ xa. Khuôn mặt nàng cúi xuống diễm ảo lạ thường, khuôn mặt đẫm nước mưa tươi mát đến rợn người. Huỳnh ước gì mình chỉ là giọt nước mưa đọng trên đôi mi dài rũ xuống của nàng kia. Miệng nàng ngậm lại như cố giấu một nụ cười, vành môi cong đều đặn nhếch lên một nét kỳ khôi bướng bỉnh.
Huỳnh thì thầm như một lời khấn nguyện:
– Xin đừng biến đi nhé.
Nàng nghiêng người cúi xuống gần Huỳnh, lắc đầu chỉ vào trời mưa, tỏ ý không nghe rõ câu nói của Huỳnh.
Huỳnh lập lại, la thật to, át cả tiếng mưa:
– Xin cô ngồi yên đó, đừng vội biến đi nhé.
Người con gái đã nghe ra, nàng ngửa cổ cười ngất, tiếng cười của nàng trong vắt như giọt mưa trên mặt, trên cổ, trên vai, trên một phần ngực để trần của nàng, trên đôi cánh tay ngà trau chuốt của nàng. Nghe tiếng cười của nàng, một làn sóng hạnh phúc vô bờ vô bến tràn ngập tâm hồn cằn cỗi của Huỳnh. Chàng bấu vào tay tự nhủ không biết hiện tại là thực hay mơ, Huỳnh tự biết vẻ mặt của mình lúc này trông lố bịch ngẩn ngơ như một chú mán rừng. Đợi nàng dứt tiếng cười, Huỳnh hỏi to:
– Tại sao cô cười, tôi xấu xí lố bịch lắm hả?
Nàng nhoài người, nằm sấp trên phiến đá, cúi hẳn xuống gần khuôn mặt đầy râu ria bao phủ của Huỳnh đang ngẩng trông lên, mắt nàng thoắt trở nên nghiêm nghị trong một giây, nàng cất tiếng hỏi, giọng miền Bắc khàn đục đầy nhục cảm:
– Anh là tù hả? Giờ này không ở trong rừng, sao lại ở đây?
– Tôi đang ở trong rừng, chính cô gọi tôi đến đây. Cô là ai mà dám ngồi giữa hồ có một mình giữa mưa gió như thế này? Cô là thần suối hay thần mưa, hãy nói tôi nghe.
– À, ra thế cho nên anh sợ tôi biến đi đó phải không? Anh muốn tôi là thần suối hay thần mưa nào?
– Tôi muốn cô chỉ là người thôi.
– Ồ, thật sao, nếu vậy dễ quá, – nàng mở rộng đôi mắt nhìn Huỳnh, có vẻ hài lòng và tự tín – chắc chắn tôi là người đây mà.
Nàng nhìn Huỳnh, cái nhìn nghiêm nghị một cách trẻ thơ:
– Anh không tin sao?
– À, à, tôi tin chứ, nhưng sao cô dám ngồi đây một mình như thế này? Cô từ đâu đến, không sợ gió mưa sấm sét hay sao?
– Sao không, tôi sợ lắm chứ, sao anh biết là tôi không sợ?
Mắt nàng bỗng lóe lên một tia sáng ranh mãnh tinh nghịch, cùng lúc một tia chớp lóe sáng rực trên đầu nàng, tiếp theo một tiếng sét rền vang như giáng xuống ngay trước mặt khiến Huỳnh tối tăm mặt mũi. Chàng nghe một tiếng thét thất thanh, vừa kịp thấy hai tay người con gái đưa lên cao chới với, cả thân hình nàng rơi tòm xuống nước chìm lỉm mất dạng. Huỳnh hoảng hốt, phóng mình lặn theo người con gái, chàng càng lặn xuống sâu càng lấy làm lạ không hiểu sao nàng vừa rơi xuống ngay đây mà chàng lặn xuống mãi chẳng thấy tăm dạng đâu cả. Đáy hồ thật sâu và khá rộng, tuy nhiên là một tay bơi lội giỏi có tài nín thở thật lâu, chàng tìm cùng khắp vẫn không hề thấy nàng. Huỳnh đành trồi lên mặt nước với nỗi đau đớn thất vọng trong ý nghĩ người con gái lâm nạn ngay trước mắt chàng mà chàng bất lực không cứu nổi nàng.
Vừa ngoi lên mặt nước, Huỳnh sửng sờ một cách sung sướng thấy người con gái đang ngồi trên một tảng đá, mấp mé bờ nước, ngay trước mặt Huỳnh, khuất sau chùm hoa túy tử. Nhìn vẻ mặt Huỳnh hớt hải lo sợ, nàng thích thú cười vang, nghịch ngợm. Lần này tiếng cười phá phách của nàng vỡ tan như những giọt mưa rơi trên mặt hồ, một vẻ nồng nàn say đắm trên đầu mày cuối mắt thanh tân. Hạnh phúc dâng lên trong người Huỳnh khiến chàng choáng ngợp.
Huỳnh trườn mình lên mặt hồ uyển chuyển mềm mại như một con rắn, làn nước tung tóe ra hai bên cho Huỳnh lấy đà phóng tới thật nhanh, trong phút chốc cả thân hình trẻ trung nóng hổi cuồng nhiệt của chàng phủ lên cả người cô gái. Trước khi cả hai kịp biết việc gì xảy ra thì những đôi môi đã gắn chặt lấy nhau, mê cuồng dữ dội. Huỳnh vụt ngừng lại, nghiêng mình giật tung chiến khăn xanh quấn trên ngực thiếu nữ, thân thể cẩm thạch của nàng lồ lộ hiện ra, những hạt mưa rơi tới tấp trên mặt, trên cổ, trên ngực trên bụng nàng, trên đôi chân thon dài của nàng. Những hạt mưa cũng tham lam vội vã. Huỳnh úp mặt vào ngực thiếu nữ, nghe da thịt nồng ấm của nàng run lên mê sảng dưới đôi môi của chàng.
Và trong khi họ tìm lại môi của nhau, trong khi thân thể mảnh dẻ của nàng mở ra dưới thân thể phong ba bão táp của chàng, trong khi đôi cánh tay của họ quấn chặt lấy nhau, mưa từ trên cao vẫn ào ạt trút xuống, những chùm hoa túy tử rung rinh chiếc vương miện màu vàng nhụy hoa trên hai tấm thân đẹp đẽ, những cánh hoa trôi trên mặt nước quanh mình họ. Cả trời đất bềnh bồng điên đảo trong muôn ngàn tiếng hỗn mang của giòng suối bên trên đổ xuống, của ngọn thác phía dưới vọng lên ầm ầm lời xa xôi bí mật của vực sâu.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:46:14 GMT -6
CHƯƠNG XXXVI
Bây giờ họ nằm song song bên nhau, ngửa mặt nhìn trời, cái đầu xinh đẹp của nàng gối lên cánh tay Huỳnh, mái tóc dài ướt đẫm nước mưa vương vãi trên mặt chàng.
Mưa đã ngớt hạt, những sợi mưa như tơ mỏng bay phơi phới giữa trời, một chút nắng ửng lên xuyên qua màn mưa bụi làm óng ánh những sợi tơ vàng.
Nàng cất tiếng hỏi:
– Sao anh biết tên em là Lan?
Huỳnh đang đắm mình trong khoái cảm còn dật dờ trên khắp châu thân, nghe tiếng “Lan,” chàng bàng hoàng hỏi giật giọng:
– Hả, tên em là Lan hả, tại sao?
– Thì anh vừa gọi tên em luôn miệng đấy thôi, lại cứ làm bộ không biết.
Nàng nguýt chàng, vẻ hờn dỗi đáng yêu trong giọng nói nũng nịu say mê.
Huỳnh thẩn thờ.
– Thế ra em là Lan hả, làm sao anh không biết, anh biết em lâu lắm rồi em ạ, anh biết em từ kiếp trước kia lận.
Nàng xoay người, choàng cánh tay ôm ngang qua ngực chàng:
– Thế anh tên là gì nào?
– Anh tên là Huỳnh.
Nàng kêu lên:
– Huỳnh, Huỳnh, Phạm Huỳnh thi sĩ phải không?
– Nếu em muốn anh là thi sĩ, thì anh sẽ tập làm thơ, vì em là nữ thần, em muốn biến anh thành thứ gì chẳng được.
Huỳnh âu yếm hôn lên mái tóc ướt đẫm của nàng. Bỗng Huỳnh ngạc nhiên thấy cánh tay nàng ôm ngang ngực chàng tự nhiên siết chặt, run rẩy, nàng chống tay lên, khuôn mặt đẹp của nàng cúi xuống sát mặt chàng, đôi mắt nàng mở to chứa đầy vẻ kinh hoàng đau đớn, nàng la to một cách bất lực:
– Không, không, không phải tên anh là Huỳnh, anh không phải là Phạm Huỳnh, em không muốn thế, không thể như thế được.
Huỳnh ngạc nhiên:
– Tại sao thế hở em? Tại sao em không muốn thế, cái tên anh có gì làm em phiền muộn như vậy, nếu em không muốn anh sẽ bỏ quách cái tên đó ngay.
Nàng bật cười chỗi dậy, kéo tay Huỳnh dậy theo, cử chỉ vội vàng hấp tấp, giọng nói của nàng như đứt hơi:
– Trốn đi anh, hãy trốn ngay lập tức, em van anh, ngay bây giờ, đừng chậm trễ, nguy hiểm lắm anh ơi.
Huỳnh kéo nàng sát lại mình, quàng tay ôm đôi vai rung động của nàng:
– Nào, nào, em hãy bình tĩnh xem nào, tại sao em sợ hãi, tại sao em bảo anh hãy trốn chạy? Ở tù như anh để được gặp em như thế này anh tình nguyện ở tù mãi mãi, anh tiếc không ở tù sớm hơn nữa đấy chứ, trốn chạy làm gì, ở ngoài kia anh vô tích sự lắm em ạ.
Người con gái thổn thức, lắc đầu:
– Anh không thể biết được, em là em ruột của anh Châu, giám đốc trung tâm Tây Hạ, chắc anh biết. Em làm việc ở ngoài tỉnh nhưng gần đây anh Châu em bị đau nên em xin nghỉ một tháng vào đây săn sóc cho anh em. Anh Châu em bị sốt rét rừng nặng lắm, em vào đây mới mấy ngày, em ở mé rừng bên kia, nơi khu nhà cán bộ. Cách đây vài ngày anh Châu em lên cơn sốt nặng, có một cán bộ cao cấp ngoài tỉnh vào gặp anh em có việc gấp, anh em phải gượng ngồi dậy trên giường để nói chuyện với người cán bộ ấy. Em ở phòng bên cạnh ngăn bằng một tấm vách nứa nên câu chuyện giữa người ấy và anh em, em đều nghe rõ. Người ấy nói với anh em: “Thượng cấp phái tôi vào đây truyền khẩu lệnh cho đồng chí thi hành ngay kế hoạch thanh toán hai tên Phạm Huỳnh và Nguyễn Trần trong vòng một tháng. Điều cần thiết là phải hoàn tất kế hoạch cho cái chết của chúng nó gây ra hoàn toàn có tính cách tai nạn, bởi vì hai thằng phản động đó rất có uy tín và cảm tình trong hàng ngũ bộ đội, cán bộ của ta cũng như quần chúng ở ngoài. Nếu ta không khéo trong việc này e có hậu quả không hay về sau.” Lúc đó em chưa biết anh và anh Trần nhưng em đã từng nghe tiếng hai anh, có dịp nghe đọc thơ của hai anh trong những dịp liên hoan của tỉnh, vì vậy cho nên khi nghe người ấy nói như vậy tự nhiên em hồi hộp và chú ý vô cùng.
Huỳnh chăm chú theo dõi câu nói của nàng, chàng chợt rùng mình rất nhẹ, nét mặt chàng tối hẳn lại, Huỳnh ghì thiếu nữ vào ngực cho bớt cóng lạnh, giọng chàng vẫn điềm tĩnh.
– Rồi sao nữa em?
– Anh Châu em nói với người kia rằng: “Tôi cũng định bớt sốt sẽ ra tỉnh trình bày với thượng cấp về việc này. Tôi đã biết ý định của thượng cấp nhưng trong thời gian giam giữ họ ở đây, tôi nhận xét thấy họ biết tôn trọng kỷ luật, tỏ ra có tư cách, được mọi người mến chuộng, không ngại khó trong những công tác của trại, vả chăng họ là những người trẻ tuổi có thiên tài, tôi nghĩ không phải mỗi lúc mà đất nước có thể nảy sinh ra những thiên tài như vậy. Thế cho nên tôi muốn đề nghị với thượng cấp cho họ có thời gian để học tập thấm nhuần tư tưởng của chúng ta, cần kiên trì giáo dục họ để khỏi thiệt thòi nhân tài của xứ sở ta trong lúc này.
Ngoài ra tôi cũng biết rằng hai người đó không bao giờ phản bội ta mà về với giặc…” Người cán bộ cắt ngang câu nói của anh Châu em, hắn ta nói: “Thượng cấp đã nghĩ đến tất cả những điều đồng chí đã trình bày, vì vậy thượng cấp cho tôi vào giải thích với đồng chí rằng thiên tài chỉ có ích khi phục vụ cho Đảng và nhân dân, nếu thiên tài phản động thì nguy hiểm gấp ngàn lần những kẻ theo giặc, bởi vì nó lũng đoạn tinh thần hàng ngũ của ta, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng từ trong xương tủy. Vừa rồi Đảng bộ nhận được báo cáo của cán bộ phụ trách học tập chính trị của trung tâm cho biết thằng Huỳnh vừa có thái độ chống đối rõ rệt, nó tuyên bố tỉnh bơ là nó buồn ngủ trong khi mọi người hoan hô chiến thắng Cao Bắc Lạng. Do đó thượng cấp ra lệnh tối hậu cho đồng chí thi hành ngay kế hoạch đã định, khai thác bệnh đau tim của thằng Huỳnh, loại trừ nó trước, rồi sẽ đến thằng Trần, thượng cấp sẽ chỉ thị cho biết kế hoạch tiếp theo.” Nói xong người ấy từ giã anh em rồi ra về ngay. Anh ơi, lúc ấy em chưa biết anh mà nghe vậy em cũng thấy buồn bã bải hoải cả người. Có lẽ vì cảm tình của anh em biểu lộ rõ ràng ý muốn che chở cho các anh, em đâu ngờ hôm nay em lại gặp chính anh trong hoàn cảnh lạ lùng này.
Huỳnh cười buồn:
– Định mệnh đấy em ạ, làm sao mà em một mình đến đây giữa cơn mưa như vậy?
– Sáng nay em ra suối giặt, suối vắng không có người, em giấu áo quần vào hốc đá trên kia bơi xuống đây để tắm, em vừa xuống đây thì cơn mưa giông đổ tới, em rất thích tắm mưa nên em lên ngồi trên ghềnh đá kia để cho mưa giội xuống thân thể thì thấy anh bơi đến, thoạt nhìn thấy anh em cảm thấy như quen thuộc lâu lắm rồi, em không hiểu tại sao. Em đâu ngờ anh lại là người mà tính mạng đang bị người ta mưu hại, ngay đến anh Châu em cũng đành tuân lệnh, không dám phản đối.
Nói đến đó nàng bỗng trở nên nóng nảy bồn chồn, nàng nhìn Huỳnh khẩn thiết:
– Xin anh hãy trốn đi ngay, hãy trốn ngay với bất cứ giá nào, chẳng qua số phận của chúng mình chỉ gặp nhau có chừng này mà thôi. Xin anh hãy hứa với em, hãy tìm cách trốn khỏi nơi này ngay lập tức.
Người con gái lắc mạnh vai Huỳnh, như cố đánh thức Huỳnh tỉnh dậy từ một cơn mơ nào đó, trong khi nàng nói với chàng câu chuyện lẽ ra phải làm cho chàng xúc động ghê gớm thì nàng thấy vẻ mặt của chàng dần dần trở nên trầm lắng xa xôi, đôi mắt chàng chìm đắm vào hư không dường như chàng quên hẳn có nàng đang ngồi bên cạnh. Khi nàng thôi thúc, kéo tay chàng giật mạnh, Huỳnh gắng gượng cựa mình để biết mình đang còn ở trong thực tại, chàng nắm lấy tay người con gái ôn tồn bày giãi:
– Em bảo anh trốn đi ngay, anh sẵn sàng làm theo ý em bất kể thế nào. Nhưng ngay bây giờ thì không thể được, em bảo anh chạy ngõ nào, trước mặt chúng ta là vực sâu, chung quanh rừng này đầy những hầm chông mà anh không thuộc nổi một đường lối nào cả, ngoại trừ con đường dẫn đến đây để được gặp em hôm nay. Những giờ phút được ở bên em như thế này là diễm phúc mà anh không dám ngờ là có thật, anh không có gì ân hận, cũng không có gì phải vội vàng. Vả chăng anh còn bạn anh, Trần đó, số phận chúng anh ràng buộc với nhau, và như em vừa nói, thì bạn anh cùng chung số phận với anh trong âm mưu của họ. Chúng anh như đã nguyện đồng sinh đồng tử, bạn anh bị ở tù một phần lớn cũng vì nó quá thương anh cho nên anh không thể trốn ngay như em muốn được. Tuy nhiên em hãy tin rằng con người đứng trước cái chết phi lý và oan uổng không ai ngồi yên mà chờ nó đến cả. Bằng cách này hay cách khác chúng anh sẽ tìm được lối thoát ra khỏi chốn này. Xin em hãy yên tâm.
Nàng nghẹn ngào:
– Từ nay không bao giờ em yên tâm được nữa.
Huỳnh nâng cằm nàng lên, áp khuôn mặt nàng giữa hai bàn tay nâng niu của mình; chàng nhìn sâu vào đôi mắt nàng chong chong nhìn chàng với vẻ say đắm tuyệt vọng:
– Khi anh nhìn thấy em ngồi trên ghềnh đá giữa hồ từ xa, khi anh nhìn thấy những tia chớp giật sáng lòa trên đầu em, cơn mưa vây phủ lấy người em, anh biết ngay rằng anh đã bắt gặp một định mệnh vô thường, nhưng anh không ngờ định mệnh ấy vụt trở nên đẹp đẽ một cách khốc liệt như thế này. Chỉ trong một buổi sáng mà choán hết cả đời người, đến thế này là hết rồi, dù anh có sống thêm một trăm năm nữa cuộc đời này cũng không còn gì để cho anh thêm được nữa. Em hãy nhìn quanh đây, để nhớ mãi đời đời, buổi động phòng hoa chúc của chúng ta trên đời này chỉ có một, ngàn năm trước ngàn năm sau Thượng Đế không thể tạo nổi một cuộc tao phùng kỳ diệu thứ hai.
Huỳnh buông tay nàng ra đột ngột, quay mặt đi, lẩm bẩm:
– Lan, Lan, em chỉ là một, không hề có hai, tại sao, tại sao khi người ta sắp giết anh em lại đến với anh, em báo cho anh giờ tận cùng của anh nữa, em là định mệnh gì mà lạ lùng đến thế.
Người con gái thõng tay, nàng cảm thấy hụt hẫng khi Huỳnh không ôm nàng trong tay nữa; nàng thấy mình lạc lối không hiểu nổi những điều Huỳnh nói; mưa nhỏ hạt vẫn rơi trên tóc hai người. Nàng từ từ đứng dậy, chiếc khăn quấn ngang ngực nàng rũ xuống tận đùi. Huỳnh ngẩng lên, dáng nàng cao vút choán hẳn một vùng hồ suối và cả mảnh trời bên trên. Trước mặt chàng, nàng vụt trở nên xa xôi bí mật vô cùng, vẻ đẹp của nàng biến đổi một cách không ngờ. Nét u buồn lặng lẽ trong đôi mắt nàng nhìn xuống Huỳnh như bao trùm lấy chàng trong một thâm tình trưởng thành và to lớn. Chỉ một giờ trước nàng còn là một cô gái bé bỏng ngồi nghịch mưa trên phiến đá, một giờ sau nàng là hiện thân cho người đàn bà đau khổ đến thiên thu. Hình ảnh của nàng trước mặt chàng phảng phất nét tượng hình của pho tượng đá câm nín khổ đau.
Huỳnh bàng hoàng tự hỏi: “Có thể đến thế được ư? Cuộc đời này có còn gì nữa chăng?”
Nàng nói, thật bình thản:
– Em phải về, trưa rồi.
Huỳnh nhìn mặt hồ quang đãng sau cơn mưa, một chút nắng rực rỡ đậu như cánh bướm trên ngọn cây cao, hình như đâu đó có tiếng xôn xao của chim chóc hay của loài người.
Người con gái lại nói:
– Em chờ anh ở đây, trưa mai, anh đến nhé.
Huỳnh gật đầu, chàng lấy làm lạ nghe âm thanh tiếng nói của nàng như vẳng lại từ nơi hư vô nào xa xôi quá, tiếng nói không có vẻ thiết thực chút nào. Và cả người con gái vừa ở trong vòng tay yêu đương cuồng nhiệt của chàng nữa, nàng đang còn đứng đó mà như đã xa lắm rồi, mất hút trong thời gian tro bụi.
Nàng quỳ xuống trước mặt Huỳnh, ôm lấy chàng, dịu dàng hôn lên mắt, lên má, lên môi, lên cổ Huỳnh, ở nàng bây giờ biểu lộ một vẻ yêu thương đằm thắm, buồn bã và cam chịu. Tim Huỳnh nhói lên, chàng ghì chặt lấy nàng, chua xót, câm nín, thiết tha. Chợt Huỳnh đẩy nàng ra, giọng nói của chàng khô khan một cách lạ:
– Thôi, em về đi kẻo trưa rồi.
Nàng ngoan ngoãn rời Huỳnh, chuồi mình xuống nước lặn mất tăm như một nữ nhân ngư chợt biến trong làn nước xanh, cho đến khi Huỳnh thấy nàng ngoi lên chống tay trên bờ đá bên trên giòng suối, nàng nhún mình, phút chốc đã đứng trên một tảng đá xanh rêu. Nàng đứng đó, quay lại nhìn Huỳnh một giây, đôi mắt nàng đăm đăm, môi nàng mím lại, tóc nàng dán bết vào má, vào cổ, chiếc khăn quấn trên ngực nàng ướt lướt thướt, dính sát vào người. Nàng lẳng lặng quay đi, nhảy qua từng phiến đá nhẹ nhàng như một con sóc. Đến chỗ rẽ sắp khuất mặt hồ, nàng lại ngừng lại, quay nhìn Huỳnh lần nữa, lần này thân hình nàng khuất sau một đám lá, Huỳnh chỉ nhìn thấy nàng ngoảnh lại sau những chạc cây ngang dọc như một cái khuôn hình đóng khung khuôn mặt buồn bã của nàng ở giữa. Nắng lọt qua kẽ lá rọi sáng hẳn một bên má nàng, cái nhìn của nàng âm thầm lặng lẽ.
Rồi nàng biến mất như một giấc mơ.
Lan, Lan em mãi mãi chỉ là một giấc mơ, nếu một mai anh chết đi, những giấc mơ và em sẽ cùng anh tan biến, vì vậy cho nên anh có thiết tha với sự sống cũng chỉ là vì em. Vậy mà người ta sắp giết anh, người ta nhất định giết một kẻ chỉ còn mong giữ gìn sự sống cho em. Vậy thì, hỏi còn chi để bày giãi, còn chi để biện minh? Anh chỉ còn lại một mình, đơn độc trên phiến đá trung trinh này, em chợt đến rồi chợt đi, em cho anh sống đến tận cùng để rồi em báo cho anh sự chết.
Tên em là Lan, phải không em, anh gọi tên em rồi đó, em hẹn anh ngày mai, phải không em? Anh sẽ đến với em ngày mai, vì em đã muốn, vì em hẹn hò. Anh sẽ không trốn chạy trước ngày mai đâu em. Tại sao em thúc giục anh trốn chạy, tại sao em lại hẹn hò? Tại vì em là Lan, phải không em? Là giấc mơ vô cùng vô tận của đời anh, giấc mơ duy nhất của một kẻ bị đồng loại săn đuổi đến cùng đường.
Ngày mai, em hãy chờ anh ở đây em nhé, em hãy chờ anh, trên bước đường của một kẻ tử tù, anh sẽ đến với em.
Anh sẽ đến, anh sẽ đến.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:51:53 GMT -6
CHƯƠNG XXXVII
Trần ngồi trên đống thân cây lồ ô, chàng cầm một chiếc lá đưa lên miệng nhằn nát cuống lá, mắt chàng lộ vẻ mỉa mai phẫn nộ, chàng chép miệng chua chát:
– À thì ra họ không muốn cho mình sống nữa, thì ra họ đã chán cái bản mặt mình lắm rồi, không còn muốn thấy mình chường mặt ra trên thế gian này nữa.
Chỉ vì quá nhiều người biết đến mình nên họ không thể thẳng thắn loại trừ mà thôi. Tóm tắt là như vậy.
Trần vụt quăng chiếc lá xuống đất, đưa tay làm một cử chỉ vẫy tay ngắn và gọn, chàng cao giọng nói như tuồng:
– A, đủ rồi, màn sắp hạ, tôi cho anh nghỉ, ha ha ha.
Tiếng cười của chàng ghê rợn:
– Huỳnh, tao không nhớ tên bạo chúa nào đã nói một câu tương tự như thế trong giờ lâm chung của nó, nhưng tao nghĩ màn sắp hạ rồi đó, mày nghĩ sao?
– Tao nghĩ đến nàng, đó là điều đáng nghĩ nhất đối với tao bây giờ, – Huỳnh mơ màng nói, trên môi thoáng một nụ cười đắm đuối, – tao sợ chết thật đấy nhưng tao vốn lười, mày biết rồi đấy, tùy mày muốn nghĩ gì thì nghĩ, tao kể lại cho mày nghe tất cả rồi đó, nàng bảo chúng nó kỳ hạn cho anh nàng thanh toán chúng mình trong vòng một tháng, vậy còn nhiều thì giờ chán để sống và để chết. Bây giờ hãy để yên cho tao với nàng ít nhất là phút này.
Trần tư lự:
– Mày bảo trưa mai nàng chờ mày ở ngoài suối hả, tao nghĩ có thể nhờ nàng giúp một tay để chúng mình thoát được nơi này.
– Không nên, mày quên rằng nàng là Lan đấy chứ. Không bao giờ tao để cho Lan liên lụy vì mình. Chắc chắn là một tiền định mà tao đã gặp nàng, nàng báo cho chúng ta cái lưỡi gươm lấp lánh trên đầu chúng ta kia, thế cũng đủ nguy hiểm cho nàng lắm rồi. Có lẽ để tránh nguy hiểm cho nàng, chính tao cũng không đến chỗ hẹn với nàng ngày mai nữa, sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Thôi thế cũng đành.
– À, thì ra người ta sợ chết kinh khủng, và người ta si tình còn hơn sợ chết nữa kia đấy, khiếp thật, – Trần mỉa mai bạn nhưng không giấu vẻ thương yêu trong giọng nói, – mày nói cũng phải, thế thì thôi vậy. Chắc có một cách nào đó, tao chưa nghĩ ra vì tin này đột ngột quá, nhưng rồi cũng phải nghĩ ra. Không dính đến Lan của mày, dĩ nhiên. Thôi hãy vác cái đống cây khốn nạn này về trại đi đã, chiều quá rồi, một ngày của kỳ hạn sắp qua. Lạ một điều là biết người ta sắp giết mình không biết bằng cách nào mà tao không thấy sợ, thấy buồn gì cả. Chỉ thấy ghê tởm chán chường, chán đến lộn mửa, thế thôi.
– Tao không muốn chết, tao sợ chết hẳn hòi, nhất là ngay lúc này tao đang bắt gặp hạnh phúc, hạnh phúc to lớn quá đối với tao trong khi tao chỉ là một tên tù, một tên tù biết mình đã bị lên án. Ghê gớm thật, cái gì cũng quá cỡ đối với tao hết. Một tử tội yêu em gái của viên giám ngục, viên giám ngục không ghét bỏ gì hắn, trái lại nữa là khác, vậy mà phải tuân lệnh cấp trên tìm cách giết hắn. Người ta có thể giết nhau không bằng căm thù đấy chứ, cứ gì phải học tập căm thù mới giết được nhau. Tao thấy trong người tao ngây ngất sốt mày ạ. Cũng như mày tao kinh tởm và còn khiếp sợ nữa, vô lẽ gào lên hay thét lên thôi, nhưng thật tình tao cố nén để khỏi làm như vậy.
– Thôi đi về, còn chừng này cây để mình tao vác được rồi. Bây giờ mày hãy đến trạm y tế để khai bệnh, về lều nằm nghỉ trước đi, tao sẽ lấy cơm về cho.
– Không, tao có thể vác được, đây này, có sao đâu, tao còn mạnh chán, còn chịu đựng gian lao cay đắng của cuộc đời cho đến ê chề mà vẫn không muốn chết.
Huỳnh bước đi, với bó lồ ô nặng trĩu trên vai:
– Chết làm sao cho đành, hở Trời.
Hai người về đến cổng trại, có vài cán bộ của tỉnh từ phía văn phòng giám đốc đi ra, họ nhìn hai người một thoáng, rồi quay đi. Những người này đều có quen biết Trần và Huỳnh từ trước. Trước kia mỗi lần gặp hai người, họ đều có vẻ hãnh diện được bắt tay hai người, được chuyện trò chung với nhau, nhưng bây giờ họ nhìn thẳng ra cái điều không hề biết hai người bao giờ cả. Trần mỉm cười chua chát, chàng rất vui lòng mà làm kẻ lạ, cho đến lý tưởng mà chàng đã yêu quý bằng tất cả tâm hồn thanh xuân mê đắm trước kia, bây giờ cũng chỉ còn lại âm hưởng của một mùi vị nhạt nhẽo trống không, tuy nhiên vết chém của đau thương vẫn hằn lên da lên thịt. Từ ngày vào tù, tâm hồn chàng gần như lắng dịu, bởi công việc nặng nhọc, bởi rừng sâu như xa lánh cuộc đời, nhưng bây giờ, khi biết người ta vẫn không buông tha mình, khi bắt gặp lại những khuôn mặt đồng chí cũ, chàng không khỏi rùng mình ớn lạnh. Làm sao mà dửng dưng với cái chết của mình cho được.
Cuộc kiểm thảo buổi tối như thường lệ đã kết thúc.
Sau một ngày làm việc nhọc nhằn, Bằng và Liêu vừa nằm xuống đã lăn ra ngủ ngay ở cái sạp bằng nứa vừa làm thêm ở cạnh sạp của Trần và Huỳnh. Hai người bạn nằm yên lặng nhưng họ biết nhau vẫn còn thức. Trần nghĩ đến cuộc trốn chạy phải thực hiện bằng bất cứ giá nào, không thể để chúng giết hai đứa như hai con chó ghẻ được. Trần nghĩ đến Hiếu, chàng mong chóng đến chủ nhật, còn hai ngày nữa để được gặp nàng. Chàng sẽ cho nàng biết kế hoạch đào tẩu của chàng và sắp đặt cho nàng và hai đứa bé rời khỏi chiến khu trước. Từ khi nghe Huỳnh kể lại người con gái cho biết chúng không dám công khai giết mình, mà chỉ tìm âm mưu ám hại, chàng vừa ghê tởm nhưng cũng vừa hy vọng, nếu chàng và Huỳnh hết sức thận trọng có thể kéo dài cái giờ thảm khốc bị rơi vào cái bẫy của lũ thợ săn đã giương ra sẵn. Có lẽ quanh đây ngay bây giờ bẫy đã được giương ra rồi cũng nên.
Chàng vẫn biết rừng bao quanh đây đều dày đặc những hầm chông không thể khinh xuất liều mạng lẩn trốn vào rừng trong giờ làm việc được. Bề ngoài trông khu rừng thật vô hại, những con đường mòn lại có vẻ hiền lành lắm, đám tù nhân làm việc lẩn khuất trong những lùm cây đều có vẻ tự do thoải mái. Nhưng ai nấy đều biết cái số phận ghê gớm khắc nghiệt đang chờ họ trên đầu những đám cây xanh tươi kia, dưới những thảm cỏ nhung óng mượt rung rinh những hoa vàng nhỏ xíu. Cạm bẫy do bộ óc tinh tế của con người đã phô bày dáng vẻ kiều diễm mời mọc trên tấm áo khoác ngoài lộng lẫy uy nghi và kiêu hãnh của núi rừng.
Chỉ còn một ngã duy nhất, con đường chính trước cổng trại dẫn ra đường lớn mở ra nhiều ngã, một ngã đi đến chiến khu ở đó tập trung những cơ quan đầu não của kháng chiến tỉnh, một ngã băng qua dãy núi Trường Sơn để đi vào các tỉnh miền Nam Trung phần, một ngã vòng xuống thung lũng ngang qua lăng tẩm của một vị vua triều Nguyễn đổ xuống các làng tiếp giáp với vùng phụ cận thành phố.
Cũng do ngã đó mà thân nhân của tù từ các nơi dưới đồng bằng lên chiến khu rồi theo đường đó đến trung tâm Tây Hạ bới xách cho người thân của họ bị cầm tù.
Hiếu cũng đi lại trên con đường đó hàng tuần để đến thăm chàng, để nhìn chàng mà khóc, và để trở về vội vàng hấp tấp sợ cơn mưa, sợ trời sập tối giữa rừng. Con đường ấy được canh phòng nghiêm mật, cán bộ và thường dân ra vào đều bị kiểm soát gắt gao cả mấy trạm dọc đường. Trần nghĩ không còn cách nào khác, chàng và Huỳnh sẽ liều mạng tìm cách thoát ra ngay ở chính con đường ấy, bởi vì chưa ai dám nghĩ đến ngã đó trong kế hoạch đào tẩu cả. Ngày mai vào rừng chàng sẽ bàn với Huỳnh kế hoạch thoát thân theo con đường ấy.
Trần biết Huỳnh cũng không ngủ, chàng thấy bạn trở mình luôn, thằng này hỏng, ban chiều đã muốn sốt mà bây giờ cứ dằn dọc như thế lỡ đau nặng thì nguy. Cái khối gan lì câm nín ấy mà khi chiều đã kể chuyện gặp cô gái ngoài hồ nước cho Trần nghe một cách cuồng tín si mê, lại còn bị ám ảnh bởi cái chết, mối lo sợ thường trực của Huỳnh nữa thì không biết sẽ ra sao. Nếu Huỳnh lại đau ốm, Trần không thể bỏ Huỳnh được, Huỳnh cần phải được khỏe mạnh để đủ sức chịu đựng cuộc bôn tẩu chắc chắn là muôn phần gian lao nguy hiểm.
Trần trở mình, lấy khuỷu tay huých bạn, gắt khẽ:
– Này, mày cố ngủ đi chứ, mày cần phải…
Trần bỗng im bặt vì đúng lúc đó, một bàn tay của Huỳnh đưa ra níu chặt cánh tay chàng, cùng tiếng Huỳnh thì thào như muốn hụt hơi:
– Hãy yên nào, mày có nghe thấy gì không, đấy, chính chúng nó rồi đấy.
Tự dưng một luồng giá lạnh chạy suốt người Trần, không phải vì Trần đã nghe thấy gì mà chính vì trong giọng nói của Huỳnh khiến chàng linh cảm một điều gì đó lạ lắm, không thể phân tách nổi. Huỳnh bóp cánh tay Trần mạnh hơn, khiến chàng thấy cả cánh tay nhức buốt, tiếng Huỳnh lạc đi, gần như rên lên:
– Đấy chúng nó đến gần rồi đấy, mày nhớ không, chúng nó nhắm vào tao trước, vào tao trước.
Bàn tay Huỳnh bấu vào cánh tay Trần rịn mồ hôi ra ướt đầm, cả người Huỳnh run lên bần bật, cùng lúc chàng nghe tiếng chân nhiều người thình thịch tiến đến dừng trước cửa lều. Tiếng mở khóa lách cách, tiếng dây xích va chạm loảng xoảng, cánh cửa mở tung, ánh đèn pin rọi thẳng vào chỗ hai người, tiếng cò súng lên đạn bật đánh tách khô khan, một tiếng nói oang oang dữ dằn như xói vào óc, tiếng nói sắc lạnh xoáy mạnh vào bầu không khí cô tịch của đêm khuya:
– Phạm Huỳnh, dậy mau, có lệnh gọi đi ngay.
Trần bật ngồi dậy, bàn tay Huỳnh níu cánh tay chàng tuột ra, rơi bịch xuống chiếu. Trần nói, không biết mình đang nói gì:
– Dậy đi Huỳnh, không sao đâu.
Chàng quay lại, ngạc nhiên vì sự im lìm kỳ lạ của Huỳnh, trong ánh sáng của ngọn đèn pin rọi thẳng đến giường, bàn tay của Huỳnh nằm gọn trong luồng ánh sáng ấy, bàn tay vừa níu lấy tay chàng rơi tuột xuống kia, vẫn giữ nguyên những ngón tay co quắp trong một cử chỉ nắm níu bất động.
Một cảm giác ghê gớm dội lên như có mũi dao vô hình đâm suốt ngực Trần, chàng vồ lấy bàn tay Huỳnh, hốt hoảng:
– Mày làm sao thế, hả Huỳnh?
Chàng cúi xuống mặt Huỳnh, bỗng chàng lùi lại, không, không thể được, cái gì ở trước mặt chàng kia, không phải là Huỳnh, không thể là con người đã từng yêu thương, vui buồn, giận dỗi vô cùng mãnh liệt trước đây mới có một giây. Cái xác bất động không còn hơi thở này, đôi mắt mở to nhìn vào khoảng không kia, cái miệng há ra như một tiếng gọi nửa chừng. Một chất gì mằn mặn thấm xuống cổ họng khô đắng của Trần; chàng nghe tiếng nói của mình vỡ ra từng mảnh vụn:
– Huỳnh, có phải mày đấy ư?
Chàng thấy loáng thoáng những bóng người chạy lại, họ nắm vai chàng kéo giật về phía sau, Trần đứng yên ngơ ngác, toàn thân cóng lạnh, trí óc trống rỗng.
Có tiếng người nói:
– Chết rồi, thế là xong, đi gọi y sĩ tới đây.
“Chết rồi, thế là xong,” âm thanh đó như một tiếng reo đắc thắng, tiếng nói mới nhẹ nhõm làm sao. Trí óc mê mụ của Trần vụt lóe lên một tia sáng rọi thẳng vào hình ảnh của một cái bẫy đã sập xuống, con mồi đã đút cổ vào dây thòng lọng.
Cái bẫy là đây, bệnh đau tim của Huỳnh đó, với ấn tượng kinh hoàng về những đêm bị gọi dậy mang đi giữa khuya. Họ đã thành công rực rỡ với kế hoạch về Huỳnh, xảy ra đúng như dự liệu của họ.
Bây giờ đến lượt Trần, cái bẫy họ đặt cho chàng ở đâu đây, Trần lười lỉnh không muốn nghĩ tiếp, mọi việc đó dường như không còn liên hệ gì với chàng lúc này nữa.
Trần không biết người ta đã hỏi chàng những gì và chàng đã trả lời ra làm sao, chàng thờ ơ nhìn tờ biên bản của y sĩ làm ngay bên xác bạn chàng, dưới ánh sáng vàng bệt buồn thảm của ngọn đèn dầu. Tờ biên bản ghi vỏn vẹn:
“Bệnh tim. Tắt thở vì trường hợp bị kích ngất.”
Thì đúng qua rồi còn gì, mày đã bằng lòng chưa Huỳnh, người ta đã ghi nhận đúng cái chết của mày, không thừa không thiếu chữ nào cả. Mày hãy vui lòng đi đi, đừng ngoảnh lại, cãi vã lôi thôi, có ai vu khống cho mày đâu, mày chết có gì là oan uổng, bệnh đau tim nó vốn là của mày, nó lại càng không phải của những kẻ muốn mày rời bỏ cuộc sống đen bạc này.
Họ đã đi hết rồi đó, sau khi nhìn một cách chán chê thỏa mãn cái công trình của họ là cái xác của mày. Mày còn ở lại đây với tao và Bằng, Liêu đêm nay nữa trong cái lều của chúng mình. Không có gì thay đổi cho lắm, vẫn còn lại đủ bốn tên tù chúng mình ở đây đêm nay. Liêu và tao bắt đầu sửa lại thân thể chân tay mày cho ngay ngắn, tao muốn mày thật chững chạc đi đến trước mặt Thượng Đế để ca ngợi Người. Hồi sáng trong cơn mưa tao có ca ngợi Thượng Đế là đại nghệ sĩ. Tao vuốt mắt cho mày đây, tao không nhớ đã vuốt biết bao nhiêu đôi mắt như thế này, ừ, khép kín lại, như thế này vẫn hay hơn, trông mày bây giờ có vẻ thảnh thơi rồi đấy, tao thấy hình như mày mỉm cười, sao lại không mỉm cười nhỉ. Có còn gì ràng buộc khiến mày bận bịu nữa đâu, mày đã được giải thoát, số phận đen tối lầm than của Tổ quốc Việt Nam không còn can dự gì đến mày nữa, mẹ và người yêu không còn chờ đợi mày nữa, mày cái thằng lười biếng thành thần, tao không còn cằn nhằn mày ở bẩn nữa, không đôi co với mày về chuyện rửa mặt, đánh răng, thay áo quần nữa.
Cái gì nhỏ giọt trên tay mày như nước mưa thế này? À, nước mắt của tao, thế mà tao không biết đấy, nước mắt với nước mưa thì có khác gì nhau, trên quê hương này hằng hà sa số. Mày chết thế là phải, Huỳnh ạ, kiêu hãnh như mày, sống mãi làm sao khỏi có ngày bị sa một giọt nước mắt, mà một giọt nước mắt chỉ như một giọt mưa là cùng.
Bây giờ mày hãy ngủ yên, có bàn tay tao mềm và ấm siết chặt lấy tay mày, tao ngồi bên cạnh mày đây; mày hãy ngủ yên, nếu cần tao sẽ vỗ nhẹ để ru mày; mày hãy ngủ yên, tao sẽ ngồi đây với mày qua cái đêm âm u dài dặc này, tao nhất định không gục xuống bên xác mày.
Cho đến khi mặt trời thắp sáng nhân gian ngoài kia, cho đến khi chỉ một mình tao còn nhìn thấy mặt trời.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:54:21 GMT -6
CHƯƠNG XXXVIII
Hơn hai tuần rồi, mộ của Huỳnh, nấm đất đỏ au sẫm màu sau mỗi cơn mưa đã lấm tấm vài cọng cỏ xanh thưa thớt. Chiều nay sau giờ làm việc trong rừng, trước khi về trại như thường lệ, Trần tạt qua thăm mộ Huỳnh. Chàng lại thấy một cành hoa túy tử đặt ngay trên đầu mộ như mọi ngày. Chàng nhìn những cánh hoa màu xanh nhạt, trên đầu có điểm cái nhụy vàng giống như chiếc vương miện khiến chàng nhớ đến những tàng cây rậm lá tỏa bóng trên mặt hồ dưới giòng suối.
Những chùm hoa xanh này đã từ đó rũ xuống mặt hồ, bỗng dưng chàng thấy ngậm ngùi thương cảm. Người con gái tên Lan ngày hôm sau đó có đến bên giòng suối để chờ đợi người đàn ông đã một lần đi qua đời nàng sẽ không bao giờ trở lại nữa không? Bây giờ thì nàng đã biết người ấy không còn trở lại mà đã trở thành của nàng vĩnh viễn, những cánh hoa xanh biếc này ngày ngày được đặt lên phần mộ như biểu tượng cho một sở hữu ân tình vô thủy vô chung.
Mộ Huỳnh nằm cạnh mộ Lương, nhìn hai người bạn của mình song song nằm yên nghỉ bên nhau, hai nấm mộ có cùng hình dáng giống hệt nhau, Trần nghĩ đến sự đồng nhất của tất cả những nấm mộ, lòng bỗng thấy bớt ưu sầu. Chàng nghĩ đến những ngôi mộ trùng trùng điệp điệp từ ngàn vạn năm nay, chàng nghĩ đến sự yên nghỉ vĩ đại của nhân loại, trong một thoáng trên bước đường tù tội, chàng bỗng thấy thân thể mình chếnh choáng một cảm giác nhẹ hẫng thênh thang.
Trần hy vọng sẽ gặp Hiếu trong lần thăm viếng chủ nhật ngày mai biết bao, hình ảnh Hiếu với khuôn mặt xanh xao nhợt nhạt của nàng, với đôi mắt lé cô đơn lạc lõng, với nụ cười hiền hậu trên đôi môi úa màu, với cái bụng nặng nề mang cái thai sáu tháng. Trần cảm thấy lòng nôn nao mong mỏi gặp nàng. Bây giờ Huỳnh không còn nữa, chàng chỉ còn mình Hiếu giữa cuộc đời này. Chàng chỉ muốn gặp nàng, nhìn thấy nàng để biết sự hiện hữu của mình có thật. Hai tuần nay không hiểu sao nàng không đến, chàng cảm thấy mình bị mất hút trong một làn sương khói dày đặc. Sau cái chết của Huỳnh, chàng làm việc, ăn, ngủ như một cái máy, nỗi ưu sầu nhận chìm chàng trong một thế giới vắng ngắt, mênh mông. Gần như chàng không nhận biết có Liêu và Bằng ở bên cạnh, cùng sinh hoạt với chàng trong một căn lều nữa.
Đã qua tháng chạp, lại một năm sắp qua, lại một năm sắp đến. Hình thù những đám mây của những buổi chiều này cũng lạ lắm. Mặt trời như ẩn mặt đâu đó sau những đám mây tháng chạp này, nó đùn lên từ sau rặng núi đen ngòm ở xa, tỏa ra cuồn cuộn giữa nền trời xám ngắt mênh mông, nổi hẳn lên từng đợt phản chiếu ánh sáng của thinh không, tự đó phát ra một âm thanh chới với giữa trời. Âm thanh treo lơ lửng dưới vòm mây qua những đường mây ngoằn ngoèo vần vụ cúi xuống thấp sà mặt đất như muốn mang đất trời nhập lại làm một.
Không khí buổi chiều mùa đông trong rừng giá buốt căm căm.
Trần đứng dậy thất thểu đi trên con đường trở về trại giam, các bạn tù về trước đã rải rác ra ngồi trên những phiến đá của họ ở góc rừng cuối trại như thường lệ. Trần đi thẳng đến phiến đá của Huỳnh, toan ngồi xuống đó, có tiếng gọi tên chàng khiến chàng ngoảnh lại. Một liên lạc viên trong văn phòng giám đốc trại giam chạy đến, y vừa thở hổn hển vừa cằn nhằn Trần:
– Tôi đi tìm anh khắp cả, anh làm gì mà về chậm thế, đồng chí giám đốc cho gọi anh đến văn phòng ngay có việc cần.
– Ngay bây giờ à?
– Ngay bây giờ, đồng chí giám đốc đang đợi.
Trần đi theo người liên lạc viên tiến về phía văn phòng, tự nhủ không biết có phải đã đến lượt mình không. Chàng ngạc nhiên thấy mình vô cùng thờ ơ đối với ý nghĩ chết chóc lẽ ra phải làm chàng khiếp đảm mới phải.
Chàng ngoái nhìn lại phía sau, cảnh những bạn tù rách rưới thảm hại đang ngồi co ro còm cõi lạnh buốt trên những phiến đá day mặt về phía Tây trong buổi chiều đông khiến chàng hiểu tại sao lòng chàng dửng dưng với mọi sự. Nấm mộ Huỳnh với cành hoa túy tử bên trên chẳng đã gây cho chàng một huyễn tượng sâu thẳm về cái chết đó ru, có chi mà khiếp hãi.
Viên giám đốc trại giam đứng đợi Trần trước thềm cửa văn phòng. Y chìa tay bắt tay Trần, nói bằng một thứ giọng dịu dàng thân thiết khiến Trần lấy làm lạ:
– Anh Trần, tôi chờ anh đây.
Y đưa Trần vào bàn giấy, mời Trần ngồi trên một chiếc ghế, y ngồi đối diện với Trần. Trần ngồi xuống, nhìn y chờ đợi, viên giám ngục có vẻ mặt xanh xao, tái mét, đôi mắt y buồn bã nhìn xuống, đầu y hơi cúi tới trước khiến Trần chú ý tới vầng trán cao, có vài đường gân nổi lên chạy dài xuống sống mũi thẳng, nét mặt có những nét sang quý hiếm có ở một viên giám ngục khiến Trần chợt có thiện cảm với y. Chàng nghĩ có lẽ vì y là anh ruột của người thiếu nữ Huỳnh yêu, và nhất là qua thiếu nữ mà Huỳnh và chàng biết được lòng dạ của y đối với bọn chàng không đến nỗi nào. Nhưng dầu sao y cũng không cứu nổi Huỳnh thoát chết, và giờ đây đến lúc y phải thi hành kế hoạch nhắm vào Trần. Có thể vì thế mà sự ân hận ray rứt đã in dấu lên nét mặt ưu phiền xanh mét kia chăng, hay đó chỉ là chứng bệnh sốt rét ngã nước?
Trần buột miệng:
– Huỳnh chết rồi, bây giờ đến lượt tôi phải không anh Châu?
Viên giám ngục ngẩng lên, đôi mắt y tối sầm; y đứng phắt dậy, thọc hai tay vào túi quần, cúi đầu đi đi lại lại trong phòng, vẻ bứt rứt khó khăn. Bất thần y đứng dừng lại ngay trước mặt Trần, y nhìn thẳng vào mặt chàng, nói nhanh:
– Tôi gọi anh đến để báo tin cho anh, chị Hiếu đã chết.
Trần tối tăm mặt mũi, như sét đánh ngang đầu, chàng không thể tin ở tai chàng được nữa, chàng lảo đảo đứng lên, viên giám ngục thấp hơn chàng nửa cái đầu, Trần cúi sát mặt y, đưa hai tay nắm chặt hai vai y, chàng hét to trong khi cảm thấy mình rời rã không còn chút sức lực nào nữa:
– Hiếu chết, tại sao, nói mau, chúng mày đã làm gì nàng?
Tiếng hét của Trần làm cánh cửa ăn thông qua phòng bên cạnh vụt mở ra, hai nhân viên của văn phòng giám đốc chạy vào. Khi họ thấy Trần nắm vai viên giám đốc của họ lắc mạnh, tức thì vẻ mặt họ đổi ra hầm hầm, họ vừa dợm bước tới thì viên giám ngục khoác tay ra lệnh:
– Hãy sang bên kia, tôi không gọi các đồng chí.
Hai tên nhân viên hậm hực tuân theo, họ biến ngay tức khắc sau cánh cửa khép lại.
Cử chỉ của viên giám ngục làm cho Trần tỉnh lại, chàng buông viên giám ngục ra, ngồi gục xuống ghế như một thân cây bị đổ. Chàng ôm đầu cúi xuống, nghe một cách mơ hồ tiếng nói của viên giám ngục đều đều buồn nản như tự biết mình đang làm một việc tệ hại nhất:
– Chị ấy bị tai nạn trong khi đi đến đây thăm anh ngày chủ nhật cách đây hai tuần, khi đi qua chiếc cầu phía trên thôn Mai Lĩnh, trời đang mưa to, thân cây cầu tròn và trơn nên chị ấy bị trợt chân ngã xuống suối, nước lũ chảy xiết, chị bị cuốn đi luôn, không ai biết cả. Mãi cách đây một tuần người ta mới thấy xác chị trôi vào bờ sông tận dưới làng Nguyệt. Có người nhận ra chị trước kia làm việc trên tỉnh nên người ta báo cáo về tỉnh ngay. Tỉnh đã ra lệnh cho ủy ban địa phương chôn cất chị tử tế ở cánh đồng phía bắc làng Nguyệt, ngay trên gò có cây bàng đó. Liên lạc viên ngoài tỉnh vừa vào cho tôi biết. Tôi phải báo tin này cho anh thật là một việc khổ tâm cho cả tôi vì trước kia tôi cũng có quen biết chị khi cùng chị làm việc trong những công tác nội thành. Đó là một người đàn bà rất đáng quý, tôi xin có lời chia buồn cùng anh.
Trần ngẩng lên, đôi mắt chàng dại đi, chàng hỏi viên giám ngục:
– Bây giờ tôi về lều được không?
– Được, nhưng hãy gượm, còn việc này nữa, suýt tôi quên, sáng mai anh sẽ ra trình diện ty Công an Tỉnh, vậy mai anh không phải vào rừng làm việc, anh sẽ đến đây vào lúc tám giờ, sẽ có người đưa anh ra tỉnh.
Viên giám ngục với tay lấy một tờ công văn đánh máy để trên bàn giấy giao cho Trần:
– Đây là lệnh của tỉnh gọi anh.
Trần cầm mảnh giấy trong tay, chàng không hiểu viên giám ngục đã nói gì, chàng cúi nhìn mảnh giấy, nhíu mày:
– Đây là cái gì thế này?
– Lệnh gọi anh ra trình diện ty Công an Tỉnh, – viên giám ngục kiên nhẫn nhắc lại với một chút lòng trắc ẩn – anh nghe rõ chưa?
Trần ngơ ngác nhắc lại:
– Trình diện, trình diện à, để làm gì thế?
– Rất tiếc tôi cũng không được biết rõ.
Mặt Trần đanh lại:
– Đúng, anh không thể biết rõ gì cả, luôn cả cái chết của Huỳnh, và có lẽ cái chết của vợ con tôi nữa. Các anh không bao giờ có thể biết rõ gì cả, các anh chỉ biết rõ con số xác chết như núi chồng chất quanh các anh mà thôi.
Viên giám ngục vẫn ôn tồn:
– Bây giờ anh có thể trở về lều của anh. Tối nay anh được phép nghỉ sinh hoạt.
Trần cúi đầu lảo đảo bước ra khỏi văn phòng, cùng lúc tiếng cồng tập họp nổi lên, những tù nhân lục tục đứng dậy chạy lúp xúp về phía cuối sân. Trần dừng lại ngơ ngác nhìn quanh. Nàng chết rồi thật sao, nàng với đứa con của tôi trong thân thể nàng. Tôi phải làm gì bây giờ? Bây giờ họ đã chết, tôi như thế này là sống đây à? Hiếu ơi, em đã nằm yên dưới đất rồi ư, làm sao anh có thể sống?
Trần lủi thủi bước đi, lần thứ nhất trong đời, chàng cam tâm cúi đầu trước số phận, lần thứ nhất trong đời, chàng ý thức được mình đang đi giữa khoảng không.
Đất sụt dưới bàn chân trần trụi của chàng. Trên đầu chàng có đám mây sà xuống thật thấp, chàng nghĩ không biết đưa tay lên có thể kéo nó xuống, kéo sập luôn cả bầu trời này được chăng. Chàng ngẩn ngơ cười với ý nghĩ đó, chợt thấy dãy lều trong bóng chiều sẫm màu bỗng trở nên lờ mờ nhòa nhạt. Chàng đưa tay vuốt mặt để nhìn rõ hơn, chàng thấy tay mình ướt đẫm, chàng nhìn trời vu vơ tự hỏi. Trời không mưa mà sao thế này? Chàng lại nghĩ trời rét quá, mùa đông dài suốt đời như thế này chăng? Chàng nhìn thấy mùa đông dài trên những nấm mồ. Trên quê hương cả dãy mồ hằng hà sa số, cái nào cũng giống nhau.
Nước mắt của chàng nhòa nhạt giữa hư không, nấm mồ của Hiếu đang cheo leo giữa trời kia, nàng nhắm mắt không yên vì chàng bị giam cầm chưa tới được với nàng, nấm mồ đang đợi chờ thao thức, nấm mồ mang cả giòng suối quấn quanh mình, như gối lên giòng nước mắt của cuộc đời.
Trần biết rõ cái gò đất có cây bàng, nơi người ta chôn vùi nàng và con chàng ở đó. Nó nằm chơ vơ giữa cánh đồng rộng mênh mông bên cạnh giòng sông, gần đồn Tây làng Nguyệt, chỉ cách một cái lạch nước có hai hàng dương liễu hai bên giữa những cây dừa nước, những bụi ngâu dại len lách giữa đám lá xanh thẳm.
Huỳnh và chàng qua lại nơi đó biết bao nhiêu lần trong những mùa chiến dịch, họ đã có lần ngồi bên nhau trong một buổi chiều mùa xuân cách đây hai năm nơi gò đất có cây bàng đó.
Nơi đó từ nay nàng yên nghỉ, chấm dứt chuỗi ngày lận đận dầu dãi nắng mưa nuôi chồng tù tội. Trên nền trời giữa cánh đồng mây kia, nàng đang vỗ cánh bay đi, mất hút sau rừng cây rũ rượi, để lại phía sau nàng cả không gian vắng vẻ, chìm dần vào đêm tối.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:56:36 GMT -6
CHƯƠNG XXXIX
Trần dừng lại trước cổng trại giam, chàng đứng yên một lát, mơ màng, chuyện này không có vẻ gì có thật cả. Chàng đã được phóng thích, thật vô lý, một điều chàng không bao giờ ngờ tới. Chàng không hiểu mọi sự xảy ra như thế nào, từ sáng hôm qua, chàng theo hai người công an cầm súng áp giải chàng ra trình diện ty Công an Tỉnh, chàng vẫn nghĩ rằng giờ của chàng đã điểm. Chàng cảm thấy không có gì quan hệ nữa, Huỳnh, Hiếu không còn trên cõi đời này nữa, chàng thờ ơ với tất cả mọi sự.
Tuy nhiên Trần không khỏi ngạc nhiên khi người ta đưa chàng vào giáp mặt Đoàn Việt, giám đốc sở Công an Liên khu. Đó là một người đàn ông trung niên, người tầm thước, hơi đẫy đà, khuôn mặt vuông có những nét đều khá đẹp, đôi mắt rất tinh anh, mũi cao, miệng rộng, nét môi cong đều đặn, tiếng nói ấm áp nhưng sắc gọn có sức thu hút người đối diện. Trong giới kháng chiến người ta thường truyền miệng nhau nghe một chuyện tình khá lãng mạn của ông ta với một nữ cán bộ mặc dầu ông ta đã có vợ con, đồng thời Đoàn Việt cũng nổi tiếng là một viên chức công an cao cấp tài ba lỗi lạc trong ngành.
Vừa thấy Trần, Đoàn Việt nói ngay:
– Tôi vừa ở khu vào, các đồng chí ở đây đã trình cho tôi xem hồ sơ của anh, tôi đã xem xét kỹ. Hôm nay tôi gọi anh đến để hỏi anh một điều.
Đoàn Việt ngừng lại, chìa bao thuốc lá hiệu Philips mời Trần:
– Mời anh.
Trần lắc đầu:
– Tôi không hút, cám ơn anh.
Đoàn Việt rút một điếu, thong thả bật lửa châm hút, thở ra một hơi khói mỏng, ông ta hỏi vẻ không quan tâm cho lắm:
– Thường ngày anh vẫn hút mà.
– Vâng, nhưng hôm nay thì không.
Đoàn Việt gật đầu, như cho đó là câu trả lời thỏa đáng nhất. Ông ta đưa điếu thuốc lên môi, rít một hơi, thở khói ra, làn khói thuốc xanh biếc quyện vào nhau quấn quýt trước mặt Đoàn Việt, ông ta ngồi bật ngửa ra sau thành ghế, nhìn Trần bằng đôi mắt bí ẩn sau làn khói thuốc:
– Anh Trần, nếu tôi gọi anh đến đây để nói cho anh biết rằng anh sắp được trả tự do thì anh nghĩ sao?
Trần hơi sửng sờ trong một giây, nhưng trước đôi mắt hòa huởn sâu sắc của Đoàn Việt, chàng biết rằng mình cần phải bình tĩnh và tự chủ. Chàng không muốn tỏ vẻ xúc động trước những kẻ giờ đây đối với chàng đã cách biệt lắm rồi, những người trước đã từng là đồng chí, đã tưởng cùng nhau đi cho hết đoạn đường chông gai gian khổ trên quê hương:
– Anh bảo tôi nên nghĩ gì, sau lưng tôi là sáu tháng tù, trước mặt tôi là những ngày trắng, xin anh cho biết tôi nghĩ gì bây giờ? Tôi không có gì để nghĩ nữa hết.
Hai bàn tay Đoàn Việt đang chắp lại vụt mở ra xòe rộng:
– A, anh có lý, nhưng nếu tôi nghĩ hộ anh vậy, tôi nghĩ rằng nếu tôi như anh, được thả ra có lẽ tôi sẽ trở về thành phố, anh nghĩ sao?
Trần mỉm cười chua chát:
– Xin anh đừng quên, trước khi vào tù tôi đã từng ở Vệ Quốc đoàn. Tôi yêu đồng đội của tôi và hơn ai hết tôi hãnh diện vì người Vệ Quốc quân bắn rất trúng đích. Dĩ nhiên không ai muốn chết bởi chính viên đạn của đồng đội mình bắn trúng vào đầu mình cả.
Đoàn Việt gật đầu tán thành:
– Anh nói đúng. Vậy anh có muốn trở lại phục vụ như trước không?
– Như trước, như trước, anh biết đấy, có cái gì như trước được đâu, – Trần lắc đầu, mệt mỏi – tôi chỉ muốn được yên để nghĩ đến những người đã chết.
– Tôi biết, tôi biết, tôi cũng rất buồn về cái chết của chị Hiếu, trước kia chị đã từng cộng tác với chúng tôi.
Đoàn Việt cúi đầu có vẻ nghĩ ngợi giây lâu, đoạn ông ta ngẩng lên, tia nhìn của ông ta như hướng về một cái gì đó, phía sau Trần, nét mặt ông ta khoác lại vẻ thản nhiên khôn dò:
– Thôi được, kể từ bây giờ anh được tự do. Anh có thể trở về trung tâm Tây Hạ thu xếp cho xong vài thủ tục giấy tờ. Ngay chiều nay sẽ có giấy phóng thích gởi đến anh. Sáng mai vào giờ này anh có thể rời khỏi trại giam.
Trần đứng dậy, dù sao chàng cũng không dám tin hẳn ở lỗ tai mình, có thể thế được chăng, người ta đã tuyên bố thả chàng về lại với cuộc đời, thế là không phải nhọc công tính chuyện đào tẩu. Chàng được tự do, muốn đi đâu thì đi, dù bây giờ Hiếu không còn khắc khoải mong chờ chàng nữa. À, có chứ, nàng đang chờ chàng đấy, dưới mồ, bên cạnh giòng sông, giữa cánh đồng quạnh quẽ.
Chàng đứng lặng, mơ màng một lúc, đoạn quay gót bước ra khỏi văn phòng không để ý đến Đoàn Việt vẫn lặng lẽ nhìn theo chàng, với vẻ mặt thản nhiên cố hữu.
Bây giờ, chàng đứng đây, trước cổng trại giam Tây Hạ. Chàng đứng đây, và tự do. Sau lưng chàng, lùi lại một bước là chạm vào mảnh đất tù đày. Chàng sẽ đi tới trước mặt, chàng ngoái nhìn lại sau trước khi cất bước. Mười giờ sáng, trại tù vắng ngắt vì tù nhân thảy đều đi vào rừng làm việc, toàn thể khu trại nằm buồn nản dưới ánh nắng cuối đông. Trần chợt thấy lòng chùng lại, nỗi buồn hanh hao dâng lên nhức nhối như một ung nhọt đang hành hạ.
Trần quay đi, chàng biết mình đang đi đâu. Hai nấm mồ của Huỳnh và Lương đang nằm song song, có vẻ chào hỏi chàng. Nắng sáng trên đầu ngọn cỏ mới mọc trên mộ Huỳnh, màu đất đỏ tươi dậy lên. Trần chợt nhớ từ ngày chôn Huỳnh cho đến nay chưa hề có một nén hương thắp trên mộ này, ngoài những cánh hoa túy tử mà hiện giờ chàng cũng đang thấy đặt trên đầu mộ. Ý nghĩ ấy khiến Trần hài lòng vì khi sống Huỳnh rất ghét mùi trầm hương vì mùi hương gợi cho Huỳnh hình ảnh tang tóc chết chóc. Trần nghĩ sau này chỉ còn mình chàng biết chỗ của hai nấm mồ này mà thôi, rời khỏi nơi đây biết bao giờ trở lại, nấm mồ vô chủ sẽ theo thời gian, gió mưa dầu dãi mà bị thất lạc, nhường chỗ cho cây cối hoang vu vùi lấp. Lòng ngậm ngùi, chàng lủi thủi đi xuống suối cách đó chừng hai trăm thước khuân lên những phiến đá đặt quanh ngôi mộ để làm dấu. Làm việc đó xong, chàng vừa thấm mệt, chàng ngồi nghỉ trên một phiến đá nhìn mộ bạn, những viên đá to nhỏ ngoan ngoãn quây quần quanh nấm mộ khiến Trần cảm thấy an lòng, chàng nhớ Huỳnh thường tỏ ra yêu thích đá vô cùng, Huỳnh thường nói đến đài kỷ niệm sẽ được dựng lên ở nơi này.
Trong buổi sáng chỉ còn lại một mình trên đời, Trần đã khuân những viên đá đặt quanh mồ hai người bạn, trí tưởng tượng của chàng tha hồ dựng lên hình ảnh thành quách lâu đài trên những phiến đá xù xì hay mòn nhẵn phủ đầy rêu xanh này.
“Chỉ cần mình tao mang đá về đây chắn những nỗi ưu phiền cay đắng của cuộc đời cho mày cũng được rồi Huỳnh ạ. Đừng chờ hậu thế vì hậu thế chỉ là sự lãng quên đời đời mà thôi.”
Trần đứng dậy tần ngần một lát, rồi cúi đầu bỏ đi, qua một khúc rẽ ra con đường lớn, chàng bắt gặp một người con gái từ con đường dưới suối đi ngược lại phía chàng, khi ngang qua, thiếu nữ nhìn chàng trong một thoáng, có vẻ do dự một giây rồi đi thẳng. Khi nàng qua khỏi, Trần vừa kịp nhận ra rằng nàng rất đẹp. Chàng có linh cảm thiếu nữ là Lan đã gặp Huỳnh trên mặt hồ ngày nào. Bất giác Trần quay lại nhìn, vừa vặn nàng cũng đang ngoảnh lại nhìn theo chàng. Khi thấy Trần quay lại, nàng vội quay đi khuất sau chỗ rẽ của con đường. Trần thẩn thờ bước đi, cảm thấy đôi mắt buồn rầu lặng lẽ của người con gái lạ đang theo dõi cõi lòng tan nát của mình.
Trần đi mãi, về phía trước mặt, và chàng biết mình đang đi đâu. Xế trưa, chiếc cầu bắt ngang qua giòng suối phía trên cánh rừng thôn Mai Lĩnh hiện ra trước mặt Trần. Từ xa, hình dáng chiếc cầu khiến tim chàng đập mạnh, trước kia trong những năm tháng ngược xuôi hoạt động, Trần đã đi qua chiếc cầu đó kể có hàng trăm lần. Thuở ấy chàng không hề lưu ý đến nó, gần như chàng không biết là có nó nữa. Thế mà bây giờ, càng đi đến gần nó, chàng càng xúc động đến nỗi bước đi không muốn vững, đôi mắt chàng nhòa lệ, ruột gan chàng bỗng thấy quặn đau khi bước chân lên thân cây tròn trơn bóng đã tuột hết lớp vỏ xù xì bên ngoài. Chàng vịn tay lên thân cây làm tay vịn bước ra giữa cầu, chàng đứng dừng lại đó, cúi nhìn giòng suối chảy nao nao bên dưới.
Ánh nắng lạnh lẽo lấp lánh trên mặt nước, giòng suối trong veo thấy rõ từng phiến đá, từng hòn cuội bên dưới, trong một hõm đá sâu vào lòng suối, có vài con cá nhỏ trắng bạc có tia sọc đen trên những cái vây tròn và to quá đỗi với hình thù của chúng đang cố gắng bơi ngược giòng nước, sự cố gắng phi thường đến nỗi Trần nhìn thấy tất cả bộ vây của chúng giương ra căng thẳng trong lúc thân hình của chúng vẫn đứng yên một chỗ bất động trong giòng nước, chỉ có những cái đuôi tỏa rộng uốn éo một cách kỳ khôi ở sau chúng. Cát hai bên bờ suối trắng phau, có dấu chân một vài loại thú rừng in trên nền cát dẫn đến những lùm bụi quanh đó. Không có loài hoa dại nào nở được trong mùa đông này cả, ngoài một bụi xương rồng mọc lên đột ngột bên cạnh đầu cầu phía trước, thân cây gồm những cái vảy to nối tiếp nhau, màu xanh thẫm, hình bầu dục, dẹp và dày dặn mọc tua tủa những chùm gai nhọn hoắc. Đó là một loại cây gai xấu xí gây một ấn tượng gớm ghiếc cho người nhìn, nhưng trên đỉnh một cái vảy ở trên hết, nở ra, như một phép lạ, một cái hoa tuyệt đẹp ngự trị một cách hồn nhiên, trong sáng với những cành hoa thon dài trắng trong như tuyết. Trần nhìn cái hoa to lớn, mạnh mẽ khoe hết những cánh hoa trắng ngần cùng nhị hoa vàng óng ả của mình một cách thong dong giữa trời mùa đông lạnh buốt, bên giòng suối oan nghiệt đã cuốn trôi đi người đàn bà yêu chàng đến hơi thở cuối cùng.
Đột ngột, chàng buông tay, thả mình rơi tòm xuống giòng suối, một tiếng ầm, nước bắn lên tung tóe, Trần thấy mình lóp ngóp đứng dậy giữa giòng, nước chỉ đến ngang bụng, chàng bị một vết xước của một viên đá nhọn quẹt vào, rướm máu. Tóc chàng, áo quần chàng, chiếc ba lô đeo trên vai chàng ướt lướt thướt, nước chảy xuống ròng ròng. Chàng đứng trong giòng nước lấp lánh nắng quái chiều hôm, đau thương chất ngất, gào thét át cả tiếng suối:
– Nước chỉ đến ngang bụng anh mà sao em lại chết? Hiếu, Hiếu, Hiếu ơi.
Chàng lội ra khỏi giòng suối oan khiên, thất thểu bước đi, con đường rừng thật vắng vẻ trong buổi chiều tháng chạp.
Trần đi mãi, về phía trước mặt, và chàng biết mình đang đi đâu.
Trời vừa sập tối, ra khỏi cánh rừng, Trần nhìn thấy ánh đèn hiu hắt rải rác trên những ngọn đồi bên kia thung lũng trước mặt. Thân thể chàng đã mỏi mòn, suốt từ sáng chàng chưa ăn một tí gì vào bụng.
Khi lội ra khỏi giòng suối chàng chỉ nghĩ một điều là đi, đi mãi cho chóng đến nơi này. Thế mà khi rẽ xuống con đường thấp thoáng bóng tre dẫn đến căn nhà khuất bên kia triền núi, chàng bỗng thấy lòng run rẩy, hoang tàn. Hiếu không còn đó, chắc chẳng có ai ở lại đó làm chi, chắc người ta mang hai bé Hiền, Hòa đi rồi, không còn ở đó nữa. Nhưng khi đi hết con đường mòn, ngẩng lên chàng sửng sốt, một nỗi vui thê thảm lướt qua tâm hồn chàng khi chàng nhìn thấy ánh lửa thấp thoáng sau liếp cửa trong căn nhà cũ.
Dù ai ở trong ấy mặc lòng, miễn là căn nhà còn ánh lửa, hình như không có gì thay đổi cả, hình như Hiếu vẫn còn trong đó, sau cánh cửa, để đợi chàng. Chàng chỉ cần lên tiếng gọi, là có bóng nàng hiện ra trên khung cửa, phía sau nàng tràn ngập ánh sáng của ngọn đèn ấm áp. Ý tưởng đó mãnh liệt như có sức thôi miên khiến chàng hồi hộp, chàng như mê đi trước cánh cửa, bỗng chàng la lên thật to:
– Em, em ơi, hãy mở cửa cho anh mau lên.
Trong nhà có tiếng xô động mạnh rồi có tiếng người la lên:
– Anh Trần, anh Trần về đấy à?
Liền đó liếp cửa được xô qua một bên, Trần bước vào vùng ánh sáng trống không đó, người như mê mụ hẳn đi, một bóng người bé nhỏ ôm choàng lấy chàng:
– Anh Trần, anh đã về, em mừng quá.
Trần cúi xuống:
– Quý đấy à, em ở đây làm gì thế?
Quý, vì chính đó là Quý, chú bé liên lạc viên của Trần hồi trước. Quá mừng rỡ và xúc động, chú ngây người nhìn Trần, không nói được nên lời. Trần đưa mắt mệt mỏi nhìn quanh, căn nhà không có gì thay đổi từ ngày chàng đi, dưới bếp vẫn có ánh lửa chập chờn sau tấm phên tre, có lẽ Hiếu đang nấu một thức ăn gì dưới đó. Chàng buột miệng hỏi Quý:
– Chị làm gì dưới đó hả em? Các cháu đâu?
Quý nhìn chàng sửng sờ lo ngại, nó lắp bắp:
– Các cháu đang ngủ trong buồng kia, còn chị, thế…thế anh chưa biết gì sao?
Trần chợt nhớ ra, chàng gật đầu quay đi, bỗng thấy xây xẩm cả mặt mày, chàng lảo đảo bước tới vài bước, ngồi phịch xuống chiếc giường gần đó, ôm mặt gục xuống. Quý hoang mang sợ hãi, nó rụt rè đến bên Trần, vụng về tháo chiếc ba lô dính chặt trên lưng Trần, nó nhận thấy ba lô, áo quần chàng có vẻ ẩm ướt, Quý cất ba lô sang một bên, đỡ Trần nằm xuống giường, lấy chăn đắp kín mình Trần.
Trần nhắm nghiền mắt, chàng để mặc Quý săn sóc cho mình. Chàng không thiếp đi, nhưng người chàng bồng bềnh như say sóng, tứ chi chàng rã rời. Chàng không muốn dậy nữa, không bao giờ muốn dậy nữa.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 2:58:55 GMT -6
CHƯƠNG XL
Đã khuya lắm rồi, người đàn bà già nua có vẻ mặt buồn bã quen quen mang một tô cháo bốc hơi nghi ngút lên để bên cạnh Trần rồi lặng lẽ đi xuống. Thấy Trần nhìn theo, Quý giải thích:
– Đó là bà Tư bán quán, cái quán bán xôi, bánh trái và nước chè ở dưới con đường đi lăng Minh Mạng đó, anh quên rồi à? Bà có người con trai đi bộ đội bị chết trận Phú Vang mấy tháng trước. Cái chết của người con trai độc nhất khiến bà ngã quỵ, đau một trận thừa sống thiếu chết, mà không có ai bà con thân thích gì cả.
Chị Hiếu mang bà về đây lo lắng thuốc men cho bà cả tháng trường bà mới dậy đi nổi đấy anh ạ. Từ khi lành mạnh bà đâm ra ngẩn ngơ ít nói, bà không đi đâu cả, ở lại đây quanh quẩn trông coi săn sóc hai bé Hiền Hòa trong khi chị Hiếu đi vắng. Hôm nghe tin chị mất bà khóc hoài, cái bàn thờ lập phía trong kia là do bà đấy anh ạ. Bà nói ở lại đây thắp một tuần hương cho chị rồi bà sẽ mang hai cháu Hiền Hòa về quán cũ của bà để mua bán qua ngày nuôi hai đứa bé.
Quý nhắc tô cháo lên nói với Trần như năn nỉ:
– Anh gắng dậy ăn một chút cháo cho nó đỡ mệt đi anh.
Đôi mắt van nài của Quý khiến chàng ngồi dậy, chàng múc thìa cháo đưa lên miệng đắng ngắt trong khi Quý nói tiếp:
– Bà Tư trìu mến hai đứa cháu lắm anh ạ, những lúc vui bà nói với em là cũng may mà có hai đứa bé nếu không chắc bà đã chết theo con trai bà rồi. Từ ngày anh bị bắt, tỉnh giao em về mặt trận đi liên lạc cho phòng Chính Trị, em đi theo chiến dịch ra tận Quảng Trị, phải đi luôn suốt tháng này sang tháng nọ cực lắm anh ạ. Vừa chấm dứt chiến dịch nên em được về lại đấy, em vừa về mấy hôm thì nghe tin chị mất. Mấy hôm nay em xin anh Đỗ, chỉ huy em, anh ấy tốt lắm, cho em về đây ngủ kẻo nhà buồn quá, không hiểu sao em cứ nghĩ là anh cũng sắp về. Ngày nào em cũng đi công tác cho đến tối mịt mới về, sinh hoạt đoàn thể xong mới qua đây được, ngày nào em cũng nghĩ là tối nay anh sẽ về. Em muốn đi thăm anh mà cứ bị giao công tác đi liên miên, thật buồn và nhớ anh vô cùng.
Những thìa cháo nóng làm cho Trần tỉnh táo lại dần dần, chàng chăm chú nghe Quý nói chuyện, chàng thấy Quý dạo này có vẻ người lớn chững chạc hơn trước nhiều. Quý nhìn chàng trìu mến xót xa:
– Anh gầy đi nhiều quá. Ở trong ấy cực lắm phải không anh? Em nghe nói phải ăn toàn cá mắm khô để quá lâu bị mục và thối phải không anh?
Trần khẽ lắc đầu, đôi mắt chàng mệt mỏi:
– Đừng nói đến chuyện đó nữa em. Nhắc đến những điều đó làm gì, anh muốn quên tất cả.
Quý nín lặng, nó muốn nói một chuyện gì đó, bất cứ chuyện gì, để cho căn nhà bớt lặng lẽ, nó có cảm giác như trong mỗi góc tối của căn nhà đều có một bóng ma đứng ủ rũ đang theo dõi mọi quang cảnh trong nhà. Cuối cùng nó không tìm ra chuyện gì để nói cả. Tất cả những câu nói nó đều cảm thấy không thích hợp. Trần đột ngột đánh tan sự yên lặng:
– Hai bé có biết mẹ nó mất không?
– Không anh ạ, người ta chôn cất chị dưới kia xong mới tin về đây. Em nghe bà Tư nói trong hai tuần chị bị mất tích chúng nó hỏi mẹ hoài, ban ngày chúng mải chơi, nhưng tối đến phải vất vả lắm bà Tư mới mang được chúng nó vào giường ngủ, chúng nó cứ đòi đứng trước cửa chờ mẹ về cho được. Người ta mới tin về cho biết cách đây hai hôm, cũng may lúc ấy chúng nó chơi ở sau đồi, khi về thấy bà Tư khóc lóc chúng nó kéo nhau đến dỗ bà, chả là bà ấy thỉnh thoảng lại khóc vì nhớ con, mỗi lần như thế bé Hiền lại dỗ bà bằng cách khóc theo bà mới nín. Em thấy quang cảnh ấy mấy hôm nay buồn quá anh ạ. Về đây lúc nào em cũng chỉ muốn khóc, em và bà Tư đồng ý với nhau đừng nói gì với các cháu cả, chỉ nói là mẹ bị kẹt ở đồng bằng vì Tây đi lùng dưới ấy nên có lẽ còn lâu mẹ mới về được.
Trần khẽ gật đầu:
– Ừ, như thế được đấy, để rồi anh sẽ liệu.
Chàng đặt tô cháo xuống:
– Anh ăn vừa rồi, em đi ngủ đi, mai còn đi công tác.
– Vâng, sáng mai em sẽ phải đi, nhưng gần đây thôi, em sẽ cố về thật sớm với anh, anh uống chén nước này đi, vâng, anh nằm xuống ngủ đi một tí, em cũng đi ngủ đây.
Trần thiếp đi trong khi Quý đang nói chuyện. Chàng tỉnh dậy vì có tiếng xì xào ngay bên cạnh chàng. Chàng nhắm mắt, nằm yên lắng nghe.
– Suỵt, – tiếng bé Hiền nói nho nhỏ, – mày nói to thế, chú Trần đâu có chết, chú đang ngủ đấy mà, mày nói to chú thức dậy bây giờ.
– Không, chú Trần chết đấy mà, mẹ nói ở tù dễ bị chết lắm, mẹ nói với bà Tư như thế, mà chú Trần ở tù mà, mẹ bảo thế Hiền không nhớ à?
– Mày không thấy chú thở à?
– Thở thì thở chứ.
Giọng bé Hiền chợt buồn xỉu:
– Không, không, tao thương chú Trần, tao không muốn chú Trần chết.
Lòng rưng rưng xúc động, Trần vụt mở mắt ra, bé Hiền reo lên:
– Đấy, Hiền nói đúng chưa, chú Trần thức dậy rồi đó, chú Trần đâu có chết.
Trần ngồi dậy ôm hai đứa bé vào lòng, hai tấm thân bé nhỏ cựa quậy trong ngực chàng mang lại cho chàng một niềm vui nhẹ nhàng mà từ lâu chàng không hề biết tới. Bên ngoài ánh nắng dịu dàng trải lên một vùng đồi núi, một ngày lại bắt đầu, hơi núi vẫn lạnh căm căm.
Hiền ngước lên, nó mở to đôi mắt sáng trong nhìn Trần:
– Thằng Hòa nó ngu lắm chú ạ, chú ngủ mà nó cứ bảo là chú chết rồi.
Trần cười nhẹ, cúi hôn lên mắt bé:
– Hòa không ngu đâu, nó nói đúng đấy, chú chết rồi và chú vừa mới sống lại đấy chứ.
Hiền vẫn chưa chịu:
– Chết rồi làm sao mà sống lại được hả chú?
– Có chứ, vì bé Hiền thương chú, Hiền không muốn chú chết thì chú phải sống lại chứ. Có phải không nào?
– Vậy hả chú? Vậy thì Hiền thương chú, và thương tất cả mọi người, Hiền không muốn ai chết cả chú ạ.
– Ừ, cháu của chú giỏi lắm, hai đứa đã ăn sáng chưa nào?
– Thưa chú chưa, sao chú đi ở tù lâu thế hả chú?
Bé Hòa chả chớt hỏi theo bé Hiền:
– Ở tù vui lắm hả chú? Sao chú ở lâu thế chú?
Trần gật đầu:
– Ừ, ở tù vui, nhưng nhớ các cháu quá chú phải về, các cháu thấy chú đi lâu lắm rồi hả?
Hiền ngây thơ đáp:
– Vâng, chú đi lâu quá, mẹ cũng thế, mẹ đi lâu quá, chú Quý nói Tây đi lùng trên núi nên mẹ chưa về được, bao giờ mẹ về hả chú?
Trần điếng người trong giây lát, nỗi đau đớn lại cựa mình trong tâm can, chàng đặt hai đứa bé ngồi xuống giường, xoay người ngồi đối diện với chúng, giọng chàng trở nên nghiêm trang:
– Ấy, chú vừa gặp mẹ cháu ở dưới đồng bằng, mẹ chưa về được, Tây nó chận mất đường nên mẹ không về đây được nữa, mẹ nhờ chú về đây mang các cháu gởi về nhà chú ở Huế, chờ khi nào yên thì mẹ sẽ về Huế thăm các cháu. Các cháu muốn về ở nhà chú ở Huế chờ mẹ về không?
Bé Hiền ngơ ngác:
– Sao mẹ về đây không được mà về nhà chú được hả chú?
– Thì thằng Tây nó chặn đường về đây rồi, nó có súng nhiều lắm, ai đi qua là nó bắn ngay, cháu có sợ mẹ bị chúng nó bắn chết không?
Cả hai đứa bé xanh mặt, chúng lắc đầu quầy quậy:
– Không đâu, không đâu.
– Vậy các cháu có bằng lòng về ở nhà chú để chờ mẹ về không?
– Nhà chú ở đâu? – bé Hiền hỏi.
– Nhà chú ở Huế.
Hiền ngẫm nghĩ, dáng vẻ quan trọng:
– Mẹ bảo thằng Tây ở Huế nhiều lắm, ai ở đó là làm nô lệ cho Tây, vậy cháu về đó có làm nô lệ không chú?
Trần cũng tỏ vẻ quan trọng không kém:
– Chính mẹ bảo chú về đây mang các cháu về nhà chú mà. Nhà chú làm gì có thằng Tây mà cháu phải làm nô lệ.
– Thế nhà chú có ai? – bé Hòa ngây ngô hỏi.
– Nhà chú có mẹ của chú, các cháu sẽ gọi là bà. Bà thương các cháu lắm, sẽ cho các cháu ăn quà cả ngày, ngoài ra có hai chị Thể My và chị Thương là cháu của chú nữa. Các chị ấy sẽ chơi với các cháu, bắt dế cho Hòa này, hái hoa cho Hiền này, bày cho Hiền chơi nhảy dây, chơi đánh thẻ, chơi đủ thứ này, vui lắm kia cháu ạ.
Bé Hiền ngẩn người:
– Thế thì vui thật đấy chú nhỉ.
Hòa xịu mặt:
– Không, Hòa thích ở đây thôi, Hòa ở đây chờ mẹ về thôi.
Trần làm bộ không chú ý, cứ kể tiếp:
– Nhà chú có một con chó cao bằng này này, nó sẽ chơi trái banh với Hòa cả ngày, như thế này nhé, Hòa cầm trái banh tung lên trời tức thì con chó nhảy lên đớp lấy ngậm chặt trong miệng ngay, Hòa phải năn nỉ xin nó, nó mới nhả trái banh ra trả lại cho Hòa.
– Hòa không thèm xin nó đâu, Hòa bắt nó phải trả trái banh lại cho Hòa, trái banh của Hòa chứ có phải của nó đâu. Bao giờ thì Hòa có trái banh hả chú?
Mắt Trần sáng lên:
– Ồ, ở nhà chú thì thiếu gì trái banh, muốn bao nhiêu cũng có hết.
Bé Hòa thấy đã xiêu xiêu:
– Vậy mẹ có về nhà chú không hả chú?
– Chắc chắn là mẹ phải về nhà chú chứ, vì mẹ dặn mang các cháu về đó mà.
Bà Tư, tự nãy giờ đứng gần đó, ẩn sau một tấm phên tre, chợt lên tiếng, giọng bà thật buồn:
– Anh tính như vậy cũng phải, tôi nghĩ chắc chị ấy cũng muốn như vậy lắm.
Trần giật mình vì câu nói xen vào đột ngột của bà Tư, chàng quay lại:
– À, bác Tư đó hả, mời bác vào đây.
Trần cúi hôn hai đứa bé:
– Bây giờ hai cháu ra ngoài chơi cho chú nói chuyện với bà Tư một lát nhé.
Hai đứa bé ngoan ngoãn vâng lời, kéo nhau ra ngoài sân.
Bà Tư chậm chạp bước vào, đứng gần chiếc bàn bên cạnh giường, Trần chỉ chiếc ghế:
– Bác ngồi xuống đây, vâng tôi đang định gặp bác để bàn chuyện này với bác. Tôi về đêm qua mệt quá mê đi, sau có nghe Quý nói chuyện về bác. Tôi còn nhiều việc phải làm, việc trước tiên là đi về làng Nguyệt thăm mộ Hiếu. Trước khi đi, tôi muốn thu xếp nhờ bác mang hai cháu về ở với mẹ tôi dưới Huế. Tôi được biết bác thương hai cháu và có lòng muốn mang hai cháu về buôn bán nuôi chúng nữa. Tôi rất cảm kích tấm lòng quý hóa của bác. Nhưng tôi nghĩ bác đã già mà các cháu còn bé quá, chắc chắn là bác không đủ thì giờ nuôi nấng chúng nó cho đến khi khôn lớn, vả lại chúng nó cũng đã đến tuổi phải đến trường, ở vùng ngoài này thì không thể lo cho chúng đến trường học được, nuôi cho chúng nó lớn là quý rồi. Theo tôi được biết thì bác rất thương mẹ chúng và muốn luôn luôn có chúng ở gần cho vui tuổi già. Vậy tôi xin bác giúp tôi mang các cháu về Huế ở với mẹ tôi, mẹ tôi cũng già lắm rồi, có bác bầu bạn chắc cũng vui và đỡ nhớ tôi, có hai đứa bé cũng vui cửa vui nhà. Bác nghĩ sao?
Bà Tư nãy giờ chắp tay trên gối lặng yên cúi đầu nghe Trần nói, đôi mắt bà nhìn xuống, yếu ớt mờ đục, khuôn mặt nhăn nheo của bà sầu thảm mệt nhọc. Khi Trần nói dứt, bà vẫn yên lặng ngẫm nghĩ, giây lâu bà mới ngẩng lên:
– Tôi cũng định thắp hết tuần hương cho chị ấy rồi mang hai cháu bé về Huế, ở đó tôi có người bà con, tôi và hai cháu có thể tá túc ở đó, tôi sẽ buôn bán rau cải, để nuôi chúng nó và cho chúng đi học, chứ ở đây không yên ổn gì để nuôi những đứa bé. Trước kia tôi ở đây là vì thằng con tôi đi bộ đội, phải có nơi để nó đi về mẹ con có nhau. Nhưng bây giờ nó đã chết, nó đã bỏ tôi rồi, tôi những tưởng chết theo nó, chị ấy đã hết lòng cứu tôi và cũng may mà có hai đứa bé. Bây giờ anh đã về đây, anh tính vậy cũng phải, tôi không đi theo hai đứa bé thì tôi biết theo ai bây giờ. Tôi sẽ mang hai cháu về nhà anh theo ý anh muốn, nếu cụ dưới nhà vui lòng nhận chúng nó thì hay, nếu không tôi sẽ nuôi chúng, dù sao ở với tôi thì chúng nó sẽ không sung sướng bằng được cụ nhà chấp nhận. Còn về phần tôi thì không sao, nếu cụ để tôi ở lại giúp đỡ cụ và gần hai cháu thì tôi ở lại, bằng không thì tôi phải về nhà bà con buôn bán thỉnh thoảng tôi ghé lại thăm chúng nó cũng được.
Mặt Trần tươi lên, chàng không ngờ được bà Tư nhận lời ngay như thế, chàng mừng rỡ:
– Được thế thì không còn gì bằng, tôi thật không biết nói sao để cảm tạ tấm lòng của bác đối với chúng tôi và các cháu. Có điều xin bác đừng ngại rằng mẹ tôi có chấp nhận hay không. Tôi tin rằng mẹ tôi sẽ rất vui mừng được có bác và hai cháu bé bên cạnh. Mẹ tôi chỉ có mình tôi là con trai và chìu tôi rất mực, cụ sẽ sung sướng làm theo ý tôi.
Bà Tư nhìn xuống, nét mặt âu sầu, bà nói khẽ:
– Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy, – bà đứng dậy – tôi xuống xem nồi khoai chín chưa mang lên cho anh ăn sáng, chị ấy thường bảo anh thích ăn khoai nấu với nước dưa cải lắm, tôi đang nấu đấy.
Bà lão quay đi, không để ý câu nói của bà làm cho Trần chết lặng, chàng ngẩn ngơ nhìn quanh căn nhà đã chứng kiến biết bao ngày hạnh phúc lẫn đắng cay, biết bao vị mặn chát của nước mắt đã thấm trong không gian này cùng hương vị nồng say của một mối tình đã vượt ra ngoài bao nhiêu hệ lụy của thế gian.
Trần thẩn thờ bước ra sân, nắng đã lên cao, cây sầu đông bên hè nhà đã trút hết lá, nắng thật mỏng trên những cành cây trơ trụi, hai đứa bé đang lúi húi chơi bên hiên nhà. Chàng lại gần:
– Mộ con chim sẻ của cháu ở đây phải không?
– Không phải chú ạ.
Trần ngạc nhiên:
– Ơ, hồi đó chú thấy cháu làm đám ma cho con chim sẻ ở đây mà.
– Vâng, nhưng mẹ mang đi chỗ khác rồi.
– Sao mẹ lại mang đi chỗ khác?
– Tại cháu đấy chú ạ, chả là chôn chim được mấy ngày cháu nhớ quá, cháu đào lên để thăm, khi đào lên cháu lòn tay dưới bụng chim bế nó lên thì cháu thấy nó động đậy dưới tay cháu, cháu mừng quá tưởng nó sống lại vội mang vào khoe với mẹ. Mẹ hét lên, bảo cháu buông ra, cháu vội buông chim ra đặt giữa đất, nó ngã lăn ra, mẹ chỉ cho cháu xem cái bụng nó đầy cả sâu chú ạ, sâu nó nhúc nhích dưới tay cháu chứ không phải chim sống lại, sâu bọ nó khoét cả bụng chim mà ăn vậy đó. Mẹ khóc bắt cháu đi rửa tay thật kỹ rồi mẹ gói chim lại mang đi chôn thật xa. Cháu không biết ở đâu nữa. Tội quá chú ạ, ở trên này thì bị chim khác nó đánh cho, xuống đất thì bị sâu bọ nó ăn, buồn qua chú nhỉ.
Trần thấy tim mình nhói lên, câu nói ngây thơ của bé Hiền như khơi sâu vết thương trong ngực của chàng. Chàng cúi xuống xòe rộng hai bàn tay, ngắm nghía một cách lạ lùng như ngắm những vật không hề liên hệ gì đến mình cả.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 3:03:50 GMT -6
CHƯƠNG XLI
Bà Tư và hai bé Hiền Hòa đã về Huế, Trần vui mừng thấy mọi việc đều trôi chảy như chàng mong muốn, Quý mang tin về cho chàng biết, người đưa đường đã trở về cho biết mẹ Trần đã bằng lòng nhận nuôi hai đứa bé và lưu bà Tư ở lại với bà.
Trước khi rời căn nhà của Hiếu để đi về đồng bằng, Trần dặn dò Quý:
– Thỉnh thoảng em tạt qua đây một tí nhé, anh về thăm mộ chị rồi anh trở lại đây làm rẫy sống qua ngày.
Quý buồn rầu lo ngại:
– Anh cẩn thận nhé, mộ chị ở gần đồn Tây, nguy hiểm lắm, em lo quá anh ạ.
Trần lắc đầu:
– Không sao đâu em, em quên rằng vùng đó anh em mình từng qua lại hằng ngày hồi chiến dịch năm ngoái à. Anh thuộc từng đường đi nước bước, em lo nỗi gì. Thôi anh đi nhé, em ở lại đó, anh sẽ về.
Quý ủ rũ nhìn Trần đi xa dần, tâm hồn non nớt của nó vẫn không thể hiểu tại sao nó vẫn yêu mến Trần tha thiết, mặc cho những giờ học tập, nó được cán bộ dạy dỗ cho biết rằng Trần là một tên phản động, một kẻ thù nguy hiểm cho nhân dân, một kẻ phá hoại cách mạng, nó vẫn cảm thấy một tình cảm chan hòa tươi mát tâm hồn bé dại của nó mỗi khi nó được ở bên cạnh Trần. Không một ai, từ ngày nó thơ ngây đi vào kháng chiến đã cho nó thực sự niềm thương yêu và tin cậy đến thế.
Chiều ba mươi Tết.
Trần đi ngược chiều gió lạnh căm căm dưới bóng tre trên con đường làng Thế Thượng để lên làng trên thăm một người bạn tên Đỉnh từ Việt Bắc mới vào thì gặp Huyên đang đi với một người bạn gái tên Loan, Trần cũng có quen biết cô ta trước đây.
Huyên mừng rỡ rối rít khi gặp Trần:
– Trời ơi, anh Trần đây mà, anh được về rồi đấy à, anh về bao giờ thế?
Trần cảm thấy niềm vui bất chợt dâng lên như đón bắt cả một khung trời thoáng gió khi nhìn đôi mắt mở rộng mênh mông, cuốn hút của Huyên. Vẫn mái tóc dài, chiếc áo màu nâu, dáng gầy cao vượt hẳn Loan có tầm vóc bé nhỏ đi bên cạnh. Đột nhiên, chàng thấy mình rơi về một thế giới khác hẳn hiện tại, bao đau thương như chưa vướng bận đến chàng, chàng nhìn thấy trong đôi mắt trong sáng tuyệt vời của Huyên, in hình giòng sông Hương trải dài vô tận, chàng nhìn thấy bến đò Thừa Phủ thấp thoáng những bóng người phủ lên mình từng giọt nắng mai, chàng nhìn thấy tòa thành cổ, đền đài lăng miếu rêu phong trong mù sương bên cạnh giòng sông vàng óng, trên hết những cái đó, nổi bật lên giữa giòng sông, giữa bến đò mai, trùm lấp cả tòa thành cổ, là bóng người yêu xưa tóc dài áo trắng thầm lặng xa vời trên chuyến đò ngang. Niềm yêu của chàng suốt buổi thanh xuân, người yêu chưa một lần biết tên, chưa một lời thăm hỏi, như biểu tượng của cõi nguồn giải thoát thần tiên. Trần như một đãng tử đi hoang một đời, tình cờ gót phiêu bồng đưa chàng ngang qua khung trời cũ, bắt gặp cái hoang sơ trên dấu chân xưa chưa rỗ gót phong trần.
Tiếng nói của Huyên trong trẻo vang lên như thoát bay qua một chiều gió lộng:
– Bây giờ anh đi đâu đây, cho chúng em đi theo với.
Trần đáp những câu hỏi dồn dập của Huyên với một nỗi hân hoan thư thái:
– Anh ra khỏi nhà giam từ tuần trước, anh về đây tối hôm qua. Bây giờ anh đi lên làng trên thăm một người bạn, anh định qua cái tối ba mươi Tết này với Đỉnh, bạn anh và vị hôn thê của anh ấy cũng vừa ở Huế về thăm Đỉnh.
Loan tiếp lời Trần:
– Vâng, em có nghe nói về anh chị ấy, chị Hương là vị hôn thê của anh Đỉnh từ mười năm nay, vừa làm lễ hứa hôn thì anh ấy đi hoạt động chống Pháp từ thời kỳ bí mật. Chị ấy vẫn chờ đợi từ mười năm cho đến bây giờ. Anh ấy vừa từ Việt Bắc vào nhắn tin cho chị ấy về thăm đấy.
Huyên ngẩn người, thích thú:
– Tuyệt thật, chuyện đẹp hơn thơ đấy nhỉ.
Trần đột nhiên nhăn mặt:
– Em nói đúng, thơ văn thì ra cái quái gì, chả sánh được gì trong đời này cả.
Huyên cười trong vắt, hồn nhiên:
– Vâng, bằng chứng là nó làm cho các anh đi tù rồi đấy thôi, phải không anh? Nhưng anh đã về, đó là chuyện đáng nói.
Trần nhận xét:
– Hai cô đi đâu mà chiều ba mươi Tết còn lang thang như thế này?
Khuôn mặt rạng rỡ của Huyên xịu xuống, nàng phân trần:
– Anh nghĩ xem, chiều ba mươi Tết ở nhà trọ thấy mọi người trong gia đình sửa soạn Tết, em buồn và nhớ nhà quá nên đi lang thang ra ngoài, tình cờ gặp Loan cũng tâm trạng như em vậy, hai đứa họp nhau thành một cặp lang thang, bây giờ lại gặp anh, vị chi là ba kẻ lang thang.
Trần đề nghị:
– Hay lắm, vậy thì ba anh em mình cùng kéo nhau đến thăm vợ chồng Đỉnh một thể, để nhìn cuộc tái ngộ của họ mà mình vui lây một chút hạnh phúc của kẻ khác vậy.
Huyên chợt nhớ ra, nàng nhìn Trần e ngại, tự nãy giờ mãi mừng Trần được phóng thích Huyên quên nghĩ đến cái chết của Hiếu và Huỳnh. Nàng cảm thấy một nỗi xót xa đau đớn trong câu nói làm ra vẻ thản nhiên của Trần, đằng sau khuôn mặt thoáng một niềm vui xanh xao khắc khoải ấy.
Huyên và Loan cùng gật đầu đồng ý:
– Vâng, chúng em sẽ đi với anh đến đó cho biết mặt anh chị ấy cho vui.
Ba người rẽ qua một đường ruộng đi ra con đường cái quan chạy thẳng tắp giữa cánh đồng mùa đông có chút nắng chiều vàng vọt hắt xuống hai bên bờ cỏ một màu vàng héo úa. Cánh đồng chạy dài ra tận bờ sông, gió từ đó heo hút thổi vào làm mặt ba người tái đi vì lạnh. Bên kia sông là cánh đồng làng Nguyệt. Trần trỏ tay về phía đó:
– Tối nay anh sẽ bơi qua đó thăm mộ chị và con anh.
Huyên và Loan nhìn nhau, cả hai đều thấy mình quá nhỏ bé trước một nỗi đau thương mà họ đều biết rằng quá to lớn đến nỗi họ không biết nói sao cho phải trong khi đó. Huyên nhìn theo hướng Trần trỏ, nàng chỉ thấy cánh đồng tháng chạp mênh mông ngập nước, xa hơn nữa là làng mạc sẫm màu trong bóng chiều loang lổ những bóng mây xấu xí dị hình. Trong một lùm cây nhô ra giữa cánh đồng, Huyên nhìn thấy ngọn cờ tam tài của đồn Tây làng Nguyệt bay phất phới trên đỉnh cột cờ và tháp canh đen ngòm bên dưới. Cảnh tượng đó vẫn thường cho Huyên một cảm giác lạ lùng khó hiểu mỗi khi Huyên đi bên con đường làng Thế Thượng nhìn sang, nó gợi cho nàng một sự phi lý nổi lên giữa mây gió vô tư ngàn năm dàn trải. Luôn luôn mỗi khi đứng bên này hữu ngạn nhìn sang ngọn cờ địch mang dấu hiệu của một giống người phương Tây bay trên thôn xóm Việt Nam, Huyên không khỏi so sánh sự nghịch lý giữa những bước chân của loài người đi tìm hạnh phúc với ngọn cờ ba màu bay phơ phất một cách cô đơn lạc lõng kia. Ngọn cờ nào cũng tự biết mình là linh hồn, là biểu tượng cho một xứ sở đất đai nào đó, nhưng ở đây, giữa không gian này, nó không là gì cả, giữa những lũy tre xanh lam này, giữa cánh đồng làng ngập nước nghi ngút khói sương này, nó trỗi lên như một phím đàn lạc điệu, cung bậc dở dang.
Nhìn ngọn cờ, nghe Trần nói, chợt Huyên cảm thấy một nỗi lo sợ không thành hình dạng nào cả, nàng nói, thấy khó chịu vì sự vắn tắt của câu nói:
– Bên ấy là đồn Tây làng Nguyệt.
Trần cười:
– Anh biết, nhưng khuya anh mới bơi qua sông kia mà, huống chi anh rất thuộc lòng đường sá ở vùng này. Dù sao, đêm nay anh cũng phải đến với chị, anh không thể để chị một mình lạnh lẽo trong đêm giao thừa được. Chị đã khổ sở suốt đời rồi, từ ngày yêu anh lại càng khổ sở gấp trăm lần.
Huyên và Loan lại nhìn nhau, cả hai đều lo sợ, nhưng không ai có thể nói được gì. Trần bước đều trên đường, tầm mắt của chàng như bị thu hút về phía cánh đồng bên kia sông, chàng cười khẩy chua xót:
– Khi người ta sống người ta may áo cho mình, bây giờ người ta chết mình không thắp được cho người ta một nén hương.
Huyên rụt rè hỏi, mong kéo Trần ra khỏi cơn sầu khổ:
– Anh Huỳnh mất cách đây bao lâu hở anh?
Hỏi xong Huyên mới kịp nhận ra mình lỡ lời, Loan cũng nhận thấy thế nên nàng khẽ huých tay Huyên một cái.
Trần quay lại vừa kịp nhận thấy sự bối rối thảm thương trên gương mặt hai thiếu nữ, chàng hiểu và cảm động, bật cười:
– À, Huỳnh hả, để anh kể chuyện Huỳnh cho mà nghe, nó chết vì bệnh đau tim của nó. Ở trại giam thỉnh thoảng nửa đêm người ta cho gọi nó dậy mang lên văn phòng bắt nó ngồi một mình với ngọn đèn dầu để tự kiểm thảo tư tưởng đến gần sáng mới cho trở về lều giam. Huyên còn lạ gì trí tưởng tượng của nó, mỗi lần bị gọi đi giữa đêm khuya là người nó xám xanh, run lên bần bật, lần nào nó cũng nghĩ rằng đó là lần quyết định, người ta sắp mang nó đi giết. Cho đến một đêm khi người ta vừa đập cửa gọi nó đi thì tim nó từ chối không thèm đập nữa. Trái tim của nó không chịu theo kịp sức tưởng tượng của nó, trái tim nó muốn nghỉ ngơi cho nhàn nhã một chút, biết làm sao được.
Trần lại cười:
– Trái tim nó cũng lười biếng y hệt như nó vậy.
Huyên buồn rầu nhắc lại:
– Vâng, anh Huỳnh lười có tiếng đấy anh nhỉ.
Trần cười to:
– Còn phải nói, để anh kể chuyện này cho nghe, có một đêm, nó gọi anh dậy, nó bảo nó muốn đi tiểu, anh gắt bảo nó đi đến chỗ tiểu ra ngoài mà đi đi, xong anh ngủ lại, đang lơ mơ thì nghe tiếng gì rơi đánh bịch một cái, kế đó là Huỳnh nó kéo chăn anh vừa xuýt xoa “lạnh quá, cho tao đắp chung chăn với mày,” anh bực mình gắt hỏi “thế chăn của mày đâu,” thì nó bảo lạnh quá nó không thể bước ra khỏi giường được nên nó đi tiểu trong chăn nó luôn, nó bảo để mai nó giặt, em có biết ngày mai nó giặt cái chăn bằng cách nào không?
Huyên và Loan không ai nhịn được cười, tiếng cười của họ làm ấm lại không khí lạnh ngắt của buổi chiều đông.
– Nó mang chăn ra phơi trên một cái sào, nó lấy cái cây đập đập mấy cái lên cái chăn, thế là xong. Báo hại anh phải đích thân mang ra suối giặt cho nó. Thôi, bây giờ nó đã hết hệ lụy vì những cái lặt vặt ấy nữa rồi.
Trần quay lại Huyên và Loan:
– Nãy giờ anh kể chuyện nhiều rồi, chuyện anh buồn lắm, bây giờ hãy nói chuyện về Huyên và Loan đi. Em sắp đi đâu phải không Huyên?
– Vâng, em sắp vào Khu Năm để theo học một nghề chuyên môn, như nghề thuốc chẳng hạn.
– Đó là một điều hay, nhưng em có thấy đường đi nguy hiểm và xa quá không?
– Ở lại cũng không hơn gì anh ạ. Anh biết rồi đấy, loại con gái nhà khá giả như em ở lại quê mình không có chỗ dung thân, bị ghép vào thành phần cả mà anh.
Loan cũng vậy, tuy hoàn cảnh có khác hơn em. Loan vừa bị biên chế ra khỏi cơ quan của Loan đang làm việc, bây giờ chưa biết về đâu, gia đình thì ở vùng địch, không muốn và cũng không dám về.
Trần thấy mình lại chạm phải một nỗi bất lực lớn lao, nó làm cho tim óc chàng nhức nhối, chàng cố gắng khỏa lấp, quay lại Huyên, vẻ điềm đạm:
– Sao em không nghĩ đến chuyện trở về với gia đình em ở trong thành phố? Em là con gái, về với gia đình là phải.
Huyên buồn rầu:
– Vâng, thì các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã về hết rồi đấy. Nhưng em chắc họ đang khổ tâm lắm.
Trần ngẫm nghĩ câu Huyên nói, Huyên có lý, làm sao mà vui cho được.
Những người ra đi đã trở về với gia đình, với cánh én bị bão đánh rơi xuống đất không còn mong bay cao trên nền trời xanh quê hương nữa, với tâm hồn bị thương, với thân tàn ma dại, tuổi trẻ của họ vẫn còn, nhưng tình đời đã khép kín. Thân thể hao mòn kia còn có ngày bình phục, nhưng trái tim thanh xuân không bao giờ còn đập lại nhịp điệu hoang dã trong sáng của những tháng năm kiêu hùng nguyên vẹn xa xưa.
Thảng hoặc gặp lại nhau, họ nhìn nhau cười lặng lẽ, thời gian có lẽ còn quá mới mẻ chưa đủ cho họ nhắc nhớ với nhau những kỷ niệm. Mặc cảm của sự bỏ cuộc khiến cho họ ngượng ngập khi nhìn lại mặt nhau, bởi vì người nọ như một tấm gương trung thực phản chiếu khuôn mặt định mệnh khốn đốn của người kia; họ hờ hững nhìn nhau, rồi quay đi như người xa lạ. Như chưa bao giờ họ đã từng chia nhau từng miếng ăn kham khổ, như chưa bao giờ họ từng nằm sát bên nhau tìm hơi ấm trong những đêm dài mùa đông rét buốt. Họ đã quá mệt mỏi, họ muốn quên đi có lần họ đã cùng chung hoài bão, đã cùng hát chung một bản đồng ca.
Giữa họ từ nay, đường ai nấy đi, nhà ai nấy ở, cuộc sống hạn hẹp thu gọn trong những chu kỳ buồn nản cố định, thích nghi với xã hội họ đang sống. Nhưng Trần tin rằng, cũng như chàng bây giờ, từ cõi sâu thẳm của tâm hồn, những gợn sóng ưu tư sẽ mãi mãi nhắc nhở họ niềm tiếc thương một mùa lý tưởng đã đi qua, chỉ còn lại những cơn ác mộng triền miên trong những đêm dài vô cùng vô tận.
Thôi thế cũng xong, Trần thở phào, cố ngăn giữ cho niềm vui mong manh vừa nhóm khỏi chóng tàn lụi trong tâm hồn. Chàng lại cười lớn:
– Thôi hay là anh đề nghị như thế này, anh em mình chung nhau mở một cái quán, chia ra làm hai gian, một bên hai cô bán bún bò Huế, còn một bên kia thì anh hớt tóc. Anh nghĩ đó là cách tốt nhất cho những người đi kháng chiến bị bỏ rơi như chúng mình. Hai cô nghĩ sao?
Loan cười buồn trong khi Huyên vui vẻ tán đồng:
– Chuyện có vẻ thú vị đấy anh ạ. Anh mà hớt tóc thì tuyệt quá còn gì, em nghe đâu Phạm Duy ở ngoài Liên khu Tư cũng bán phở đấy anh ạ.
Trần nhìn vẻ thích thú rạng ngời trong đôi mắt đẹp lạ lùng của Huyên, chàng cảm thấy lòng thanh thản lâng lâng một cách không ngờ, chàng chỉ tay về xóm nhà trước mặt:
– Đấy, nhà anh Đỉnh, bạn anh ở đấy.
Tuy là bạn Trần nhưng Đỉnh đã lớn tuổi, anh ta trạc ngoài bốn mươi, người cao gầy, khuôn mặt xương xương, đôi mắt sâu, vẻ người khô khan. Hương, vị hôn thê của Đỉnh cũng ngoài ba mươi, dáng người đài các, mảnh mai, khuôn mặt nàng làm Huyên nhớ lại câu thơ của Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn mấy hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”
Huyên thầm nghĩ:
– Phải có khuôn mặt chữ điền như thế kia mới yêu thương chung thủy đến như vậy được.
Huyên bật cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình trong khi quan sát vẻ dịu hiền của chị Hương. Hương mang ra đủ thứ, nào mứt, bánh, nem chả tự tay nàng làm ở Huế mang ra. Huyên và Loan mê đi trước những miếng kim quất xanh biếc, mứt cam vàng tươi, mứt me trong veo, mứt gừng trắng muốt, những chiếc bánh đẹp đẽ, những miếng chả thơm lựng. Hai cô gái còn trẻ quá, lâu rồi họ không được thấy những bánh mứt như vậy, những thứ đó đối với miền kháng chiến như những hình ảnh lộng lẫy xa xôi trong thần thoại. Được sự khuyến khích của Hương, Huyên và Loan say mê tận hưởng mùi vị của những món quà ngày Tết đó. Huyên nghe tiếng Đỉnh bùi ngùi nói với Trần:
– Tôi vào đây mới nghe tin Huỳnh mất, tôi thật buồn và tiếc vô cùng.
Trần chua chát:
– Thế anh không nghĩ sao thằng Huỳnh chết đi mà thằng Trần còn sống đó làm gì à?
Huyên quay lại, thấy Đỉnh lắc đầu bất mãn, phân trần:
– Đừng, đừng, đừng nghĩ vậy về tôi chứ.
Trần cười lớn:
– Anh đừng quýnh lên như thế, lâu lắm tôi không có dịp nói đùa, nếu tôi nghĩ vậy thì đâu có tìm anh làm gì.
Đỉnh có giọng nói mau mắn gần như nói lắp:
– Phải rồi, phải rồi, phải như vậy chứ. Tất cả ở lại đây dùng cơm với chúng tôi luôn nhé.
– Vâng, vâng, tôi đang định xin ở lại với anh chị tối nay cho đến giao thừa mới đi cơ mà.
Đỉnh trợn mắt:
– Giao thừa rồi còn đi đâu?
Trần cười lặng lẽ:
– Đi thăm một người, đúng hơn là đi chúc Tết một người thân.
Đỉnh gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết:
– Cậu cũng chịu khó với chuyện Tết nhất đấy nhỉ.
– Vâng, lẽ sống bây giờ có lẽ chỉ còn vậy.
Giọng Trần xa xôi thoảng đến tai Huyên đang chăm chú nhấm nháp một miếng mứt gừng. Huyên quay lại khi nghe tiếng Trần gọi:
– Huyên này, năm ngoái cũng chiều ba mươi Tết như thế này, anh về nhà cô anh ở thôn Nhất, tối như thế này anh ngồi nói chuyện với cô anh và hai cô cháu gái như em và Loan bây giờ vậy.
Chị Hương dịu dàng nói:
– Cách đây chừng một tháng, tôi có đến thăm bác, gặp Thương và Thể My, cả nhà đều nhắc đến anh, không ai biết anh bị giam ở ngoài này, tôi cũng thế, ra đây mới biết. Bác khóc khi nhắc đến anh. Thương năm nay lớn hẳn, hoa khôi Đồng Khánh đấy, nhưng cũng nổi tiếng là lạnh lùng khép kín, không hề để ý đến những người theo đuổi mình.
Nói đến đấy chị Hương mỉm cười ý nhị nhìn Trần:
– Chắc điều đó thì chỉ mình anh Trần hiểu là tại sao thôi.
Trần buồn rầu:
– Đó là do lỗi tại mẹ tôi gieo vào trí óc non nớt của Thương những điều như vậy. Mẹ tôi muốn tôi và Thương sẽ thành thân sau này. Nhưng chị thấy đó, lẽ nào tôi lại mang cuộc đời rách nát của tôi làm u ám tương lai của một người con gái trong trắng hồn nhiên thế kia. Một người đàn bà thuần hậu đã chết vì tôi không đủ rồi sao.
Hương toan nói nhưng Đỉnh đưa mắt nhìn khiến nàng không nói nữa, nàng cười gượng đưa tay xếp lại mấy dĩa mứt trên bàn.
Trần lại hỏi:
– Con bé Thể My chắc cao lắm chị nhỉ, cao hơn Thương chứ gì?
Hương ngẩng đầu vui vẻ:
– Vâng, cô ấy cao lớn lắm và vẫn liến thoắng đùa nghịch như trẻ con, cô thấy bà ngoại khóc, cô ấy bảo bà đừng có khóc, cậu Trần không bằng lòng đâu, cậu sắp về rồi đấy, chiến thắng đến nơi rồi, Tây nó sắp rút về nước hết, mình sửa soạn treo cờ kết hoa đón cậu Trần về thì vừa đấy bà ạ.
Hương chợt im bặt vì Trần cười cay đắng, chàng đưa tay vuốt mặt vẻ mệt mỏi. Không khí yên lặng nặng nề. Hương lặng lẽ rút lui xuống dưới nhà để làm cơm.
Tối ba mươi Tết qua đi khá đầm ấm, mọi người ngồi sưởi quanh bếp lửa.
Đỉnh hỏi Trần:
– Anh bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
– Ngày mai tôi đúng hai mươi lăm tuổi rồi đấy, già quá phải không anh?
Đỉnh lắc đầu lẩm bẩm:
– Hai mươi lăm, hai mươi lăm, ồ, còn trẻ quá, quá trẻ là khác.
Trần nhún vai:
– Tôi thì thấy quá già, hai mươi lăm năm, quá đủ, thật quá đủ, hai mươi lăm năm sống trên quê hương này. Anh không thấy chúng ta đang có một quê hương kỳ lạ hơn hết mọi quê hương sao? Nó có những cái tuyệt đối mà không một vùng nào trên thế giới này có được. Tôi nghĩ rằng chỉ có chúng ta làm người Việt Nam mới biết đau khổ đến tận cùng, mới hưởng hạnh phúc đến ngất ngư. Này nhé, chúng ta đang quay cuồng trong một cuộc chiến tranh lạ lùng, ở đó, đói khát, lừa lọc, tham lam, bẩn thỉu, ti tiện, căm hờn, tàn bạo, cái gì cũng đạt đến mức tinh vi cả. Do đó chỉ có chúng ta mới biết thưởng thức đến tuyệt đỉnh hạnh phúc của tình yêu, của nước mắt, của lòng hy sinh, niềm chung thủy, và cả sự đau thương. Ồ, anh thấy không? Hai mươi lăm năm với tất cả những cái đó, đâu phải dễ dúng gì.
Đỉnh cúi xuống, giọng anh trầm trầm:
– Tôi hiểu, tôi hiểu điều anh muốn nói. Có điều tôi không biết nói sao, tuổi tôi gần gấp đôi tuổi anh, tôi cũng gian nan quá nửa đời người, nhưng tôi rất buồn mà nhận thấy anh già dặn hơn tôi, khổ sở hơn tôi nhiều quá.
Trần thản nhiên:
– Có gì lạ đâu anh, trong cơn mê này của nhân loại, mà quê hương ta là thí điểm, tôi nghĩ rằng những lớp trẻ sau tôi nữa, họ sẽ còn già dặn hơn gấp mấy lần anh và tôi nữa kia, bởi vì họ còn đau khổ hơn chúng mình nhiều. Có điều họ sẽ không biết mình già dặn, sẽ không ý thức được vì sao mà họ đau khổ. Bởi vì thế hệ của chúng ta từng đã nắm trong tay thật nhiều ảo vọng, chúng ta những tưởng rằng mình đã có thật nhiều, và chúng ta để rơi vãi trên con đường chúng ta đã đi qua. Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát. Còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả để mà ảo vọng. Và họ vẫn bị mất mát như thường, có lẽ họ sẽ mất ngay chính con người của họ, đó mới chính là điều khủng khiếp.
Trần cười thê thảm:
– Cho nên đúng ra tôi phải vui mới phải, vì con tôi nó từ chối không chịu chờ góp mặt với mọi người trên xứ sở này, trên cuộc đời này. Nó từ chối cuộc đời là phải.
Tiếng gió rít qua cánh đồng lùa đến vườn cây sau nhà làm những ngọn cây quất trong không khí nghe vun vút. Trần ngưng nói, lắng nghe đêm ngoài kia mênh mông rì rào muôn ngàn âm vang bất tuyệt, đôi mắt chàng bỗng sáng lên, đầy mộng mị, đôi môi tươi đỏ của chàng chợt mấp máy, rồi ngừng lại phảng phất một nụ cười đắm đuối. Chàng đứng dậy, nhìn quanh mọi người một lượt, tay chàng đưa lên phác một cử chỉ vẫy chào:
– Thôi, tôi đi đây, xin chào tất cả mọi người. Chúc năm mới tốt đẹp.
Trước khi khuất sau cánh cửa, Trần quay lại nhìn Huyên:
– Huyên và Loan ở lại đấy, chờ anh về, anh em mình sẽ mở quán nghe. Anh sẽ về trước sáng mai.
Không ai nói một lời, tất cả như bị thôi miên bởi giọng nói huyền hoặc trầm ấm du dương của Trần, bởi một nỗi đau thương lạc loài khủng khiếp vang dậy trong tiếng gió ngoài kia.
Khi Trần đã khuất sau cánh cửa gỗ, khuôn mặt đẹp đẽ của chàng còn sáng lòa trên ngọn lửa của đêm trừ tịch.
Như sực tỉnh, Huyên hốt hoảng:
– Anh Đỉnh, xin anh gọi anh Trần lại, đừng để anh ấy đi, anh ấy định bơi qua sông thăm mộ chị Hiếu đấy.
Đỉnh tái mặt:
– Thật à, sao em không nói trước?
Đỉnh đứng dậy, chạy ra cửa, Hương, Huyên và Loan cùng chạy ra theo, ngoài sân vắng ngắt, làng xóm lặng trang. Đỉnh quay lại nói với Hương: “Anh chạy theo gọi Trần lại nhé.”
Hương gật đầu, Đỉnh vội vàng đi thẳng ra cổng.
Ba người đàn bà đứng lại trước hiên, chờ đợi, khắc khoải. Một lát sau, Đỉnh trở về một mình, anh buồn bã:
– Anh ra đến tận cánh đồng, đêm tối quá, chẳng nhìn thấy gì hết, anh gọi Trần khản cả cổ, nhưng chắc ngược gió nên Trần chẳng nghe được gì. Quái lạ, mới đó mà sao đi nhanh thế không biết. Thôi, chúng ta đành thức chờ Trần về vậy.
Hương nép vào Đỉnh, thì thào:
– Lạy Trờ,i lạy Phật xin phù hộ cho Trần.
Huyên ngước nhìn bầu trời tối đen như mực, có một vì sao lẻ loi ở cuối góc trời đang cúi xuống nhỏ một giọt sáng long lanh trên cánh đồng mịt mùng hiu quạnh. Giọt sáng tan đi nhòa nhạt vào bóng sương khuya trắng xóa mù khơi.
Mọi người trở vào nhà, không khí tẻ nhạt u buồn, bếp lửa đã gần tàn, không ai buồn nhóm lại.
Có tiếng chuông đổ hồi từ phía nhà thờ bên kia sông vọng lại, tiếng chuông ngân nga, lướt qua giòng sông khuya, lửng lơ trên cánh đồng, đậu trên từng đám cây ngọn cỏ, rồi tan loãng vào hư không.
Cùng lúc ấy, một tiếng nổ vang rền từ bên kia sông dội lại. Cả bốn người cùng giật mình, nhìn nhau, không ai dám nói ra ý nghĩ của mình, nhưng họ cũng biết là họ đang nghĩ giống nhau. Tiếp đó vài tiếng súng lẻ tẻ vu vơ về phía đồn làng Nguyệt.
Đỉnh lên tiếng giải thích, cố tránh những ý nghĩ đen tối đang vây quanh mọi người:
– A, giao thừa rồi đó, chắc tụi lính bên đồn làng Nguyệt nổ mừng năm mới đó.
Tiếng nói của anh vang lên lạc lõng, giữa tiếng chuông báo hiệu giờ trừ tịch vang vang mơ hồ trong không gian.
Trần không trở lại đêm đó.
Và những ngày sau nữa.
Chàng sẽ không bao giờ trở lại.
Ngày mồng ba Tết, Huyên bắt gặp những hàng chữ sau đây trên một tờ báo thông tin của kháng chiến tỉnh Thừa Thiên, tờ báo có những tin chiến sự trên những chiến trường toàn quốc, những tin tức thắng lợi về những đợt tố khổ của chiến dịch cải cách ruộng đất, những bài thơ ca tụng những anh hùng dân công, những anh hùng giết giặc, cả trăm thứ anh hùng được hoan hô không dứt. Dưới những bài báo đó, trong mục linh tinh, tin về cái chết của Trần như thế này:
“Thông cáo chính thức của Tỉnh bộ Thừa Thiên Nguyễn Trần, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân, trước đây đã có hành động phản cách mạng, phản nhân dân, vừa được chính phủ khoan hồng phóng thích ra khỏi trại Cải hối Tây Hạ sau thời gian học tập cải huấn. Đêm giao thừa rạng ngày mồng một Tết, tên Nguyễn Trần đã bỏ mạng trên cánh đồng làng Nguyệt vì dẫm phải mìn trong khi y đang tìm đường đi đến đồn Pháp gần đó để toan đầu hàng giặc.”
Đầu óc Huyên trống rỗng, không có cảm giác vui buồn gì cả sau khi đọc bản tin kia. Một tuần sau, Huyên lên đường về phương Nam, hành trang nàng không mang theo chi nhiều. Trên đường đi, nàng vẫn còn nghe vang vang tiếng nói của Trần trước khi đi vào cõi chết:
– Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát, còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả, và họ vẫn bị mất mát như thường…
Huyên đi về phương Nam, dọc đường nàng nghe nói ở Việt Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ đang mở màn, Tổ quốc Việt Nam sắp rẽ qua một khúc quanh lịch sử.
Và trên khúc quanh đó, những xác chết của người kháng chiến Việt Nam chồng chất trên quê hương này đang đi dần vào sự lãng quên của mặt trời mỗi ngày hiện lên lộng lẫy từ phương Đông để rồi lặn xuống âm thầm sau dãy núi phương Tây.
NGUYỄN-THỊ-THANH-SÂM Viết xong tại Đà lạt ngày 27 tháng 5 năm 1971.
|
|
|
Post by sheen on Dec 15, 2023 4:55:12 GMT -6
NHÀ CÓ HOA MIMOSA VÀNG (Hoàng Ngọc Tuấn)
Khách chưa bao giờ biết Đà Lạt, buổi chiều xanh nhờ những rừng cây, nắng một chút hồng trên tàn lá đỏ úa. Thị trấn cao nguyên này nhỏ bé ngộ nghĩnh như một món đồ chơi, êm đẹp và lặng lẽ khi khách đến.
Chiếc xe đò tắt máy ở bến, sau một ngày đường hun hút bơ phờ. Khách ra khỏi xe, tóc tai bám đầy bụi đỏ, chiếc áo trắng đã trở thành một miếng giẻ dơ bẩn. Đứng lặng yên một chút ở thành phố lạ, khách nhìn bâng quơ những cảnh tượng quanh mình. Nhà cửa nhấp nhô như những chiếc hộp giấy, con đường dốc lên cao mất hút sau những khúc rẽ xa lạ, bên hàng cây mướt. Hình như đây là một phố hồng, lấm tấm điểm những bông hoa khách còn chưa biết tên, tím và đỏ như một giấc mộng sâu thẳm.
Chuyến xe khởi hành từ Sài Gòn, một nơi đầy nắng lửa và bụi chen chúc đổ mồ hôi, tiếng động ầm ĩ suốt ngày. Ở đây là một nơi chốn khác, thong thả những bước chân tản bộ, đường mềm như một dải lụa mời gọi dấu giày dạo chơi. Không khí lạnh rung động trong túi quần, môi phì phà điếu thuốc ấm. Bấy giờ là chiều cuối mùa đông, nắng tắt vội vàng và mây xuống thấp. Có lẽ mọi người đều nao nức về nhà hưởng thú ấm cúng bên lò sưởi. Phố dần dần vắng người, vì phố đã hoàng hôn. Khách thấy lạnh hơn mình tưởng, da thịt se thắt trong làn vải áo mỏng, môi đã khô nhờ khói thuốc nóng nhưng vẫn còn run run vì gió. Khách chợt buồn trước bóng tối quạnh hiu như một màn lưới vây phủ quanh người. Tâm hồn khách mơ tưởng đến một mái nhà ấm, một chiếc giường êm và ngọn nến hồng vui mắt. Khách đã vứt bỏ những thứ ấy từ nhiều năm nay, tưởng chừng mình như một cây xương rồng kiên gan mọc trên sa mạc. Nhưng đôi khi, như chiều hôm nay, bên đường ghé lại một miền đất xa lạ, khách thấy cuối cùng mình cũng chỉ là một cây lau sậy mềm yếu. Một chiếc xe taxi màu đen trờ đến dừng lại mời khách. Mặc dầu khách muốn leo lên một chiếc xe ngựa hơn nhưng rồi khách cũng bước vào. Người tài xế co rút mình trong nhiều lớp áo dạ, quay đầu chờ đợi. Khách tìm một địa chỉ viết tháu vội vàng trên hộp quẹt giấy. - Cho tôi đến đường Thi Sách. Xe chạy êm êm theo những đường lạ, bỏ dần con đường tráng nhựa của thành phố, lên những con dốc cao rồi đổ xuống theo triền đất thấp, con đường mòn đất đỏ. Đồi thông chập chờn bên ngoài cửa xe như cùng chạy bộ ngược chiều với khách. Có cây thông xa mất hút ở góc đồi nào, trời đã tối nên không còn nhìn thấy những trái thông khô, chắc là rơi rớt nhiều lắm ở đâu đó. * Một cô bé cho khách biết chủ nhân đi vắng. Khi khách bước vào nhà, không khí ấm và cô đọng bỗng chốc tràn đầy trong người, đánh tan bớt gió chiều giá lạnh bên ngoài. Phòng khách trang nhã và dễ thương dưới ngọn đèn hồng. Những nhánh anh đào xanh lá có những bông hoa màu hồng nhạt mỏng, cắm trong chiếc bình sứ. Bức tranh sơn dầu trên vách tường thêm một vẻ đẹp hòa hợp cho căn phòng. Những con búp bê trên kệ tủ, lò sưởi còn đám tro than trên những cây củi cháy. Người vợ của chủ nhân, bà T. ra nói chuyện với khách. Người thiếu phụ có vẻ vừa mới đi đâu về, áo manteau và chân đi giày da kiểu thể thao khá đẹp. Bà T. cầm lá thư giới thiệu từ tay khách, đọc xong và nói vài câu thăm hỏi thường lệ, nhắc đến tên một vài người quen biết. Giọng nói theo cung cách lịch thiệp vừa phải, vì khách là một người hoàn toàn xa lạ. Khách theo chân bà T. lên căn phòng nhỏ trên lầu. Đây là căn phòng mà khách sẽ nghỉ tạm trong một vài ngày, hay có lẽ chỉ trong một ngày. Khách chào và nói cảm ơn với bà T. khi bà trở xuống nhà dưới. Khách thay áo quần, mở cánh cửa sổ để nhìn ra ngoài trời. Vì ngôi nhà nằm trên một triền đồi cao, nên từ đây, khách có thể nhìn thấy hơn một nửa thị trấn. Nhà cửa nhấp nhô, bé nhỏ, một vài tòa nhà màu trắng cổ kính đàng xa xa, có lẽ là trường học hay tu viện. Chuông nhà thờ đâu đó rời rạc đổ, âm thanh nghe reo vui như hát nhưng thỉnh thoảng cũng có vẻ cô tịch lạ thường. Khách đóng kín cửa, trở vào phòng, tủ sách đẹp với một vài tấm thiệp Giáng sinh nằm trên ngăn. Một bức tranh nhỏ chưa treo lên vách, dựng hờ hững trên bàn. Khách hút một điếu thuốc, thấy ngon miệng hơn thường lệ, chắc nhờ một cảm giác thân thuộc của ngôi nhà vừa đến với mình. Đến tối, chủ nhân về với tiếng xe Jeep nổ máy ngoài sân. Bà T. giới thiệu khách với chồng. Ông T. trạc tứ tuần, chững chạc và rắn rỏi, bắt tay khách một cách lịch thiệp. Rồi lần lượt khách được biết đến những người trong nhà. Mấy chị em xinh xắn, bắt đầu với cô bé Quỳnh T. khoảng mười bảy tuổi, mặc chiếc jupe xanh, áo len đen và khăn quàng cổ màu tím, và lần lượt đến ba cô bé nữa và một cậu bé út. Mỗi cô cậu đều có thêm một cái tên thân mật trong nhà, vị chi tất cả gồm mười tên làm khách lúng túng không nhớ nổi. Và nếu có quyền đặt tên, khách sẽ gọi mỗi người bằng một cái tên khác nữa. Ví dụ như cô bé Quỳnh T. là hoa anh đào. Quỳnh Th., hoa huệ trắng. Quỳnh Thơ, con sóc rừng. Cô bé Ái, hươu cao cổ và cậu bé út thì quả thật là một chú nai tơ. Như thế tổng cộng năm chị em có tất cả mười lăm cái tên. Cái trí nhớ yếu kém của khách đành chịu không nhớ hết được. Trong bữa ăn, mỗi người uống một chút rượu vang đỏ. Khách để ý thấy mấy cô bé cùng nì nài cha mẹ được nhấp một tí rượu, những má hồng hào như màu ánh nến. Ông T. phải vào trại trực ban đêm, vì ông là một sĩ quan giữ chức vụ quan trọng trong tỉnh. Những cô bé kiễng chân hôn ba tạm biệt. Khách cũng tạm biệt mọi người để trở lên phòng. Ngoài trời tối đen, rất lạnh và đường sá đều là âm u xa lạ nên khách cũng ngại xuống phố dạo một vòng. Dưới ngọn đèn ngủ, khách tìm thấy một tập truyện của A. Daudet, và khi đọc đến đoạn chú dê con bị thú dữ ăn thịt vào lúc trời tảng sáng, khách cảm thấy buồn ngủ. Mặt trời dần dần thắp đỏ trong câu chuyện, nhưng ở Đà Lạt bây giờ, trời chưa đến nửa đêm. Ngoài sân, người lão bộc đi đóng cổng, khua lên những tiếng động nhỏ. Khách dậy sớm, mặc dầu rất muốn kéo dài giấc ngủ ngon trong lớp chăn ấm. Hừng đông ở cao nguyên đem hơi lạnh vào tận trong da thịt, cho dù có ở trong phòng kín. Khách cẩn thận đi những bước nhẹ trên bực thang để xuống nhà dưới, mọi người có lẽ còn nằm trong cơn ngủ muộn êm dịu tảng sáng. Nhưng đã có một cô bé ở trong phòng khách, đang đổ nước vào chiếc bình sứ con và cắm những bông hồng đỏ tươi tắn, cô bé đừng nghiêng đầu ngắm khóm hoa của mình.
- Đẹp lắm!
Cô bé giật mình quay đầu lại. Có lẽ là cô thứ nhì, Quỳnh Th.. Chiếc răng khểnh trẻ thơ trên khuôn mặt tròn trĩnh, mái tóc cắt ngắn đen nhánh.
- Cháu mới hái ngoài vườn, chú thích hoa này không?
- Thích tất cả. Anh đào, hồng, glaieul, huệ, lan, pensée và tất cả những thứ hoa dịa chú chưa biết tên.
Cô bé mỉm cười nhìn đâu đâu.
- Thế thì chú hợp với Đà Lạt lắm rồi.
Khách mở cánh cửa phòng, vừa nói:
- Tiếc là chú không ở đây lâu được.
- Chú đi đâu thế? Mới sáng sớm mà đã đi chơi phố rồi.
- Không, chú đi mua bao thuốc lá... Này Th., gần đây có sạp bán thuốc lá nào không cháu?
Cô bé theo khách ra đứng dưới mái hiên nhà, ngón tay chỉ ra đường chỉ dẫn cho khách lối đi.
- Hơi xa chú à. Chú đi theo đường này một khoảng, rồi rẽ theo con đường mòn phía tay mặt, xuống hết đường mòn, lại rẽ tay trái đi khoảng một trăm thước... có một cái quán nhỏ bán đồ tạp hóa, nhưng không biết giờ này quán họ mở cửa chưa.
Khách làm bộ e ngại:
- Có vẻ lôi thôi quá nhỉ. Không chừng chú sẽ bị lạc đường khi trở về.
Cô bé kéo kín chiếc áo len xanh che lấp chiếc áo trắng ở trong cho bớt lạnh.
- Nhà cháu dễ thấy lắm. Nếu lạc đường chú cứ tìm nhà nào có hai cây mimosa vàng là đúng rồi.
Khách nói cảm ơn cô bé rồi đi ra khỏi cổng, đầu khách phải cúi thấp xuống như để tránh cái lạnh, nhưng thật vô ích, không khí đã thổi những ngọn rét căm căm vào trong từng chân tóc. Cho dù ở phía chân trời phương đông kia, nhiều tia nắng mỏng đã đổ vàng óng ánh trên mái ngói.
Khi khách về lại nhà, bà T. và mấy cô bé dường như đang sửa soạn đi đâu.
- Anh có đi dạo phố một chút cho biết không?
Khách gật đầu trả lời với bà T., khi bà cùng các con vào ngồi trong xe hơi. Người tài xế có chiếc nón sụp vành, thành thạo qua những con đường có lẽ đã quá quen thuộc với gã. Bà T. nói:
- Tiếc quá, tôi phải lên phi trường đón người bà con. Anh có đi chơi đâu, nói anh tài đưa đi.
- Cũng chẳng biết đi đâu, có lẽ nên đến cái quán bên bờ hồ uống chút cà phê.
Một cô bé nào đó xen vào:
- Giờ này ở đó lạnh và vắng lắm, chú.
- Còn gì bằng nữa. Nóng và đông người thì ở đâu cũng có.
Xe dừng lại. Vì mọi người đều bận việc nên khách bước xuống một mình, thích thú nhìn con đường sỏi nhỏ dẫn xuống quán. Khách hỏi mấy cô bé:
- Có ai đi uống cà phê với chú không?
Mấy cô bé có vẻ chỉ muốn đi với mẹ.
- Quỳnh Th.?
Nụ cười của bé Quỳnh Th. rực rỡ lắm, nhưng cô bé cũng lắc đầu. Khách thở dài.
- Chắc chú còn lạ, phải mất một thời gian làm quen mới được.
Lát sau, khách thấy mình là người duy nhất trong quán. Những người bồi đang ngái ngủ sửa soạn bàn ghế và ly tách, trên một chiếc bàn con đặt ngoài bao lơn, mắt nước hồ lóng lánh thật gần bên người.. Giọt cà phê nhỏ chậm rãi từ chiếc filtre, khói thuốc bay tan loãng mất đi trong trời.
Uống chút cà phê cho tỉnh táo như thói quen, hút thuốc lá liên tiếp và nhìn xuống mặt hồ, khách thấy mình sung sướng quá. Sương trắng mỏng như những đám mây từ giã trời cao để xuống trần, trôi bềnh bồng trên mặt nước hồ. Không phải màu xanh thẳm như biển, hồ dịu dàng và lặng lẽ hơn, trong màu xám của những trời chiều mùa đông sắp đổ mưa. Màu xám của những đôi môi tê lạnh, vì giá buốt hay là vì lẽ bóng.
Chiếc máy hát vang lên rè rè những nhạc phẩm tình cảm, nghe thật tồi và chán ngắt. Cần gì âm nhạc ở đây, cho dù là những nốt sầu muộn nhất của Chopin cũng sẽ trở nên thừa thãi và thua kém. Ở đây, vẻ đẹp của cảnh tượng bên ngoài diễm lệ không gì bằng được, làm lu mờ tất cả những điều đẹp đẽ khác. Có gì hơn ngọn đồi xanh thoai thoải bên kia bờ hồ, lác đác những cây thông như những đốm màu vô tình trên một bức tranh tuyệt tác. Hình như có con đường mòn nào đó dẫn lên đến đỉnh đồi. Xa xa, những chiếc xe trông nhỏ xíu như đồ chơi trẻ em, chậm chạp di chuyển dưới chân đồi, có vẻ không lo ngại gì về một vụ kẹt xe thường thấy ở những đô thị ồn ào.
... Khách trở về nhà khi trời đã tối. Bà T. đang ngồi đan một chiếc áo len trong phòng trước. Mấy chị em quây quần chung quanh. Khách mỉm cười chào mọi người rồi ngồi xuống chiếc ghế nệm dài, cậu bé út đang nằm trên đó với thứ đồ chơi ngộ nghĩnh: nhà cửa, cây cối, súc vật và hình người làm bằng những mảnh giấy cắt nhỏ. Bà T. ngước mắt lên.
- Sao? Anh thấy Đà Lạt thế nào? Chắc là buồn vì đi có một mình?
- Tuyệt đẹp. Như một thành phố nằm trên mây, chẳng dính dấp gì đến những cái phiền toái ở dưới đất cả.
Khách thở một hơi thuốc lá thật nhỏ để tránh cho những cô bé khó chịu vì mùi khói. Quỳnh Th. ôm những thanh củi chất vào lò sưởi và rải thêm vài nắm diêm bào.
- Chú cho cháu mượn hộp quẹt.
Cây quẹt cháy một đốm lửa nhỏ từ bàn tay của cô bé. Lửa bắt vào diêm bào, trong phút chốc những thanh củi đã cháy ngon lành. Lò sưởi rực rỡ ánh lửa nổ bùng nhấp nhánh như một bó hoa màu đỏ thẳm linh động.
Khách thú vị chôn đôi mắt đăm đăm nhìn vào lò sưởi. Ánh lửa sống động quyến rũ như muốn nuốt lấy người khách, khuôn mặt dần dần ấm áp, rồi nóng rực. Đèn nhà đã tắt, lò sưởi như trở nên một mặt trời hiếm có ở những vùng băng tuyết.
Hạnh phúc vô cùng cho một ai giữa chặng đường đời đen tối, đã vô tình khám phá ra những cảm giác nồng nàn say sưa mà mầu lửa đỏ dâng hiến cho mình. Và đêm nay, khách là một người hạnh phúc.
Các cô bé tranh nhau để ngồi thật gần lò sưởi. Ánh lửa phản chiếu làm khuôn mặt bé Quỳnh Th. đỏ hồng hơn bao giờ hết, đôi mắt lung linh như thắp những ngọn nến sinh nhật.
Với tờ giấy và cây bút, bốn cô bé chia làm hai phe chơi đố chữ, trò chơi có lẽ do những ông giáo Pháp văn bày ra. Quỳnh T. đố:
- Một chữ gồm có 5 vần. Khởi đầu bằng vần C và tận cùng bằng vần R, đố là chữ gì?
Hai cô bé thuộc phe bên kia chụm đầu bàn tán, rồi rốt cuộc cũng tìm ra được kết quả: Coeur. Rồi đến một chữ khác, lần này bên kia chịu thua. Quỳnh T. giải đáp: Yseult. Cô bé nhỏ nhất không chịu, cho rằng chữ đó không có trong sách học ở lớp. Yseult, làm sao mà có được trong sách học được, đó là tên người tình duy nhất của Tristan, anh chàng giang hồ lãng mạn của một câu chuyện tình dang dở muôn thuở.
Khách là người lạ nên không được dự vào trò chơi. Khách dần câm lặng và bất động như một gốc thông.
Bé Quỳnh Th. phải gợi chuyện:
- Chú còn định sẽ đi đâu nữa?
- Huế.
- Chú từ đâu lên đây?
- Sài Gòn.
- Chú làm gì ở dưới đó?
Khách dụi tắt mẩu tàn thuốc trong chiếc gạt tàn:
- Đố cháu biết chú làm nghề ngỗng gì?
Quỳnh Th. quan sát khách, suy nghĩ rồi trả lời:
- Cháu chắc chú đang... trốn lính.
Khách giật mình rồi bật cười:
- Cháu đoán tài lắm nhưng chỉ trúng một nửa. Bỏ bớt đi một chữ. Nghề đẹp lắm nhưng chú không đủ sức tiếp tục nữa. Chú kẹt vô lính rồi.
Quỳnh Th. cũng cười rồi định trở lại với trò chơi của mấy chị em. Khách nói tiếp:
- Thế nào chú cũng trở lại đây để học.
Mắt cô bé mở lớn ngạc nhiên:
- Chú định học gì ở đây?
- Chú còn nhiều điều chưa biết.
Khách không muốn giải thích rõ ràng cho cô bé hiểu, nhưng trong thâm tâm khách buồn bã vì thấy mình là một kẻ dốt nát. Từ lâu, khách đã học cách sử dụng súng đạn thế nào để bắn cho trúng . Khách đã biết cách gài lựu đạn và mìn để ngăn chặn những vụ đột kích vào ban đêm. Khách đã biết cách gọi pháo binh hay phi cơ dội bom đạn (...). Khách cũng biết những thế đánh lưỡi lê khi xáp lá cà, những đội hình xung phong tấn công, những cách thức rình rập phục kích.
Nhưng khách đã biết gì về nhịp tim của một thế giới bình yên?
Khách chưa biết gì hết về tên của những loài hoa dại lấm tấm trong rừng cây, trước sân nhà. Khách chưa biết gì về tiếng hát ríu rít của những loài chim, tiếng nhạc của gió lùa trong lá, tiếng rung động của lá khi đổi từ màu xanh sang màu đỏ úa. Khách biết gì về dòng chuyển động xôn xao của mặt hồ? Tiếng chuông đánh dấu của trời khi chuyển mùa, từ bóng anh đào tràn ngập khắp nơi, rồi tán cho nắng đổ, nắng tắt cho lá vàng lìa cành, và những cây trơ trụi đón chờ mưa mùa đông đổ nhòa theo gió. Khách chưa biết gì hết. Khách mù tịt lối vào cửa ngõ của mầm sống, nhưng lại học rành rẽ bực thang dẫn vào huyệt đạo.
Lửa yếu ớt rồi tắt dần. Đêm khuya đem lại cơn buồn ngủ trên mí mắt của những cô bé. Khói mỏng lan đi mất hút từ những cành củi cháy mòn, những khúc cây đã hy sinh phiến gỗ thô sơ của nó cho một đêm quây quần bên lò sưởi.
*
Buổi sáng, khách đi sớm khi mấy cô bé còn say ngủ. Bà T. tiễn chân khách ra đến cổng. Khách thành thật nói lời cảm ơn với bà và gởi những lời chúc đẹp nhất đến cho cả gia đình.
Khách chỉ tạm biệt Đà Lạt và tự nhủ sẽ trở lại nơi này để học thêm những điều êm đẹp. Chợt nhớ đến lời dặn của Quỳnh Th., khách quay đầu lại để thấy rõ hai cây mimosa đang nở hoa vàng trong sân.
Hình ảnh cuối cùng đó, biết đâu sẽ là dòng nước ngọt an ủi cho khách, trên những chuyến lữ hành khổ nhọc dưới ánh nắng mặt trời.
HOÀNG NGỌC TUẤN
Gia đình NTTSâm & PVTốn tại "Nhà có hoa Mimosa vàng"
|
|
|
Post by sheen on Jul 15, 2024 0:45:50 GMT -6
NHÀ XƯA CÓ HOA MIMOSA VÀNG (Nguyễn Đức Tùng)
Tôi gọi số điện thoại mới của chị mà cháu Thơ Thơ cho, báo tin bạn chị, họa sĩ Đinh Cường, vừa mất. Chị nhấc máy, im lặng. Tôi gác máy, gọi nữa, chị lại bắt máy. Tôi hỏi mấy câu Thơ Thơ dặn, chú phải nói rứa nói rứa mẹ cháu mới hiểu chú ạ. Chị vẫn không nói. Đầu kia, có tiếng u u như gió thổi qua đồng cỏ lạnh giá. Tôi cầm điện thoại, giữ lâu, giữa hai chị em chỉ có tiếng gió rì rào.
Thế mà mấy năm trước, tôi cùng anh Tường, anh rể tôi, ghé thăm nhà chị ở gần Seattle, khi về chị còn chạy theo ra hiên. Khớp gối bên phải sưng đau, sờ thấy nóng, đi cà nhắc, bảo: em cho chị hôn em. Rồi vói người hôn lên má tôi đánh chụt một cái.
Tôi hiểu, đó là nụ hôn dành cho mẹ tôi. Anh Phan Văn Tốn chồng chị là con của cậu ruột tôi. Mẹ mất sớm, từ nhỏ anh về ở với mẹ tôi, bà cô út, gọi là o. Những bà o chưa chồng thương cháu như con. Anh đem người bạn vong niên cùng đi kháng chiến về giới thiệu. Mẹ tôi lập gia đình với ba tôi lúc người đã ngoài ba mươi, thời đó muộn. Khi tôi sáu tuổi, cha mẹ tôi dựng nhà trong vườn mới mua, kề bên vườn hương hỏa của ông bà ngoại. Vì đất ấy không ai trông nên mẹ tôi vào ra coi sóc, hai vườn thông nhau như một. Tan trường, tôi cho sách vở vào một xó, thoắt cái đã nhảy chuyền cành trên những cây ổi, cây bưởi rậm rạp, cành lá giao nhau. Một buổi chiều đi học về muộn, nhà vắng khác thường. Tôi tò mò đi qua hàng rào tre trúc ngăn giữa hai vườn thì gặp mẹ tôi đi ngược lại. Dáng bà kín đáo, im lặng. Có lẽ bà chưa kịp thấy tôi. Từ phía khác, sau bụi tre, tôi nghe tiếng người nói khẽ. Giọng gắt. Anh Tấn.
Anh là em trai kế của anh Tốn, là người chăm lo nhang khói dòng họ. Trong nhà anh có bức ảnh lớn của anh Tốn và chị Thanh Sâm, bồng các cháu Thi Thi, Ti Ti, Thơ Thơ, Lam Điền. Anh Tốn để râu mép, mặt vuông, đẹp, hiền, nghiêm nghị. Chị áo dài tha thướt. Lúc ấy anh Tấn là chỉ huy nghĩa quân của xã, gồm hai đơn vị, một bảo vệ cầu Ái Tử, một bảo vệ khu lân cận như trường tiểu học, vườn ươm của tổ chức lương nông quốc tế. Anh mang khẩu súng trường dài, loại M1 Garand, nổ đanh, bán tiểu liên tự động. Sống thời chiến tranh, không lạ gì trò chơi chết chóc, tôi nhận ra dễ dàng các loại súng, tiếng nổ của chúng, tiếng đại bác, moọc chê. Tôi lắng nghe câu chuyện giữa mẹ tôi và người cháu gọi bằng o ruột. Những năm sáu mươi, chiến tranh mới lẻ tẻ thôn xóm, chưa lan rộng như sau này, nhưng cái chết hai bên gây ra cho nhau thật tàn khốc. Mỗi lần có vụ du kích giật cầu, đánh lô cốt, bắn pháo bừa bãi vào chợ búa thì có một cuộc bố ráp sau đó, càn quét cơ sở bí mật người kháng chiến cũ. Mỗi lần có một du kích bị bắn hạ khi vượt qua đường tàu thì vài hôm sau liền có cuộc trả thù nhắm vào các viên chức chính quyền cấp thôn xã hay người thân của họ. Đặc điểm quan trọng nhất của chiến tranh du kích Việt Nam là tính chất trả thù.
Nhưng lúc ấy, tôi chỉ biết sợ hãi, không biết thù hận. Tôi sợ hãi khi nghe tiếng đại bác bắn qua đầu, tiếng nổ khi xa khi gần, nghe tiếng mõ cầm canh, tiếng phèng la đầu làng của người dân sống an toàn bên trong hàng rào Ấp chiến lược. Tiếng gõ cửa ban đêm. Tôi sợ cuộc chiến tranh này. Tôi căm ghét nó. Những người dân ở miền Nam đều căm ghét nó. Thế người dân miền Bắc? Tôi không biết. Tôi tin rằng cũng có người căm ghét chiến tranh, như nhà thơ Lưu Quang Vũ, nhưng phần nhiều đều tự an ủi rằng dù sao hy sinh ấy là cần thiết. Dù niềm tin ấy sau này được những người trong cuộc nhận định lại là đúng hay sai thì lúc ấy nó vẫn là liều thuốc kỳ diệu, giúp chữa lành các vết thương. Tuy thế, dù ở đâu, chưa bao giờ chiến tranh vui vẻ. Người ta có thể sẵn sàng ra trận, đổ máu cho một lý tưởng, nhưng không khí chiến tranh có bao giờ vui? Để sống sót qua thời ấu thơ binh lửa, tôi phải có một niềm tin, dù với những hiểu biết không đầy đủ, phải được trang bị bằng một tư tưởng thích hợp, cũng như tôi phải tập ngửi mùi thuốc súng.
Tôi mang sự hiểu biết không đầy đủ ấy vào Đà Lạt, mùa xuân năm 1976. Tôi đến nhà số 33 Thi Sách của chị Thanh Sâm, ngôi nhà trên đỉnh đồi lộng gió. Trước đó, năm 1972, người chị thứ hai của tôi, cùng tên, vừa tốt nghiệp khóa nữ hộ sinh quốc gia, sage femme d’ état, lên làm việc ở Đà Lạt, ở nhà ấy. Để phân biệt hai người, trong gia đình tôi mọi người vẫn gọi chị Thanh Sâm là chị Thanh. (Ở ngôi nhà Thi Sách này, chị ruột tôi đã quen và phải lòng một sinh viên sĩ quan Đà lạt, tên Tường, từ đó chị còn có tên là Tường Sâm. Sau khi anh ra trường, họ kết hôn, và chàng trai mê sách vở văn chương nhưng có tài thiện xạ này trở thành sĩ quan trinh sát sư đoàn. Anh hay kể chuyện nhảy trực thăng vào hậu cứ đối phương ở Quảng Nam.)
Khi tôi đến Đà Lạt, nhà đổi chủ. Sau cái chết của anh Tốn, chị Thanh bỏ cao nguyên về Sài Gòn, khoảng 1972, giao nhà cho chị Sâm tôi ở đó, giữ căn biệt thự hai tầng như kỷ niệm gia đình. Bây giờ nhà bị chính quyền mới trưng dụng. Bảng hiệu nhà giữ trẻ. Tôi đứng tần ngần trước dãy rào tường vi trắng. Xa xa phía sau là nhà thờ Domaine de Marie màu hồng đậm ấm áp, mái nhà dốc tựa nhà rông Tây nguyên. Trước hiên một giàn dây leo trổ hoa pháo, vàng rực, vắt qua hai cây cột lớn, uy nghi. Tôi bước lên tam cấp cao vào nhà, hai cánh cửa chỉ khép hờ. Trong nhà nửa tối nửa sáng, chạy ngang tường khẩu hiệu quen thuộc sống chiến đấu sơn đỏ, mới. Phòng khách rộng mênh mông kê lộn xộn bàn ghế. Gần cửa, trên chiếc giường nhỏ, một đứa bé gái gầy còm nằm thiêm thiếp, lên cơn sốt, tóc thái dương ướt đẫm. Nhìn kỹ trên mặt và hai cánh tay nó, những nốt ban, cái hồng cái đỏ sẫm. Thời ấy ở miền Nam sốt xuất huyết hoành hành. Một thằng bé khoảng ba tuổi đứng tè ngay trước lò sưởi cuối phòng, lò nguội lạnh, cô giữ trẻ túm lấy tóc nó lôi đi. Thằng bé không khóc, cưỡng lại hung dữ. Trong một động tác bất ngờ, điêu luyện, người phụ nữ buông tóc nó ra, chụm hay bàn tay lại, dùng cả hai cánh tay kẹp cổ thằng bé, nhấc bổng lên.
Tôi đứng ngẩn người, không biết làm gì. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy hai cây hoa lớn, ở góc bên phải của khoảng sân rộng trước nhà. Tôi bước ra, thở khí trời trong mát, hít mùi nhựa thông ngập không gian. Gần cuối mùa mimosa, trên cỏ những bông vàng tươi xếp lớp như thân xác của hạnh phúc. Đường phố vắng, lác đác xe hơi chạy vụt qua, trên xe những khuôn mặt mới, xe ngựa lọc cọc gõ nhịp đều, những con ngựa gầy trơ xương với da, lông xù ra. Người Đà lạt trí thức và tiêu biểu cho văn minh một thời, đã tan tác, bỏ đi hết. Nhưng loài hoa vàng óng ả thì phân vân ở lại. Ngày ấy, mimosa không còn là cái đẹp hiền hòa, mặc dù vẫn đẹp, có lẽ đẹp hơn, chúng rơi như sương như khói, rơi như tóc như tơ, rơi để chết trong đất trời mù mịt.
Đây chính là ngôi nhà mà ngày xưa nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn đã nhắc đến trong truyện ngắn Nhà có hoa mimosa vàng. Tôi bần thần đi ra cổng, đứng trên đỉnh dốc, nhìn xuống thành phố Đà lạt dưới kia sương mù xa xăm như thuộc cõi nào, nghĩ đến các anh chị đã ra đi để lại phố phường xao xác. Giây phút ấy, bỗng hiện lên trong trí tôi hình ảnh bàn tay đầy gân xanh, tì lên báng súng Garand run run của anh Tấn. Cái báng súng bằng gỗ đỏ nâu ánh lên dưới mặt trời chiều, có vệt đất cày ải, có mùi mồ hôi, mùi hành tỏi, mùi hoa huệ cúng bàn thờ. Tôi nghe vẳng câu hỏi nhát gừng hướng về mẹ tôi. Tôi nghe tiếng mẹ tôi thì thầm, kể lể, dịu dàng nhưng cương quyết. Khuất sau bụi tre là con đường dẫn sâu vào khu vườn thứ hai, tôi thuộc từng ngọn cây ngọn cỏ biết nó sẽ dẫn tới những giao thông hào đào quanh hàng tre ngăn không cho rễ tre mọc. Ở cuối dãy giao thông hào ấy, trước rạng đông, trời còn mù sương, đã bò lê tới một người lính lạ mặt, một khúc ruột lòi ra, máu chảy từ bụng không ngớt, thoi thóp thở.
Một người lính trẻ mười bảy, mười tám, nói giọng Hà Nội, nửa nằm nửa ngồi gần gốc tre, mặt trắng trẻo như thư sinh, thỉnh thoảng ngất đi vì mất nhiều máu. Bị trúng đạn, lạc đơn vị khi vượt qua quốc lộ Một gần sông Thạch hãn. Tôi nghe câu chuyện của hai người càng lúc càng nhỏ cho đến khi tiếng của anh Tấn vang lên lần nữa bên tai. Thôi được, con chịu thua o lần này. Nhưng đừng làm quá, không ai bênh vực được. Nội một ngày họ phải dời đi, vì đây là lãnh vực phụ trách không thể làm ngơ. Mặt mẹ tôi phảng phất nụ cười, bà gật đầu ra dấu biết ơn. Những người lính nông dân của anh Tấn, bắn nhau với du kích phần nhiều cũng là nông dân phía bên kia, đã chết bờ chết bụi cho bầu khí quyển dân chủ đầu tiên của cả dân tộc này được một lần sinh ra. Trạng thái cân bằng của đất nước bị phân chia giữa hai hệ thống giá trị, sự cân bằng ấy tất nhiên tạm thời, đã phải trả giá đắt, nhưng có lẽ xứng đáng. Không có hai mươi năm ấy, để những giá trị văn hóa được gìn vàng giữ ngọc, tâm hồn Việt Nam ngày nay chỉ còn là sa mạc, tuổi trẻ chẳng biết đến văn học tiền chiến. Nhầm lẫn lịch sử tồi tệ đã xảy ra, hệt như trong thế giới động vật, mạnh được yếu thua; và đứng lên từ gạch đá đổ nát, người Việt hai miền đến nay vẫn ngơ ngác như kẻ mất trí nhớ.
Trí nhớ là kẻ thù số một của thuật cai trị. Những thế hệ sau lớn lên trong sợ hãi và ký ức giả dối, trong một lịch sử bịa đặt, bởi chính các nhà văn, cần phải được mang trở lại nền nhà cũ, cháy rụi, giữa những cột nhà cháy đen như kỵ sĩ không đầu. Lòng hoài niệm của người Việt khác với hoài niệm của các dân tộc khác. Lòng hoài niệm ấy không phải là sự tưởng nhớ thụ động, mà là cố gắng cần nhiều năng lượng, như bơi ngược dòng, để khơi mở sự hiểu biết đối với những lầm lạc, từ nhiều phía, thiết lập căn tính của cái sắp tới. Trong ba ngày tôi đi khắp phố phường, một thành phố nửa ngủ nửa thức với vẻ đẹp mơ màng của đồi xanh thông reo, từ đường Yersin ngang qua trường sư phạm, tu viện Dòng chúa cứu thế, trường Sacré Coeur, nhà thờ Con Gà, những kiến trúc cổ kính, dịu dàng. Như thế là trong những ngày buồn tôi đã khám phá ra Đà Lạt theo kiểu của mình, đi theo gót chân của bác sĩ Yersin, đứng trước Grand Lycée hình cánh cung, xây năm 1927. Tôi gặp một người đánh xe ngựa rộng lòng bác ái đã cho tôi đi nhờ nhiều đoạn đường, chỉ phải trả một ít tiền tượng trưng, vét hết túi cũng chỉ còn chừng ấy. Chúng tôi đi dọc đường Huyền Trân Công Chúa. Tới gần thác Cam Ly, vượt qua trường Couvent des Oiseaux cũ. Khi trở về, tôi dừng lại thật lâu trước Ga hỏa xa. Ba mái chóp nhọn tiêu biểu cho ba đỉnh núi Langbiang huyền bí. Nhà ga được xây dựng từ năm 1948, thời kỳ chiến tranh Việt Pháp ác liệt mà các kiến trúc sư vẫn còn đủ kiên nhẫn để thiết kế một trong những tòa nhà đẹp nhất. Tôi nghe nói ở đó có một đường ray răng cưa vượt đèo Ngoạn mục nhưng không thấy đâu nữa. Tôi muốn đi thăm trường Võ bị quốc gia lừng lẫy, hỏi một ông già bản xứ, ông ta trợn mắt, nhìn trước nhìn sau, sợ hãi.
Đến Đà Lạt, xứ sở của khách từ phương xa, có người đến và đi luôn, có kẻ đến và ở lại, tôi có dịp nghĩ về cái chết của anh Tốn, về cuộc chiến đấu dũng cảm, đơn độc của anh, về những bất hạnh của chúng ta trong ngọn lửa cách mạng bạo động. Nhưng tôi cũng có dịp lần đầu thưởng thức vẻ đẹp không những của núi đồi Đà Lạt mà còn của kiến trúc do con người tạo ra. Người Pháp để lại trên đất nước này những công trình mỹ lệ. Lòng yêu mến, sự quan tâm của họ thật đáng ngạc nhiên. Tôi lặng lẽ quan sát những bậc thềm nhà, những cánh cửa gỗ, những vòm mái cao, những nắm cửa bằng đồng. Tôi đứng ngắm sắc màu đậm nhạt, những bức tranh, những đường vòng cung quý phái của các bức tường trắng. Các tảng đá nghiêm lạnh bên hồ nước cũng dạy tôi nhiều về huy hoàng tráng lệ, về cô đơn lẫm liệt, chúng đòi hỏi tôi tự mở lòng ra để đón nhận ngoại cảnh. Kiến trúc ở đây gợi ý về hạnh phúc lâu bền, tồn tại trăm năm, ngàn năm, không những bởi chất liệu kiên cố mà còn vì vẻ đẹp của chúng. Người Pháp là bậc thầy của kiến trúc. Kỹ thuật và công nghệ bê tông, gạch đá, cửa kính, mái ngói, kỹ thuật và công nghệ kim loại, sắt thép và chất dẻo. Nhưng ở đây còn một điều gì khác nữa, như thể trong khí trời mát dịu, giữa sắc hương hoa, chủ nghĩa thực dân của thế kỷ mười chín, hai mươi, đã đi một đường vòng rất xa đạt tới đỉnh cao huyền thoại của nó trong việc tạo dựng vẻ đẹp nhân bản ở nhiều xứ sở, không những mang văn minh Pháp đến các xứ sở ấy như cái cách mà họ làm lan truyền Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, mà còn phát hiện được, xây dựng lại, bồi đắp nên vẻ đẹp của chính dân cư và vùng đất mà họ đến. Những kiến trúc ấy gợi ý cho tôi rằng giải pháp hay nhất của các dân tộc bị trị vào thời ấy không nằm ở các biện pháp vũ lực, ở sự sợ hãi, ở việc hủy hoại, nói dối, cướp chính quyền, vì trong khi chúng phá hủy những thiết chế xã hội của người Pháp thì chúng sẽ tàn phá lập tức cái đẹp mà truyền thống và đất đai xứ sở này sáng tạo nên. Đó là những suy nghĩ của tôi trong một ngày mùa xuân bên đường phố vắng, khí trời trong sạch.
Có lần trong ngôi nhà của chị Thanh ở Mỹ gần Seattle, nơi chị sống chung với con trai, cháu Lam Điền, lúc ấy chưa vợ, chị kéo tôi vào một căn phòng kín, như cái thư viện nhỏ. Chị cố tìm một cô bé trong một bức ảnh nào đó mà chị quảng cáo là đẹp, hiền, biết nấu ăn, vì muốn giới thiệu cho tôi, hồi đó độc thân. Do sự hào hứng bất ngờ, chị đành phải lục tung những giấy tờ kỷ niệm và hàng chục cuốn album tranh ảnh của gia đình. Nhưng khi lật những bức ảnh chị không thể cưỡng lại ý muốn giải thích cho tôi về những nhân vật trong ấy, và ý nghĩa của chúng.
Đây là hình Đinh Cường đứng trước kệ sách. Đây là Phạm Công Thiện và Hoài Khanh ngồi trên bậc tam cấp, ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng. Hoàng Ngọc Tuấn, cao, hiền lành, cười nửa miệng. Trịnh Công Sơn gần như ngồi bệt xuống sàn nhà, chân co chân duỗi, cây đàn guitare để gác lên cái ghế thấp bên cạnh. Không hiểu vì sao trong nhiều bức ảnh, Trịnh Công Sơn thường ở trung tâm. Đám trẻ trước đây, và cả bây giờ, gọi họ là Thiện, và Sơn, vì đối với họ, Phạm Công Thiện là tuổi trẻ lạc loài, Trịnh Công Sơn là tình yêu hư ảo. Và Hà Thanh, áo dài, tay áo xắn lên gần khuỷu tay, cầm ly nước như sirop trái cây. Và Khánh Ly, nhiều bức đẹp tôi chưa từng thấy trên báo chí. Trong tất cả, bức mà tôi chú ý nhất là của Vũ Khắc Khoan chụp chung với chị, hai người đứng bên cửa sổ, phía sau lưng họ ánh mặt trời rọi xuống, và đứng chéo góc xa hơn, một người phụ nữ với khuôn mặt nhìn nghiêng, chị ngắm lui ngắm tới mãi, rồi bảo, Phùng Thăng.
Nhìn trong ảnh, trí thức thời ấy lãng mạn mà đăm chiêu. Khí chất ấy có lẽ toát ra từ nhân phẩm riêng hoặc từ vị trí quý tộc mà xã hội ban tặng. So với họ, trí thức bây giờ trông nhốn nháo hơn. Xúc động trước hàng trăm ảnh đẹp, tôi quên mất hỏi chị chi tiết. Quên hỏi chị bức ảnh rất lạ của Bùi Giáng ở đâu, nhà chị hay nơi khác, vì có hình của em gái của chị, hậu cảnh lại mờ. Khi xa rồi nhớ lại câu hỏi, chị không trả lời. Chị không thể trả lời. Chị đã thuộc về một thế giới khác, không quê hương, không ký ức. Con người trần thế không lưu giữ ký ức thiên đàng. Một lần trên điện thoại, sau nhiều phút im lặng chị bỗng nói mấy chữ tôi không nghe được. Chị phải lặp lại, phát âm rõ hơn. Ngàn Sâu. Ngàn Phố. Nhưng chị Thanh một người Đà Lạt, rồi Sài Gòn, rồi nước ngoài, nhưng anh Tốn, một trung tá, phó tỉnh trưởng phụ trách quân sự những năm sáu mươi, thì có mối liên quan ra sao đến Ngàn Sâu, Ngàn Phố? Sau này đọc lại cuốn tiểu thuyết Cõi đá vàng của chị (*), tôi hình dung đó là ký ức thời kháng chiến. Hạnh phúc đôi khi là quên lãng. Nhưng chị không muốn quên, chị muốn nhớ lại. Không phải chị muốn, mà những tế bào thần kinh sắp tê liệt của chị, những ốc đảo cuối cùng giữa hoang mạc, thỉnh thoảng lại phóng điện, như tia chớp. Chúng muốn.
Tài liệu viết, sông Ngàn Phố, còn gọi sông Phố, bắt nguồn từ núi Giăng Màn thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, gần biên giới Việt Lào. Sông Phố chảy từ Tây sang Đông tới nơi giáp ranh huyện Hương Sơn với huyện Đức Thọ. Tại ngã ba Tam Soa nó nhập với sông Ngàn Sâu, tức sông Sâu, từ các huyện Hương Khê, Vụ Quang chảy từ phía Nam lên để tạo thành sông La. Đến lượt sông La chảy vào sông lớn hơn là sông Lam. Thời kháng chiến chống Pháp thượng nguồn sông Sâu và sông Phố là những chiến khu nổi tiếng. Khi nhắc đến chữ ấy, giọng chị xa vắng. Như một người đang đi bỗng mất phương hướng, nhìn quanh, không còn ai. Cùng với những người khác, cuộc đời họ, câu chuyện của họ, những cái chết bí mật, tra tấn, tù đày, mất tích, những đầu mối không tồn tại, những biên giới xóa. Bạn không thể trở về, không những cha mẹ không còn mà căn nhà cũ không còn, không những căn nhà cũ không còn mà ký ức về nó cũng không còn. Đó là yếu tính của hoài niệm của người Việt hôm nay, dù Bắc hay Nam. Câu thơ quốc phá sơn hà tại không đúng. Sơn hà không còn. Chỉ còn con người mờ nhạt như những cái bóng của nền văn hóa xa lạ. Nostos trong tiếng Hy lạp là trở về, algos là đau đớn, nostalgia là đau khổ khi trở về, là hoài niệm.
Hậu quả xấu nhất của các cuộc xâm lăng là xóa sạch văn hóa của vùng đất bị chiếm đóng. Cuộc chiến tranh chấm dứt năm 1975 không phải là cuộc xâm lăng theo nghĩa thông thường, kiểu một nước này chiếm một nước khác, nhưng về mặt văn hóa đó là cuộc xâm lăng vì hai tính chất: xóa sạch lịch sử và tạo dựng cái mới. Vì vậy trên nền nhà cũ đã cháy, không còn tro tàn. Không còn nhà. Ký ức của những người như chị Thanh là tài sản tinh thần của thế hệ sau. Có lẽ đối với chị có hai quãng đời đẹp, những ngày ở Đà Lạt bên gia đình, những người bạn dưới bóng hoa vàng, tích niên kim nhật. Chị còn có những ngày cũng đẹp như thế, bên chàng trai mới lớn, khẩu súng với cây đàn guitare, hai kẻ si tình, chị và anh Tốn của tôi, trốn cha mẹ bỏ nhà ra đi, hớn hở bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Như những kẻ sẽ bị phản bội, như những kẻ sẽ phải bỏ trốn. Một thế hệ lúc nào cũng lạc đường, bị vây khổn. Ký ức là mặt hồ im lặng. Bạn đã ném một thứ gì vào đó. Bạn đi vòng quanh, dáo dác tìm, chẳng tăm hơi.
Thân sinh của anh Tốn và anh Tấn, tức cậu tôi, gia cảnh nghèo, sinh bất phùng thời chữ Hán không được dùng, trở thành nông dân bất đắc dĩ, nhà lại đông con. Bà ngoại tôi có một người em gái ở Huế, thương cháu, gọi cậu tôi về cho không một con bò để cày cấy và làm phương tiện sinh sống. Khi cậu tôi cầm sợi dây thừng dài dẫn con bò từ phố qua đò Thạch hãn về làng, cũng là lúc bản án dành cho cậu được viết xong. Bọn du kích bắt cậu lên rú tra khảo. Đến ngày thứ ba, cậu không chịu nổi nữa, đành ký giấy tình nguyện hiến con bò cho kháng chiến, với điều kiện cho phép em gái của cậu, tức mẹ tôi, và đứa con gái đầu lòng của cậu, chị Sim, chị của anh Tốn, được lên thăm. Chúng cho phép.
Khi em và con đến, cậu tôi bí mật dặn họ: phải về mau, vì là con gái, chúng chưa có ý định thủ tiêu, đem hết cả nhà tản cư về tỉnh, đêm nay hay đêm mai thôi chúng sẽ giết anh, giết cha. Chúng đánh gãy hết các xương sườn của ông, nên ông biết bản án tử hình đã được ký. Tối hôm đó bọn du kích gọi cậu tôi đi thẩm vấn như thường lệ. Chị Sim khóc lóc nhứt quyết đòi đi theo. Chúng cho chị đi. Người cha bị dẫn sâu vào truông cát, sau cánh đồng bắp bạt ngàn, ven khúc sông uốn cong về thị xã, khủy tay trói ngoặt lại. Đứa con gái lẽo đẽo theo sau. Chúng bất ngờ dùng báng súng đánh vào đầu cậu tôi đến vọt óc ra, trước cặp mắt kinh hoàng của chị Sim. Rồi đào hố lấp xuống. Đứa con gái khóc thét, lăn xả vào ôm lấy cha. Thuận tay, chúng lấp huyệt chôn sống luôn chị Sim trên đồi cát. Mẹ tôi tất tưởi chạy về nhà mang theo lời dặn của anh trai. Từ đó vang vọng mãi trong con cháu gia tộc lời dặn: phải chạy cho xa. Anh Tốn lúc ấy là cán bộ đại đội của Việt Minh, nghe tin cha bị giết, bỏ ngũ về thành. Anh Tấn, thoát chết trong một trận ruồng bố của Tây, tha phương cầu thực, mãi khi hòa bình lập lại sau hiệp định Genève, nhớ làng nhớ nước, trở về quê cũ cày cấy, lo mồ mả kỵ giỗ. Để khỏi đi lính xa nhà, anh tham gia lực lượng dân vệ, nghĩa quân. Đó là lực lượng bán quân sự, đồng lương chết đói, nhưng được cái gần nhà. Nghĩa quân là người lính vô danh, chân lấm tay bùn, nhưng là lực lượng đẩy lui các cuộc tập kích dữ dội của du kích, vì họ thông thuộc đường lối, chiến đấu gan dạ. Hôm ấy, anh Tấn hỏi đi hỏi lại chỉ một câu, o còn nhớ không. Mẹ tôi làm sao quên. Nhưng có một người mẹ Việt Nam nào, khi nhìn thấy một thanh niên mặt non nớt như con mình, một người lính máu chảy ướt đầm vạt áo, ruột lòi ra ngoài, mặt tái ngắt, sắp ngất đi vì đau đớn, có người mẹ nào có thể đứng yên mà nhìn?
Kahlil Gibran bảo: quên là hình thức của tự do. Nhờ quên chúng ta mới sống được. Quên không phải là tha thứ, nhưng trong tha thứ có quên lãng. Buổi trưa ngắm bụi hoa mimosa vàng, rào tường vi trắng, nhìn ngược trở lại mái nhà chưa chi đã phong rêu, tôi nhìn thấy tác động của nhà cửa, kiến trúc, đường sá đối với không gian tinh thần của xã hội. Ngôi nhà được xây kiên cố, đường nét uy nghi dịu dàng. Nơi chốn xứng hợp của một salon văn nghệ. Kiến trúc, trong sự hòa hợp với thiên nhiên, tạo ra khung cảnh sống nâng đỡ tinh thần một thế hệ. Nhà cửa, đường nét kiến trúc tạo ra sự cân bằng giữa cái đẹp và cái thiện. Con người sinh sống trong một khung cảnh như thế, hay từ xa đến trước một khung cảnh như thế, là tự đem mình đến gần cái trang nhã. Sự trang nhã là anh em song sinh của lương tri. Những kiến trúc kỳ quái, bất ngờ, hay ảm đạm, buồn tẻ ít gặp ở Đà Lạt, những kiến trúc phô trương màu mè, mà sau này hình như ngày càng nhiều ở Hà nội, Sài gòn, cũng ít thấy ở đó. Sự cân bằng khác với sự đơn điệu. Sự cân bằng đạt được giữa một bên là những đường nét phức tạp, sang trọng, các trang trí đắt tiền, và một bên là sự giản dị, thanh khiết, thậm chí nghiêm khắc. Sự phối hợp các mặt đối lập giữa đường nét kiến trúc lớn, cứng, thẳng và đường cong uốn lượn, mềm mại, thon thả thể hiện tính cách khác biệt trong cùng một người: mạnh mẽ, dữ dội và linh động, khoan dung. Như thế không phải chỉ vẻ đẹp kiến trúc làm tôi đến gần mà còn sự tốt lành của chúng, tạo ra hấp dẫn. Đó là cân bằng giữa thiên nhiên và vật thể do con người tạo ra, sự cân bằng giữa nội tâm và ngoại cảnh, giữa đời sống tâm hồn một cá nhân và các thiết chế xã hội, không những các thiết chế văn hóa mà còn là, và đặc biệt là, những thiết chế chính trị. Một nền chính trị xấu không sinh ra một nền kiến trúc đẹp. Ngược lại, một kiến trúc đẹp chỉ xuất hiện trong điều kiện chính trị thuận lợi, có khả năng kích thích cái đẹp, lòng vô tư, sự bền vững.
Tôi sẽ còn trở lại Đà lạt một lần nữa, với Hoàng, mối tình đầu, người thiếu nữ sẽ ở lại lâu dài giữa ngàn thông reo, bên kia thung lũng có hồ nước biếc. Sẽ ở lại tiếng cười trong veo trong bụi dâu tím, ngọt ngọt chua chua, ở lại với mùi cà phê thơm thoảng bay trong tóc. Nhưng đó là những năm về sau. Sigmund Freud, trong một bài tiểu luận năm 1915, về sự vô thường, kể lại cuộc tản bộ trên núi với Rainer Maria Rilke, tác giả của Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi, Phạm Công thiện dịch. Mùa hè rực rỡ, bướm bay, hoa nở trên cỏ. Ông thấy hạnh phúc khi đi dạo ngoài trời, nhưng lấy làm ngạc nhiên, nhà thơ trẻ tuổi bạn ông tỏ ra buồn bã, đăm chiêu, đầu cúi xuống đất. Ông nhớ lại không phải vì nhà thơ bận suy nghĩ một đề tài nào khác mà quên vẻ đẹp của thiên nhiên. Mà chính vì vẻ đẹp ấy của thiên nhiên làm nhà thơ nghĩ đến ngày tàn của chúng. Nghĩ đến cái chết, Rilke không thể vô tư thưởng thức giờ phút hiện tại. Sự bất lực của con người trong việc bảo vệ cái đẹp, sự yếu đuối thậm chí a dua của họ trước sức mạnh bạo động, gợi lên ở nhà thơ cảm giác về cái mong manh của một nền văn hóa, một kiếp người. Vẻ lãng mạn đăm chiêu của trí thức ngày trước mà tôi nhận ra trong các bức hình của chị Thanh Sâm có phải cùng lý do ấy không?
Ngày tôi đến Đà Lạt, ngoài cảnh gian khó sau chiến tranh, ở đây và các tỉnh cao nguyên đang lan tràn dịch sốt xuất huyết. Trong bệnh viện, trẻ con nằm la liệt. Bệnh do siêu vi trùng Dengue gây ra nhưng từ loại muỗi Aedes aegypti truyền đi. Bây giờ căn bệnh ấy đã giảm, vì thời tiết thay đổi, vì việc thành thị hóa như điên như cuồng bất chấp mọi giá đã tàn phá xong tính hoang dại của các cánh rừng, các hang động, các thác đèo, thung lũng. Nhưng một lúc nào đó, khi ký ức nhân loại về chứng bệnh ấy đã phai lạt, ở một góc phố tối sau hẻm vắng sình lầy, sau khi tất cả dọn dẹp đã xong, cành khô bụi dại đã đốt, khi chúng ta đã quên, trong một vũng nước đọng lâu ngày sau mưa, những cái trứng nhỏ li ti của loài muỗi nguy hiểm chết người kia sẽ được mang trở lại. Sẽ được gieo xuống, sẽ sinh nở, và bắt đầu lớn lên.
Nguyễn Đức Tùng
(*) Nhà văn Trần Hoài Thư:
"Thưa bà. Thưa nhà văn Nguyễn thị Thanh Sâm. Anh em chúng tôi đã tìm được truyện dài Cõi Đá Vàng của bà rồi. Kẻ đánh máy. Người vẽ bìa. Người dò lỗi chính tả. Kẻ viết tiểu sử… Dự án đã hoàn tất. Giờ là in. Là cắt, đóng. là làm bìa, là ép giấy láng… để mang đứa con tinh thần của bà sau bao năm thất tán về lại mái nhà xưa mà giao lại cho chủ của nó.
Dù mái nhà có hoa mimosa vàng ấy đã không còn hiện hữu nữa sau tháng 4-75 nhưng nó vẫn tồn tại trong cuốn sách 414 trang này. Vẫn có Đinh Cường bên cạnh bà, Trịnh Công Sơn, Khánh Ly…. Vẫn có hình ảnh bà bên cạnh chồng và các con, và vẫn có Hoàng Ngọc Tuấn với đoạn văn viết về hai cây mimosa nở bông vàng trên sân….
Mái nhà ấy không mất. Nó vĩnh cửu."
|
|