|
Post by sheen on Jun 11, 2023 0:48:50 GMT -6
Nguyễn thị Thanh Sâm
Dâng Tốn tác-phẩm đầu tiên của Sâm. Cuộc đời này không dung những kẻ thương yêu nhau. Em đã tìm thấy Anh trong Cõi Đá Vàng.
THANH SÂM
CHƯƠNG I
Trần thả ngòi bút trên trang giấy chi chít những dòng chữ, trận đánh cuối mùa chiến dịch Đông Xuân với những hình ảnh sống động độc đáo nhất được chàng trần thuật lại trên mười trang giấy bằng một giọng văn thâm trầm sắc sảo. Chàng đứng dậy vuôn vai, sự mệt nhọc xâm chiếm cơ thể, chàng bước tới đẩy liếp cửa ra sân, mảnh trăng khuyết còn lơ lửng góc trời, ánh sáng mờ đục bàng bạc khắp nơi, Trần mỉm cười với trăng, nghĩ bâng quơ: “Ờ, thế mà tưởng là đã lặn rồi chứ.”
Khí núi mát lạnh làm chàng tỉnh táo, người cảm thấy nhẹ nhàng, chàng bách bộ quanh sân, tận hưởng phút giao hòa của Trời Đất bên triền đồi núi này, một chút kinh ngạc thích thú thoáng hiện trong mắt chàng. “Thế ra trời sắp sáng chứ không phải là nửa đêm, ánh sáng này pha lẫn bình minh chứ không phải là ánh trăng khuya, ra mình đã thức trắng đêm nay, đã viết triền miên như vô cùng tận, vậy mà vẫn không kịp, không đủ, không hề đủ."
Cuộc sống quả là kỳ diệu, ta mãi mãi ngạc nhiên mà vẫn không vơi những chuyện lạ, ta nghĩ hoài về nó mà không hề mãn ý, ta sẽ sống hoài những đêm tràn đầy như đêm nay, mười năm, hai mươi năm, một trăm, một ngàn năm sau nữa, có lẽ cũng không hề đủ. Có tiếng động trong nhà, tiếng chân người di chuyển xuống bếp, Trần nghĩ chắc chị Hiếu đã dậy lo buổi sáng cho hai con nhỏ của chị, khuôn mặt người đàn bà không nhan sắc, buồn bã với những nét mờ nhạt hiện ra trong trí chàng.
Ừ, kể cả người đàn bà này nữa, và hai đứa con của chị ta, sự hiện diện của họ trong vùng đồi núi miền chiến khu này cũng thật lạ lùng. Chồng chị đã chết ở Huế trong những ngày đầu tiếng súng nổ giữa quân Pháp và những người kháng chiến, người ta thấy sự có mặt của chị và hai con nhỏ như một ngẫu nhiên từ khi chiến khu này thành lập. Chị dựng căn nhà nhỏ này ở đây buôn bán ngược xuôi về đồng bằng, có khi vào tận thành phố Huế là nơi đang thuộc chủ quyền của người Pháp để mua hàng hóa thuốc men về bán cho những người kháng chiến. Chị còn nhận công tác liên lạc với những cơ sở bí mật của kháng chiến ở nội thành, nhờ đó chị có đủ mọi giấy tờ cần thiết để ra vào đất địch dễ dàng. Hai đứa con chị còn nhỏ chừng năm sáu tuổi, thơ thẩn ở nhà chơi với nhau suốt ngày chờ mẹ về mỗi buổi chiều.
Ngày cơ quan của chàng về trú tại vùng này, người ta chia ra từng nhóm hai ba người đến ở trọ các nhà dân chúng. Trần là chủ nhiệm tờ báo của quân đội kháng chiến, chàng được chỉ định đến ở nhà của chị Hiếu vì căn nhà của chị khang trang, biệt lập bên một triền núi, rất thuận tiện cho sự viết lách cùng mọi hoạt động biên tập của nhóm chàng. Chàng thấy đời sống của chị Hiếu và hai con chị ở miền chiến khu đầy bất trắc này thật phi lý, cuộc chiến giành lại quê hương này cần những người trẻ tuổi và không bận bịu như chàng, chị Hiếu chỉ là một người đàn bà buôn bán nuôi con qua ngày, lo cho hai đứa con cho đến khôn lớn cũng đủ cơ cực rồi, chị đâu cần có mặt nơi đây để chịu đựng lam sơn chướng khí, những chuyến đi mua hàng gian nan nguy hiểm, ngang qua đồn bót của Tây, những chuyến trèo đèo vượt suối, bọc hàng nặng trĩu trên vai, quá sức của một người đàn bà yếu đuối. Trần nhớ khuôn mặt xanh xao của chị mỗi chiều tối mang cây đèn thắp sáng đặt trên bàn viết của chàng, khuôn mặt còn in nét nhọc nhằn cam khổ như dấu hiệu hẩm hiu của người đàn bà không nhan sắc, không được che chở trong cuộc đời. Điều bất hạnh nhất cho chị là đôi mắt lé quá nặng nề của chị, nó làm biến đổi hẳn nét mặt lẽ ra cũng không đến nỗi nào. Hồi mới đến Trần không dám nhìn thẳng vào mắt chị mỗi khi có điều cần hỏi, Trần sợ chị ngượng nhưng lâu dần vẻ hiền hòa dịu dàng của chị, nét buồn rầu cam phận như cái bóng nhạt nhòa khiến chàng không nghĩ gì nữa. Có lần chàng hỏi chị sao không đưa những đứa bé về xuôi sống một cuộc đời dễ chịu bình yên hơn, chàng nói rằng không ai trách cứ gì chị khi chị cũng đã hiến cho Tổ quốc người chồng thân yêu của chị, không ai đòi hỏi sự góp phần của người đàn bà yếu đuối phải cưu mang hai đứa trẻ mồ côi. Chị cười buồn nói: “Chỗ của mẹ con tôi là ở đây chú ạ, có lần tôi cũng nghĩ như chú nhưng tôi không thể bỏ lỡ dịp cho các con tôi được trông thấy và lớn lên trong cuộc kháng chiến này.”
Câu nói khiến Trần bàng hoàng nhìn kỹ chị, nét mặt của người đàn bà ngoài ba mươi tuổi dầu dãi nắng mưa vẫn bình dị yên tĩnh. Trần kinh ngạc quay đi, cảm thấy giận mình vô cớ. Trong buổi tranh tối tranh sáng mà sa mù bắt đầu rơi dày trên thung lũng đó đây, Trần bỗng nhớ lại niềm kinh ngạc đó, chàng vẫn chưa hết lạ lùng, làm sao có thể ngờ được một người đàn bà như vậy lại có thể nói được một câu như thế. Chị ấy có biết mình đã nói gì chăng, chị ấy có biết bằng câu nói ấy chị đã tuyên đọc một thông điệp cho cả một thế hệ sắp tới trên quê hương này? Cái gì sẽ xảy đến sau khi thông điệp được ban ra? Sự sống hay sự chết? Có lẽ không cần thiết, điều quan hệ là nó đã là một thông điệp.
Một cánh chim nhỏ lướt qua không gian mất hút sau đám mù xa, những ngôi sao thưa thớt nhạt dần, vài đóm lửa lập lòe bên kia thung lũng, tự đó tỏa lên một làn khói mỏng manh tha thướt như xiêm y của người con gái liêu trai, làn sương khói cứ bay lên, bay lên mãi để ngừng lại trên ngọn đồi xa, ở đó đã có một vài tia hồng yếu ớt.
Trần bỗng rùng mình, chàng vụt quay về phía ngõ, đi lên hướng ngọn đồi.
“Tôi đã sống hai mươi ba năm, mỗi ngày đến với tôi như thể lần đầu tiên tôi nhìn thấy, nhớ ngày nào bước chân hai mươi đi trên thành phố cũ, thành phố có một giòng sông, không, có mấy giòng sông, nhưng có hề gì, một giòng sông là đủ rồi, tất cả mọi giòng sông đều chỉ là một, đều chỉ từ nguồn suối đổ về và đều cùng đi ra biển cả."
Còn nhớ những buổi mai đợi đò qua bến Phu Văn Lâu chuyến sớm, tại sao lại phải chuyến đò thật sớm nhỉ, quả thật tôi không có việc gì phải dậy thật sớm để đến kịp chuyến đò ngang ấy cả, nếu không vì một chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng e ấp, che giấu một đôi mắt u uẩn tuyệt vời, tà áo lụa óng ả như đôi cánh bướm bay, mái tóc buông lơi trên vai gầy thơ dại, cảnh tượng sông nước ban mai, những tia nắng đầu tiên ấm áp trên đôi môi hồng, nét cười đằm thắm.
Tuổi hai mươi của tôi trôi qua như thế, như trong nôi hồng, uể oải nhịp bình yên, một tuổi trẻ nâng niu vàng óng, một giấc mơ chợt thấy mình hóa thành thi sĩ, tôi đã viết một bài thơ hay nhiều bài thơ, không còn nhớ rõ, những bài thơ cho nàng, chưa một lần biết tên, chưa một lời thăm hỏi, những bài thơ cho giòng sông, cho thành phố tôi yêu.
Bây giờ tất cả đã xa rồi. Tôi hai mươi ba tuổi, tôi nhìn lại chàng trai hai mươi ngày đó với cái nhìn khoan dung của người anh phong trần sương gió, tôi ngoái lại giòng sông, thành phố cũ trong viễn vọng ưu ái xót xa.
Bây giờ tôi ở đây, giữa miền đồi núi này, bỏ lại sau lưng thành phố thân yêu dưới gót xâm lăng của giặc Pháp, tôi đã ra đi, một sớm một chiều không còn nhớ rõ. Ở đây tôi hiện hữu giữa một không khí nồng say, giấc mơ của tôi còn đó, thế hệ của tôi đang có diễm phúc ôm tròn lý tưởng trong tay, lý tưởng sống chết giành lại đất đai quê hương này. Những kẻ ôm mộng xâm lăng phải mở mắt ra, phải hiểu rằng có tôi trong cuộc chiến, có tôi trong triệu triệu tuổi trẻ sẵn sàng chết cho xứ sở đau thương này.”
Trần dừng lại trên ngọn đồi, chàng lặng người trong một hạnh phúc vô biên, chàng muốn thét lên một tiếng, tim run run trong khoái cảm tràn ngập, buổi mai mà khí trời trong như được lọc từ lớp bụi vàng ở xa kia, rõ ràng trời đất chuyển mình, nghe như trong mạch đất tiếng rào rào của muôn ngàn côn trùng đang muốn chui lên góp mặt, tiếng chim đột ngột trỗi lên lảnh lót trong rừng xa, giòng suối dưới chân đồi róc rách như nguồn ân tình vô tận.
Trần chợt nghĩ đến Huỳnh, người bạn văn thân thiết nhất của chàng và thầm tiếc không có bạn ở đây với mình bây giờ, chàng chậc lưỡi, ừ nếu có hắn thì mới thật là tuyệt, cả hai đứa sẽ làm đủ mọi chuyện điên khùng vì nỗi vui được chia sớt, hai đứa sẽ chạy nhảy, sẽ vật nhau cho đến mệt nhoài, thơ sẽ được ngâm vang lên, và một ngày sẽ bắt đầu như ngày hội.
Chàng ngẫm nghĩ về Huỳnh trong khi trở gót quay trở lại nhà, cái thằng ở bẩn thật hết chỗ chê, và tính nết khó chịu đến không ai chịu nổi, Huỳnh luôn luôn mang một tâm trạng dằn vặt, ray rứt buồn phiền, hắn lầm lì cay đắng với cả mọi người, thế nhưng mỗi khi hai đứa gặp nhau, có dịp công tác hoặc đi chơi chỉ riêng hai thằng với nhau thì hắn như biến thành một người khác, hắn ngoan ngoãn như trẻ thơ, nụ cười chiếu sáng khuôn mặt xanh xao bẩn thỉu lởm chởm những râu và tóc, hắn lặng yên nghe Trần kể lể một cách nồng nàn về đời sống và bất chợt đôi lúc hắn cũng lây cơn cuồng say tuổi trẻ của Trần. Hắn bảo Trần: “Hãy cứ được như thế, và mong mày đừng khốn khổ như tao.”
Có một lần Trần gặp Huỳnh trong mùa chiến dịch ở đồng bằng, Trần vồ lấy bạn, buổi chiều xuân khí trời êm ả, hai đứa ngồi dưới gốc một cây bàng chơ vơ giữa cánh đồng lúa xanh ngăn ngắt, Trần nói với bạn:
– Cái vụ một vị linh mục bị tụi Tây bắn chết hôm qua dưới bến sông phía sau nhà thờ đó, bảo rằng chúng thấy màu áo đen tưởng đâu là du kích, cái bác chủ nhà tao ở nhân đi thăm ruộng có tạt lại xem, về bác ấy kể lại như thế này: “Tây nó bắn cái đạn chi mà lạ thiệt, vết đạn khi vô nơi ngực nó nhỏ bằng đồng xu, vậy mà trổ ra sau lưng nó to bằng dĩa thịt bò, tội nghiệp ông cha bị bắn chết nằm cả đêm lạnh lẽo dưới bến, đêm qua mưa nhỏ mà mưa cả đêm, xác ông cha bị ướt đầm xanh ngắt;” rồi bác ấy lại còn nói thế này: “Trời đất chi lạ thiệt, mưa một đêm mà sáng ni cây cối trút lá non ra hết, lúa mạ năm ni chắc được mùa, không biết Tây nó có để yên cho mình gặt hái không đây.”
Trần xuýt xoa với bạn:
– Lạ thật mày ạ, chiến tranh và mùa xuân đến thật bất ngờ và đầy thú vị trên môi một người dân quê chất phác, mày thấy không? Huỳnh lặng yên, ngả người nằm dài trên cỏ, vắt tay lên trán nhìn trời, giây lâu mới nói:
– Điều làm tao nghĩ là cái chết của mình sau này có được như vị linh mục kia không, một phát đạn, nằm xuống, hồn còn đầy cảm tạ ơn Chúa, mưa xuân bay phơi phới trên mình, không ray rứt, không hận thù.
Trần hiểu ý bạn, lòng chàng hơi se sắt, chàng cũng đã cảm thấy một sự gì bất ổn trong cuộc sống và lý tưởng chàng đang đeo đuổi, nhưng chàng chưa biết rõ được là cái gì. Huỳnh biết rõ điều đó hơn chàng nhưng giữa họ vấn đề chưa hề được đề cập tới, có lẽ vì cuộc sống này còn quá mới mẻ, vùng ánh sáng này còn quá thanh tân. Trần vẫn mến trọng tư tưởng thâm sâu của bạn, cả những nỗi phiền muộn u uất của bạn, Trần hiểu Huỳnh đã dành những phút giây nhẹ nhàng thanh thản nhất, dễ chịu nhất mỗi khi có chàng. Huỳnh lớn hơn chàng vài tuổi, một tâm hồn sống động, bén nhạy đến tột cùng, Huỳnh vẫn nói với chàng mỗi khi nghe chàng bày tỏ những tư tưởng đam mê sôi nổi của chàng:
– Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 0:50:48 GMT -6
CHƯƠNG II
Nắng đã chan hòa khắp nơi khi Trần về đến nhà. Quý, chú bé mười ba tuổi ở chung với chàng với nhiệm vụ liên lạc viên, cười hỏi chàng:
– Anh đi đâu sớm thế?
– Anh vừa đi lên đồi về.
– Cả đêm qua em thức giấc lần nào cũng thấy anh còn ngồi viết, vậy mà sáng nay anh đã lang thang thật sớm, anh tài thật.
– Em cũng tài thật, – Trần cười âu yếm nhìn Quý – có những đêm anh trông thấy em ngủ mà anh thèm. Hồi ở tuổi em anh cũng ngủ được như thế, bây giờ mới biết hồi đó mình tài.
Quý thích chí cười to: “Vậy là anh em mình đều tài hả anh?”
Chú bé vụt chạy đi, một lát mang lên một đĩa khoai luộc nóng hổi:
– Mình ăn sáng đi anh, khoai chị Hiếu nấu hộ đấy. Chị ấy đi rồi.
Nhìn đĩa khoai bốc khói Trần cảm thấy mình đói ngấu, Quý bóc vỏ một củ đưa cho chàng, chàng cắn một miếng, nhai thong thả, ngẫm nghĩ, khoai lang được nấu với nước dưa cải, ăn có vị đậm, bùi và ngọt lịm, chàng bảo Quý:
– Em gói mang theo vài củ nhé, chốc anh em mình vào tỉnh một chút rồi đi luôn đến chiều, anh không muốn phải buổi trưa đi tìm cái ăn, để thì giờ anh nghỉ một lát, còn thật nhiều việc phải làm.
Vừa ở ban chỉ huy trở ra, Quý đón chàng, với vẻ mặt hiếu kỳ:
– Còn sớm mà anh, anh em mình hãy đi xem xử tử Việt gian cái đã rồi hẳn đi nghe anh.
Trần hỏi: “Xử tử Việt gian? Việt gian nào? Ở đâu?”
– Phía bên kia cánh rừng gần ty Công an Tỉnh ấy mà, cũng ở ngay trên con đường mình sắp đi qua đây thôi. Em thấy người ta vừa giải mụ ấy đi ngang qua đây trong khi em chờ anh ngoài này, hoài của, người trông khá đẹp, vậy mà làm gián điệp cho Tây, gớm thật.
– Một người đàn bà à?
– Vâng, một mụ đàn bà, trẻ lắm anh ạ, em hỏi thằng Sinh liên lạc bên công an thì nó bảo rằng ta bắt được mụ ấy ở Kim Luông chiều hôm kia, mụ ấy lấy Tây anh ạ, nghe đâu thằng Tây chồng của mụ ấy là quan tư quan năm gì đó ở Huế, khi bị bắt mụ ấy khai là về Kim Luông thăm nhà và giỗ mẹ. Thằng Sinh nó bảo lấy chồng Tây là Việt gian chính cống rồi, ngữ ấy còn giả vờ đi vớ vẩn để lấy tin tức của ta mà cung cấp cho Tây chứ đã đi lấy Tây thì còn biết cha ông gì nữa mà về thăm. Nó nói bên công an quyết định sáng nay mang ra xử bắn cho rảnh, kẻo lỡ có máy bay bắn, mụ thoát được lại chỉ điểm cơ sở mình cho giặc thì khốn. Cuộc xử chỉ có mấy người bên công an chứng kiến thôi, thằng Sinh nó bảo muốn xem thì anh em mình cứ lại, quen cả mà.
Trần lẩm bẩm: “Lấy Tây, làm Việt gian, hừ.”
Chàng bước đi, vừa suy nghĩ. Quý bước theo, kèo nài: “Mình đến xem thử, anh nhé, em chưa hề xem xử tử Việt gian.”
Trần bảo muốn xem thì xem, trong khi mặt cúi xuống, chàng lầm lì bước, chàng không lạ gì những chuyện như thế, xảy ra hằng ngày như cơm bữa, giữa một không khí chiến tranh còn mới mẻ, người ta không thể phân biệt nổi ai thù ai bạn, người ta chém giết nhau hằng ngày, say cuồng trong sự chém giết, chỉ cần một danh từ, Việt gian, thế là đủ rồi, những lập luận buộc tội rất mơ hồ, nhiều khi thậm vô lý, và không cần bằng cớ. Những thù oán, tỵ hiềm riêng tư cũng dựa vào đó để thanh toán nhau nhân buổi loạn ly này. Trong những làng mạc, sau những lũy tre, đời sống thật vô cùng bấp bênh, sau một đêm đen, người ta thấy đó đây vài xác chết được gắn lên một bản án viết tay lem luốc, vài cái đầu lâu treo lủng lẳng trên những ngọn tre.
Còn có bao nhiêu vấn đề cần nghĩ tới, còn có bao gập ghềnh khó khăn khống chế con đường đi tới ngày mai. Từ lâu nay chàng chỉ nhìn mọi sự việc một cách phiến diện, chàng cho rằng thế tất không thể nào tránh được những điều ghê tởm đó trong bất cứ cuộc chiến nào, vả chăng chàng chỉ là một quân nhân nghệ sĩ, những hình ảnh, chất liệu của chàng rút tỉa từ những chiến dịch đáng say mê, mặt đối mặt quân thù thực sự là giặc Pháp xâm lăng, những ngày theo đoàn quân di chuyển trong bùn lầy mưa gió, những đêm nằm trong những hầm công sự ngập nước rét run nghe ngóng từng tiếng động tĩnh bước chân của địch, những cuộc chạm trán gay go với tử thần. Cuộc sống cơ cực đói khát gian lao trên rừng, dưới ruộng, ngoài cát biển chỉ rèn luyện cho chàng thêm cứng cỏi, thêm phong phú cho tâm hồn đầy biến động và gió bão của chàng.
Bây giờ, trên đường đi của chàng, chàng sắp xem một cuộc xử tử Việt gian. Việt gian, tiếng để chỉ một kẻ thù từ trong da trong thịt, để xem một người đàn bà có cái tội là đã lấy Tây, mà lấy Tây tức là không nghĩ gì đến cha ông tức là phản quốc, giản dị là như thế trên môi Quý hồn nhiên kể lại, mà sao chàng bỗng thấy bước chân nặng nhọc, một áng mây đen vô hình phủ trùm lên buổi sáng thắm tươi rực rỡ này. Chàng đã từng thấy bao nhiêu là xác chết trên bãi chiến trường, xác chết của bạn, của thù, chàng đã sờ mó, bồng ẵm, vuốt mắt cho họ, lòng chàng buồn bã, ngao ngán, tràn ngập cảm thương số phận con người, cả thù lẫn bạn; chàng không hề sợ hãi, chàng rút tỉa trên khuôn mặt của những xác chết, hình ảnh trung thực của cuộc đời. Có lần chàng ngắm khuôn mặt của một anh em đồng đội nằm chết bên một xác địch quân, chàng bỗng ngạc nhiên khám phá ra những nét phản ứng trong cái chết giống hệt nhau trên hai khuôn mặt da trắng, da vàng, chàng đã tìm được sự đồng nhất tuyệt đối trong cõi chết giữa hai con người khác màu da mà khi sống đã là kẻ thù. Họ nằm đó, sóng sượt bên nhau, hai nét mặt cùng có vẻ ngỡ ngàng, dò hỏi; nét bi thống trên hai gương mặt như muốn nhắn nhủ một điều bí ẩn nào cho người sống, một niềm câm lặng không kịp truyền lại, ngàn đời mang đi. Cái chết, do đó, chàng thấy thân thuộc, luyến lưu, không có gì ghê tởm.
Nhưng giờ đây trên đường đi, chàng sắp chứng kiến một cái chết, nếu những cái chết đều giống nhau thì tại sao lòng chàng trĩu nặng, chàng có thể bỏ đi để không nhìn thấy, song le tự đáy tâm hồn có một tiếng nói nghiêm trang cất lên:
“Mày không được hèn nhát, đã có gì đủ để chứng tỏ con người của mày đâu; sự dũng cảm quên mình trước súng đạn, những đói khát gian lao nguy hiểm mà mày thường tự hào, có thấm gì đâu? Mày không thể viện dẫn những cái đó ra để lẩn trốn điều mày phải thấy được. Mày phải nhìn tận mắt những vấn đề mày cho là không phải của mày, rồi mày sẽ thấy, nếu mày không muốn thấy mày chỉ là một thằng hèn, một thằng khoác lác.”
Trần theo Quý rẽ ngang một con đường tắt dẫn vào khu rừng già cách chừng một dặm. Đi hết lối mòn giữa bãi tranh hai người bắt đầu dẫm chân lên con đường vào rừng rợp bóng cây im mát, càng vào sâu càng âm u như ngày đã về chiều; chân chàng dẫm trên nền đất ẩm, hai bên rìa đường phủ dày một thứ rêu xanh mướt, loài rêu đó còn bám đầy trên những thân cây hai bên đường, những thân cây xù xì cao vút, tỏa rộng những vòm lá che khuất mảnh trời xanh bên trên, giữ một bóng im thăm thẳm cho rừng, để nuôi nấng những rong rêu ẩm mốc, những loại côn trùng không tên tuổi, những con vắt hút máu người tròn trĩnh.
Quý đi bên cạnh chàng, nó hơi e ngại thấy chàng có vẻ lầm lì yên lặng, chợt nó thấy một con vắt nhảy bám vào cổ áo Trần, nó vội lấy tay gạt xuống đất. Trần như sực tỉnh quay nhìn bảo: “Thiếu chút nữa thì nó chui vào cổ anh rồi,” Quý được khuyến khích bởi vẻ dịu dàng bất chợt của Trần, nó kể tiếp:
– Anh ạ, thằng Sinh nó còn kể rằng ông Bé ở bên ty Công an vừa khoe với nó ba mũi tên tẩm thuốc độc của người thiểu số, nghe đâu loại thuốc độc ấy người thiểu số họ chế bằng một thứ nhựa cây gì, chất độc mạnh lắm, chỉ cần bắn một mũi là cọp hay voi gì cũng lăn ra ngay, ông Bé xin được ba mũi tên thích lắm mà chưa có dịp bắn được con thú gì để thử, cho nên bữa nay ông ấy lãnh phần xử Việt gian để bắn thử mũi tên tẩm độc xem có hiệu nghiệm không, em có thấy ông ấy có cái nỏ mọi lên nước màu mun đen bóng đẹp lắm, thằng Sinh nó còn bảo...
Một tiếng thét lồng lộng nổi lên xuyên ngang sự u tịch của khu rừng, đập vào thái dương của Trần và Quý, hai người cùng khựng lại, không ai bảo ai họ cùng đi nhanh về phía có tiếng thét, cùng lúc ấy tiếng kêu lại nổi lên thất thanh:
– Cứu tôi với, trời ơi, cứu tôi với.
Tiếp theo là tiếng rên rỉ tuyệt vọng, tiếng của một người con gái. Trần vạch lá, bước vào một khoảng trống, từ hướng chàng đến, chàng có thể nhìn suốt được quang cảnh lúc đó. Người con gái bị trói quặt vào một thân cây, chiếc áo cánh trắng bị xé toạc để lộ từ ngực suốt xuống bụng, hai mũi tên ghim sâu vào bộ ngực căng phồng trắng muốt, khoảng da nơi mũi tên cắm vào loang ra một vòng tròn xanh thẫm, những thớ thịt rung lên từng hồi cùng tiếng kêu cứu không dứt của người con gái, miệng nàng đã sủi bọt, hai mắt bị bịt kín bằng một mảnh vải đen, tóc tai rũ rượi, nàng cố vặn người vùng vẫy một cách tuyệt vọng. Vút, một mũi tên thứ ba bay đến cắm phập vào ngực bên trái của nạn nhân, tiếng kêu cứu lại nổi lên nhưng lần này yếu ớt hơn, rền rĩ ai oán không dứt. Một tiếng nói bực tức ra lệnh:
– Làm mụ ấy im đi cho rồi.
Một người xăm xăm bước tới, kê súng lục kề thái dương nạn nhân bấm cò, tiếng nổ giòn khô khan, nạn nhân gục xuống, một cái giật nhẹ toàn thân rồi bất động, tiếng kêu tắt hẳn. Mọi việc xảy ra như chớp nhoáng, Trần đứng sững cảm thấy gần như tê liệt. Một người đàn ông đứng tuổi nước da mai mái, nét mặt cằn cỗi lạnh lùng, tay xách chiếc nỏ của người miền núi, tiến về phía nạn nhân theo sau là một đám đông độ mươi người, người đứng tuổi cúi xuống xác chết, bây giờ đã được mở trói đặt nằm dài trên đất, người ấy đưa tay nhổ một mũi tên trên ngực nạn nhân, một giòng máu đen ứa ra từ vết thương đen sẫm chảy dài dọc theo vết trũng giữa ngực, vòng theo đường tròn dưới vú trắng ngời như một con rắn nhỏ đang bò đi. Trong đám đông một vài người bất giác lùi lại, người đàn ông đứng tuổi đứng thẳng người, thản nhiên nhíu mày xem xét mũi tên:
– Quái lạ, tụi nó đã cam đoan với tao là thứ tên này độc lắm, chỉ một mũi là chết ngay tức khắc, vậy mà bắn luôn cả ba mũi con mụ vẫn gào thét luôn miệng, thật vô lý. Để tao mang vào hỏi lại mấy thằng thiểu số này mới được. Tao phải đổi cho chúng nó cả gùi gạo và muối nữa chứ phải ít đâu.
Có tiếng xuýt xoa: “Anh bắn cừ quá, ba phát chẳng chệch phát nào.”
Câu nói rơi vào khoảng không, một sự yên lặng nặng nề bao trùm tất cả.
Người đứng tuổi hất hàm:
– Thôi coi chôn nó đi, còn về làm chuyện khác.
Y quay lưng đi thẳng, những người khác một số đi theo y, một số đứng lại bàn tán rải rác quanh xác chết. Trần chậm chậm bước lại gần, người ta đã nhổ hai mũi tên còn lại trên ngực người chết, kéo áo phủ lại phần thân thể lõa lồ và tháo miếng vải đen bịt mắt ra. Hai mắt người chết mở to, vẻ kinh hoàng đau đớn đến cùng cực, nước mắt còn hoen ố trên làn da mặt trắng xanh, miệng há ra giữa một tiếng kêu bị tắt nghẹn, bọt trắng xóa pha lẫn máu đùn ra hai bên mép, tóc hai bên thái dương bết máu rối bời. Người con gái còn trẻ lắm, độ mười tám hai mươi là cùng. Trần cúi xuống, trong một cử chỉ gần như vô thức chàng đưa tay lên vuốt mắt kẻ xấu số, đôi mắt theo tay chàng khép kín, Trần bỗng thấy tim mình thắt lại, ruột gan cồn cào như lửa đốt, chàng đứng lên quay gót bỏ đi nhanh như chạy trốn khỏi nơi đó.
Ra đến đường rừng, nghe tiếng chân phía sau, chàng quay lại, Quý đang lủi thủi theo sau chàng, thấy chàng quay lại nó ngẩng lên ngó chàng bằng đôi mắt mất thần, mặt xanh ngắt như tàu lá. Trần chợt nghĩ mình đã quên mất sự có mặt của Quý bên cạnh mình như đã lâu lắm rồi. Đột nhiên một sự tức giận không kìm hãm được nổi lên cuồn cuộn đốt cháy tâm can chàng. Chàng trút lên đầu Quý, giọng đay nghiến:
– Đã được xem rồi đó, chú hài lòng chưa? Đã được thấy người ta xử tử Việt gian, thấy nó chết ra sao rồi đó, chú đã sướng bụng chưa?
Quý đưa hai tay về phía chàng trong một cử chỉ khẩn thiết, mắt nó lộ vẻ hoảng hốt, nó mở miệng định nói một điều gì đó, bỗng nó ôm bụng cúi gập người lại, nôn mửa thốc tháo. Trần đỡ Quý ngồi xuống bên vệ đường, lấy dầu xoa cho nó, Quý thở dốc, thỉnh thoảng nấc lên, ậm oẹ mặc dầu không nôn ra được gì nữa.
Trần ngồi bên Quý, mắt chàng nhìn quanh lạc lõng, tâm hồn mỏi mệt trống rỗng, khu rừng thâm u như một đền đài thăm thẳm. Có một sự gì đó khiến chàng thấy rằng từ buổi sáng hôm nay mọi sự đều đổi khác, ý nghĩa của cuộc sống không còn như xưa nữa, không còn gì giản dị nữa, Trần rùng mình nhớ câu nói của bạn: “Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao.”
Trần thầm nói với bạn: “Tao đang khốn khổ đây, nhưng chưa được như mày, tao đang cần được khốn khổ như mày, mày hơn tao nhiều quá, làm sao tao biết đến mọi cớ sự này nếu chính mắt tao không nhìn thấy. Mày có lý khi những nỗi u uất của mày không hề bày tỏ, làm sao có thể hiểu được những điều này nếu không nhìn tận mắt, dù nhìn thấy chỉ để mà khốn khổ mà thôi.”
Quý đã tỉnh táo lại dần, Trần hỏi đã đi được chưa, nó gật đầu buồn bã, nó hỏi Trần:
– Anh giận em phải không?
Trần lắc đầu: “Không em ạ, – chàng nghe tiếng mình dịu lại – anh còn cám ơn em mới phải, thôi anh em mình đi kẻo trưa quá rồi.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 0:52:25 GMT -6
CHƯƠNG III
Chiến dịch bao giờ cũng mang bộ mặt mới mẻ của nó, những tin tức đi về nóng hổi, những giai thoại về mỗi trận đánh, về mỗi đơn vị, về mỗi cá nhân được truyền đi với cả nhiệt tình nồng nàn, kháng chiến mang một sắc thái đam mê đến cùng độ.
Trong các làng mạc những đoàn quân trẩy về trú đóng, thôn trang rộn ràng trong cơn sốt ngầm. Các em bé mười hai mười ba tuổi được cắt cho việc trèo lên những cây cao canh phòng giặc đến, có một em ở thôn nọ ngồi vắt vẻo trên cành cây ngâm thơ Tố Hữu:
“Riêng phong xa loáng bạc ngất ngây say Hoa đào bay trước ngõ, hoa đào bay, Và xuân ấy năm nghìn quân của Mã Đánh tan quân của Nhật một sư đoàn.”
Hình ảnh oai hùng của người họ Mã đánh tan quân xâm lược giành lại đất đai quê hương là ước mơ mà em bé muốn trở thành ngày mai, em say mê trong mộng tưởng đến nỗi quân Pháp đến gần lúc nào em không hay biết. Khi giặc rút đi sau một trận đụng độ với quân kháng chiến, tiếp theo khủng bố đốt phá tơi bời, người ta tìm thấy thi thể em bé nằm dưới gốc cây, nét mặt bình yên như trong giấc ngủ, vầng trán thanh tĩnh thơ ngây, giấc mơ của em đã thành tựu hoàn toàn.
Cũng một đêm giá lạnh trong mùa chiến dịch, người mẹ già sống cô đơn trên một cồn cát ven sông, nửa đêm bà thức giấc vì tiếng súng nổ từng hồi về phía đồn Tây ở làng dưới. Khi tiếng súng đã dứt hẳn, bà vẫn còn thao thức không ngủ lại được, bỗng bà nghe tiếng đập cửa dồn dập, bà vội trở dậy mở hé tấm liếp, dưới ánh sáng lờ mờ của sao đêm một bóng người lảo đảo ngã gục trên thềm cửa, tâm thần hoảng hốt, bà cúi xuống đỡ người bị nạn, bà nhận ra vóc dáng đứa con trai của bà đã rời bỏ bà ra đi cả năm trường. Lòng bà rộn ràng mừng tủi lo âu, với sức già nua, bà vực đứa con vào nhà đặt nằm lên giường của nó. Đã từ lâu bà lủi thủi một mình, nhớ con quay quắt, nhiều đêm nghe tiếng lau lách bên sông xào xạc, bà ngỡ tiếng con về, vội dậy mở cửa ra sân chỉ thấy bốn bề vắng ngắt, sông nước mênh mang, người mẹ già đứng đó chảy ròng nước mắt, đôi mắt già ngày thêm mờ yếu theo đứa con đi biền biệt.
Bây giờ nó đã về đây, nó đã trở lại trong cánh tay ôm ấp của bà, nó đang mê man, chắc nó bị thương đâu đó trong thân thể, bà run rẩy thắp lên ngọn đèn dầu lù mù, đây rồi, vết thương trên vai máu chảy thấm ướt cả vạt áo này đúng là màu áo con bà mặc ngày ra đi; bà vội đi lấy một nắm thuốc lá, vạch áo rịt lên vết thương, đoạn bà xé một miếng vải buộc lại vết thương đã cầm máu, người con trai đã thở điều hòa. Người mẹ quỳ bên giường con cầu khẩn Trời Phật cho đến khi trời sáng, bà van nài đấng thiêng liêng che chở cho con bà, nó tìm về với bà trong cơn nguy khốn của nó, máu của nó chảy nhiều quá khiến nó kiệt sức, trong giây phút thập tử nhất sinh đứa con nào cũng biết đường nẻo đưa nó về với mẹ, con bà không thể chết, nó đã về được với bà, nó không bao giờ chết nữa.
Trời đã sáng, người mẹ già ngừng cầu nguyện, nhìn đứa con đang mê man trên giường, bà cố tự trấn tĩnh mình: “Rồi con tôi sẽ tỉnh dậy, máu đã hết chảy rồi, nó đã đi qua bao nhiêu đường đất trong khi máu chảy mãi từ vết thương quái ác, nó mệt quá đấy mà, nó cần phải ngủ. Nhưng các bạn đồng đội của nó đâu, sao bỏ con tôi một mình về đây với vết thương như thế này, sao áo quần con bẩn thỉu quá đi thôi, ừ mà con lê lết suốt đêm còn gì, cái đó không sao, mẹ đã may hai bộ đồ mới cho con, luôn cả áo ngự hàn, mẹ không biết con ở đâu mà gởi, ồ sao con để râu tóc ra nhiều quá vậy, che lấp cả mặt mày, mà mặt mũi con lem luốc quá chừng, để mẹ đi lấy khăn lau cho con.”
Người mẹ đứng dậy, đi giặt một tấm khăn ướt đem lại lau mặt cho con trai; bà nâng niu nhẹ nhàng lau sạch những vết bùn đất lẫn vết máu bết trên mặt con. Bây giờ mặt người con trai đã sáng sủa sạch sẽ hơn, bỗng người mẹ dừng tay, hai mắt kém cỏi của bà chú mục nhìn kỹ, những tia nắng mai rực rỡ bên ngoài tỏa ánh sáng trong trẻo khắp gian nhà nhỏ chiếu sáng rõ ràng khuôn mặt người con trai, người mẹ lùi lại, nét mặt già nua hằn lên đau khổ và tức giận, ánh sáng ban ngày cho bà thấy người nằm trên giường không phải là con trai của bà. Đó chỉ là một người lạ, một người lạ hoắc, thế mà cả đêm bà phải nhọc nhằn cực khổ vì y, thế mà cả đêm bà mừng tưởng con bà đã trở về, bà đã tưởng được ôm trong tay đứa con của bà sau bao nhiêu tháng ngày mong nhớ, bao nhiêu đêm khắc khoải cô đơn. Thế mà chỉ đến với bà một người lạ, rõ ràng y đã lừa bà, y đã làm cho bà lo lắng thức trắng đêm; như thế này thật quá lắm rồi, phải gọi y dậy mới được, phải tống y ra khỏi nhà ngay, y đang bị thương ư, đâu phải lỗi tại bà, đâu phải chuyện của bà, y phải biết rõ nơi nào y có thể tìm đến khi y bị thương chứ, tại sao y lại đến đây, tại sao y làm bà tưởng con bà trở lại?
Suốt cả đêm bà vất vả cực nhọc, bà mừng vui và đau khổ, bà đã khóc và đã cười, bà đã hôn y biết bao nhiêu bận bất kể người y hôi hám bẩn thỉu, và bây giờ đây trước mặt bà chỉ là một kẻ lạ hoắc vô duyên. Bà giận dữ bước tới, phải lôi y dậy bảo y ra khỏi nhà.
Người lạ bỗng cựa mình, một thoáng nhăn đau đớn trên gương mặt xanh xao; mắt vẫn nhắm nghiền, y cất tiếng gọi:
– Mẹ ơi!
Tiếng gọi làm người mẹ già đứng sững, nét mặt bà dịu lại. Mẹ ơi, đó chính là âm thanh quen thuộc của con bà, sao người này cũng có thể gọi tiếng đó với đủ vẻ yêu dấu thiết tha như vậy, tiếng gọi mẹ làm đôi má nhăn nheo của bà hồng lại, làm dậy lên nguồn sữa trong đôi vú khô héo già nua. Người lạ liếm đôi môi khô khốc, giọng yếu hơn:
– Mẹ ơi!
Bất giác người mẹ nghiêng mình cúi xuống, bằng một giọng nhẹ nhàng bà khẽ đáp:
– Mẹ đây, con đã tỉnh đấy à?
Trần đã tìm ra Huỳnh trong căn nhà nhỏ ven sông đó một ngày mùa xuân, một tuần sau cái đêm mà Huỳnh ngã quỵ trước thềm cửa của người mẹ già. Lúc ấy Huỳnh đang lên cơn sốt vì vết thương bị làm độc, bà cụ không thể đi vào trong làng tìm thầy thuốc được vì người ta đang đánh nhau về phía đó; tuy bà chăm sóc cho Huỳnh rất tận tâm nhưng vết thương không được chữa trị, không có thuốc men nên càng ngày càng loét ra, sưng tấy làm cho anh đau đớn vô cùng. Cơn sốt hành hạ anh suốt ngày đêm, tuy nhiên người mẹ thấy anh không bao giờ rên rỉ hay than vãn điều gì. Anh đón nhận những cử chỉ săn sóc của bà với một vẻ cảm kích sâu xa. Những lúc tỉnh táo, anh nằm lắng tai nghe bà nói chuyện, nét mặt điềm tĩnh thoải mái, nhưng càng ngày bà nhận thấy anh càng yếu dần đi.
Buổi chiều bà ra sông giặt áo cho Huỳnh bỗng thấy một chiếc thuyền nhỏ trên có ba người đàn ông trai trẻ tạt lại gần, họ cập vào bờ, nhảy lên bãi cát. Người cao gầy mặc bộ áo quần màu nâu dặn dò một chú bé trạc mười lăm tuổi:
– Anh đợi em ở đây, em vào làng cố tìm cho kỹ, hỏi dò xem có ai biết tin gì về anh ấy không, phải thận trong khi đến những xóm sát đồn đấy nhé.
Chú bé vâng dạ rồi đi thẳng lên con đường băng qua cánh đồng vào làng. Người mặc áo nâu đứng nhìn theo, tư lự một lát. Bà cụ giặt xong rũ áo vắt kiệt nước rồi thong thả đi lên. Người áo nâu đến gần bà lễ phép:
– Xin cụ cho chúng cháu vào ngồi nghỉ trong nhà một chốc được không? Chúng cháu đợi em bé đi vào làng trở ra.
Bà cụ gật đầu: “Được, các cậu cứ vào.” Bà đi trước hai người theo sau, chiều xuống nhá nhem, căn nhà tranh tối tranh sáng, bà cụ mời hai người ngồi nơi chiếc phản kê giữa nhà, rồi đi xuống bếp đun nước mời khách. Hai người cám ơn, họ ngồi xuống tấm phản, nói với nhau một vài câu bâng quơ. Có tiếng người hỏi từ chiếc giường kê ở chái bên làm người áo nâu quay phắt lại:
– Trần đó phải không?
Trần, vì người áo nâu là Trần, trông thấy một người nằm trên giường râu tóc che gần kín mặt. Vô cùng xúc động, Trần bước tới:
– Huỳnh, tao đi tìm mày, tao đang đi tìm mày.
Trần chụp lấy bạn, vết thương bị động khiến Huỳnh khẽ nhăn mặt, đau đớn.
Trần kêu lên:
– Mày bị thương ở đâu?
Huỳnh yên lặng chỉ vết thương, hai người bạn nhìn nhau, cố nén cảm xúc.
– Tao tưởng không còn gặp mày nữa, Huỳnh nói.
Trần lắc đầu: “Tao thì chắc chắn là gặp lại mày, tao nhất quyết đi tìm mày. Từ ba hôm nay tao đi quanh hết vùng này, chiều nay tao ghé vào bờ cát này để cho Quý vào làng hỏi thăm tin tức của mày, không ngờ mày lại nằm ngay đây. Chắc chặp tối Quý nó mới trở lại, cũng còn kịp chán, lát tối mình đi thì vừa.”
Trần quay lại nói với người kia nãy giờ vui vẻ đứng nhìn hai người mừng gặp nhau:
– Đây là người mà tôi nhờ chú đưa đi tìm mấy hôm nay, chú xuống thuyền sắp đặt cho tôi một chỗ nằm cho êm để chốc đưa anh ấy về.
Người kia vâng dạ rồi đi ra ngoài. Bà cụ bưng hai bát nước chè lên trông thấy Trần và Huỳnh đang trò chuyện, Huỳnh nói với bà:
– Mẹ, đây là Trần bạn con đi tìm con mấy hôm nay đấy mẹ ạ.
Bà cụ chép miệng: “Hèn chi khi nãy thấy cậu ấy dặn dò em bé đi vào làng tôi đã hơi ngờ ngợ.”
Trần lại gần bà: “Thật là may cho Huỳnh được cụ cứu mạng che chở cho trong cơn hoạn nạn như thế này, chúng cháu không biết lấy gì đền đáp công ơn ấy, Huỳnh và cháu chỉ xin ghi lòng tạc dạ mà thôi. Hiện giờ Huỳnh yếu quá, cháu xin phép cụ cho cháu đưa Huỳnh đi ngay tối nay cho kịp chữa chạy vết thương, Huỳnh ành mạnh rồi anh em cháu sẽ xin trở lại đây thăm cụ.”
Bà cụ chợt thấy lòng nhói đau: “Vâng, thì cũng phải vậy chứ biết sao, anh ấy càng ngày càng yếu làm tôi lo lắm, mà trong kia còn đánh nhau rộn ràng quá, tôi không biết cầu cứu vào đâu cả. Thế đi ngay tối nay à?”
– Vâng, thưa cụ, chúng cháu còn chờ em bé vào trong kia ra là đi ngay cho kịp kẻo khuya.
– Thế để tôi đi thổi cơm ăn đã rồi hãy đi.
Bà cụ nói xong tất tả đi xuống bếp ngay không để cho Trần kịp nói gì cả.
Đến bếp bà đứng yên một lát để mặc hai giòng nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, bà cố nén tiếng nấc trong khi lấy gạo vào rá đem vo: “Nó cũng lại đi nữa rồi.”
Trần nói với Huỳnh: “Bà cụ nom tội quá, làm sao mày lết được từ đồn làng Hạ đến tận đây vậy?”
– Tao đi theo quan sát trận đánh đồn đêm ấy, súng đang nổ thì tao thấy nhói một cái bên vai trái, tao ngất đi, đến khi tỉnh lại thì tiếng súng đã im, chung quanh vắng ngắt không còn thấy ai nữa, tao độ chừng bộ đội mình đã rút đi, tao gắng đứng dậy đi, tao chả biết đi đâu nữa, máu chảy mãi ướt lạnh một bên ngực áo, thỉnh thoảng tao bị té vì bước hụt xuống ruộng, tao lại ngất đi rồi lại tỉnh rồi lại đi, cho đến lần ngất đi sau cùng, tỉnh dậy mở mắt ra thì thấy nằm ở đây, tao trông thấy bà cụ cúi xuống nhìn tao và nói: “Mẹ đây, con đã tỉnh đấy ư?” Tao gọi luôn cụ bằng mẹ từ khi đó. Bà cụ sống ở đây một mình, có bà con trong làng mời cụ vào tá túc trong đó mà cụ từ chối, sợ thằng con trở về bất ngờ không gặp cụ. Thằng con một của cụ đi cũng hơn một năm rồi. Ai ngờ cái đứa tìm đến lại là tao, sống dở chết dở, chán thật. Làm sao mày biết tin tao mất tích mà đi tìm?
– Tao về dưới này được hai ngày, tao đến đơn vị tìm mày mới biết mày bị coi như mất tích trong trận đánh đồn ở làng Hạ. Tao suýt đánh thằng Trương trưởng phòng chính trị một trận. Khi tao hỏi có cho đi tìm kiếm mày không thì nó bảo rằng tìm kiếm làm gì vô ích, rằng mày không bị thương hay chết chóc gì đâu, nó bảo mày nhân lộn xộn theo giặc luôn rồi. Tao bảo nó nếu tao đi tìm ra được mày thì sao, nó nhún vai bỏ đi, tao giận tràn hông, muốn đánh cho nó bể mặt, nhưng tao đi tìm mày trước đã, tao biết mày đang lâm nguy, chuyến này về nó biết tay tao.
Huỳnh nhếch mép cười: “Chuyện đó tao không lạ, mày đừng gây sự với nó làm chi, nó là đảng viên, cũng như mày vậy, tao chỉ là một kẻ ở ngoài, một quần chúng, không nên rắc rối với nó vì tao, nên yên lặng là hơn hết.”
Trần đi đi lại lại, đầu hơi cúi, đôi mày nhíu lại, bực tức:
– Ở trong và ở ngoài, hừ, lúc này tao khổ tâm vì nhiều thứ quá, có nhiều điều tao cần nói với mày, vì thế tao đi tìm mày mới biết mày lâm nạn, thế mà lũ chó chết nó cứ bình chân như vại, đánh giặc đâu chưa thấy đã thấy hủy hoại nhau từ trong da trong thịt. Thôi bây giờ lo về vết thương của mày cái đã, mày thấy trong người ra sao?
– Yếu lắm, nhưng chắc không đến nỗi nào.
– Hãy cứ về bên kia sông cái đã, rồi liệu sau, mày yếu quá như thế này chắc không thể đưa về trạm cứu thương ngay được, tao có nhà người cô ở thôn Nhất, sẽ đưa mày về đó gởi tạm mày lại đó đêm nay đã. Mai sẽ đi gọi y sĩ đến xem cho mày.
Quý đã trở lại, từ ngoài sông nó đã nghe người kia cho biết đã tìm được Huỳnh, nó chạy vào, sung sướng la to lên:
– Anh Huỳnh, thế mà em đi tìm anh muốn chết, em đi tuốt xuống mấy nhà gần sát đồn, các chị trong làng cũng đi hỏi hộ em mà không ai thấy cái ông râu ria thật nhiều đâu cả. Có một chị nghịch ngợm lắm, hỏi em rằng ông ấy để râu làm gì mà lắm thế, và đi đánh giặc chứ có phải đi cút bắt đâu mà lại để người ta đi tìm, lại còn hỏi anh trẻ hay già nữa.
Trần và Huỳnh cùng cười, trong chốc lát họ vui lây tiếng nói trẻ thơ, Trần hỏi:
– Thế em bảo sao?
– Em bảo rằng anh để râu nhiều cho dễ nhận trong những trường hợp cần phải đi tìm như thế này, và rằng đi đánh giặc cũng giống như chơi trò cút bắt cho nên phải đi tìm, sau hết em bảo anh trẻ và đẹp trai lắm cho nên không dám trốn vào cái làng có con gái đông và nghịch như thế này, vậy em xin chào các chị để đi tìm nơi khác vậy. Các bà ấy la lên và nhét cho em một túi đầy nhóc đồ ăn đây này.
Quý đến gần Huỳnh đưa tay sờ lên mặt anh:
– Anh bị thương có đau lắm không anh, nom anh hốc hác quá.
– Không, anh không sao cả, gặp lại em là mừng rồi.
Bà cụ đã dọn cơm lên chiếc phản giữa nhà, bà bảo ba người Trần, Quý, và người đưa thuyền cứ ăn rồi còn đi, còn bà mang cháo đến cho Huỳnh, bà múc từng thìa cháo đổ cho Huỳnh, Huỳnh ăn vài thìa rồi bảo:
– Thôi con ăn vừa rồi, mẹ dẹp đi, rồi đến đây với con, con sắp đi rồi. Người mẹ già mếu máo: “Anh nhớ nhắn tin về cho tôi biết nhé, một đứa kia nó chẳng tin tức gì rồi.”
Huỳnh vỗ về bà cụ, anh cố giấu nỗi xa xót trong lòng:
– Xin mẹ đừng buồn, con sẽ về thăm mẹ, con sẽ hỏi tin tức anh ấy cho mẹ.
Chiếc thuyền nhỏ rời bờ cát trôi đi xa dần. Người mẹ già đứng lại trơ trọi bên sông, gió thổi bốn bề không đủ khô giòng nước mắt đơn côi. Từ đó, đêm đêm nghe tiếng súng nổ vu vơ là bà hồi hộp, thức trắng đêm nghe ngóng, đợi chờ.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 0:57:56 GMT -6
CHƯƠNG IV
Quá nửa đêm Trần mới đưa Huỳnh về đến nhà người cô của chàng ở thôn Nhất, một vùng tương đối yên tĩnh. Ở đây căn nhà ngói ba gian còn đứng vững giữa vườn cam và nhãn rộng rãi xanh um. Sau khi thưa chuyện với cô chàng và được bà bằng lòng, Trần đưa Huỳnh vào một căn phòng trên gian nhà thờ lớn.
Với sự phụ giúp của người lão bộc, việc đầu tiên là Trần cởi bỏ lớp vải buộc vết thương của Huỳnh ra, lau rửa bằng thuốc sát trùng, băng bó lại, đoạn chàng lau mình cho Huỳnh bằng nước ấm, chàng gượng nhẹ nâng niu thân thể gầy nhom mòn mỏi của Huỳnh như săn sóc con trẻ.
Huỳnh để mặc cho bạn làm, mắt nhắm nghiền, càu nhàu:
– Giờ này mà không để cho tao ngủ, mai hãy làm mấy cái trò này có được không, mày không thể bắt tao lây cái tật sạch sẽ của mày được đâu.
Trần buồn cười, trêu bạn:
– Lan của mày mà trông thấy mày bây giờ thì phải biết, cứ gọi là phát sốt phát rét lên, trông đẹp trai lắm đấy.
Huỳnh lẩm bẩm: “Lan, Lan mày tưởng thế chứ Lan ở ngay bên tao từ hôm tao bị thương cho đến nay, nhờ Lan mà hôm nay mày mới tìm được tao đấy, nếu không có Lan thì bây giờ chỉ còn nắm đất.”
– Ghê thế kia à.
Trần mặc quần áo sạch cho bạn xong, đỡ bạn nằm xuống:
– Cứ cho là như thế đi, mày sống cũng chỉ nhờ ảo tưởng mà thôi, có phải không, mày muốn nói như thế chứ gì, thằng này hỏng.
Huỳnh nói, giọng chìm dần trong mệt nhọc và ngái ngủ:
– Đó là giấc mơ tuyệt vời, tao chỉ còn chừng ấy, chỉ còn có thế thôi, mày đi ngủ đi, gắng tìm một giấc mơ, không giống của tao, dĩ nhiên là vậy.
Trần cẩn thận đắp chăn kín cổ bạn, chàng cũng đã thấm mệt, chàng lại nằm trên một cái trường kỷ kê gần đó, trước khi đi vào giấc ngủ, chàng nói, không cần biết Huỳnh có nghe thấy hay không:
– Giấc mơ của tao bắt đầu từ lâu lắm, và chỉ tàn cuộc khi nào tao chết đi.
Những ngày sau đó Huỳnh sốt liên miên, yếu đến nỗi không thể chịu đựng nổi một cuộc di chuyển nào khác được nữa. Trần báo cho cơ quan của Huỳnh biết đã tìm thấy Huỳnh. Người ta nhận thấy tình trạng sức khỏe của Huỳnh không thể đưa đến trạm quân y trên núi được nên họ đồng ý để Huỳnh nằm lại nhà người cô của Trần, nhờ trạm y tế của địa phương đến giúp đỡ.
Cũng may vết thương của Huỳnh không bị trúng xương, chỉ bị mất nhiều máu và làm độc cho nên khi được thuốc men băng bó hàng ngày thì dần dần kín miệng trông thấy.
Người cô của Trần trạc năm mươi tuổi, chồng của bà hiện là chủ tịch một đoàn thể kháng chiến, ông ở trên vùng núi, ít khi về. Bà có một người con gái mười tám tuổi đã chết năm ngoái sau một trận đau xoàng, bây giờ bà sống với bé Tâm, đứa con trai lên mười tuổi và một lão bộc. Thỉnh thoảng bà đi vào thành phố Huế để trông nom một vài bất động sản của bà ở đó, trong những dịp ấy bà có thể mua những thuốc men cần thiết để chữa cho Huỳnh cùng những vật dụng để dùng trong ngôi nhà thờ ở miền quê của bà. Người trong vùng vẫn gọi bà là bà Thị, đó không phải là cái tên, mà là do cái hàm thị độc, một phẩm hàm của vua trong triều đình trước cách mạng ban cho chồng bà. Cuộc cách mạng kháng chiến bùng nổ, cáo chung một chế độ quân chủ đã tồn tại từ mấy ngàn năm trên xứ sở này, người chồng tóc đã điểm hoa râm của bà đã mang chiếc hộp bằng gỗ quý sơn son thiếp vàng đựng sắc chỉ phẩm trật vua ban ra đốt sạch.
Đã quá nửa đời người, bị choáng ngợp bởi tình yêu Tổ quốc, ông Thị vẫn còn đủ nhiệt tình để lao mình vào một cuộc thử thách mới mẻ.
Bà Thị người đầy đặn, khuôn mặt tròn phúc hậu, nét mặt rất ít vết nhăn, cho thấy một thời tuổi trẻ xuân sắc đằm thắm, cái nhìn hiền từ, tiếng nói rõ ràng thong thả, bà săn sóc Huỳnh với một sự tận tâm hiếm có, dần dần những cơn sốt của Huỳnh cách khoảng rồi dứt hẳn. Với một gia đình quạnh hiu như thế, sự có mặt của một kẻ ốm đau như Huỳnh cũng không đến nỗi thừa, sự bận rộn vì anh cũng là niềm vui cho họ.
Cả bà Thị lẫn người đầy tớ già đều tìm được ở Huỳnh một người bạn thích hợp để giãi bày những phiền muộn lo âu của họ, riêng đối với chú bé Tâm thì Huỳnh là một mẫu người lý tưởng, nó mê man nghe chàng kể chuyện đánh vào đồn giặc, nó chiêm ngưỡng vết thương của chàng như một chiến tích lừng lẫy vô song.
Bà Thị những lúc rảnh rỗi thường lên thăm Huỳnh và nói chuyện với anh, bà thường tỏ vẻ thương tiếc đứa con của bà, bà than thở:
– Nó thuần hậu nhút nhát quá, thế mà Trời không cho sống, có lẽ tại nó đẹp quá, ai cũng trầm trồ khen ngợi, phải chi nó còn sống thì tôi không đến nỗi cô đơn như thế này, có đứa con gái lớn nó bầu bạn với mình, chia sẻ ngọt bùi cay đắng với mình. Anh nghĩ, nó có đau ốm gì đâu, buổi tối nó kêu chóng mặt đi nằm, tôi lấy dầu xoa cho nó, vừa quay lại thì thấy nó mê man rồi đi luôn, người còn mềm dịu nóng hổi, từ hồi đó đến giờ tôi chẳng ra làm sao cả anh ạ, khi cười khi khóc như con mẹ điên, nếu điên hẳn được thì cũng đỡ khốn khổ.
Bà nghẹn ngào một lát, rồi tiếp:
– Nó đậu trung học rồi nhất định ở nhà trông nom ruộng vườn nhà cửa với mẹ, bây giờ thì chỉ một mình tôi lo liệu, ông nhà tôi thì đi như thế, cháu Tâm còn bé quá, nhiều lúc tôi không còn thiết gì nữa.
Huỳnh nói một vài câu an ủi bà Thị, anh nói đến cái vòng tiếp nối của sự sống và sự chết, cho đến một lúc nào đó, trong ý muốn làm dịu đi sự đau khổ của người mẹ mất con, anh bỗng thấy lời nói của anh đượm đầy tính chất tôn giáo, một điều anh không dự trù trước. Anh tự chế diễu mình và ngừng lại. Nhưng anh ngạc nhiên thấy bà Thị cũng tỏ ra thanh thỏa, có lẽ bà đã có người để giãi bày nỗi khổ.
Bà nói qua chuyện ruộng đất: “Vì chỉ có một mình nên mấy chục mẫu ruộng tôi cho làm rẻ hết cả. Thời buổi khó khăn giặc giã nên những vụ mùa người ta chẳng nạp đủ số, thôi thì cũng châm chước đi cho bà con họ nhờ. Trời, Đất này biết ai còn ai mất mà tính chuyện thiệt hơn, có phải không anh, anh nghĩ bao lâu nữa thì có thể yên giặc được?”
Huỳnh gật đầu tán thành: “Bác nghĩ vậy là phải lắm. Có lẽ chuyện giặc giã này không lâu đâu thưa bác; vả chăng khi chiến tranh chấm dứt nước mình độc lập rồi, thì sẽ có những phương pháp canh tân xứ sở, công việc đồng áng sẽ được cải tiến giản tiện hơn, đời sống sẽ thanh bình, chủ quyền người Pháp không còn đè nặng lên số phận chúng ta nữa, xin bác hãy tin rằng mọi khó khăn sẽ qua mau.”
Một lần nữa Huỳnh lại ngừng lại vì buồn cười thấy mình đã nói như một cán bộ tuyên truyền, nhưng chàng cũng yên tâm thấy bà Thị có vẻ tin tưởng một cách nghiêm trang vô cùng.
Hai hôm sau khi đưa Huỳnh về gởi gắm ở nhà bà Thị, Trần phải trở lại với công việc của chàng, chàng phải trở lên núi và hẹn sẽ trở lại rất chóng. Trong thời gian này, thỉnh thoảng các bạn hữu nghe tin Huỳnh bị thương tìm đến thăm, do đó anh được biết những tin tức bên ngoài.
Chiến dịch Đông Xuân đã hạ màn, kháng chiến đã thu được những thắng lợi đáng kể, tinh thần bộ đội cũng như của dân chúng lên rất cao, các đơn vị được lệnh rút về những khu an toàn để chấn chỉnh và học tập chuẩn bị cho những chiến dịch sắp tới.
Người ta áp dẫn về từng đoàn tù binh Pháp, người lính kháng chiến Việt Nam đi bên cạnh tù binh Pháp trông như người tí hon đi bên cạnh ông khổng lồ; ông khổng lồ hồng hào khỏe mạnh no đủ, còn người tí hon gầy guộc xanh xao mét máu thiếu ăn thiếu uống, vậy mà trong một kích quang nào đó của lịch sử, người tí hon đã chế ngự được ông khổng lồ phải cúi đầu đi theo mệnh lệnh của mình.
Người ta kể chuyện trong một trận đánh dài cả ngày đêm ở một vùng đầm lầy, quân kháng chiến bắt được một sĩ quan cao cấp của địch, khi bị bắt tên sĩ quan này rất hung hăng mạt sát quân kháng chiến không tiếc lời và tỏ vẻ khinh bỉ không thèm trả lời những câu hỏi của họ. Vì trận chiến đang tiếp diễn quá gần nên người ta giao viên sĩ quan địch cho một người lính giải về bộ chỉ huy ở cách một ngày đường đi xuyên qua một khu rừng nhỏ. Người lính Việt vẻ người lam lũ cực khổ, áo quần xốc xếch, tồi tàn. Viên tù binh sĩ quan địch lặng yên để người lính giải đi, trên đường đi thỉnh thoảng viên sĩ quan tù binh hỏi người lính một câu, người lính mỉm cười hiền từ lắc đầu tỏ vẻ không hiểu, ra dấu bảo hãy tiếp tục đi. Quá trưa, người lính ra hiệu cho viên sĩ quan tù binh dừng lại để ăn trưa, họ ngồi ở hai gốc cây đối diện nhau, người lính lấy trong bọc ra một nắm cơm gạo đỏ được vắt lại thật cứng, và một gói nhỏ muối vừng. Anh bẻ đôi cho người tù binh một nửa, viên sĩ quan tù binh nhận lấy nửa vắt cơm cho vào miệng nhai ngon lành mặc dầu miếng cơm nhạt nhẽo và muối vừng thì mặn chát khó nuốt trôi. Y nhìn người lính mỉm cười, tỏ dấu thân thiện. Người lính cũng cười lại dễ dãi. Y rút trong túi ra một cái đồng hồ quả quýt bằng vàng đưa cao lên cho người lính thấy, y cầm chiếc giây cũng bằng vàng đu đưa chiếc đồng hồ quý giá xinh đẹp lấp lánh dưới ánh nắng, y ra hiệu hỏi người lính có thích không, người lính cười gật đầu, nét mặt y bỗng rạng rỡ, y vội rút cái ví sau túi quần ra, y lôi ra một xấp bạc dầy cộm, y giơ lên cùng với chiếc đồng hồ ra hiệu cho người lính rằng của anh ta đấy, nếu anh muốn. Người lính cười thông cảm, ra dấu bảo người tù binh hãy ăn cho hết vắt cơm đi đã. Viên sĩ quan tù binh vui vẻ nghe theo, y mang để chiếc đồng hồ vàng và xấp bạc trước mặt người lính, rồi tiếp tục cầm miếng cơm đưa lên miệng nhai lòng đầy hy vọng. Ăn xong, người lính rót nước trong chiếc bi-đông mang theo bên người cho người tù binh uống, xong anh tự rót cho mình uống. Đoạn, anh đứng dậy, cúi nhặt chiếc đồng hồ và xấp bạc, anh quấn hai cái lại với nhau bằng chiếc dây vàng của chiếc đồng hồ. Anh nhìn người tù binh, khẽ hất hàm ra hiệu, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh và bất ngờ anh tung hai vật đó về phía viên sĩ quan địch, với phản ứng tự nhiên y đưa tay lên đón bắt, vẻ mặt ngơ ngác không hiểu. Người lính vẻ mặt nghiêm trang, hất mũi súng về phía trước, ra hiệu bảo y đi. Viên sĩ quan tù binh chợt hiểu, y cúi gầm mặt, thất thểu bước đi theo mệnh lệnh của người lính Việt, y không còn dám coi thường những con người nhỏ bé nghèo nàn này nữa. Ở họ, có một hào quang rực rỡ gấp triệu lần chiếc đồng hồ quý giá của y. Từ khi y đến xứ sở này, lần đầu tiên hôm nay y có ý tưởng tự hào đã được đối đầu với một kẻ địch như vậy.
Câu chuyện xoay quanh về thời cuộc như thế trong buổi chiều tháng tư năm 1950 trong vườn nhà bà Thị.
Huỳnh nằm trên chiếc ghế dựa đặt ngoài vườn, dưới những tàng cây xanh tốt, những chùm nhãn được người ta bọc kín trong những bẹ cau, đong đưa như những cái đầu trong những ngày hội giả trang. Một số bạn hữu ngồi rải rác quanh anh, vết thương của anh đã rất khả quan, anh đang trong thời kỳ chờ đợi bình phục; những người đến thăm anh chiều nay có Lương, người bạn văn của anh; Lương ở làng Đại, bên kia sông về miền dưới, đã có vợ con. Trước kháng chiến Lương đã đậu tú tài, xong anh bỏ về làng cất một cái chòi ngoài bờ lác nuôi vịt, trong khi các bạn đồng khoa với anh mãi lặn lội với công danh, anh về làng ở lì trên chòi nuôi vịt nghiên cứu một số sách vở tư tưởng Đông Tây, và biên khảo một số khảo luận về triết học. Kháng chiến bùng nổ, trước sự lạnh nhạt của lớp người lãnh đạo kháng chiến địa phương, người ta kết luận một cách giản dị rằng một người trí thức, một điền chủ trẻ tuổi không thể thích hợp với cuộc sống đấu tranh gian khổ được. Không để tâm đến vẻ miệt thị của những người có uy quyền kháng chiến địa phương, Lương vẫn ở lại quê làng, nhận một trách nhiệm nhỏ nhoi là trông coi trường tiểu học của xã. Lương đặt hết tâm hồn vào việc dạy dỗ như một thầy giáo làng tận tâm nhất, anh hiền lành cần mẫn, không bận tâm đến chính trị. Anh không trở lại thành phố là vì nơi đó còn có chủ quyền của người Pháp, hiện đang là kẻ thù cướp nước của dân tộc anh, anh ở lại miền kháng chiến là để được thấy mình thênh thang trên quê hương, như trước kia anh đã từng thênh thang không chịu bận bịu với lợi danh, vui thú làm một người chăn vịt.
Ngoài Lương ra còn có Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, những người này ở cùng đơn vị với Huỳnh, họ vừa rời bỏ ghế nhà trường, bỏ thành phố Huế thơ mộng và bình yên của họ để gia nhập cuộc sống gian nan lửa đạn này. Họ còn quá trẻ, tuổi chừng mười tám hai mươi. Chiều nay họ lãnh phận sự đến thôn này gánh số gạo dự trữ ở đây về cho cơ quan, nhân đó họ tạt vào đây thăm Huỳnh, kể cho anh nghe tin tức cơ quan, những câu chuyện về chiến dịch. Họ đặt những gánh gạo trước hàng ba, ra sau vườn với Huỳnh. Ở đơn vị, họ chuyên về những công tác nghiên cứu huấn luyện và văn nghệ. Trong những đêm liên hoan trước ngày xuất quân, để kích động tinh thần bộ đội, họ hợp lại thành ban nhạc bộ bốn rất xôm trò. Tuy nhiên hàng ngày người ta vẫn giao cho họ đủ mọi việc nặng nhọc, đi gánh gạo, đi vác đạn, làm những công việc tạp dịch như những lao công. Người ta nói cho họ biết rằng ngoài nhiệm vụ chống Pháp họ còn phải học tập làm những công tác lao công để có thể hòa mình với giai cấp nông dân vì xã hội ngày mai sẽ được lãnh đạo bởi giai cấp nông dân. Hoàng, Bửu, Hồ, Phong còn rất trẻ, dễ vui đời, họ rời bỏ gia đình êm ấm của họ để ra đi với lòng hiếu đời mãnh liệt, họ không cần biết những cách nói đó mang một ý nghĩa thực tiễn nào trong đời sống. Họ đã đến đây và họ vui lòng làm tất cả những gì người ta bảo họ làm.
Vậy, cho nên chiều nay những thư sinh mặt trắng đó sẽ gánh gạo qua đây và ghé lại ngồi trong khu vườn này với Huỳnh và Lương.
Người lão bộc từ hiên trước đi ra sau, ngang qua bọn họ, lão hếch mũi đánh hơi bốn phía, mặt mũi nhăn nhó:
– Quái lạ, không biết mùi phân người ở đâu mà thối quá, cả nhà đều thối, bà bảo tôi đi tìm xem thối ở đâu mà chả thấy gì hết.
Cả bọn bốn người Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, nhìn nhau tinh quái, đoạn cười ầm cả lên, Hoàng nín cười gọi lão bộc:
– Không phải phân người đâu bác ơi, mùi hôi thối là từ nơi mấy gánh gạo của tụi cháu để trước nhà xông ra đó. Chả là lúa người ta phải đem chôn xuống đất sợ giặc đi lùng đốt phá hay bắt dân khuân vác mang đi cho chăng. Lúa chôn lâu ngày bị ẩm, đào lên nó có mùi nặng nề như vậy đó, xay ra thành gạo nó bị bở nát, nấu ra cơm nó cứ nhoèn nhoẹt lạt nhách, thế mà tụi cháu ăn gạo đó tháng này sang tháng khác đó, bác ạ.
Người tớ già lắc đầu: “Cầm hèn chi tôi đi tìm mãi chẳng thấy gì cả, đời thủa nhà ai đến bạc đầu tôi mới thấy gạo mà hôi thối như phân người lần này là một đấy, tội nghiệp, như vậy thì ăn làm sao, nấu ra cơm cũng thối như vậy rồi làm sao ăn?”
– Cũng quen đi bác ạ, được cái nấu ra khi còn nóng thì nó thối kinh khủng, nhưng để nguội cho bay hơi đi thì cũng nuốt được vậy.
Hồ xen vào: “Ăn riết cũng thấy ngon bác ạ, bây giờ miệng lưỡi chúng cháu quen rồi, chừ ai cho ăn gạo tám thơm, gạo nhe vàng cũng không biết ăn nữa.”
Cả bọn cười vang, Huỳnh cũng cười theo, một nét rạng rỡ vui tươi trên khuôn mặt xanh lướt của anh. Người tớ già ngồi xổm trên hàng hiên, đưa tay lấy điếu thuốc lá giắt trên mang tai xuống, vê lại:
– Thời buổi chi khổ thiệt, cả đời tui theo hầu ông Thị đi khắp cả, có lần đi vào trong xứ Mán xứ Mường mà chưa khi mô phải ăn thứ gì hôi thối cả. Tội cho mấy cậu thiệt.
Lão lại lắc đầu, quẹt diêm châm điếu thuốc.
Bửu trẻ nhất trong bọn, làm bộ xịu mặt:
– Tội thiệt đó bác ạ, hôm nọ mẹ cháu ở trong Huế ra thăm cháu, bà bới ra nào là bồ câu tiềm hột sen, nào bánh nậm chả tôm, nào gà quay nào bánh hạnh nhân, bà bày la liệt, tụi cháu mấy thằng cứ đứng nhìn ngẩn tò te, mẹ cháu thúc giục bảo ăn đi, tụi cháu lắc đầu đi thụt lùi...
Lão bộc trợn mắt: “Sao vậy?”
– Ấy mẹ cháu cũng ngạc nhiên hỏi tụi cháu làm sao vậy, tụi cháu phải nói thiệt là tụi cháu quên mất, lâu ngày quá không nhớ phải ăn mấy thứ đó như thế nào, nên không dám ăn sợ đau bụng. Mẹ cháu mới hỏi thế thì các con ăn được những gì, cháu bèn kể ra, cơm gạo thối này, muối vừng thật mặn này, nước ruốc này, thế là mẹ cháu ôm mặt khóc ròng, chả hiểu tại sao cả.
Cả bọn lại phá lên cười, ông lão trách móc:
– Thế mà cũng cười được, các cậu thật vô tình, đó là bà mẹ cậu thương các cậu ăn uống cực khổ quá nên bà khóc đấy, có thế mà không hiểu lại cứ vui cười, rõ thật khổ.
Tất cả lại cười to hơn, ông lão cũng dễ dãi cười theo, lão đứng dậy: “Bà có nấu bắp ở trong nhà, bắp non vừa hái sau nương, bà dặn coi chín thì đem mời các cậu xơi, để tôi đi xem đã.”
Ông lão dợm bước đi, bỗng ngập ngừng dừng lại, phân vân nhìn bọn Hoàng:
– Thế, thế các cậu có xơi bắp được không?
Hoàng vẫy tay ra hiệu cho cả bọn không được cười nhiều, chàng cố nín, làm mặt nghiêm trang, trả lời:
– Chúng cháu chưa chắc lắm, nhưng xin bác cứ mang ra. Chúng cháu sẽ cố gắng làm vui lòng bà nhà và bác.
Lão bộc vừa đi khuất sau tường nhà là cả bọn cười ồn ào, sảng khoái.
Huỳnh lắc đầu nhìn Lương:
– Có mấy ông tướng này trong cơ quan cũng đỡ ngột ngạt lắm anh ạ, cái gì mấy tướng ấy cũng thấy vui được, đùa cả ngày, mình chỉ mong được như thế, mà không được, đành vậy chứ sao.
Lương vui vẻ nhìn bọn Hoàng:
– Chủ nhật các cậu gắng qua nhà tôi chơi, có lứa gà tơ tốt lắm, nếu các cậu thấy cần phải tập lại thói quen, còn không thì nhà cũng có khoai lang trắng ngon lắm, lại có cả nước ruốc nữa.
Cả bọn nhao nhao:
– Thôi, thôi, anh cứ cho tụi em ăn gà đi cũng được, còn nước ruốc anh để bao giờ tụi em chết thì nấu cúng cho tụi em, như vậy linh hồn tụi em sẽ linh thiêng hơn.
– Nó nói phét đó anh, làm gì có linh hồn mà linh thiêng với chả linh thiêng, nhất là cái mặt thịt của nó nữa.
– Còn cái mặt sữa của mày thì sau chết linh thiêng lắm chắc.
– Mày duy tâm rồi đấy nhé, tối nay tao họp kiểm thảo đừng có cãi, học tập tư tưởng Mác-Lê lão Trương có dạy chúng ta rằng thì là không có linh hồn, không có thánh thần gì ráo trọi, rằng chủ nghĩa chúng ta là duy vật, nói nôm na là con người chúng ta ví như cái đèn dầu, thân xác là cái đèn, tinh thần là ngọn lửa, dầu là món ăn, hễ dầu cạn thì ngọn lửa cũng tắt, do đó sau đời sống không còn có gì nữa, đứa nào tin tưởng có linh hồn là đứa ấy theo chủ nghĩa duy tâm, là chủ nghĩa của bọn phong kiến đế quốc, bọn thầy tu phản động, là lũ ăn hại đái nát, là gì nữa nhỉ, là Việt gian phản quốc, là...
Hồ năn nỉ Bửu:
– Thôi cho tao xin, mày khép cái mồm mày lại cho tao nhờ, khổ lỗ tai quá, bắp sắp mang ra rồi đó kìa, hãy để cái mồm cho sạch sẽ mà ăn bắp chứ.
Bửu vẫn thao thao nói, mặt mũi tỉnh bơ:
– Duy vật biện chứng cho ta thấy rằng chỉ có thân xác là đáng kể, ngoài ra là đồ rác rưới, là đồ bỏ đi, đồ không ra gì vân vân, do đó chúng ta phải có bổn phận giữ gìn thân xác để phục vụ cho nhân dân cho kháng chiến, cho Tổ quốc. Đảng ta đã dạy thế, lão Trương thay mặt Đảng dạy dỗ anh em ta phải nghe theo như thế. Ví dụ như bây giờ chúng ta ăn bắp, không phải là chúng ta ăn bắp cho chúng ta, đó là cách nói của tụi ngu si tham ăn tục uống như thằng Hồ chẳng hạn, mà là chúng ta sắp phải làm một nhiệm vụ thiêng liêng để phục vụ cho thân xác chúng ta, không phải là chúng ta ăn bắp cho thích khẩu chúng ta mà chúng ta phải đổ dầu cho cái đèn, cho nó khỏi cạn, vì dầu cạn thì ngọn lửa tắt, ngọn lửa tắt tức là chúng ta chết, chúng ta chết thì lấy ai phục vụ cho nhân dân, cho vô sản, lấy ai gánh gạo, vác đồ, lấy ai lo cho Tổ quốc. Vì thế cho nên chốc nữa đây chúng ta phải buộc lòng ăn bắp, chúng ta phải hy sinh vậy, phải nhai những hạt bắp non mềm như sữa, phải chịu khó hít cái chất nước béo bùi trong cái cùi của nó trôi êm đềm qua cuống họng để làm tròn bổn phận của chúng ta đối với thân xác, tức là đối với nhân dân, đối với thế giới vô sản cộng đồng vĩ đại ngày mai, còn về chuyện linh hồn thì...
Lão bộc mang rổ bắp ra, khói bốc lên nghi ngút, mùi thơm nồng ngọt tỏa ra trong vườn chiều, Phong càu nhàu:
– Cái thằng nói dai như giẻ rách, mày còn chán thì giờ để nghe lão Trương dạy mày, cái thằng mặt chuột ấy, hôm nay hứng gì mà mày đọc kỹ thế.
– Ôi nhân dân nuôi ta ngày hai bữa cơm gạo thối chỉ để dạy cho ta thấm nhuần lý thuyết của chủ nghĩa Mác-xít mà thôi, nếu ta không thuộc nằm lòng thì chẳng hóa ra ta bất nghĩa lắm sao!
Mọi người cười vang thích thú. Khi bọn Hoàng ra về, họ mang theo không khí vui vẻ nhộn nhịp, tiếng cười nói của họ xa dần để lại Lương và Huỳnh ngồi yên lặng trong bóng chiều. Huỳnh ngả đầu trên lưng ghế dựa, nhắm mắt lại, buổi chiều thật đầy đủ và êm ái. Trong đời anh rất hiếm khi anh được sống những giây phút như thế này. Anh nghe mùi khói nấu cơm chiều lan tỏa trong không gian, vị nồng ngọt của mùi khói rơm rạ thấm vào cổ họng. Có tiếng đàn bà hò ru con vời vợi bên hàng xóm cách khoảng vườn bên kia, tiếng trâu nghé ngọ lẫn tiếng người gọi nhau ơi ới vang vọng từ cánh đồng xa, tiếng gà eo éo ở thôn trên, tất cả âm thanh uể oải, quyến rũ của chiều quê đi dần vào tâm hồn anh, anh nhắm mắt, thấy rõ hơn bao giờ hết bên mình có Lương, người bạn có một tấm lòng rất quý báu, đơn sơ, trung hậu, buổi chiều đẹp và người bạn hiền hợp lại thành một niềm an ủi vuốt ve như khuôn mặt của mẹ hiền cúi xuống làm lòng anh rưng rưng. Có tiếng Lương nói:
– Bọn Hoàng trẻ quá, nhưng họ không vô tư đâu.
Huỳnh gật đầu:
– Làm sao mà vô tư cho được với thực trạng này; nhưng họ vẫn vui được, đó là điều mới đáng kể.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:08:26 GMT -6
CHƯƠNG V
Trong thời kỳ này khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, ngay trên những đô thị mà chủ quyền còn thuộc về người Pháp, lòng người đều hướng về những lớp người đi kháng chiến, gia đình nào cũng có người hoặc trai hoặc gái ra đi.
Riêng vùng đất dọc theo dải núi Trường Sơn là cái lưng eo của nước Việt Nam này cũng vậy, từ thành thị cho đến thôn quê người ta có danh từ “ra khu” hoặc “trên đó” để chỉ nơi chốn của những người thân yêu của họ đã rời bỏ họ mà ra đi.
Đối với những người mẹ, những người vợ, những người yêu thì nơi chốn đó đã trở thành đất thánh mà những cuộc viếng thăm như những chuyến hành hương, đầy đủ lòng sùng mộ bát ngát yêu thương.
Đêm đêm những đoàn quân âm thầm chuyển động xuyên qua những cánh đồng lầy đầy đỉa đói, hay qua những khu rừng thú dữ nổi tiếng, họ vẫn đi mãi, những nét mặt trẻ trung đầy tin tưởng bước đi cho giấc mơ vàng son thấy ở cuối đường, cho một tương lai chào đón, ngày chiến thắng vẻ vang của một dân tộc nhược tiểu, ngày ngoại nhân không còn làm mưa làm gió trên đất nước của họ nữa.
Hiện tại họ chịu đựng một cách anh dũng những gian lao nguy hiểm. những bệnh phù thủng vì thiếu ăn thiếu uống, những cơn sốt rét rút tỉa dần sinh lực của họ, những vết thương không đủ phương tiện thuốc men cứu chữa. Áo quần của họ rách nát vì lăn lóc đường trường, mùa hạ nắng rát, mùa đông không đủ ấm, họ không nề hà những nỗi khổ cực ấy, họ cho đó là chuyện tất nhiên, ai cũng hiểu rằng giá của sự vinh quang rất đắt, cho nên người ta không phàn nàn gì cả.
Mọi tầng lớp, kẻ sang người hèn, người thành thị hoặc dân quê, người trí thức cho đến kẻ thất học đều vui lòng có mặt từ đầu cuộc chiến. Tất cả người Việt Nam, cả những người tham dự trực tiếp hay gián tiếp, hay không tham dự gì cả, đều có quyền hãnh diện vì cuộc kháng chiến này. Tổ quốc không của riêng ai cả.
Ngàn năm trước, ngàn năm sau không ai có thể chối bỏ hay tước đoạt tình yêu quê hương với những đau khổ hay vinh quang của nó. Người ta có thể nói khí thế của những thời bình Nguyên phạt Tống đã trỗi dậy mãnh liệt trong tâm can toàn dân Việt lúc bấy giờ. Nếu mục đích chỉ giản dị là đánh đuổi ngoại bang giành lại chủ quyền cho dân tộc thì với thế nước này lòng dân ấy không bao lâu cuộc chiến sẽ kết thúc và đời sống sẽ trở lại với thời thanh bình tươi đẹp thuở xưa.
Nhưng song song với những khó khăn gian khổ của chiến tranh mà mọi người đều tự hào đã khắc phục được dễ dàng, ai nấy đều lần lượt thấy mình đang đứng trước một thành lũy trùng điệp những chướng ngại vô hình làm tê cóng những tâm hồn sôi bỏng nhất, làm đông đặc mọi ý chí hướng về tương lai.
Đó là sự va chạm về ý thức giữa những người Cộng sản và những người không Cộng sản, mở ra đủ mọi vấn đề tư tưởng và hành động quyết định sự sống còn của đất nước.
Cuộc khởi nghĩa mùa thu năm 1945, trong cái vận may hay rủi nào đó của nước Việt Nam, đảng Cộng sản cuối cùng đã nắm được chính quyền, lãnh tụ của đảng là ông Nguyễn-Ái-Quốc đã trở thành Hồ-Chí-Minh, chủ tịch của chế độ dân chủ cộng hòa đầu tiên trên xứ sở này.
Dù sao đi nữa, đảng Cộng sản đã có cái may mắn được thừa hưởng công lao xương máu của những phong trào chống Pháp, từ phong trào Cần Vương đến Đông Kinh Nghĩa Thục, từ phong trào Duy Tân đến Quốc Dân Đảng trong suốt tám mươi năm đau khổ của dân tộc Việt Nam.
Cho đến năm 1947, khi tiếng súng mở màn cuộc chiến tranh với người Pháp bùng nổ trên khắp đất nước, thì đảng Cộng sản đã nghiễm nhiên đóng vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Đối với những người đi kháng chiến, hầu hết họ đi không vì tham vọng cá nhân, không bận tâm đến chính trị, không có ý thức gì về đảng phái với những tranh chấp thủ đoạn xấu xa dơ bẩn của nó. Trong những thời kỳ kháng chiến còn trong vòng bí mật, người ta dành những tình cảm giống nhau đối với người Quốc Dân Đảng cũng như người Cộng sản, người ta ngưỡng mộ những người này vì sứ mạng nguy nan của họ, tựu trung người ta yêu mến và tôn sùng tất cả những ai xả thân cho Tổ quốc.
Do đó, người ta không phiền hà gì khi đến đây bỗng nhiên thấy mình phải ở dưới sự lãnh đạo của người Cộng sản; có những người hăng say gia nhập đảng, coi đó như một vinh dự lớn lao để được sự hỗ trợ cho nhiệm vụ cứu nước của mình. Những người khác và là đa số nghĩ rằng lòng yêu nước đã khiến họ có mặt nơi đây, điều đó biện minh cho tất cả, vấn đề đảng phái không thích hợp với họ, vả chăng quê hương là của tất cả mọi người, tuy nhiên họ vẫn vui lòng chấp nhận sự điều khiển của các cấp lãnh đạo hầu hết là đảng viên Cộng sản.
Nhưng dần dần mọi sự không trôi chảy xuôi giòng như người ta tưởng, khi chính quyền kháng chiến đã có cơ sở ở khắp mọi nơi, khi bộ đội Vệ Quốc đoàn đã lớn mạnh, đã đủ sức mở những chiến dịch làm cho địch quân kinh hồn bạt vía, khi mà mọi người đều có thể thấy ngày chiến thắng không còn bao xa nữa, thì trong đời sống kháng chiến đã phân chia rõ rệt hai giai cấp, giai cấp đảng viên thống trị và giai cấp quần chúng bị trị.
Lịch sử sẽ lãnh phần xét đoán về những sự kiện này, đối với lớp người mà Tổ quốc chỉ là môi trường của tham vọng, đó là điểm đen của lịch sử, đó là đêm tối trùm lấp cả nguồn ánh sáng lẽ ra phải muôn phần rực rỡ uy nghi. Nguồn ánh sáng đó là tấm lòng của hàng triệu người Việt Nam đã hiện diện trong những giây phút này với niềm thanh thản vô tư, là cả một thế hệ đã tưởng được ôm tròn lý tưởng cao cả nhất và cũng giản dị nhất là được sống chết cho quê hương. Người kháng chiến ra đi chỉ mơ ước niềm vui của một dân tộc được phục hồi danh dự. Riêng cho bản thân họ, họ không nghĩ đến những ân sủng hiển hách nào, nỗi vui của họ là niềm rung động thầm lặng của người Á đông; hoài vọng thiết tha một ngày thanh bình được trở về trên quê hương yêu dấu, ở đó có mẹ già, có vợ dại, con thơ và tiếp tục sống cuộc đời êm ả trước kia sau lũy tre xanh. Có một bài hát đương thời rất được yêu chuộng nói lên ước vọng đơn sơ của người Việt Nam đi kháng chiến chống thực dân, hình ảnh ngày trở về của họ sau chiến tranh:
“Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre, nắng vàng hoe, vườn dâu trước hè chờ đón người về. Mẹ lần mò ra trước sân, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ…”
Không có kèn trống rộn ràng, không có huy chương sáng chói, không có đón rước tưng bừng. Chỉ có một đường đê, một lũy tre, một vườn dâu, một mẹ già đã mù lòa vì mòn mỏi trông con.
Đó là ngày về của người kháng chiến Việt Nam, một thoáng hiu hắt ngậm ngùi, hình ảnh đơn sơ như nét chấm phá của bức tranh thủy mạc, lòng người Việt vẫn ôn nhu thâm trầm từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.
Do đó, họ không sá chi những chuyện hơn thua giữa những người cùng chiến tuyến, cùng có một kẻ thù chung.
Do đó, họ xiết bao kinh ngạc và cảm thấy bị hụt hẫng khi thấy chính quyền kháng chiến do người Cộng sản lãnh đạo có thái độ lãnh đạm loại bỏ hay hững hờ với sự cộng tác nhiệt thành của lớp người bị họ phân loại là thành phần tiểu tư sản, địa chủ hoặc phú nông, đó là lớp người đông đảo đã góp khả năng đáng kể về tinh thần lẫn vật chất để đưa cuộc kháng chiến đến mức trưởng thành như ngày nay.
Vì vậy sự đè nặng của giai cấp đảng viên trên giai cấp quần chúng ngày một ngột ngạt khó thở. Nhưng người Việt vốn đã nhẫn nại, trong những bước gieo neo này họ lại càng thêm nhẫn nại. Người ta quay lưng với họ, họ thì không thể quay lưng với Tổ quốc được.
Ngày nào gót giày đinh của quân Pháp còn giày xéo qua xóm làng của họ, đốt phá nhà cửa, bắn giết người vô tội, hãm hiếp đàn bà con gái của họ, thì chỗ của họ chỉ có thể là ở góc rừng này, bụi chuối kia, đầm lầy nọ, cho dù hiện giờ họ còn phải còng lưng mang thêm gánh nặng nhục nhằn của sự bạc đãi, hắt hủi, rẻ rúng, bỏ rơi một cách phũ phàng.
Tâm trạng này được thể hiện trong hai câu thơ của Huỳnh:
“Con chim nào dại bay về tổ, Khi cả rừng xanh loạn chiến trường…”
Tâm trạng đó tạo nên sự điềm tĩnh của Huỳnh khi anh bị thương, bị thất lạc trong trận đánh đồn làng Hạ, cấp chỉ huy của anh đã bỏ rơi không thèm tìm kiếm lại còn quyết đoán là anh đã đi theo giặc. Huỳnh đã nói với Trần:
– Chuyện đó tao không lạ, mày đừng gây sự với nó làm chi, nó là đảng viên, cũng như mày vậy, tao chỉ là một kẻ ở ngoài, một quần chúng, không nên rắc rối với nó vì tao, yên lặng là hơn hết.
Trần là đảng viên, Huỳnh là một quần chúng, điều lạ lùng là họ trở thành bạn thân, họ gần gũi nhau trước hết trong địa hạt văn nghệ mà hai người đều là thi sĩ, họ mến phục thi văn của nhau, giữa họ có những điểm tương đồng về tâm hồn, về đời sống, vì vậy mặc những dị biệt chắn ngang đời sống của họ, họ vẫn yêu mến và cảm phục lẫn nhau vô cùng.
Hơn nửa tháng sau ngày đưa Huỳnh đến gởi gắm ở nhà bà Thị, Trần mới trở lại thăm Huỳnh. Lúc đó vào khoảng tám giờ tối, Huỳnh đang nằm xem bộ Đông Chu Liệt Quốc tìm được trong tủ sách của gia đình này, Trần bước vào như một cơn gió.
– Tao gắng thu xếp để về với mày ít nhất là một ngày, vậy mà sáng mai tao phải đi thật sớm. Vết thương mày ra sao?
Huỳnh ngồi dậy, ánh mắt anh tỏ rõ sự hài lòng được trông thấy bạn:
– Tao sắp trở về đơn vị rồi mày ạ, xem đây. Huỳnh vạch áo để lộ cho Trần thấy những vết thương đã đâm da non.
Trần lắc đầu cương quyết:
– Mày chưa đi đâu được, mày đã mất rất nhiều máu, còn lâu lắm mày mới lại sức nổi, tao đã dàn xếp với cơ quan cho mày rồi, mày phải tịnh dưỡng ít ra là hai tháng.
– Không cần thiết như thế đâu, tao cần phải trở lại công việc, những ngày phải nằm tao cảm thấy tù hãm! Còn mày, mày đã làm gì lâu nay? Có việc gì gấp mà mai phải đi sớm vậy?
Trần lôi trong xắc ra một lô những hộp thuốc bổ:
– Tao gởi chị Hiếu đi Huế mua cho mày mấy hộp thuốc bổ máu với lại bổ đủ thứ nữa đây, chị Hiếu gởi cho mày bịch thuốc lá, mấy hộp sữa, khăn mặt, với lại bàn chải, thuốc đánh răng. Chả là mấy lúc mày lên trên tao, chị ấy thấy mày ở bẩn quá mà gì, còn đây là gói kẹo chanh Quý nó gởi cho mày, mẹ nó vừa mới lên thăm mang lên cho nó.
Huỳnh sực nhớ: “Quý đâu, Quý ở đâu, sao nó không đi với mày?”
– Nó buồn lắm vì không được đi theo tao về thăm mày, nó phải ở lại cơ quan, lần này tao có đi công tác đâu mà nó đi theo.
– Trần mỉm cười chua chát – Mai sớm tao phải về phân khu, có lệnh ở Mặt trận bộ gọi tao về vì Đảng thấy có một cái gì trục trặc trong bộ óc tao cần phải chỉnh đốn lại, cái đó đang ở trong này đây này.
Trần chĩa ngón tay trỏ làm một cử chỉ ngoáy vào thái dương, nhìn bạn, đôi mắt sáng ngời một vẻ kỳ quái. Lúc bấy giờ Huỳnh mới kịp nhìn kỹ nét mặt của Trần. Mới có hơn nửa tháng mà gặp lại trông Trần gầy tóp hẳn đi, lưỡng quyền nhô lên trông thấy, da mặt Trần vốn trắng trẻo bây giờ xanh xao và hơi tái, miệng chàng thường ngày tươi, môi đỏ và mướt như môi con gái giờ đây nhợt nhạt phảng phất một nét chua cay nơi khoé miệng. Đôi mắt đen láy của chàng thường rất trong sáng vui vẻ dưới ánh nến, đêm nay ánh lên một tia lửa khác thường, như bị nung nấu bởi một ý nghĩ gì thật ghê gớm, thật khích động.
Trần đứng trước mặt Huỳnh, thân hình gầy và cao lớn thẳng tắp, đôi mắt quắc lên nhìn Huỳnh chằm chặp.
Huỳnh điềm đạm đưa tay kéo Trần ngồi xuống:
– Có chuyện gì đó? Hãy ngồi xuống đây đã; được rồi, như thế đó; khoan, hãy gượm, còn cả đêm dài để mày kể cho tao nghe. Tao nghĩ mày chưa ăn uống gì cả, trông mặt mũi bơ phờ thế kia, mày lại cũng chưa chào hỏi bác Thị gì cả. Chúng mình đi xuống nhà ngang cho mày chào bác và kiếm cái gì cho mày ăn. Bác ấy nhắc mày luôn đấy, bác thật tốt, tao chóng lành mạnh là nhờ bác ấy, à có tiếng guốc của bác ấy đi lên, chắc bác ấy nghe tiếng mày rồi, đấy tao nói có sai đâu.
Thưa bác, Trần nó mới về đó bác ạ, gớm trông ông ấy mệt dài người ra chắc ông ấy đói lắm đó bác.
Bà Thị tỏ vẻ mừng vui, bà hỏi han Trần:
– Con đi đường yên ổn chứ? Nghỉ tí cho khỏe rồi bảo dọn cơm ăn, đường sá có dễ đi không con?
– Thưa cô cũng vậy thôi, con phải chờ chạng vạng tối mới đi được qua các đồn bót, nên mới đến nhà vào giờ này đấy chứ, vì sáng mai sáu giờ con đã phải đi cho đến trạm liên lạc.
Bà Thị than thở: “Chả biết đi làm nên vương nên tướng gì mà bao giờ cũng thấy vất vả, mới về ngồi chưa ấm chỗ đã nói chuyện đi, ông Thị nhà này cũng vậy, lâu lắm mới thoáng về, về đến nhà là y như rằng một chân bước vào, hai chân bước ra, rồi lại đi biền biệt.”
Trần đứng dậy đến soạn đồ trong xắc vừa nói:
– Con vừa gặp dượng hôm nọ bên tỉnh, dượng vẫn mạnh, có lẽ dượng cũng sắp về thăm nhà đấy. Con về thấy Huỳnh đã khá con mừng lắm. Cô lo cho nó quá như thế này đến khi lành mạnh nó cũng dông mất mặt, cả năm chưa chắc nó đã trở lại thăm cô được lấy một lần, thì cũng như dượng và cháu ấy thôi, đàn ông con trai chúng cháu bây giờ bạc bẽo như nhau cả cô ạ.
Chàng cầm một cái khăn tắm đi đến bên cô, ôm vài bà, giọng mơn trớn:
– Chỉ tội cho cô ngồi ở nhà mãi thương và lo cho những kẻ vô tích sự như chúng cháu mà thôi, cô nhỉ?
Bà Thị cố giấu cảm động, cười mắng yêu cháu:
– Thôi đừng nịnh, bây giờ con đi tắm đấy à?
– Vâng, con đi tắm một lát, người con đầy bụi, cô bảo sắp cơm để sẵn đấy cho con nhé.
Trần quay sang Huỳnh: “Tao đi tắm cái đã, chờ tao một tí, đừng ngủ quên, tao cần nói chuyện với mày đêm nay.”
Huỳnh mỉm cười yên lặng. Trần xách khăn đi thẳng ra ngoài, bà Thị nói vói theo:
– Mới đi về mệt không nên tắm lâu con nhé, liệu phiên phiến mà vào ăn cơm.
Bà quay lại Huỳnh lắc đầu:
– Trong tất cả các cháu của tôi, nó là đứa có tình nhất đấy anh ạ, tôi thương nó nhất. Bà chị dâu của tôi là mẹ nó ở trong Huế cứ mỗi lần tôi vào là hỏi nó rồi khóc, chị ấy già yếu lắm rồi, không đi ra ngoài này mà thăm nó được, cụ cứ lo chết không thấy lại mặt nó. Tôi an ủi cụ mãi, bảo là có tôi trông chừng nó ở ngoài này, không sao đâu. Chị ấy cứ than thở không biết bây giờ con ra sao, có cực khổ lắm không, có đau ốm không, rằng có sao đi nữa thì cũng chỉ một mình, không thể có cụ một bên. Mà cũng thật vậy anh ạ, đó với đây ngó thì không xa mà trắc trở nhiều bề. E phải chờ đến khi nước nhà độc lập mọi người mới thấy được mặt nhau anh Huỳnh nhỉ?
Huỳnh khẽ gật đầu:
– Vâng, có lẽ rồi cũng phải vậy chứ sao thưa bác.
Bà Thị kể lể: “Anh chị tôi chỉ có nó là con trai, chị nó đã đi lấy chồng, cũng nên danh phận với người ta. Anh tôi mất lâu rồi, chị ấy xin mấy đứa cháu ngoại lớn về ở với chị cho vui nhà, cho đỡ vắng vẻ, anh tính, cả tòa nhà rộng mênh mông bà cụ vô ra có một mình, cụ ước ao cưới vợ cho con trai, để có cháu nội cho đầy nhà đầy sân, mà nó thì đi như vậy biết bao giờ về, ấy thế mà cụ đã lo chọn con dâu rồi đấy.”
Chợt nhớ ra, bà quay đi, vội vàng: “Ấy quên, tôi đi lo cơm cho nó chứ.”
Còn lại một mình, Huỳnh ngả người xuống giường, anh nghe tiếng giội nước ào ạt của Trần từ ngoài giếng, nhớ lại nét mặt xanh xao, giọng nói cay đắng của bạn khi nãy, có một cái gì như một cơn gió lạnh lướt qua, một điều gì bất ổn như tiếng giông nổi dậy xa xa sau giấc ngủ buổi chiều, khiến anh cảm thấy tâm trí bàng hoàng.
Cho đến bây giờ Trần đã được cuộc đời đãi ngộ xứng đáng, chàng đi vào đời sống kháng chiến này như một đứa con cưng, mọi cánh tay đều đưa ra chào đón nồng nhiệt, con đường chàng đi thênh thang, tuổi trẻ làm cho chàng dễ dàng vui sướng, nắng mưa dãi dầu gian lao nguy hiểm là men say của cuộc đời dậy lên mùi mật ong ngây ngất.
Những nơi chàng bước chân qua, tất cả mọi thứ, đời sống, con người, loài vật, côn trùng, cỏ cây, cho chí những sự việc nhỏ nhoi tầm thường nhất cũng gây cho Trần những khích động không lường được, tất cả mọi thứ dưới mắt Trần đều mang một sắc thái riêng biệt, lạ lùng, mới mẻ, đáng say mê.
Chàng gia nhập đảng Cộng sản với tất cả tấm lòng nhiệt thành đam mê lý tưởng, một lý tưởng chân xác vươn đến sự toàn bích của loài người. Lý tưởng đó mở ra cho chàng thấy một tương lai huy hoàng, ở đó con người không còn đói khổ, không còn những kiếp sống đọa đầy. Ở đó con người thảnh thơi cả tâm hồn lẫn thể xác, tự do như gió bay khắp đất trời, ở đó mọi người thương yêu nhau, tôn trọng lẫn nhau. Trí tưởng tượng phong phú của Trần với tâm hồn nghệ sĩ thoát thai từ đất trời của một kinh đô hoang tàn nếp cũ, vẫn còn đầy ắp trong hồn chàng, điệu ca Nam Ai não nuột trên giòng sông thắp nến nửa khuya, vẫn còn phảng phất trong hơi thu, bóng người xưa trên tòa thành cổ, mùi xạ hương xống áo giai nhân quấn quýt trong bóng rồng bay nếp hoàng bào của đấng quân vương thi sĩ.
Kinh thành Huế mà ở đó Trần đã được sinh ra và lớn lên đầy rẫy những truyền tích hoang đường lãng mạn kiêu sa, đầy những bóng ma vương giả, dĩ vãng vất vưởng trên đầu mỗi ngọn cây, mỗi bức tường xám sậm, trong những đền đài lăng miếu rêu phong.
Khi Trần ra đi chàng mang theo tất cả những hình ảnh đó, chàng ôm đồm một cách tham lam gắn chặt trong tim trong máu. Trong cuộc đuổi bắt tương lai hiện giờ, chàng những toan tính nối liền tình xưa, khơi thông nguồn lưu luyến tình sau, cũng bởi hồn chàng quá trẻ trung thuần khiết, tình yêu con người trên quê hương chàng sau trước khôn cùng. Tuy bề ngoài Huỳnh đối với bạn thật trầm tĩnh, lối cư xử mạnh mẽ cứng cỏi của tình bạn trai nhưng trong thâm tâm Huỳnh vẫn dành cho Trần một tình cảm nâng niu gìn giữ, Huỳnh muốn cho những ảo tưởng tuyệt vời của tuổi trẻ giữ cho bạn anh nghị lực cần thiết để vượt qua bước khó khăn này. Anh càng thương yêu lo lắng cho bạn nhiều hơn nữa khi anh nhìn lại tâm trạng rách nát của mình. Còn có gì nữa đâu, đến đây anh đã trắng tay rồi, nào chí bình sinh, nào tiền đồ dân tộc, giơ tay lên mà đếm, biết khóc cười chưa được ba mươi năm, cuộc sống này anh trót nhìn quá rõ, trót biết quá nhiều, biết để ê chề đau đớn, thấy mình vô duyên như một gái điếm về chiều. Anh còn có mặt nơi đây chỉ do chút lòng kiêu hãnh với chính mình, những cuộc xông pha nguy hiểm không còn mang ý nghĩa tốt đẹp của phụng sự, dâng hiến nữa, mà là một chứng tỏ với chính mình để thấy mình hiện hữu, để xoa dịu đau thương chất ngất.
Và còn có một tình yêu, một khuôn mặt đằm đằm ân sủng vẫn hiện về trong những giấc mơ như một loài hoa quý, loài hoa mang tên của nàng, loài hoa mang tên Lan. Lan đó, Lan từ thuở nào xa lắc, mới đó mà như đã ngàn năm, Lan mà đôi mắt mở rộng đăm đăm nhìn Huỳnh, đôi mắt dõi theo Huỳnh trong những năm tháng phiêu bồng, mải miết đi tìm những cái hư phù ảo ảnh, nước mắt nào xưa như những giọt sương mai, tưới lên tâm hồn dày dạn đắng cay này. Giờ đây, giữa cuộc đời đen bạc, giữa cơn sốt đêm trường chỉ còn vị mặn chát của nước mắt người yêu lần hẹn gặp cuối cùng. Gần hai năm nay Huỳnh không được tin tức gì về nàng nữa, chỉ nghe phong phanh nàng đã theo gia đình đi về miền Bắc xa xôi. Khoảng không gian vọng tưởng càng thêm rộng lớn mơ hồ, có lúc anh tưởng như đã quên mất nàng; thời gian trôi qua với những chán chường ghê tởm lũ mặt người giả nhân giả nghĩa chia chác quyền lợi đảng phái, cá nhân trên xác mỏi mòn của người mẹ quê hương, nỗi quằn quại đớn đau không lối thoát trước thực tại phũ phàng.
Giờ đây Huỳnh chỉ còn cưu mang một thân thế phù du đâm đầu vào lửa bỏng rát, thấy rõ hố sâu dưới chân mình ngàn vạn xác thiêu thân mà không thể nào lùi bước, còn mong gì gặp lại một đôi mắt, một khung trời. Dần dần hình ảnh nàng chỉ còn thoáng hiện trong những cơn mê héo úa của tâm hồn, chỉ còn đôi mắt chong chong phủ mấy tầng sương khói, chắp cho hồn anh đôi cánh mỏng manh, một thoáng quên đời. Anh đâm ra tin rằng Lan không hề có thật. Những ngày êm đềm xưa kia cũng không hề có thật.
Tất cả chỉ là giấc mơ. Những gì đẹp đẽ trong đời chỉ có thể có trong giấc mơ mà thôi.
Cả mẹ già mà ba năm nay anh bỏ quên trong nhà nhỏ ở khu xóm ngoại ô của một thành phố miền biển cũng vậy. Người mẹ suốt đời chiu chắt cho bầy con không hề biết sướng vui là gì.
Anh lớn lên mang thân thể trẻ trung rời bỏ căn nhà của mẹ, một mình đuổi theo những đám mây ngũ sắc cuối trời, đi qua những đoạn đường giông bão, cuộc đời cho anh vị đam mê hung hãn cũng như rứt đi của anh từng miếng tim gan, cho tới khi gót rỗ phong trần, những đêm mưa nằm ở góc rừng heo hút đưa tay lên vuốt mặt cày lõm nếp đau thương, mái tóc chưa quá ba mươi đã điểm nhiều sợi trắng, mẹ bây giờ gặp lại con nào biết là ai.
Đứa con đã trở thành kẻ lạ, lạ với chính mình, lạ với quê hương xứ sở, lạ với người mẹ thân yêu.
Bây giờ chỉ còn lại cơn mơ, Huỳnh đã tìm về mẹ trong cơn mơ để thấy lại:
“Hỡi mẹ mà đi học. Con tỉ tê áo lành Giọt tủi thầm rơi trên bậc cửa, Mẹ cười vui vẻ hẹn sang năm…”
Nghĩ đến mẹ Huỳnh bỗng cảm thấy bứt rứt xốn xang. Mẹ, hỡi mẹ yêu dấu, nơi xa kia mẹ nghĩ gì về con trai mẹ? Mẹ hãnh diện vì có con ra đi cứu nước ư? Con biết nói sao cùng mẹ, biết nói sao cho mẹ hiểu.
Huỳnh nhổm dậy, anh quơ tay như gạt đi một vật gì vô hình trước mặt, anh châm một điếu thuốc, rít một hơi dài, thở khói ra cuồn cuộn, mắt anh đỏ ngầu dữ tợn, anh vụt quăng điếu thuốc xuống đất, đứng dậy lấy chân dí lên một cách hằn học.
Có tiếng guốc mộc của Trần đi lên, nét mặt Huỳnh dịu lại, anh vẫn đứng yên, quay về phía cửa chờ đợi.
Trần bước vào, tươi sáng trẻ trung:
– Hương hoa cau ngoài giếng thật tuyệt vời mày ạ, nhất là vào giờ này, không hiểu tại sao chỉ bên bờ giếng hương hoa cau mới thật thanh khiết dịu dàng, có lúc như có, có lúc như không, khiến mình phải khát khao tìm kiếm, tao tưởng như đang được tắm nước giếng có tẩm hương hoa vậy. Khi nào tao chết chỉ mong được người ta tắm rửa xác mình bằng nước giếng có mùi thơm hoa cau mà thôi.
Huỳnh vẫn đứng yên chỗ cũ:
– Ý kiến hay đấy.
Trần lấy trong xắc ra chiếc lược chải sợi tóc ướt xõa xuống trán:
– Tao chắc linh hồn mình khi ấy sẽ nhẹ lâng lâng.
Huỳnh mỉm cười nghĩ đến bọn Hoàng, Bửu, Hồ, Phong nghịch ngợm cãi vã nhau về chuyện linh hồn hôm nọ. Anh giục Trần:
“Thôi đi ăn đi kẻo bác Thị đợi mày dưới nhà.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:12:43 GMT -6
CHƯƠNG VI
Sắp sang tháng năm nên trời khá oi bức, Trần tắt đèn để ngỏ cửa sổ, đoạn trở lại chiếc trường kỷ kê gần cái sập của Huỳnh nằm, chàng ngả người gối đầu lên chiếc gối vuông bằng mây đã cũ, lên nước vàng óng, thân thể chàng được nghỉ ngơi sau một chuyến đường dài giãn ra trong một sự mệt mỏi êm dịu. Chàng nói với Huỳnh, giọng mơ hồ:
– Lúc nãy ăn cơm cô tao bảo mẹ tao đòi cưới vợ cho tao, thật buồn cười mà cũng tội cho cụ quá, các cụ không hề ý thức được hoàn cảnh không phải lúc nào cũng giống lúc nào. Chắc mẹ tao coi như là tao đang đi chơi quanh quẩn đâu đó, gọi về lấy vợ lúc nào thì gọi đó chắc.
– Cho là như vậy cũng được đi, như thế càng đỡ khổ cho cụ, nhưng cưới ai mới được chứ, ai mà dám liều mạng chịu lấy những thằng lêu bêu như lũ mình, vả lại biết mặt biết mũi đâu mà tính chuyện như thiệt vậy?
– Ấy thế mà cụ ngắm rồi đấy, cô bé ấy chẳng xa lạ gì, đó là Thương, gọi anh rể tao bằng cậu ruột, cha của Thương mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng nên gởi Thương cho anh chị tao nuôi từ nhỏ. Anh rể tao làm chánh án ở Huế, anh chị vẫn ở với mẹ tao, cho nên Thương sống trong gia đình tao từ bảy tám tuổi đến bây giờ, anh chị tao đổi đi vẫn gởi Thương và đứa cháu gái lớn ở lại với mẹ tao cho cụ khỏi đơn chiếc, và chúng nó cũng tiếp tục sự học không phải đổi trường, cả hai, hương và Thể My cháu tao đều học trường Đồng Khánh.
Huỳnh chép miệng: “À, thế thì cũng không có gì rắc rối, cụ tính thế thì đâu vào đấy đấy chứ, thế giữa mày với Thương ra sao?”
– Ra sao thế quái nào được, nó lớn hơn Thể My con anh chị tao độ hai ba tuổi gì đó, hồi ở nhà nó cũng gọi tao bằng cậu, ngày tao đi nó mới mười ba, mười bốn tuổi gì đó, hồi đó tao còn bận bịu chạy theo nàng của tao mà lỵ.
– Thế nàng của mày bây giờ ở đâu mày biết không? Có liên lạc được không?
– Làm sao mà biết được nàng ở đâu mà liên lạc với chẳng liên lạc, cả tên em là gì tao cũng không biết nữa là.
– Chuyện của mày nghe lẩm cẩm bỏ mẹ.
– Thật đấy mày ạ, tao gặp em trên một chuyến đò ngang qua Phu Văn Lâu, tao thấy mắt em buồn quá, tóc em dài quá, áo em trắng quá, thế là tao đâm ra cảm, thế là tao âm thầm đưa đón em thật siêng năng cần mẫn suốt mấy tháng trời, cho đến khi em mất hút, tao ngơ ngẩn một hồi, rồi rộn ràng theo chuyện thời cuộc, chuyện chiến tranh tao quên khuấy đi mất. Thế nhưng từ khi ra ngoài này thỉnh thoảng lại thấy nhớ em thật nhiều, mày nghĩ có lạ không?
Tiếng Huỳnh cười khẽ trong bóng tối:
– Mày thì có cái gì mà không lạ. Thôi hãy nói tao nghe ngày mai mày về Mặt trận bộ có việc gì mà trông bộ dạng mày khiếp thế?
Trần trở nghiêng mình về phía Huỳnh, tiếng chiếc gối mây kêu cót két:
– À còn chuyện đó, trên ấy họ muốn gọi mình về nói chuyện cho vui đó thôi.
Giọng Trần trở nên chua chát:
– Đảng nhận thấy đầu óc tao gần đây đâm ra lệch lạc nên gọi về cạo gọt cho nó bớt u mê đi, mấy thằng ở tỉnh nó bảo tao nghệ sĩ lông bông lâu quá rồi cần phải cho tao vào khuôn vào phép thì vừa.
– Láo thế, chuyện xảy ra thế nào?
– Lần trước tao đi tìm mày để nói chuyện đó với mày nhưng mày bị thương, không thể nói chuyện với mày lúc đó được. Tao trở lại trên đó, khi ngang qua cánh rừng chỗ nàng bị hành quyết, tao không cưỡng lại được ý muốn tạt vào thăm mộ nàng, tao thấy…
Huỳnh điềm tĩnh ngắt lời Trần:
– Hãy kể lại từ đầu.
– Ừ nhỉ, Trần bật cười, chuyện như thế này…
Bằng một giọng đều đều, Trần kể lại chuyện người con gái bị giết hôm nào trong khu rừng già. Kể xong, chàng nằm lặng yên một lúc lâu, Huỳnh cũng nín lặng như anh chờ đợi Trần nói thêm điều gì. Sau cùng Huỳnh cất tiếng hỏi:
– Chỉ thế thôi ư?
Trần vùng dậy:
– Này, tao nói thật, không phải là từ trước tao không hề biết đến những chuyện tương tự như vậy, có những sự thật tồi tệ hơn nữa, người ta có thể giết lầm, giết oan, thủ tiêu hàng loạt người vô tội, tao vẫn biết là không thể tránh được, chiến tranh mà, nhưng chuyện này đặt tao trước một vấn đề khác.
– Và vấn đề khác đó đã làm cho mày la hoảng lên, phải không?
– La hoảng à, cũng gần như thế, để tao nói hết, buổi chiều hôm ấy đi công tác về ngang qua đó, tao cảm thấy có một sức thu hút khiến tao phải ghé lại. Họ chôn nàng ngay dưới gốc cây chỗ nàng bị hành quyết, tao đến, buổi chiều còn nắng, cái mộ được bóng cây che rợp, đất ẩm ướt xông lên mùi nồng ngai ngái, một chiếc nón trắng lăn lóc ở bụi cây gần đó, tao nhặt lên xem, đó là một cái nón bài thơ cột dải lụa màu hồng. Tao đặt cái nón ngay ngắn trên nấm mộ rồi quay đi.
Tao không dám nhìn lại, tao có cảm tưởng như có một đôi mắt sợ hãi tuyệt vọng đang ngó theo tao…
Huỳnh cười chế diễu Trần với một giọng thân ái:
– Mày kể cứ như đi thăm mộ người yêu ấy thôi.
– Đêm hôm đó tao thức trắng đêm, tao viết một bài tường thuật về cuộc hành quyết với những chi tiết của nó, tao tả rất rõ ràng về những mũi tên tẩm độc, tao gài nó vào câu chuyện bên lề chiến dịch. Mày cứ tin đi, tao quyết làm cho tất cả đều phải nổi da gà.
Tiếng Huỳnh thở hắt ra:
– Và việc phải đến đã đến, phải không mày?
– Ừ, đúng thế, bài tường thuật đã gây xôn xao kinh khủng, một sự xáo trộn tâm lý chưa từng thấy, nhất là bọn trẻ, chúng nó đi tìm, viết thư cho tao, một thằng Vệ Quốc quân cho tao biết rằng nó đã nghẹt thở, muốn ngất đi khi đọc bài tường thuật, tất cả đều chú ý tới mũi tên tẩm thuốc độc, có đứa lại viết cho tao một cái thư dài phân tích tỉ mỉ về chất độc trên những mũi tên, thằng đó nó lại còn nói thêm rằng nó hiểu biết khá nhiều về những loại thuốc độc của người miền núi dùng để tẩm vào nhưng mũi tên để giết thú rừng. Đích thị là điều tao muốn nói đó.
– Tao biết, và tao cũng nghĩ rằng sau đó người ta cũng có nhiều chuyện muốn nói với mày?
– Dĩ nhiên, tao đã biết trước, đâu phải tao không lường được những việc tao làm, tao chỉ chờ có thế, tao cần có cơ hội để đặt lại vấn đề với Đảng; chúng ta không chiến đấu hăng say trong khi những vấn đề nhân bản không được tôn trọng. Tổ quốc cũng chỉ hình thành bởi con người mà thôi. Phần tao, ngay sau khi chứng kiến chuyện đó, tao biết rõ một điều là tao có thể phủ nhận tất cả để chỉ giữ lại có con người mà thôi.
– Thế Đảng có đồng ý với mày không? – giọng Huỳnh êm ái kéo dài.
Trần nghiến răng, chàng đứng dậy đi lại dằn dọc trong căn phòng:
– Tao biết mày đã nghĩ gì, đúng như mày nghĩ đó, Đảng bộ họp, mấy thằng ủy viên bên tỉnh chúng nó tấn công tao, chúng nó nêu vấn đề lập trường, chúng nó bảo tao càng ngày càng đi xa lập trường của Đảng, tao nói một cách rõ ràng rằng tôi là một đảng viên và tôi luôn luôn làm mọi cách để phụng sự Đảng, Đảng vĩ đại và sáng suốt đã trưởng thành trong đấu tranh gian khổ của toàn dân, cho nên mọi hành động bưng bít không dám sửa chữa những sai lầm đều không xứng đáng với sứ mạng cao cả của Đảng. Tôi là người cầm viết, tôi biết rõ trọng trách của tôi, trọng trách của tôi là nói lên sự thật, là làm sáng tỏ những gì mà những người khác không thể nói hoặc không dám nói.
Huỳnh nói giọng phiền muộn:
– Mày đã nói như thế à, như thế là sự việc trở nên trầm trọng rồi đấy.
Trần phẫn nộ: “Còn hơn là trầm trọng nữa, thằng Việt Dũng tỉnh ủy viên mày biết mà, cái thằng mặt mũi lạnh tanh bao giờ cũng có vẻ quan trọng lắm đó, cái thằng có qua họp với trung đoàn luôn hồi phối hợp trong chiến dịch đó mày nhớ không?”
– Nhớ. Cái thằng mà tụi nó kể chuyện hắn đã bỏ lắc con vợ của hắn vì mụ ta cứ lải nhải kêu tên cúng cơm của hắn là anh Rớt hoài thay vì gọi tên Việt Dũng đó chứ gì.
Trần cười: “Ừ đấy đấy, mày cũng có nghe chuyện đó à?”
– Gì mà chả nghe, mỗi lần họp giờ nghỉ trưa là tụi nó làm như giặc, có chuyện gì mà tụi nó không khui ra đâu, tao còn biết mẹ nó đẻ rớt nó ngoài chuồng bò không kịp chạy vào nhà nên đặt luôn cho nó là thằng Rớt, nghe nói từ khi trở thành đồng chí Việt Dũng nó ghét cay ghét đắng những ai gọi nó là thằng Rớt.
– Đấy chính nó, nhưng đừng coi thường nó là thằng Rớt đấy nhé, thằng đó nó có thể rất hữu ích hoặc rất nguy hiểm cho cách mạng. Bắt đầu nó ca tụng tao, nó bảo rằng từ tước đến nay đồng chí Trần đã làm cho chúng ta hãnh diện vì tài năng và tinh thần phục vụ của đồng chí, có thể nói rằng những chiến sĩ của ta đã vô cùng phấn khởi, vô cùng hăng say phần lớn là do những diễn tiến của thời cuộc với những tin tức của các chiến dịch thật chính xác và kịp thời phản ảnh trên tờ báo Quân Đội do đồng chí Trần điều khiển, tờ báo đã chứng tỏ một cách vẻ vang nỗ lực của quân dân ta. Ai cũng công nhận đồng chí Trần được coi như nổi bật về cả hai phương diện, người chiến sĩ và người nghệ sĩ, với cây bút mà đồng chí ấy sử dụng mỗi chữ như mỗi viên đạn bắn trúng đích vào đầu quân địch, đồng chí đã gây nên một tiếng tăm và ảnh hưởng tốt đẹp trong hàng ngũ bộ đội của ta. Do đó chúng ta không thể phủ nhận thiện chí của đồng chí Trần, ngay trong việc này cũng vậy, nếu việc làm này của đồng chí vô tình đã gây hoang mang cho tinh thần chiến sĩ, gây tổn thương cho uy tín của cấp lãnh đạo của ta, thì tôi nghĩ rằng đồng chí ấy rất đủ can đảm để sửa đổi lại mọi sự việc này. Ai cũng có thể rơi vào những lỗi lầm đáng tiếc có thể đưa đến hành động phản cách mạng mà không tự biết. Tôi xin đề nghị Đảng nhân dịp này dành cho đồng chí Trần một thời gian để phản tỉnh lại thái độ và tư tưởng. Tôi tin rằng đồng chí sẽ chiến thắng bản thân một cách anh dũng như đồng chí đã từng chứng tỏ với Đảng và các chiến sĩ của ta vậy.
Trần ngừng một lát rồi nói tiếp:
– Mày thấy không, rất khéo léo và thần tình, nó đã dùng những lời lẽ rất kêu để quật ngược lại tao, và lật ngược vấn đề.
Huỳnh lẩm bẩm như nói một mình:
– Phải nói rằng mẹ nó đẻ ra thằng Rớt nhưng chỉ có Đảng mới tạo ra đồng chí Việt Dũng với giọng lưỡi đó, cứ kể thì cũng ghê gớm thật, điều tai hại là mọi người không ý thức được sự nguy hiểm đó. Rồi sao nữa mày nói tiếp đi.
– Tao vẫn tiếp tục trình bày quan điểm của tao. – Trần cao giọng, rõ ràng khúc chiết như chàng đang có sẵn trước mặt một đám cử tọa đang chăm chú nghe chàng. – Tao nói rằng chính những mũi tên tẩm thuốc độc đã phản cách mạng, nếu tôi không nêu lên để chận đứng những gì tương tự tức là tôi đã thỏa hiệp với những mũi tên tẩm thuốc độc để làm thui chột cách mạng; chất độc sẽ thấm và loang dần, sẽ làm hoen ố mọi ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu của quân dân ta. Những mũi tên tẩm độc sẽ đi xuyên qua chính nghĩa của Đảng ta, một chính nghĩa bảo vệ cho những con người cùng khốn nhất. Chúng ta có Đảng như có mẹ hiền, vì Đảng mà chúng ta biết yêu thương nhau mà tôn trọng con người. Vì Đảng chúng ta sống chết cho quê hương và quảng đại quần chúng trông cậy vào ta. Tôi hiểu rằng trong hoàn cảnh chiến tranh ta có thể thông qua một số vấn đề không phải là không quan hệ vì nó chà đạp lên số phận của con người, những con người trên xứ sở này vốn đã khốn khổ từ lâu. Điều cụ thể là ta không thể xác nhận tội trạng của cô gái đã bị công an ta hành quyết trong khi cô ta chỉ có một tội là đã lấy Tây và đã về quê giỗ mẹ để phải sa vào bàn tay bắt bớ của ta trong tình trạng chiến tranh này. Ta không có bằng chứng nào để quyết đoán rằng cô ta làm chỉ điểm cho Pháp hay không, nhưng ta vẫn phải sát hại cô ta để đề phòng căn cứ của ta khỏi bị lộ. Đó là việc làm cho tất cả chúng ta đều phải đau lòng, nhưng để bảo toàn cách mạng, qui luật của chiến tranh khiến cho ta đành phải giết lầm hơn là tha lầm, chúng ta đành phải hy sinh một mạng người có thể là vô tội, tôi biết điều đó và điều tôi muốn nói không phải là chuyện cô ta bị giết hay không. Điều tôi muốn nói là chúng ta không thể dung túng hành động của người sử dụng mũi tên tẩm độc, hành động đó chối bỏ con người kể cả nạn nhân và kẻ làm việc đó. Người ta không thể dùng con người để thí nghiệm phản ứng của những mũi tên tẩm độc mà người thiểu số chỉ dùng để bắn thú dữ trong trường hợp tự vệ. Giết một con người không thể xem như giết một con thú hoang, chúng ta đã tự hào là những kẻ tiền phong, có phải thế không, vậy các đồng chí nghĩ sao về hành động phi nhân này? Trong bản tường thuật, tôi chỉ làm đúng nhiệm vụ của một người ghi lại mẩu tin với những chi tiết xác thực mà thôi, hôm nay trong nội bộ của chúng ta, tôi mới phân tách cặn kẽ ý nghĩ của tôi đối với việc này. Với lý tưởng cao cả mà chúng ta đang theo đuổi, với lòng kỳ vọng của mọi tầng lớp quân dân đang hướng về chúng ta, tôi xin Đảng ra lệnh nghiêm ngặt chặn đứng những hành động tương tự, đồng thời áp dụng biện pháp kỷ luật tối đa đối với kẻ đã sử dụng mạng người như một con vật để thí nghiệm trò chơi của mình. Điều này khiến ta liên tưởng đến các trò chơi của bọn vua chúa trong các thời đại đế quốc xa xưa, những trò giác đấu, hoặc xua người đến trước hàm sư tử, hoặc róc mía trên đầu tội nhân, đó là những hiện tượng biểu lộ cho những thời đại sắp suy tàn, báo trước sự sụp đổ không phương cứu chữa. Con đường chúng ta đi hôm nay muôn người như một, thế hệ chúng ta trẻ trung thuần khiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa ngày mai, chúng ta cần đủ sức mạnh dời non lấp biển, cần phải quét sạch rác rưới trên con đường chúng ta đi, ta không thể dung dưỡng những phần tử bệnh hoạn bám đầy tàn tích dã man độc ác của thời phong kiến đã qua, bởi vì chúng ta là những con người tiến bộ, chúng ta đang gánh chịu một trách nhiệm nặng nề đối với đời sống hiện tại và những thế hệ trong tương lai.
Điếu thuốc của Huỳnh chợt lòe lên sáng rực, trong bóng tối mờ mờ của căn phòng, anh cất tiếng điềm đạm:
– Khá đấy, ít nhất cũng phải nói ra như thế, đó mới thật là những lời đích đáng, dù là có phải nói với một bức tường.
Trần buồn rầu:
– Mày vừa nói đến một bức tường hả, đúng vậy, không có hình ảnh nào xác thực hơn, tao đã nói những lời lẽ tha thiết ấy với một bức tường bít kín, không có một cửa nẻo nào có thể mở ra. Mày biết chính thằng Trương đấy, nó bảo là mày trốn theo Tây trong khi mày bị thất lạc vì mày bị thương đó, nó vẫn còn cay cú với tao, mặc dầu khi tìm ra mày rồi tao không thèm đá động gì đến chuyện cũ nữa.
– Thằng Trương hả, quả thật tao không thích mày đụng độ với thằng đó, nó nguy hiểm và thủ đoạn lắm, nó đúng là loại người điển hình biết khai thác tận cùng lý thuyết của chủ nghĩa Mác-xít để biến chế ra những sản phẩm tội lỗi của mọi người, ở khắp mọi nơi, trong cái óc tưởng tượng phong phú của nó. Anh em trong cơ quan vừa khinh, vừa sợ nó, nó biết thừa điều đó và tao có cảm tưởng nó thích thú như vậy. Phần tao thì thây kệ, không đả động giao thiệp gì với nó ngoài công việc, phần hành của tao lại khá tế nhị, nó không xía vô được nên nó chưa có dịp kiếm chuyện với tao, nhưng tao biết nó còn chờ cơ hội. Tao thì chẳng nói làm gì, nhưng tao e rằng thằng đó nhảy vào vòng để hạ mày thì mày sẽ phải gặp nhiều thứ bực mình nữa chứ không phải chơi đâu. Nó rất được tín nhiệm, ảnh hưởng của nó đối với cấp trên rất đáng kể, mày không lạ gì chuyện đó.
– Thà mọi sự đã xảy ra y như mày vừa nói. Đảng bộ đã biểu quyết tán thành đề nghị của nó và bây giờ cái thằng tao phải lên đường đi dự lớp chỉnh huấn ở phân khu đây. Ôi tao thương hại tất cả mọi người, tất cả các đồng chí, và lo buồn cho đại cuộc. Tao thấy rõ rằng cả hội nghị không phải không ai ý thức được vấn đề, khi tao nói xong tao cảm thấy một không khí xao động, rất nhiều khuôn mặt biểu đồng tình hướng về tao, tao biết rõ những khuôn mặt ấy, những khuôn mặt đồng chí gắn bó dãi nắng dầm sương gian lao cơ cực có nhau, một vài người giơ tay định nói nhưng thằng Trương đứng phắt dậy, nó không đứng tại chỗ, nó vòng ra khỏi hàng ghế đi ngay lên bàn chủ tịch. Nó chống tay lên bàn chồm người tới trước, cái mặt chuột của nó có vẻ gì khủng khiếp thật, nó đảo mắt đe dọa nhìn quanh cử tọa một lượt rồi với một vẻ nghiêm trọng nó cất tiếng: “Tôi xin lỗi đã giành quyền nói trước bởi vì tôi nhận thấy ảnh hưởng của những lời lẽ vừa rồi của đồng chí Trần đã có thể làm xúc động tất cả chúng ta kể cả tôi trong đó. Nhưng một điều mà chúng ta không thể quên được là chúng ta là những chiến sĩ tiền phong lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng này. Đảng đã giao phó cho ta trách nhiệm đó và chúng ta không hề dám xao lãng. Trọng tâm của chúng ta trong giai đoạn này là hun đúc ngọn lửa căm hờn để tiêu diệt kẻ thù chung. Kẻ thù chung không phải chỉ là quân giặc xâm lăng hay những tên bán nước hại dân mà thôi. Sự chiến đấu gay go cam khổ nhất của chúng ta là khắc phục những ủy mị ươn hèn, sản phẩm của giai cấp tiểu tư sản còn ăn sâu, bám chặt vào tim óc của chúng ta: đó mới là kẻ thù đáng sợ nhất, nó làm cho chúng ta đi lạc lối, nó đẻ ra những căn bệnh tự mãn, tự cao, ru chúng ta ngủ yên trong một số kiến thức hẹp hòi, những tư tưởng mà chúng ta yên chí là thật cao siêu thật ra chỉ một cái vỏ trống rỗng hào nhoáng không ích lợi gì cho cuộc cách mạng hùng tráng này. Chính những tư tưởng ấy đã nảy sinh ra những hành động đi ngược lại quyền lợi chung, làm chậm đà tiến hóa của cách mạng. Chính kẻ thù trong bản thân đó đã làm cho đồng chí Trần của chúng ta đặt vấn đề một cách sai lạc. Chúng ta không lạ gì điều này, vì tuy là một đảng viên ưu tú nhiệt thành, đồng chí Trần đã xuất thân từ một dòng dõi thế gia ở đất thần kinh, gia đình của đồng chí hiện còn ở đó, tôi cũng còn biết rằng đó là một gia đình rất thủ cựu, đồng chí hiện còn anh em là những thành phần trí thức được ưu đãi trong ngụy quyền. Do đó, ta không lấy làm lạ tại sao một chiến sĩ đã không quản vào sinh ra tử, đã từng phụng sự cách mạng một cách hăng say, đã gây được tiếng tăm tốt đẹp cho thành tích tranh đấu của mình, lại có thể phạm vào một sai lầm đáng tiếc là đi bênh vực và thương yêu kẻ thù, thay vì phải đào sâu, khai thác đến tận cùng ngọn lửa căm hờn cần thiết cho cách mạng. Chính ngọn lửa căm hờn đó đã chứng tỏ hành động của người sử dụng những mũi tên tẩm độc trong vụ xử tử tên Việt gian nữ gián điệp vừa rồi. Với cái nhìn lãng mạn của một văn nghệ sĩ mang nặng tính chất tiểu tư sản, đồng chí Trần đã khai triển sự việc đó với khía cạnh bất nhẫn của một trò chơi của thời vua chúa bạo tàn. Hiện tại chúng ta đang sống trong thực trạng của một cuộc chiến tranh dầu sôi lửa bỏng, nhân dân ta đang rên siết dưới gót sắt và bom đạn của thực dân ngày đêm không ngớt trút xuống làng mạc quê hương ta, mà những tên chỉ điểm là kẻ thù khiến cho ta căm hận nhất, chúng ta có thể xẻo từng miếng thịt, lóc từng miếng da của chúng nó để vá lên những nhà cửa bị đốt cháy, những thôn xóm điêu tàn, những xác thường dân chồng chất. Nói chi đến những mũi tên tẩm độc, nó chỉ biểu hiệu cho một nỗi căm hờn cao độ của một chiến sĩ yêu nước đối với kẻ thù, người chiến sĩ ấy đã từng đau đớn vô cùng với những vết thương tàn phá trên quê hương. Chúng ta không những phải nuôi dưỡng sự căm hờn đó mà còn phải học tập thêm để biết căm hờn kẻ thù hơn nữa, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng phạm vào lỗi nương tay với kẻ thù để chúng nó có thể ngóc dậy quật ngã chúng ta, cách mạng sẽ tan rã, và chính chúng ta cũng không còn tồn tại nữa.”
Trần ngừng lại, thở một hơi dài, rồi tiếp:
– Đó, đại khái những điều nó nói là như vậy, đó không phải là một lý luận vững chãi gì, nhưng rõ ràng là tao thấy mọi người đều co rúm lại. Ai nấy đều sợ những ngôn từ nào yêu thương kẻ thù, nào nuôi dưỡng căm hờn, nào phản cách mạng, và nhất là nó lôi hoàn cảnh gia đình tao hiện ở trong thành phố địch ra làm thằng nào cũng nhụt hết, thằng nào lại không có ít nhất một vài người thân thuộc còn ở trong vùng địch. Thế là sau đó tất cả đều răm rắp tán thành đồng chí Trương. Nhìn những bộ mặt e dè thận trọng của chúng nó tao chán nản vô cùng không còn muốn nói thêm gì nữa. Ba hôm sau có lệnh gọi tao về phân khu để dự lớp chỉnh huấn, tao phải có mặt ngay ngày mốt để kịp khai mạc lớp mới này. Tao thu xếp công việc, định về thăm mày trước khi đi, tao đi từ trưa đến tối, lạ là tao không hề thấy đói, từ mấy hôm nay người tao nó cứ ngầy ngà ngầy ngật, tao không biết mình ra làm sao nữa. Có lẽ thời gian học lớp chỉnh huấn này cũng cần thiết cho tao, tao vẫn còn hy vọng, ở phân khu có nhiều người lỗi lạc và hiểu biết. Tao nghĩ chưa đến nỗi nào, với những đồng chí cao niên, nhiều tuổi Đảng, đã sáng chói từ thời kỳ cách mạng còn trong vòng bí mật, chắc quan niệm của họ thoát hơn, gần với con người hơn vì họ đã nếm trải nhiều. Với những người này tao hy vọng sẽ có một hậu thuẫn làm rung chuyển tận gốc bức tường của những thằng Trương, thằng Việt Dũng. Hừ, chính chúng nó với giọng lưỡi của chúng nó mới thật là tai họa cho đất nước này.
Huỳnh búng điếu thuốc xuống nền nhà, ánh lửa lóe ra một vệt dài rồi nằm im lìm trên nền gạch, một chấm đỏ ngái ngủ, buồn tênh, anh nói giọng dịu dàng êm ái như một lời dỗ dành:
– Mày mệt lắm rồi đó, hãy nghỉ đi một chút.
– Ngủ gì nữa, gần sáng rồi.
Như đáp lời Trần, tiếng vỗ cánh phành phạch ở mé vườn sau tiếp theo một tiếng gáy vang chững chạc của con gà trống đầu đàn, liền đó tiếng gà xa gần đua nhau cất tiếng. Bóng tối vẫn im lìm. Một con dơi chao cánh trong vườn đêm va vào thành cửa sổ kêu xoạc rồi mất hút. Tiếng mối kẽo kẹt đâu đó trong gian nhà thờ vắng lặng.
Huỳnh châm một điếu thuốc khác, anh hỏi Trần:
– Mày không hút thuốc à?
– Từ sáng qua tao chỉ hút một điếu khi ngồi trong trạm chờ qua quốc lộ, nhưng miệng tao nó nhạt nhẽo khó chịu quá, hút thuốc nó có vị đắng ngắt nên tao không hút.
– Mày cần phải uống một viên thuốc ngừa cảm.
– Tao sẽ uống.
– Mày nhớ cô gái mù trong Symphonie Pastorale không?
– Nhớ, rồi sao?
– Tao nhớ tao xem chuyện đó hồi tao mười bốn mười lăm tuổi gì đó, tao còn nhớ tao đã run cả người khi cô gái hỏi vị mục sư: “Hãy nói về giòng sông và những cái hoa, hãy nói về ánh sáng và màu sắc…” Tao bị choáng ngợp gần như muốn lịm đi với ý nghĩ trong cái màn cố định của bóng tối âm u kéo dài từ thuở sơ sinh, óc tưởng tượng của người con gái mù đã thấy những cái đó ra thế nào mà thần thái của nàng bỗng trở nên phiêu nhiên biến động dị thường. Tao cứ thắc mắc mãi không biết màu xanh của nàng thấy ra sao, nó có giống chút nào với màu xanh mà mắt con người thường nhìn thấy hay không, và cái hoa của nàng như thế nào, tao nghĩ là nó không mang một hình dáng nào của tất cả các loại hoa trên đời này cả, tất cả những hình ảnh đó phải đạt đến mức siêu phàm diễm tuyệt mới có thể có ma lực biến đổi một đứa bé đần độn mù lòa, một đống giẻ rách trở thành một giai nhân khả ái tuyệt vời như vậy. Vì thế tao áy náy và run sợ hẳn hòi khi xem đến đoạn người ta đem nàng đi chữa mắt để lấy lại thị giác cho nàng. Tao nghĩ đến cái lúc mắt nàng đã trông thấy mọi sự, nàng sẽ ra sao khi thấy màu xanh, những cái hoa, giòng sông, những đám mây đều không giống như nàng mơ tưởng khi còn mù lòa. Ngày ấy tao còn nhỏ, tao chưa nghĩ gì về tình yêu, nên tao cho rằng nàng bị hủy diệt chính vì cái thế giới thần tiên lộng lẫy của nàng không còn nữa, thị giác đã đặt nàng trước những sự vật nghèo nàn quá đỗi, nàng chết vì thế chứ không phải vì vị mục sư với mối tình lỉnh kỉnh của ông ta. Cho đến bây giờ khi cuộc đời mình đã chai sạn, nhớ lại chuyện đó tao cũng vẫn thấy hồi đó mình đã hiểu cô gái mù tội nghiệp đó hơn cả người viết truyện nữa, mày có nghĩ như thế không?
Trần hiểu ý bạn, lòng chàng rung động một mối cảm kích sâu xa, chàng cười nhẹ trong bóng tối:
– Trong hai đứa mình, mày muốn nói mày hay tao, ai là người mù của André Gide?
– Tao không biết, có lẽ cả hai, như vậy tốt hơn.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:21:54 GMT -6
CHƯƠNG VII
Dãy nhà sàn chênh vênh trên một triền núi khuất lấp những tàng cây rậm lá, bóng im che rợp cả trong những ngày đẹp trời nhất. Phía dưới có một con đường dốc thẳng đứng cheo leo dẫn xuống suối. Vào mùa mưa con đường trơn như mỡ, đi sẩy chân là có thể mất mạng như không. Mỗi buổi sáng Trần và các bạn cùng lớp chỉnh huấn phải dậy thật sớm mò mẫm xuống suối rửa mặt, phải vất vả lắm mới xuống được bờ suối nhưng khi đã đứng bên giòng suối rồi, bao giờ Trần cũng cảm thấy một nỗi yên hòa thư thái làm dịu lại tấm lòng se sắt của chàng trong những ngày ở đây.
Khí rừng u uất lẩn quất ven rừng hai bên bờ, hơi lam mờ đục tỏa dần xuống khe trũng, dàn trải ra khi gặp giòng suối trong veo nhìn suốt được những phiến đá xanh rêu giữa lòng suối. Ở đây ngẩng nhìn lên cao thấy trời xanh từng dải mây trắng bay đi, giây phút ngắn ngủi này gợi lại cho chàng giòng sông buổi sáng và hình ảnh người yêu trên chuyến đò ngang trên sông Hương năm nào. Những ngày ở rừng núi phân khu này hình ảnh đó trở về sâu đậm hơn bao giờ hết, vuốt ve tâm hồn rạn nứt đau thương của chàng.
“Thế mà anh chưa hề biết tên em, nếu biết được tên em nhỉ, anh sẽ gọi hoài không dứt, tiếng gọi trong tâm hồn anh sẽ vang vọng đến em dù em ở phương trời nào, ngàn trùng xa cách. Nhưng có lẽ không có tên nào xứng đáng hiển hiện được hình ảnh em nổi bật trên sông dài, nhịp cầu xa, tòa thành cổ mù sương sau lưng em, hình ảnh đầu tiên đi vào hồn anh, đôi mắt tuyệt vời, tia nhìn xuyên qua hồn người thấm thía như một nỗi xót xa, giòng tóc xõa trên sông dài, tà áo trắng dưới nắng mai. Ngày đi anh mang theo hình ảnh em trên bước đam mê lý tưởng, có ngờ đâu bây giờ em là tất cả, là tình yêu giòng sông xưa, tình yêu thành phố cũ, em là quê hương của tuổi trẻ vàng son. Quê hương bây giờ mịt mù hư ảo, chỉ còn dạt lại bóng áo dài tóc xõa của em, xa xôi vô cùng và cô đơn biết bao.
Chỉ mới ba năm thôi mà anh đã già rồi em ạ, anh không còn xứng đáng với em nữa, phút giây mơ tưởng về em là một ân huệ cuối cùng mà anh tự dành lấy cho riêng anh, như kẻ lưu đày mở một nẻo trời cho hồn mình tìm lại quê hương yêu dấu…”
Có người vỗ vai chàng: “Chưa tỉnh ngủ hay sao mà có vẻ bần thần vậy, hay vẫn còn bàng hoàng vì bản tự thú của đồng chí Lưu hôm qua?”
Không quay lại Trần cũng biết đó là Thủy, người bạn đồng chí cùng học khóa chỉnh huấn với chàng. Thủy là người rất dễ mến, Thủy quý chàng và gần gũi chàng nhất trong những ngày ở đây.
Trần hỏi lại:
– Thế anh nghĩ thế nào về hiện tượng của Lưu đêm qua?
Thủy chợt lạnh lùng quay đi, tỏ vẻ không muốn nhớ lại:
– Thì như anh thấy đó.
Trần cũng yên lặng, chàng dõi mắt nhìn theo một sợi rong vàng duỗi dài nổi trôi vương theo giòng nước chảy xiết, nó múa lượn nhịp nhàng, có lúc trườn mình tới trước, có lúc lùi lại như để lấy đà phóng tới, nó bảo chàng bằng một thứ giọng du dương bất tuyệt: “Này tên đãng tử mặt trắng kia, cớ chi mà u sầu, hãy xem ta đây, ta muốn đi muốn vươn tới trước, nếu ta tự do ta sẽ để giòng nước cuốn ta theo, nhưng hòn đá nhẵn thín phủ đầy rêu xanh trơn tuột này nó cầm giữ ta lại, mặc, ta cứ tỏ cho nó biết là ta muốn đi, hãy xem đây, tay ta vươn dài vẫy gọi, đàng trước kia là tương lai bí nhiệm, có tất cả những điều ta say mê ao ước, cái hòn đá ngốc nghếch lầm lì này lại cố giữ ta lại giữa những khe trũng ẩm thấp đen tối, ngày đêm nó không ngớt thì thầm với ta rằng nó giữ gìn đời sống cho ta, dù thế ta vẫn biết đằng trước kia có những gì, ở đó là lẽ sống, có trời cao sông rộng, có biển cả bao la, vậy mà ta vẫn còn mãi ở đây. Ta sẽ vẫy gọi không ngừng, ta vẫy gọi mãi mãi bởi vì đàng trước kia là ngày mai, nếu ta không đến được với nó thì nó sẽ đến với ta, bởi vì cánh tay ta mời gọi, cánh tay ta vươn mãi tới thiên thu.”
Trần đắm mình trong suy tưởng những lời nói của sợi rong vàng, bấy lâu nay chàng đã nhập cuộc, chàng đã nhận chịu bao nhiêu thử thách đắng cay, chàng đi ngang qua tất cả với nụ cười hờ hững thách đố trên môi. Chàng nhớ rõ trước kia chàng không hề biết ưu phiền, trước kia sức chàng bạt ngàn xô núi, vầng trán rộng trẻ trung của chàng lồng lộng gió đại dương bát ngát, vậy thì tại sao, tại sao bây giờ chàng ngồi đây, ưu tư tìm về một tà áo trắng người yêu như một cứu cánh, như tìm về một bóng mát lãng quên, như một Phạm Thái ngày xưa bỏ quên đời trong hồ rượu, chí lớn trong đời không bằng đôi mắt giai nhân. Tại sao giờ đây cánh tay chàng muốn buông xuôi rời rã, miệng chàng đắng ngắt vị phong trần, vầng trán rừng rực lửa địa ngục điêu linh.
Chàng cúi xuống, soi mình trên giòng suối, mặt nước phản chiếu một hình bóng xô lệch không ngừng biến đổi, khi kéo dài ra khi thu nhỏ lại, cái hình thù biến động quái đản ấy rung rinh trên nền trời xanh thẳm bình thản, hững hờ sau lưng nó. Bất giác chàng đưa tay lên vuốt mặt, chàng nhận thấy da mặt chàng khô nóng, chàng nhìn lại bàn tay, những đường gân xanh nổi lên chằng chịt, chàng ve vuốt những đường gân xanh đó, có cảm giác như đang ve vuốt một con sâu đang ẩn náu trong da thịt gặm nhấm hình hài mình.
Trần hồi tưởng cái ngày chàng đặt chân lên rừng núi phân khu này, lòng chàng còn biết bao hy vọng, biết bao tin tưởng vào cuộc sống lý tưởng tốt đẹp này. Chàng đã gặp một số anh em đồng chí quen biết, họ mừng vui được gặp lại nhau, ôi những cái bắt tay đồng chí nó mạnh mẽ xiết bao, hùng tráng xiết bao; câu chuyện hàn huyên nhắc nhở những chiến dịch tưng bừng lửa đạn, ngùn ngụt đam mê, đêm đó cả bọn ngồi quanh bếp lửa, đêm tàn chuyện nở như bắp rang, Trần thấy lòng nhẹ nhàng, ngày hôm sau chàng sẽ vào gặp Hoàng Hà, một đồng chí cao cấp, chàng thấy vững bụng, chàng sẽ trình bày quan điểm của chàng và chàng tin rằng ông ta sẽ hiểu. Từ những niềm cảm thông sẽ nảy ra suối nguồn của chân lý, của sức mạnh bền bỉ vô cùng cần thiết cho cuộc chiến đấu cho Tổ quốc thân yêu.
Hoàng Hà là một người đứng tuổi, thân hình bé nhỏ, khuôn mặt dài, xương xương, nước da màu đất, vàng bệt, nét mặt thoạt nhìn mờ nhạt không có gì đặc biệt nhưng vì lăn lộn hoạt động cách mạng lâu năm và được giữ liên tiếp nhiều năm những chức vụ quan trọng, tư thế chỉ huy tạo cho ông ta một giọng nói đanh thép và cái nhìn lạnh như băng. Trần đã gặp ông ta trong vài cuộc họp do ông ta điều khiển trước đây. Trong giới kháng chiến người ta truyền rao những huyền thoại về Hoàng Hà trong thời kỳ bí mật chống Pháp, ông ta được mô tả như những nhân vật trong các truyện truyền kỳ khiến Trần thấy dĩ vãng sau lưng ông ta bao phủ một tấm màn huyền hoặc kỳ thú, mặc dầu trong những cuộc họp chàng không thấy có gì đặc biệt chứng tỏ tài năng trong những điều ông ta phát biểu.
Đây là lần đầu tiên Trần được Hoàng Hà chấp nhận gọi vào gặp riêng ông ta tại chỗ làm việc của ông trong một nhà sàn làm bằng tre. Trần đi theo chú bé liên lạc đến căn nhà sàn đó, chàng mãi suy nghĩ đến những vấn đề cần phải nói đến nỗi khi ngẩng lên chàng đã thấy Hoàng Hà sừng sững trước mặt, chằm chặp nhìn chàng bằng cặp mắt băng giá. Chàng đứng nghiêm, thẳng người đưa tay chào ông ta theo lối quân nhân.
Hoàng Hà nhìn chàng từ đầu đến chân, lạnh lùng khẽ gật, đoạn ông ta xoay người một cách gọn gàng đi vòng lại ngồi xuống ghế trước bàn làm việc của ông, ông chỉ một chiếc ghế, hất hàm:
– Đồng chí ngồi xuống.
Trần ngồi xuống ghế yên lặng đăm đăm nhìn lại Hoàng Hà, chàng hiểu rằng Hoàng Hà đang sử dụng cái nhìn lạnh lùng như băng vào kẻ đối diện như một lối đòn cân não, Trần mơ màng thầm nghĩ không biết mình ở đâu đây, trước mặt mình là ai thế, là đồng chí ư? Sao lại nhìn mình như thế, sao cái nhìn làm Trần mơ hồ như đã thấy ở đâu rồi, ừ phải, Trần đã thấy cái nhìn đó một lần ở sở Mật thám Huế khi chúng nó bắt Trần trong số sinh viên bị tình nghi có liên quan đến một tổ chức trá hình. Đôi mắt viên mật thám Pháp khi thẩm vấn Trần cũng giá băng như vậy, đó là đôi mắt kẻ thù, có lẽ nào giờ đây Trần lại gặp ánh mắt đó trên cái nhìn của một đồng chí mà chàng đang đặt nhiều kỳ vọng. Liệu niềm cảm thông mà Trần mong mỏi được tỏ bày có làm tan rã được băng giá trên đôi mắt kia không?
Quả vậy, bằng cái nhìn đó Hoàng Hà tỏ rõ một ý muốn chế ngự Trần ngay trong phút đầu của câu chuyện. Ông ta biết rõ thành tích đáng kể và ảnh hưởng quan trọng của Trần trong bộ đội kháng chiến; dù sao sự tự tin của ông với những mệnh lệnh mà những đồng chí thuộc cấp đều răm rắp tuân theo khiến ông luôn luôn có một thái độ uy quyền và tin rằng kẻ đối diện phải khuất phục mình một cách dễ dàng. Nhưng khi bắt gặp đôi mắt Trần nhìn thẳng vào ông với vẻ như không trông thấy gì cả, đôi mắt chàng như đang theo dõi một ý tưởng nào đó, liên tục và mãnh liệt đến nỗi ông phải nghĩ rằng nếu ông ta không lên tiếng trước thì Trần sẽ tiếp tục lặng lẽ làm một cuộc đối thoại với chính mình mà không cần biết có ai trước mặt. Ý nghĩ đó làm Hoàng Hà nổi xung nhưng ông ráng dằn lại.
Những năm lăn lóc hoạt động chính trị trong những thời kỳ căng thẳng nhất khiến ông trở thành một con người mềm dẻo tinh tế vô cùng. Ông hạ tầm mắt xuống, giọng ông êm ái một cách không ngờ:
– Đồng chí Trần, đồng chí có hiểu rõ những việc mà đồng chí đã làm không?
Thái độ thay đổi đột ngột và câu hỏi bất ngờ làm Trần lúng túng trong một giây:
– Thưa đồng chí, tôi mong mỏi được gặp đồng chí để trình bày những sự việc mà tôi nghĩ rằng đồng chí đã biết qua nhưng chưa sáng tỏ được mọi vấn đề.
– Theo đồng chí, thế nào là một vấn đề được sáng tỏ? Hoàng Hà hỏi, vẫn giọng nói êm ru.
– Sự có mặt của tôi, cùng nhiệt tình của tôi đối với Đảng và Tổ quốc, còn nếu căn cứ vào báo cáo của Tỉnh bộ thì…
Hoàng Hà ngắt lời Trần, ông ta cúi nhìn tập tài liệu trước mặt, làm bộ hững hờ khéo léo che đậy một tia sáng rình rập vừa lóe lên trong mắt ông ta:
– Đồng chí có cho rằng Đảng có thể thiên vị và lầm lạc không?
Trần đáp không suy nghĩ, cảm thấy mình bị hụt hẫng:
– Tôi không bao giờ nghĩ như thế.
– Vậy thì việc Đảng đưa đồng chí về đây để chỉnh huấn, sửa đổi tư tưởng, hầu đi đúng con đường phục vụ cho nhân dân, việc đó có sai lầm không?
Trần nín lặng không đáp.
– Và luôn cả những nhận xét của Đảng, đồng chí có cho là không sáng suốt không?
– Đồng chí, xin hãy nghe tôi, tôi đã nguyện hiến thân tôi cho Đảng, tôi đặt trọn niềm tin vào Đảng, chính vì thế mà tôi không quản ngại tất cả những gì tôi đã làm; trên đường về đây tôi đã mong được gặp các đồng chí, mong được trình bày quan điểm của tôi với đồng chí về việc đó. Nó có một tầm quan trọng ảnh hưởng đến sự mất còn của chúng ta, tôi mong được đồng chí thông cảm và giúp đỡ cho tôi trong sứ mạng của một đảng viên, của một chiến sĩ…
– Cá nhân tôi không giúp gì cho đồng chí được, giọng Hoàng Hà chợt đanh lại, gọn và sắc. Đồng chí hãy nhớ kỹ điều này, với chủ nghĩa cao cả mà chúng ta đang theo đuổi, cá nhân không là cái gì cả, duy chỉ có cộng đồng mà thôi. Bánh xe vĩ đại sẽ nghiền nát tất cả mọi cá nhân dưới nó để làm nên lịch sử nhân loại cộng đồng. Chúng ta phải biết ơn Đảng đã cho chúng ta được sống trong những giây phút thần kỳ, không giống một thời đại nào, không giống một lịch sử nào khác, tự cổ chí kim. Chúng ta đang và sẽ tạo dựng một thế giới mới, chính chúng ta, những người Cộng sản sẽ khai nguyên những thế kỷ sắp tới, trong đó, toàn khối nhân loại chỉ là một, trong đó, đồng chí và tôi đều không đáng kể, những quan điểm riêng tư đều vô nghĩa, hèn mọn. Chúng ta đều phải quên mình để hiến dâng cho sự nghiệp vĩ đại của Đảng, phải tẩy rửa những yếu hèn tiểu tư sản, phong kiến đang bám chặt lấy đầu óc chúng ta. Chúng ta sẽ đau đớn, sẽ quằn quại rên siết để thực hiện một cuộc tái sinh, đó là cuộc tái sinh của Tổ quốc ta nói riêng và thế giới nhân loại ngày mai nói chung.
Hoàng Hà ngừng lại một giây, ông ta tự để mình lôi cuốn theo những lời nói thao thao bất tuyệt của ông, những lời nói có một ma thuật khiến đôi mắt ông quắc lên, long lanh chờn vờn như một lưỡi kiếm, ông gằn giọng, trở lại tư thế lạnh lùng đanh thép cố hữu:
– Tôi có nghe nhiều về đồng chí, đồng chí đã tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm, một văn nghệ sĩ có chân tài, chừng đó không đủ. Hãy can đảm tự xóa mình đi, hãy từ bỏ ảo tưởng xây dựng tiếng tăm và ảnh hưởng của cá nhân mình. Đảng không chấp nhận những ý thức đó. Tuy nhiên Đảng sẽ nâng đỡ đồng chí khỏi phạm vào những sai lầm tai hại tương tự như những điều đồng chí đã làm. Đồng chí sẽ được một cơ hội để tự cứu nếu không muốn rơi vào sự hủy diệt. Trong thời gian chỉnh huấn, đồng chí phải hết lòng đào sâu suy ngẫm, phải khẩn trương thành thực sửa mình, để tỏ lòng biết ơn Đảng đã tạo nên chúng ta, đừng bao giờ lãng quên điều đó. Khoá chỉnh huấn của đồng chí sẽ khai mạc trong vòng hai hôm nữa và sẽ kết thúc trong vòng một tháng, tôi mong rằng đó là thời gian thích đáng mà đồng chí có thể đạt được thắng lợi cho tư tưởng và bản thân mình để tạo nên sự nghiệp của một chiến sĩ Bôn-sơ-vích hiến dâng cho Đảng.
Hoàng Hà đứng dậy, ông giơ tay lên ra hiệu câu chuyện đã kết thúc. Trần cũng đứng lên, chàng đứng nghiêm thẳng người đưa tay chào vị chỉ huy cao cấp, rồi quay lưng bước thẳng ra cửa.
Ra đến bên ngoài Trần bước đi như một cái máy, lòng chàng buồn bã vô hạn. Chàng vừa gõ một cánh cửa, và cánh cửa đã đóng chặt, cánh cửa từ chối không chịu mở ra. Sau những bức tường là những cánh cửa không chịu mở.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:26:01 GMT -6
CHƯƠNG VIII
Có một cái gì đó, trong không gian và thời gian này, như một cơn vây khốn tâm thức của một thứ bệnh lý lạ lùng.
Có một ngẫu nhĩ nào đó, len vào những ngõ ngách vô thường đã tạo nên vĩnh cửu, và đồng thời mang lại cơn cuồng nộ phong ba nối liền vực sâu và đời sống.
Trần đã trải qua những cơn bão táp của tâm hồn trong suốt thời kỳ cùng anh em đồng chí học tập, thảo luận, tìm tòi mổ xẻ từng ni tấc cái hình hài dĩ vãng mang nặng di sản truyền thống chứa đựng bao nhiêu căn bệnh xấu xa của con người. Người ta thúc giục nó, dồn ép nó với những điều cám dỗ có khả năng thần bí như mụ phù thủy mặc áo thụng đen cưỡi cái chổi bay quanh khu rừng đen tối.
Trần chia sẻ cùng các bạn những ray rứt, dằn vặt, tự cấu xé mình, tự lột xác mình để khai sinh con người mới, để làu làu trong sạch xứng đáng với người chiến sĩ xã hội ngày mai.
Nhưng trái với các bạn của chàng, họ như bị thôi miên, tâm trí họ đờ đẫn như đang bị trong vòng hấp lực của một mê cung, càng ngày Trần càng kinh ngạc nhận thấy mình tỉnh táo một cách lạ lùng. Những điều tiếp nhận được càng khiến cho tinh thần chàng có những cảm ứng mới mẻ thì thân thể chàng cũng bị suy nhược dần đi.
Trong khi thân thể chàng bị ảnh hưởng của sự dồn ép thì tâm hồn chàng mở rộng một cuộc tao phùng của non cao và biển sâu, của yêu thương và thù hận, của thiện và ác, của hư và thực, và trên hết những cái đó là cơn tao ngộ của Con Người và Cuộc Đời.
Khi thấu triệt những điều đó, chàng chỉ còn lại một niềm đau, thương xót anh em đồng đội, đau xót bởi chính nỗi bất lực của mình.
Lần lượt, chàng chứng kiến các đồng chí của chàng sau khi tự đày đọa thân mình bằng những buổi moi óc nghiền ngẫm những tội lỗi tưởng tượng, sản phẩm của giáo điều, đã đua nhau làm bản tự thú, kiểm thảo, kể lể những điều vặt vãnh từ hồi còn bé dại, nào ăn cắp tiền của cha mẹ để đi đánh đáo, kết luận: ăn cắp và đánh bạc (đánh đáo là một hình thức đánh bạc) là ảnh hưởng thối nát của thực dân phong kiến thấm sâu vào máu; nào một hôm thấy một đứa con gái ngủ hớ hênh bỗng thấy lòng tà dâm nổi dậy, kết luận: tà dâm là tội lỗi của giai cấp tiểu tư sản chỉ muốn hưởng thụ; nào thuở nhỏ đã có lần đánh đập một đứa bé con nhà nghèo khổ ở bên cạnh nhà mình, kết luận: đó là ý thức ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ giàu hiếp nghèo, căn bệnh của đế quốc tư bản.
Có trăm ngàn những lời tự thú ngây thơ tội nghiệp nọ trên những bàn tay cầm viết run rẩy sợ hãi của những chiến sĩ mà mới đây khi đối diện với địch quân, chính những bàn tay đó đã ghì chặt thép súng trên vai nhả từng tràng thịnh nộ chính khí vào quân cướp nước.
Lòng Trần thắt lại khi thấy hiện lên vẻ ngơ ngác, kinh hãi, đớn hèn trên khuôn mặt những đồng chí đã từng hiên ngang bao nhiêu, cương nghị bao nhiêu, dũng cảm bao nhiêu, trong cuộc chiến tranh đầy gian lao nguy hiểm mà họ đã hồn nhiên chấp nhận cho căn phần của họ.
Họ đã yếu hèn hẳn đi vì kinh hoảng trước mớ lý thuyết tự nó không chứa đựng gì nhiều nhưng những luận lý của cán bộ lãnh đạo chỉnh huấn đã phù phép cho nó trở thành bén ngót như những móng diều hâu sà xuống quắp lấy thân phận của họ. Cơn hôn mê biện chứng pháp làm cho họ lảo đảo, ngờ nghệch không còn nhớ mình là ai nữa, vội vàng chối bỏ chính mình.
Là lý tưởng đó ru? Có phải vì đó mà con người đã phải rời bỏ một giòng sông, xa lìa một thành phố, từ biệt một lũy tre làng, một cánh đồng vàng óng để ra đi, đến ngồi nơi xó rừng này, moi móc kể lể những điều lặt vặt, những chuyện ngồi lê đôi mách, tự dằn vặt mình, tự dìm sâu mình vào ác mộng?
Là lý tưởng đó ru? Khi những người con trai ngày nào ra đi đầu ngẩng cao lên đầy kiêu hãnh bởi Tổ quốc, kiêu hãnh bởi nòi giống, kiêu hãnh bởi chính con người tràn đầy sức sống của mình, giờ đây mặt cúi gầm ngượng ngùng đau khổ, ân hận đã trót mang trong mình giòng máu luân lưu của bao đời ông cha hủ lậu, phong kiến, thối nát, xấu xa.
Cái gì đã khiến cho con người vừa mới đây ra đi với một tấm lòng quả cảm, chính trực, không khuất phục trước kẻ thù, không sờn lòng trước gian nguy, mà giờ đây lại trở nên cuống quýt, khốn nạn tội nghiệp như những tên hề vô tài bất tướng, sử dụng những ngón nghề tiểu xảo để mong được yên thân, bịa đặt ra những tội lỗi tưởng tượng một cách vụng về để chứng tỏ lòng khẩn trương thành thực của mình.
Chỉ còn vài ngày nữa là bế mạc khóa chỉnh huấn này, do những hiện tượng đó người ta ghi nhận đã đạt được những thành công đáng kể. Nhưng mãi cho đến đêm qua sự thành công mới thật hoàn toàn vượt quá mức mong mỏi của cán bộ lãnh đạo. Sự tốt đẹp đó xuất hiện dưới hình thức của bản tự kiểm thảo được xem như điển hình của đồng chí Lưu về những tiết lộ ghê gớm của anh ta.
Lưu người gốc miền Nam Trung phần; khuôn mặt nhọn, xanh mét vì thiếu máu, đôi mắt mở to có vẻ sợ hãi tiều tụy, nụ cười gượng gạo trên đôi môi mỏng dúm dó, đôi lúc bất chợt mím lại khiến người đối diện áy náy tưởng mình có làm điều gì phật ý y, dáng người trung bình mảnh khảnh, gầy yếu. Y là một cán bộ đại đội, được xem như một đảng viên nhiều thiện chí, tận tụy với công việc của mình, điều đó được chứng tỏ ngay suốt khóa chỉnh huấn, y luôn luôn tỏ ra bận rộn, bề bộn với những mớ tài liệu học tập, và lăng xăng điếu đóm bên cạnh các cán bộ phụ trách huấn luyện cả ngày.
Từ ba hôm nay, cử chỉ của Lưu đã có vẻ khác thường. Y thờ thẫn, ít nói, có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, y ghi chép liên miên, nét mặt có vẻ âm u ngay cả những khi ăn uống. Cho đến đêm qua giữa buổi họp kiểm thảo, bỗng nhiên y khóc rống lên, giọng y ồ ồ, y thở phì phò như tiếng nghẹt thở của một con heo bị cắt tiết, càng lúc y càng thét lên, rồi y rên rỉ xin được thú tội. Sự xung động đó thoạt tiên làm mọi người kinh ngạc, sau chuyển qua những cảm giác hỗn độn, vừa buồn cười khó chịu, vừa nôn nao bất ổn. Trần cũng cùng chung cảm giác đó, chàng cảm thấy mình là một chứng nhân khốn khổ, tai chàng lùng bùng, chàng muốn lẩn tránh nhưng không thể được, chàng vẫn phải ngồi đó, mắt mở to mà không nhìn thấy gì rõ rệt, chỉ loáng thoáng thấy một hình thù gầy gò vật vã rên siết, tai chàng mơ hồ nghe những lời thú tội, những tiếng nói đứt quãng, như từ dưới địa ngục vẳng lên.
Qua gương mặt kinh hoàng nhão nhoẹt đầy nước mắt và tiếng Lưu nghẹn ngào kể lể, Trần trông thấy y một mình đi trên con đường cheo leo quanh sườn núi, bên rìa là vực thẳm trùng điệp cây lá tối om, người y nóng nảy bồn chồn vì đã quá trưa mà chưa đến trạm nghỉ, chợt y thấy xuất hiện trên đường núi một nữ cán bộ mặc quần áo toàn đen; vai mang một túi vải đi ngược lại phía y. Khi đến gần y hỏi người nữ cán bộ đường đến trạm có còn xa không, cô gái trả lời nếu đi mau thì một giờ đồng hồ là đến nơi; y nhăn mặt xem lại đồng hồ; đã quá một giờ trưa, y nói với cô gái tôi mệt và đói qua, cô ta có vẻ thương hại nói trong xắc tôi có mang theo đồ ăn đi đường, nếu mệt anh ngồi nghỉ ăn một tí rồi tiếp tục đi. Lưu mừng rỡ nhận lời ngay, y cùng cô gái chọn một gốc cây to bóng mát rợp ngồi xuống, cô nữ cán bộ nhanh nhẹn lấy trong xắc ra một đòn bánh tét, tháo lớp dây lạt bó ở ngoài, lột lớp lá chuối bọc chiếc bánh và bắt đầu cắn một đầu dây lạt vào răng, tay cầm đầu kia thong thả quấn sợi dây quanh chiếc bánh nếp có nhân thịt mỡ và đậu xanh, xắt ra từng khoanh bánh một. Cô ta trạc ngoài hai mươi tuổi, nước da bánh mật, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nhỏ và sắc, cái nhìn vui vẻ nồng nàn. Bất giác Lưu cảm thấy thèm thuồng, mùi thơm từ chiếc bánh bốc lên, môi người con gái hé ra phô bày hàm răng khỏe mạnh, trắng bóng cắn chặt sợi dây căng thẳng, thân thể cô gái tròn trĩnh đậm đà nhịp nhàng chuyển động dưới lớp áo quần vải đen, cảnh tượng ấy kích thích mãnh liệt trí tưởng tượng của y. Người y rạo rực, máu dồn ứ lên đầu khiến mắt y hoa lên, ngầu đỏ. Y nhìn chằm chặp người con gái không chớp mắt, y không gần đàn bà đã lâu lắm rồi và đây là một dịp hãn hữu y ngồi với một người con gái ở nơi vắng vẻ như thế này. Giờ này không thể có ai qua lại cả, trời âm u nóng bức, y cảm thấy sự thèm khát ghê gớm nổi dậy. Y nhích lại gần cô gái một chút. Thấy động, người con gái ngước mắt lên nhìn bắt gặp đôi mắt đỏ ngầu khác thường của y hau háu nhìn mình, như linh cảm một sự gì không hay, cô gái thảng thốt rú lên một tiếng, buông rơi khúc bánh. Tiếng rú của người con gái làm y bừng dậy một cảm giác rừng rú dã man, máu trong cơ thể y rần rật bốc lên làm mờ tất cả mọi vật trước mắt. Y chồm tới lao mình vào người con gái. Cô ta chống cự dữ dội, cào cấu cắn xé y. Máu nóng từ những chỗ bị cô ta cấu xé tuôn ra khiến y càng hăng tiết, y đưa hai tay nắm chặt vai cô gái lắc thật mạnh khiến đầu cô gái bị đập vào gốc cây nhiều lượt cho đến lúc cô ta đuối sức dần, lả người nằm yên không cựa quậy nữa, để mặc cho y như con dã thú vồ ngấu nghiến con mồi của mình. Cho đến khi y thấy mình ngồi dậy, chung quanh mọi sự ngổn ngang, người con gái lõa lồ nằm úp mặt xuống đất vùi đầu trong đống lá khô im lặng không nhúc nhích, những miếng bánh rơi vãi tứ tung dính đầy rác và bụi vì cuộc vật lộn, đồ vật trong cái xắc mở ngỏ của cô ta rơi vãi tung tóe: mấy cái bánh, một khúc thịt dồi, một con dao nhọn, vài quyển sách mang đề tựa “Nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin” và “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” v.v.
Khu rừng hoàn toàn chìm đắm trong giấc ngủ trưa. Đột nhiên sự yên lặng nặng nề khiến y kinh hoảng, lượng máu vừa dâng lên trong người y như rút xuống dạt về nơi nào không biết. Người con gái cựa mình rên một tiếng nhỏ rồi nằm im, y cảm thấy run sợ, nếu việc này bị phát giác, ừ nếu việc ghê tởm này bị phát giác, người con gái sẽ không tha thứ cho y, cô ta sẽ không để yên, y không dám nghĩ thêm nữa, y sợ hãi đến điên cuồng, trí óc y đâm ra mê muội; y cúi xuống, mắt y đụng phải con dao, cầm chắc trên tay giơ cao lên với tất cả sức mạnh, y đâm thẳng xuống lưng người con gái; một tiếng thét rùng rợn rú lên, thân thể người con gái bật ra rướn lên rồi rơi sấp xuống, một cánh tay duỗi ra, những ngón tay co quắp quều quào níu lấy mặt đất. Y rút vội con dao ra, máu phún lên đầy mặt y nóng hổi tanh nồng, như say máu y tiếp tục đâm mãi cho đến khi cái xác nát nhừ không còn cựa quậy. Y buông con dao xuống đất; người y rời rã choáng váng; y ngồi dựa vào gốc cây thở dốc. Bộ quân phục xám trên mình y đầy máu, y cởi áo lau những vết máu bê bết lẫn mồ hồi trên mặt, y cảm thấy đói ngấu, y quơ vội khúc bánh đầy bụi và miếng thịt dồi cho vào miệng nuốt lấy nuốt để. Những ngày sau đó, hình ảnh cô gái và xác chết đẫm máu của cô ta vẫn theo dõi ám ảnh y, cả khi ăn khi ngủ không lúc nào yên. Óc tưởng tượng của y vẽ ra những hình phạt khủng khiếp, y muốn rời bỏ kháng chiến, trở về đầu hàng giặc, xa lánh hẳn vùng đất này. Mấy lần y đi về hướng có đồn giặc, mang theo cả vũ khí cùng tài liệu kháng chiến, nhưng chưa có trường hợp thuận tiện nào để y có thể đi thoát.
Thú xong, Lưu lại khóc rống lên rồi ngã ra ngất lịm, mọi người, sau những giây phút lặng im nín thở theo dõi lời tự thú gây sự chú trọng đặc biệt đó, bây giờ lại xôn xao, kẻ thở phào bàn tán nho nhỏ, người lo cứu chữa vẩy nước lã vào mặt y. Y tỉnh lại, có vẻ bình tĩnh hơn, ngồi im lặng ủ rũ, đầu cúi gục xuống.
Bấy giờ đã vào khoảng ba giờ khuya, ngọn đèn dầu chập chờn leo lét tranh tối tranh sáng gây một quang cảnh ảm đạm. Người cán bộ lãnh đạo chỉnh huấn chờ cho mọi người bớt xao động, cất tiếng nói:
– Các đồng chí, qua lời thú của đồng chí Lưu hôm nay, chúng ta thấy đồng chí Lưu đã phạm tội hiếp dâm, giết người và toan tính theo giặc, mang vũ khí và tài liệu cho giặc, coi như đồng chí ấy đã phạm tội phản quốc. Nhờ ơn Đảng soi sáng, đồng chí Lưu đã được chỉnh huấn, đã ý thức được rằng những tội ác đó không phải là do nơi đồng chí mà ra, chúng đã nảy sinh bởi giòng máu phong kiến thối nát của cha ông để lại, do sự hấp thụ nền giáo dục của thực dân đế quốc mà ra. Tính chất tiểu tư sản đã ăn sâu bám chặt vào xương tủy gây nên biết bao sự xấu xa ghê tởm. Ngày nay nhờ sự giáo dục kiên trì và lòng thương yêu của Đảng mà đồng chí Lưu đã tự banh da mở thịt phơi trần tất cả mọi sự xấu xa ghê tởm; từ nay đồng chí Lưu có thể yên ổn tinh thần bởi vì đồng chí đã tự nguyện lột xác, cái xác xấu xa giòi bọ của phong kiến thực dân đế quốc đã chết hẳn, từ nay đồng chí đã trở thành một con người mới, Đảng sẽ nâng đỡ dìu dắt cho con người mới tái sinh của đồng chí Lưu.
Người cán bộ ngưng một giây, đảo mắt nhìn khắp gian phòng hội:
– Đêm nay các đồng chí đã chứng kiến sự thành công to lớn của đồng chí Lưu, hơn một tháng nay các đồng chí đều đã tích cực học tập, biểu lộ thiện chí gội rửa tàn tích tiểu tư sản, phong kiến, nhưng đêm nay trường hợp đồng chí Lưu xem như điển hình cho khóa chỉnh huấn của chúng ta. Chỉ còn ba hôm nữa là bế mạc, tôi mong rằng sẽ còn có những đồng chí khác nêu thêm những thành tích tranh đấu bản thân vẻ vang hơn nữa. Đêm nay, thế là đủ. Tôi cho phép các đồng chí giải tán và chúc tranh đấu thắng lợi.
Mọi người lục tục đứng dậy giải tán, Trần cảm thấy ngây ngây ớn lạnh, khó chịu trong người. Ra đến ngoài, gió rừng đêm thổi tạt vào mặt không mang lại sự mát mẻ dễ chịu nào. Chàng phóng tầm mắt nhìn vào khoảng rừng tối câm trước mặt, tiếng chim từ quy từ đó đều đều vọng lại, âm điệu ảo não buồn tênh.
Trong đêm tối mịt mùng, tiếng chim rừng đêm như một chiếc cầu nối liền nỗi hoang vu trong cùng thẳm tâm hồn chàng.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:29:09 GMT -6
CHƯƠNG IX
Hai đứa bé con chị Hiếu đang chơi bên hè nhà, bé gái tên Hiền lên sáu tuổi và bé trai tên Hòa vừa lên bốn. Chúng nó đang đưa đám ma một con chim chết, con chim sẻ bé nhỏ mà chị Hiếu nhặt được, trong khi nó sợ hãi run rẩy nép sát vào bụi cây, gắng sức đập đôi cánh yếu đuối cố bay lên. Chắc chim mẹ khi chuyền cho con tập bay đã không lường được sức quá yếu của con chim bé nhỏ nhất trong bầy.
Được mẹ trao cho con chim, bé Hiền sung sướng lắm, bé nhặt một ít rơm cuộn lại như một cái tổ chim, bỏ vào trong một cái giỏ xách đã hư mà mẹ bé không dùng nữa. Hằng ngày bé nhai vài hột gạo, bé nhả thứ bột gạo được nhai nhuyễn sền sệt ra trên một chiếc lá, bé mớm cho chim con bằng một que tăm, con chim nhỏ há toác cái mỏ rộng toang hoác ra để nhận miếng mồi. Khi thấy cái diều bé nhỏ nơi ức còn thưa lông của chim đã căng tròn, bé nắn thấy lạo xạo những hạt gạo ở trong là bé biết chim đã no, bé bèn nhỏ cho chim vài giọt nước. Chim yên lặng ngoan ngoãn nằm trong ổ rơm của bé, cho đến khi đói chim lại bắt đầu kêu chiêm chiếp, bé lại phải sửa soạn cho chim ăn. Trông bé bận bịu lắm, cứ như là chim mẹ ấy thôi.
Bé Hòa cũng quanh quẩn đi xung quanh cái giỏ đựng chim, nhìn ngắm, hỏi vớ vẩn vài câu, bé hỏi:
– Hiền cho nó ăn gì thế?
– Cho nó ăn gạo.
– Cho ăn gạo nó đau bụng chết.
Hiền trợn mắt: “Ai bảo mày thế?”
– Bữa trước Hòa nhai gạo, mẹ mắng bảo con hư ăn gạo sống đau bụng chết.
Hiền chột dạ chạy đi tìm mẹ:
– Sao mẹ bảo con cho chim ăn gạo mà thằng Hòa nó nói mẹ bảo ăn gạo sống đau bụng?
Chị Hiếu cười: “Chim khác người khác chứ, con cứ cho chim ăn gạo, không sao đâu.”
Bé yên tâm trở lại với chim. Bé Hòa lại hỏi:
– Sao nó không bay được nhỉ?
– Nó còn nhỏ, rồi nó sẽ biết bay.
– Bao giờ nó biết bay?
– Vài hôm nữa.
– Rồi nó bay đi đâu nhỉ?
– Nó không bay đi đâu cả, nó ở lại đây với chúng mình.
– Sao Hiền biết?
– Vì nó thương mình, nó không bay đi xa mình được chứ sao.
– Sao Hiền biết nó thương mình, nó có nói gì được đâu?
– Biết chứ, tại tao nhai gạo cho nó ăn, gạo có nước bọt của tao trong đó, nó phải thương tao. Mày không thấy bác Duyên ở bên cạnh nhà mình nhai cơm cho thằng cu Tý con bác ăn đó à, thằng cu Tý nó ăn cơm của bác Duyên nhai có nước bọt của bác lẫn trong đó, nó thương bác lắm, lớn lên nó không đi đâu hết, nó ở nhà với bác ấy thôi, bác ấy bảo với tao như thế.
– Hòa cũng vậy, lớn lên Hòa ở với mẹ thôi, Hòa không đi đâu hết.
Bé Hiền trề môi: “Sao hôm nọ mày mới bảo lớn lên mày sẽ đi bộ đội, mày đánh thằng Tây, mày có nhớ mày bảo mẹ mua cho mày khẩu súng để đánh Tây nữa. Ừ mà cũng phải, chắc tại lúc nhỏ mẹ không nhai cơm cho mày ăn đó mà.”
– Thế còn Hiền thì sao?
Bé Hiền gật đầu bừa, ra vẻ quan trọng:
– Tao thì có ăn cơm mẹ nhai chứ sao không, lớn lên tao ở nhà với mẹ thôi, tao không đi lấy chồng đâu.
Bé Hòa trỏ con chim sẻ:
– Thế chim có đi lấy chồng không?
– Không đâu, đã bảo tao nhai gạo cho nó ăn rồi mà lỵ.
Mà chim quen dần với bé thật, vài hôm sau nó đã bay chuyền từ thành giường đến đậu trên vai bé, bé lấy làm thích thú lắm. Chim lại biết nghe tiếng huýt sáo gọi, mỗi lần bé huýt sáo là chim bay thẳng đến đậu ngay trên vai hoặc trên tay bé, bé lại càng quý chim vô cùng.
Một buổi sáng bé để chim đậu trên tay, ra đứng trước hiên chơi, trời đẹp quá, trong quá, xanh quá, chim cất tiếng kêu chiêm chiếp, thình lình chim bay bổng ra ngoài trời, chim bay lên thật cao, khuất hẳn sau vòm cây; bé chưng hửng, bé hốt hoảng, rồi bé buồn rầu, chim đã bỏ bé mà đi rồi.
Buổi trưa, bé nhớ chim quá, bé nằm trên giường để bên cạnh chiếc giỏ có cái ổ rơm của chim bỏ trống, bỗng bé nghe tiếng chiêm chiếp quen thuộc của chim lẫn với tiếng ríu rít của cả một bầy chim xôn xao quanh bụi tre sau nhà. Bé vội chạy ra, bé thấy trong bụi tre một bầy chim sẻ chíu chít bay vun vút qua lại như thoi. Lẫn trong tiếng chim ríu rít, bé vẫn nghe tiếng kêu quen thuộc của con chim nhỏ của bé, tiếng kêu của nó bây giờ có vẻ buồn thảm tội nghiệp quá. Nhưng bé không thể phân biệt nổi nó là con nào ở trong bầy, bé vội huýt sáo nhưng bé không tin tưởng cho lắm. Đột nhiên, con chim nhỏ từ trong bầy xòe cánh bay thẳng đến đậu trên vai bé, bé tưởng như mình nằm mơ, bé mừng quá, cảm động quá, bé để chim lên bàn tay, vuốt ve, sao lông chim có vẻ xơ xác thế này, sao nó run rẩy thế này?
Bé mang vào hỏi mẹ, mẹ bảo chim phải sống với người, có hơi người rồi, nó không thể trở lại bầy được nữa, lông nó xơ xác như thế vì nó bị bầy chim thấy có hơi lạ xúm lại mổ đánh nó đấy. Nghe thế bé lại càng thương cảm, bé bảo chim không cần ai hết, đã có bé đây, chim đừng dại bay về với chúng nó nữa nhé.
Chim không bay đi nữa, nhưng từ khi chim bị đồng loại đuổi đánh thì nó đâm ra ủ rũ, nó đứng im một chỗ, không nhảy nhót như trước kia nữa. Sáng hôm nay bé thức dậy chạy đến với chim thì nó đã chết, cánh xõa ra, lông xù lên, mắt nhắm nghiền. Bé khóc ròng, bé Hòa cũng bắt chước khóc theo, mẹ phải dỗ mãi.
Bây giờ hai đứa đang làm đám ma cho chim rất trọng thể, chúng bỏ chim vào một cái hộp, bé Hòa bảo bỏ vào cái hộp tối om om chim buồn chết, bé Hiền đồng ý, thế là chúng lấy cái ổ rơm chim thường nằm bỏ xác chim vào đó, chúng đào một cái lỗ sâu bên hè nhà, đặt ổ rơm có xác chim xuống đó, chúng hái những chiếc lá xanh đắp lên mình chim sau cùng chúng lấy đất đắp lại, bé Hiền bảo bé Hòa:
– Mày khóc đi.
Bé Hòa hỏi: “Sao lại khóc?”
– Làm đám ma thì phải khóc chứ, mày không thấy đám ma bác Dậu bị máy bay bắn chết hôm trước à, con Lê con bác ấy nó cứ nhìn đám ma nó cười bị thím Tèo mắng cho bảo con bất hiếu phải khóc đi chứ, bây giờ mày khóc đi.
Bé Hòa nghe lời chị, nó quạc mồm ra, giả vờ khóc: “A, a, a…”
Chợt hai đứa bé im bặt, quay nhìn ra sau, bé Hòa hoảng hốt khóc thét lên, gọi mẹ ầm ĩ. Một người đàn ông cao lớn, râu ria gần kín mặt, mặc quân phục màu xám tro đã hơi lem luốc, vai mang ba lô, đứng sừng sững ngay sau lưng chúng nó. Người ấy có vẻ đứng đó từ lâu, đang nhìn chúng nó chơi một cách chăm chú, khi thấy bé Hòa khóc thét lên còn bé Hiền đứng dậy có vẻ sợ sệt, người ấy vội vàng chìa tay ra:
– Suỵt, suỵt, coi kìa, chú đây mà.
Chị Hiếu nghe tiếng con khóc từ trong nhà chạy ra, bé Hòa vội vàng chạy đến ôm lấy mẹ, chỉ về phía người đàn ông, nước mắt vòng quanh: “Con sợ.”
Chị Hiếu nhìn người lạ, bỗng vui mừng kêu lên:
– Trời ơi chú Trần về đấy à, sao lại để râu ria khiếp thế cho cháu nhìn không ra.
Chị quay lại, vỗ về con:
– Chú Trần đấy mà, con hư quá không mừng chú mà còn làm mặt lạ, chú mới đi có hai tháng thôi mà.
Bé Hòa nín bặt, nhưng cứ đứng yên nhìn Trần không chớp, Hiền rụt rè đến cạnh Trần, nắm tay chàng:
– Chú Trần đây phải không?
Trần tụt quai ba lô, quăng xuống nền nhà, chàng ngồi bệt xuống hàng hiên, kéo bé Hiền ôm vào lòng:
– Thế bé không nhận ra chú ư? Không nhớ chú nữa ư?
Bé Hiền sờ tay lên mặt Trần:
– Lông gì trên mặt chú nhiều vậy?
Trần bật cười: “Râu của chú đấy.”
Bé Hòa sán đến gần, tò mò: “Râu chú kiếm ở đâu mà nhiều vậy?”
Trần làm bộ nghiêm trang giải thích:
– Râu của chú nó tự mọc ra đấy chứ có phải đi kiếm đâu, lớn lên rồi cháu cũng có như chú vậy.
Bé Hòa đưa bàn tay mũm mĩm lên xoa cằm mình, nó băn khoăn: “Bao giờ thì có hả chú?”
– Không lâu đâu cháu ạ, các cháu đang chơi gì thế?
Bé Hòa bi bô: “Hiền làm đám ma cho con chim sẻ đấy chú.”
Hiền liến thoắng tiếp theo:
– Nó vừa chết sáng nay chú ạ, mẹ bảo tại nó buồn quá nó chết.
– Làm sao mà nó buồn quá?
Hiền kể lại cho Trần nghe chuyện con chim sẻ, bé diễn tả bằng cả hai tay và hai con mắt tròn xoe của bé, Trần có vẻ chăm chú ngồi nghe. Kể xong bé nhìn Trần, bé thấy Trần có vẻ nghĩ ngợi gì, đôi mắt chàng như chìm hẳn đi, bé kéo tay Trần:
– Chim mà cũng biết buồn hả chú?
– Có chứ cháu, chim cũng như người vậy, cũng buồn lắm cháu ạ.
– Buồn thì buồn chứ sao lại chết hả chú?
– Chết chứ sao không, người buồn còn chết nữa, huống chi con chim nó bé thế nó chịu gì nổi.
Chị Hiếu nãy giờ yên lặng theo dõi câu chuyện của Trần và hai con, chị nhìn Trần đăm đăm, chị nhận thấy chàng gầy guộc và hốc hác hẳn đi, hai gò má của chàng nhô lên cao và tái xanh dễ sợ, đôi mắt sáng rực, đôi mắt của người đang lên cơn sốt. Chị có nghe Quý kể qua về chuyện của Trần, việc chàng phải về phân khu để dự lớp chỉnh huấn, chị không hiểu rõ cho lắm, chỉ lờ mờ biết rằng Trần hiện đang gặp một sự khó khăn gì đó.
Chị buột miệng hỏi Trần: “Chú đang sốt phải không?”
Trần nhìn chị mỉm cười: “Chị thấy em có vẻ yếu đau lắm sao?”
Chị Hiếu bảo hai con: “Thôi các con đi chơi đi, chú mới về đang mệt, chú đang đau đó, đừng làm rầy chú để chú vào nhà nằm nghỉ.”
Chị xách chiếc ba lô của Trần lên đi vào nhà, vừa nói:
– Chỉ một việc các cháu nó nhìn chú không ra là đủ thấy ra sao rồi. Chú nên vào nhà nằm nghỉ ngay đi, không nên ở ngoài gió lâu.
Trần đi theo chị Hiếu vào nhà, chàng cười vang, giọng cười khô và sắc:
“Những thằng như em mà còn sợ gió máy sao, chị không có ý xem em như bé Hòa đó chứ.”
Chị Hiếu dựng chiếc ba lô trên ghế cạnh bàn viết của Trần kê ở gian bên, chị lấy chiếc chiếu trải lên giường của Trần, đặt lên đó một chiếc gối, chị làm mọi việc đó rất nhanh chóng và vén khéo:
– Trời còn có khi mưa khi nắng huống chi là người, người thì có khi đau ốm, có khi lành mạnh, khi đau ốm thì phải lo chứ không nên coi thường chú ạ.
Thấy im lặng, chị quay lại thấy Trần đứng buông thõng tay, nhìn quanh nhà, vẻ mặt kỳ lạ ngẩn ngơ như chàng không nghe những lời chị vừa nói. Hiếu bỗng thấy lo ngại, chị bước đến bên Trần đánh bạo đưa tay lên sờ trán chàng, chị giật mình kêu lên:
– Chết thật, chú nóng như lửa như thế này. Chị kéo tay Trần về phía giường, Trần để yên cho chị kéo đi nét mặt hiền từ ngây ngô như một đứa trẻ.
Chàng ngoan ngoãn để chị Hiếu đỡ chàng nằm xuống giường. Vừa nằm xuống, chàng liền nhắm nghiền hai mắt lại hoàn toàn mê man, hơi thở bỗng trở nên gấp rút và khó khăn.
Thấy thế chị Hiếu lại càng hoảng sợ, chị khẽ gọi: “Chú Trần, chú Trần.”
Trần vẫn bằn bặt thiêm thiếp, Hiếu đứng thẳng dậy, lo ngại nhìn quanh lẩm bẩm:
“Quý đâu rồi nhỉ?” Chị chợt nhớ ra đến chiều tối Quý mới đi công tác trở về. Chị muốn có người ngồi canh chừng Trần để chị đi hái một nắm lá xông. Phải làm cho cơn sốt hạ xuống đã. Chị cất tiếng gọi bé Hiền:
– Con mang em vào nhà chơi, để mẹ đi một tí mẹ về ngay nhé.
Bé Hiền vâng dạ, nó gọi bé Hòa vào, hai đứa bé dắt tay nhau đứng nhìn Trần ngơ ngác.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:32:10 GMT -6
CHƯƠNG X
Trần mê man trên giường bệnh suốt nửa tháng trời, chị Hiếu và Quý thay nhau túc trực bên giường bệnh của chàng. Từ buổi chàng trở về với cơn sốt đang hành hạ đục khoét cơ thể, chàng nằm xuống và như kẻ bị giáng một trận đòn chí tử, cơ hồ chàng không còn trở dậy được nữa. Chàng nói mê sảng từng cơn, người chàng rạc dần đi, hơi thở yếu ớt như muốn lịm dần.
Chị Hiếu và Quý đã có lần nhìn nhau khóc, tuy không nói ra nhưng hai người cùng sợ Trần chết.
Quý buồn thảm ra mặt, vì nó yêu mến Trần như một người anh ruột thịt, còn hơn thế nữa, Trần đối với nó như một thần tượng sáng chói, luôn luôn nó cảm thấy sung sướng, vinh dự, yên ổn khi được ở bên chàng bất cứ nơi nào. Hai tháng Trần đi vắng nó bơ vơ lạc lõng, nó vẫn làm việc, đi liên lạc từ cơ quan này qua cơ quan nọ, nhưng nó không thấy hứng khởi trong công việc, người nó rời rã bần thần mất hẳn tính tình liến thoắng hồn nhiên cố hữu. Khi Trần trở về, nó mừng rỡ vô cùng, nó săn sóc Trần không quản gì cả, nó đau đớn thấy bệnh chàng càng ngày càng trầm trọng.
Cũng như Quý, chị Hiếu cũng âm thầm lo lắng vô cùng, y sĩ của cơ quan đến thăm bệnh Trần mỗi ngày, chị nhìn thấy họ tiêm cho Trần những ống ký ninh ngày này qua ngày khác, họ không có chi hơn nữa, họ làm công việc trị liệu ấy một cách lầm lì bình thản. Chị Hiếu cũng có biết sơ qua về thuốc men và cách điều dưỡng bệnh nhân, cho nên trước bệnh trạng nặng nề của Trần, cách chữa bệnh đơn giản của họ khiến chị càng thêm lo lắng. Chị đã nài xin họ đừng đưa chàng vào bệnh xá của chiến khu.
Đó là những căn nhà dài làm bằng tre, hai đầu có hai cái cửa, suốt ở giữa một lối đi, hai bên là hai dãy sạp bằng tre dọc theo hết chiều dài của căn nhà. Bệnh nhân nằm la liệt trên đó, gió bốn bề lồng lộng thổi tới, qua lại trên những khuôn mặt bệnh nhân vàng bủng xanh xao, mình mẩy ghẻ lở đầy chí rận. Có những người lên cơn sốt đắp những chiếc chăn vá đụp, nằm co quắp rên hừ hừ, nắng từ trên mái lợp tranh thưa thớt chiếu xuống những chấm nắng loang lổ, thành những vệt tròn sáng trên những tấm chăn, những vệt nắng tròn sáng đó còn đậu trên mặt những người bệnh đang trong cơn mê man thoi thóp nữa. Mỗi ngày y sĩ đi trông qua một lần các bệnh nhân, phát cho họ những viên thuốc tròn màu trắng hoặc những viên tròn màu vàng, rất hiếm khi người ta hạ cố chích cho bệnh nhân một ống thuốc ký ninh, đó là một đặc ân. Trần là một đảng viên nên mới được hưởng sự đặc biệt có người đến tận cơ quan riêng mà tiêm thuốc như vậy. Chị Hiếu không lòng dạ nào để người ta đưa Trần vào nằm trong bệnh xá đó được. Ở cùng dưới một mái nhà gần hai năm nay chị cảm thấy một niềm kính mến lẫn quý trọng đối với Trần mặc dầu chàng kém hơn chị hàng mười tuổi. Chàng có một nhân cách cao nhã cách biệt hẳn với những người chung quanh, tuy nhiên phong thái chàng lại rất giản dị hòa hợp được với tất cả mọi người. Tuy sống cùng nhà nhưng rất ít khi họ gặp mặt nhau. Trần và Quý đi công tác luôn có khi đi hàng tháng, chị Hiếu thì bận công việc đi lại mua bán, chị cũng nhận vài công tác do một cơ quan của tỉnh giao phó, liên lạc về những tổ chức trong thành phố, nhận tin tức ở đó mang về chiến khu, những công tác của chị Hiếu không liên hệ gì đến cơ quan của Trần cả. Vì vậy mỗi khi gặp nhau ở nhà, họ chỉ thăm hỏi nhau những chuyện thông thường. Trần rất mến hai bé Hiền và Hòa, mỗi khi rỗi rảnh chàng thường gọi chúng nó lại chuyện trò và tỏ ra quan tâm chú ý đến những câu chuyện không đầu không đuôi của chúng một cách thích thú vô cùng.
Bây giờ là mùa mưa, nước dâng lên vài nơi làm trở ngại sự đi lại trong vùng núi, nên chị Hiếu tạm nghỉ mọi công việc, ở nhà trông nom săn sóc cho Trần. Ban ngày có khi Trần tỉnh dậy, chàng mở mắt lờ đờ nhìn sửng vào khoảng không, chàng không nói năng với ai cả, dường như chàng không còn biết đến sự có mặt của chị Hiếu và Quý bên cạnh chàng nữa. Phải khó khăn lắm mới đổ cho chàng chút nước cháo. Những lúc Trần tỉnh, chị Hiếu giao cho Quý trông chừng để đi ra ngoài mua bán đôi chút. Nhưng khi cơn mê của chàng bắt đầu từ chiều tối cho đến gần sáng thì bao giờ chị cũng có mặt bên chàng.
Quý còn nhỏ tuổi ban đêm không thể thức được nên chỉ một mình chị thức đêm lo lắng cho Trần. Hơn nửa tháng rồi bệnh Trần không hề thuyên giảm, lúc tỉnh lúc mê, người chàng nóng như lửa, những khi mê sảng, chàng nói mê luôn, trong cơn mê chàng trăn trở nói luôn miệng:
– Các cháu đắp mộ cho con chim se sẻ đấy à, phải đấy, tội nghiệp con chim nhỏ đáng thương, tôi cũng có một nấm mộ, cái mộ của con chim bé nhỏ vô tội bị đồng loại đánh đuổi, em, em ơi sao mắt em mở to thế, phải rồi em không muốn chết mà, em ơi em ơi, cỏ mọc xanh trên mồ em rồi đấy, mồ thì phải xanh chứ, xanh quá lá say đời, say đi em, say đi em…
Có khi chàng gọi mãi một người con gái nào đó mà có lẽ chàng không biết tên vì chị Hiếu nghe chàng nói lảm nhảm:
– Em, em, tên em là gì em có tên không em, giòng sông nắng sớm, đôi mắt, làn tóc xõa, tà áo trắng trong chiếc đò ngang, tên em đó phải không em. Anh cũng không có tên đâu em, có tên làm gì thêm khổ, thêm khổ, chúng mình không có tên chúng mình yêu nhau suốt đời, suốt đời…nghe em.
Những lúc Trần nói mê chị Hiếu sợ hãi cuống quýt, chị lo bệnh Trần mỗi lúc mỗi tăng, chị lay gọi cho Trần thức tỉnh, nhưng đêm nào cũng vậy, hết cơn mê sảng chàng lại bằn bặt thiếp đi cho đến gần sáng.
Một đêm, Trần có vẻ dễ chịu hơn, nhiệt độ của chàng thấp hơn mọi đêm, chàng nằm yên không dằn dọc nói mê nữa. Chị Hiếu cảm thấy yên lòng, chị ngồi trên một chiếc ghế nơi bàn viết của Trần, chị tựa tay gục đầu xuống bàn nhắm mắt lại một chút. Chị mất ngủ nhiều đêm rồi, chợt chị nghe tiếng Trần trở mình, chị ngồi thẳng dậy, quay lại phía Trần. Trần đang mở mắt, đăm đăm nhìn chị, đôi mắt chàng chiếu ra một tia sáng êm ái dịu dàng, ánh mắt êm như nhung, tiềm ẩn một vẻ buồn thảm thâm trầm khiến chị bỗng dưng xúc động vô cùng, nước mắt chị bỗng trào ra, chị không hiểu tại sao; cổ chị nghẹn ngào, chị trân trối nhìn Trần không biết làm sao cả. Mãi đến khi Trần cất tiếng hỏi:
– Sao chị khóc?
Chị giật mình, ngượng ngùng bối rối, đưa tay quệt nước mắt toan quay đi:
– Để tôi đi hâm cháo lại cho chú.
Chị đứng dậy, Trần gọi giật:
– Em không đói, chị ngồi xuống đó đã.
Cực chẳng đã, Hiếu lại ngồi xuống. Trần hỏi:
– Khuya rồi hở chị?
– Gần sáng rồi chú ạ.
– Gần sáng rồi? Sao chị không đi ngủ?
– Tôi ngồi canh chừng chú.
Trần cười khẽ: “Em làm sao mà phải canh chừng?”
– Chú mê man luôn, vật mình vật mẩy sợ lăn xuống đất thì không nên, nguy hiểm lắm, nên tôi phải thức để canh chừng.
– Thế à, em đau mấy ngày rồi chị?
– Hơn nửa tháng rồi chú ạ, từ khi chú về đến nhà cho đến bây giờ.
Trần như nói một mình: “Hơn nửa tháng, hơn nửa tháng, vậy đêm nào chị cũng thức như thế này à?”
– Vâng, có sao đâu chú, tôi thức quen rồi, thấy chú tỉnh tôi mừng quá, để tôi đi hâm cháo chú ăn một tí cho khỏe.
Chị đứng dậy, đi thẳng xuống bếp.
Trần nằm yên, nghe thân xác trống rỗng, trí não bềnh bồng, miệng đắng ngắt, chàng liếm môi, môi chàng khô khốc, hơi thở nóng âm ỉ. Chàng cố nghĩ một điều gì, cố nhớ một việc gì, không thể được, thôi vậy. Chàng nhắm mắt lại, thấy những sợi tơ trời trắng muốt bay lả tả, lướt thướt trôi qua trước mặt chàng; những sợi tơ quyện lại với nhau thành một đống chỉ rối, nhún nhảy nhịp nhàng, rồi chia ra những hình thù không rõ rệt, bay lơ lửng, có lúc chợt sáng lòe lên, rồi chìm đắm trong những màu sắc mờ ảo biến hóa khôn lường. Rồi thì tất cả những hình ảnh bỗng nhiên xoáy tròn như bị cuốn hút vào một cái vực hình trôn ốc sâu thăm thẳm, chúng xoay tít, những vòng sáng lóe lên rồi kéo dài ra, mất hút.
Trần thấy ngực nặng dần, nặng dần, cơn mê sắp úp chụp lấy chàng. Tiếng chị Hiếu văng vẳng bên tai: “Chú ngủ đấy à?”
Trần cố lên tiếng, cố trả lời chị, nhưng không thể được, những chiếc vòng mỗi lúc một xoay nhanh hơn, như chong chóng, rồi trở nên hỗn loạn, vỡ òa ra như thác đổ, ngọn thác trắng xóa giội xuống ngực chàng ào ạt. Trên đầu ngọn thác, tiếng gọi của chị Hiếu vẫn nghe văng vẳng. Trần cố thu hết tàn lực, hét lên một tiếng, mở bừng mắt ra, cả người chàng ướt đẫm mồ hôi, khuôn mặt chị Hiếu cúi xuống, đầy âu lo, thương cảm.
Nhìn thấy khuôn mặt Hiếu, Trần cảm thấy một niềm yên ổn vô cùng, vực thẳm đã lùi xa, ngọn thác trắng xóa giội xuống ngực chàng không còn nữa, chàng thở mạnh, thấy ngực nhẹ tênh, khuôn mặt người đàn bà cúi xuống như một hình ảnh cứu rỗi, bất giác chàng đưa tay ôm choàng lấy khuôn mặt ấy, ghì sát trên mặt đẫm ướt mồ hôi của chàng một lúc lâu.
Chị Hiếu run như chiếc lá, chị không thể chống cự, chị mê hoảng trong vòng tay nhanh và gọn của người con trai. Hiếu quỳ xuống bên giường, má chị áp sát bên má ướt đẫm của chàng, hơi nóng âm ỉ trong cơn sốt của người chàng thấm qua người Hiếu, trí óc chị mụ mẫm đi trong một thoáng hôn mê. Chợt vòng tay chàng nới lỏng, chàng buông Hiếu ra đột ngột, chị ngẩng mặt lên, thấy nước mắt lại trào ra, một lần nữa Hiếu không biết tại sao.
Hiếu chậm chạp đứng lên, cảm thấy hầu như không đứng vững, tim chị đập từng hồi, chị cố trấn tĩnh, đưa tay vuốt những sợi tóc dính bết mồ hôi của Trần trên má chị. Như một cái máy, Hiếu với lấy chiếc khăn ở đầu giường, quỳ xuống lau mồ hôi trên mặt, trên cổ Trần, nước mắt vẫn đầm đìa trên mặt Hiếu.
Trần nằm yên cho Hiếu lau mặt cho mình, khi Hiếu ngừng tay, định để chiếc khăn lại chỗ cũ, Trần giữ tay nàng lại, chàng giành chiếc khăn trên tay nàng, dịu dàng lau nước mắt cho nàng. Hiếu lặng người, im sửng nhìn Trần, mắt chàng nhìn nàng có một vẻ trìu mến, trẻ thơ gieo vào lòng Hiếu một nỗi hân hoan kỳ lạ nàng chưa từng biết đến bao giờ.
Hiếu nghe tiếng mình thì thầm, như tiếng một người nào khác: “Hãy gắng ăn một tí cháo nhé, tôi đã mang lên rồi.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:34:42 GMT -6
CHƯƠNG XI
“Thật không còn gì để tiếc nuối nữa, mọi sự đã rõ ràng lắm rồi, anh Lương, em hiểu là anh biết rõ lắm, nhưng anh từ chối sự thật, anh từ chối ngay cả anh, mỗi ngày ở đây dài quá, vâng, dài quá anh ạ, em không chịu nổi nữa. Em muốn chúng ta mang các con đi, anh nghĩ xem, ở đây chúng ta không làm gì được nữa, chúng ta không có ích gì ở miền kháng chiến này nữa, họ đã tỏ cho chúng ta biết như vậy.
Hãy nói cho em biết, tại sao đây là quê hương, là chốn thân yêu quen thuộc của chúng ta từ trước, mà bây giờ chúng ta bỗng thấy lạc lõng xa lạ giữa nơi này? Tại sao những bà con thân thích hiền lành chất phác của chúng ta lúc trước bây giờ không còn ai như xưa nữa? Bây giờ mọi người đều trở nên tinh khôn quá, độc ác quá, họ nhìn nhau giữ miếng, thù hằn và nghi kỵ. Họ nói toàn những chữ mới và họ cho như vậy là tiến bộ, những ai còn như xưa đều bị bỏ rơi khinh rẻ. Thị như chúng ta đây vậy, tại sao, tại sao, anh hãy nói cho em nghe, tại sao anh im lặng, hễ mỗi lần em nhắc đến anh lại thở dài, có gì giữ chúng ta ở lại đây để chịu đựng cơ sự này?”
Lương thở dài, hai tay ôm đầu, cúi mặt, mỗi lời nói của Hà, vợ anh như xoáy vào da thịt anh, tê lạnh từng đốt xương, bải hoải cả tâm hồn; Hà đã nói đúng mọi nguồn cơn hiển nhiên như thế, Lương đã đòi hỏi nàng phải chịu đựng quá sức của nàng. Hà chỉ là một người đàn bà yếu đuối, nàng đã vui lòng nghe theo ý muốn của Lương ở lại miền quê này từ ngày chiến tranh bùng nổ.
Người vợ môi hồng mắt trong thăm thẳm của Lương ba năm về trước bây giờ khốn khổ quá đi rồi. Những lần ôm con chạy giặc, nàng gầy yếu tội nghiệp biết bao với đứa con nhỏ trên tay và bọc đồ trên vai, dưới làn mưa đạn rít lên từ những chiếc máy bay lồng lộn trên không, những chiếc xe Jeep của giặc đuổi theo hàng đoàn dân chúng chạy tán loạn trong những dải cát dài mênh mông; những bờ bụi khuất lấp che chở những thân phận người nhỏ nhoi và rẻ rúng vô cùng.
Khi những cánh quân của giặc đi qua, từng loạt đạn xé toang, mọi người nép sát mình vào đất, nín thở, sợ hãi cả tiếng tim đập thình thịch của mình, thời gian và cái chết chỉ trong gang tấc.
Những buổi chiều, khi tiếng súng đã xa dần rồi im hẳn, khi trên trời chỉ còn những cánh chim bé nhỏ bay về thay thế những chiếc máy bay mang theo hãi hùng chết chóc, từng đoàn người nhô ra từ những bụi rậm, những bờ lác, đi lang thang lếch thếch trở về xóm làng còn nghi ngút khói lửa.
Lương và vợ mỗi người bế một đứa con mặt mũi xám ngắt trên tay, những đôi mắt trẻ thơ ủ rũ, chúng không buồn khóc, linh tính thơ ngây cho chúng biết chúng đang sống giữa một miền mà trẻ con không được cả quyền khóc.
Lương vẫn phải đi dạy trường tiểu học của xã mỗi ngày, và các lớp bình dân học vụ mỗi đêm. Anh không còn biên khảo gì được nữa, những nguy nan thường trực, những công việc vặt vãnh choán hết cả thì giờ. Cả một thư viện của anh bây giờ cũng không còn lại gì cả, sách vở chôn giấu bị mục nát hết. Sau một trận lụt, Lương đào hầm sách lên phơi, anh lặng người đau đớn thấy bao nhiêu sách quý mà anh giữ gìn cẩn trọng trong bao nhiêu năm chỉ còn là một đống bùn nhão nhoẹt, lần đó anh không thiết ăn uống nói năng cả tháng liền.
Hà nhẫn nại sống bên chồng như một cái bóng, cô nữ sinh trường Jeanne d’Arc ngày nào đã yêu Lương, nàng về làm vợ Lương một cách hồn nhiên và tôn trọng tất cả mọi quyết định của chồng, cùng chịu đựng tính nết vui buồn của chồng một cách lặng lẽ giản dị, như là cuộc đời phải là vậy.
Ba năm ở quê làng với cuộc sống cơ cực, chạy giặc hàng ngày, vất vả với công việc đồng áng, trông coi ruộng nương vườn tược, nàng không hề hé môi than thở, nhưng càng ngày, lòng người thay đổi chung quanh đã khiến nàng đau khổ mệt mỏi đến cùng tận.
Dù nàng sống thêm một trăm năm nữa, nàng cũng không hiểu nổi những điều xảy ra trước mắt nàng. Chồng nàng không muốn rời quê hương đang kháng chiến chống xâm lăng; nàng đồng ý với chồng. Nhưng ba năm trời ở đây người ta đã tỏ cho vợ chồng nàng biết là họ không cần đến mình. Việc đi dạy của Lương như là một ân huệ mà họ ban phát cho chồng nàng. Dù cố làm ngơ, nàng cũng không thể không nhận thấy rằng người ta đã xem vợ chồng nàng là những kẻ sống thừa, không theo kịp đời sống tiến bộ.
Khi một người muốn xin một mồi lửa để hút thuốc, thay vì nói “cho tôi xin mồi lửa,” thì người ta nói “hãy ủng hộ cho tôi tí lửa,” và đó là cách nói của những người tiến bộ. Hà không bao giờ có thể nói như thế được, nàng chỉ có thể nói “cho tôi xin mồi lửa,” cách nói xưa như tổ tiên của nàng hằng nói, thế thôi.
Và như thế là không hợp thời, không hợp cảnh.
Cái cách người ta yêu thương nhau, kết hợp thành vợ thành chồng ở đây cũng làm Hà suy nghĩ và thấy xốn xang, nàng không hiểu sao người ta có thể cảm thấy hạnh phúc khi phải được sự đồng ý của đoàn thể mới được yêu nhau, đám cưới do sự cho phép của cấp lãnh đạo, được trang hoàng bằng bàn thờ Tổ quốc có treo ảnh Hồ chủ tịch, có cờ đỏ sao vàng và đồng chí chủ tịch xã làm chủ hôn. Hà nghĩ đến bàn thờ tổ tiên có trầm hương nghi ngút, lộng lẫy trang nghiêm trong ngày cưới của nàng, cùng họ hàng cha mẹ của hai gia đình trai gái, cảnh tượng đó làm cho Hà thấy tình yêu đượm vẻ thiêng liêng, về nguồn về cội.
Lại cái cách đau khổ của những người tiến bộ cũng làm cho Hà lạ lắm. Có một chị cán bộ phụ nữ huyện thường về đây họp phụ nữ xã, có chồng làm đại đội trưởng Vệ Quốc đoàn cũng về đây một lần với chị. Hà thấy họ đi với nhau, chị cán bộ người thô kệch, búi tóc cao lên sau gáy, người chồng có vẻ thư sinh, dong dỏng cao nét mặt thanh tú, nghe đâu họ lấy nhau vì Đảng kết hợp. Tháng trước người chồng chết trong trận đánh ở gần Huế, tin chồng chết đến với chị cán bộ trong khi chị đang chủ tọa một cuộc họp phụ nữ xã, người ta gọi chị ra để báo tin. Chị nghe qua nét mặt không đổi sắc vẫn bình tĩnh trở vào tiếp tục chủ tọa cuộc họp, và tuyên bố rằng việc cá nhân không thể để ảnh hưởng đến việc đoàn thể được.
Cái cách để tang chồng của chị cán bộ mới lạ hơn nữa: tóc chị từ trước vẫn búi cao lên bây giờ chị tuyên bố cắt tóc để tang chồng, chị cắt ngắn xõa ngang vai, nay nom chị đi đằng xa trông như một thiếu nữ không có dấu vết gì của một góa phụ hay một người đàn bà có chồng nữa. Hà thấy mọi người đều tỏ ra kính phục chị cán bộ ấy lắm, các bà các chị trong vùng này gần như sợ hãi nịnh nọt chị ta đủ điều.
Hà nói với Lương, giọng van lơn:
– Anh xem, làm sao em có thể hiểu được những điều đó. Sự tiến bộ đó quá với sức con người của em. Ở đây chúng ta lạc lõng quá, mọi người đều lạnh nhạt với mình, bà con làng nước ai có cảm tình với mình cũng không dám đến gần mình nữa, họ sợ liên lụy. Ngay giữa họ với nhau cũng không ai dám tin ai cả. Anh có nghe người ta nói đã đến lúc phải tiêu diệt địa chủ để chia ruộng đất cho bần cố nông đó không. Em tưởng đã đến lúc chúng mình phải rời khỏi nơi đây. Chúng mình trở về thành phố, con mình đã đến tuổi đi học, anh không làm việc cho Tây thì không có gì phải ân hận. Anh sẽ có thì giờ tiếp tục viết sách, anh nghĩ sao?
Lương suy nghĩ điều đó đã lâu lắm rồi, nhưng không bao giờ anh muốn đề cập đến. Những điều Hà nói như âm vang của tâm trí nhọc nhằn của anh. Mọi sự dàn trải ra đó, ai mà không thấy không biết, nhưng sự im lặng trong lúc này vẫn như một nơi ẩn náu cần thiết.
Đối với Lương thật khó xử vô cùng, vợ con anh thì không nói làm gì, chứ còn anh mà trở về thành phố là mang tiếng đầu hàng, là theo giặc, không thể biện minh gì hơn được, dù ở đây người ta không dung anh, anh không giúp gì cho kháng chiến như anh có thể mong muốn được cả. Anh ở vào tình trạng không lối thoát. Lương buồn bã cầm tay vợ, bàn tay đã chai cứng mỏi mòn, anh nhìn khuôn mặt héo hon của vợ, anh hỏi nàng bằng một giọng thương cảm:
– Hà, em nghĩ chúng mình có thể tạm xa nhau trong ít lâu được không?
Hà hốt hoảng, nàng trố mắt nhìn chồng:
– Anh bảo sao, xa nhau là thế nào?
– Em ạ, bây giờ chỉ còn có một cách, là em mang con về Huế ở với cha mẹ để phục hồi lại sức khỏe cho các con và cả cho em nữa, dạo này anh thấy em gầy yếu quá. Còn anh thì anh phải ở lại ngoài này, anh cũng biết những công việc mà anh em ở đây họ giao cho anh tuy tầm thường nhỏ nhoi thật đấy, nhưng đối với anh nó bao hàm thật nhiều ý nghĩa trong đời sống này. Anh không thể chọn lựa, những điều em vừa nói không phải là anh không nghĩ đến, nhưng anh vẫn còn hy vọng, dù thật là mơ hồ, cả hy vọng cái gì anh cũng không biết rõ. Anh vẫn nghĩ rằng tình thế sẽ sáng sủa dần dần. Nhưng anh thấy em và các con đã kiệt sức, quả thật không khí chiến tranh không thể dung dưỡng đàn bà và trẻ con, em và các con không thể chờ đợi hơn nữa. Anh thì vẫn phải chờ đợi. Thế cho nên anh xin em mang con về trước với cha mẹ, đó là nơi trú ẩn cần thiết cho em và con trong lúc này.
Hà lắc đầu một cách cương quyết, nàng sờ vào khuôn mặt gầy và xương xẩu của chồng:
– Ồ, thật là quá sức, em không thể tưởng tượng được em có thể sống nơi nào mà thiếu vắng anh, anh nghĩ quẩn rồi, em cũng vậy. Thôi vậy, chúng ta không trở lại vấn đề này nữa. Cứ để đến đâu hay đấy.
Hà đã giữ lời, nàng câm nín không than thở nữa, nhưng số phận đã thay con người để làm công việc của nó. Bé Cao, đứa con trai lớn lên ba tuổi của họ càng ngày càng xuống sắc, da nó vàng úa dần dần, nó không chịu ăn uống gì cả, chỉ còn da bọc xương, các y sĩ trong vùng đều thất vọng vì họ quá nghèo nàn về phương tiện trị liệu. Cuối cùng họ đề nghị cấp giấy tờ cho Hà mang con vào thành phố Huế để chữa bệnh.
Có một cái gì trong thời chiến, khiến cho những người thương nhau khi chia tay đều có một cảm giác giá lạnh, in thể lần cuối họ còn nhìn thấy mặt nhau.
Hai vợ chồng Lương thức trắng đêm bên nhau trước ngày Hà mang hai con trở về thành phố Huế. Gần về sáng Hà cố nuốt tiếng nức nở không cho thoát ra khỏi cổ họng, nàng sợ tiếng khóc sáng nay như một âm vang cuối cùng, một điềm xui xẻo có thể khiến cho nàng không còn thấy lại khuôn mặt yêu dấu của chồng nữa. Lương cũng vậy, anh sợ tiếng khóc của vợ, anh trầm ngâm lặng lẽ hút thuốc trong bóng tối, anh biết mỗi lời nói, mỗi cử chỉ yêu thương trong giờ phút này đều khơi nguồn nước mắt buồn đau. Vợ chồng Lương đã hẹn với nhau đem con về Huế chữa bệnh sẽ trở lại trong vòng ba tháng nữa. Ba tháng có là bao so với cả một đời họ đã hứa cho nhau, và khoảng cách trên sông dài cũng chỉ mang ý nghĩa thời gian buổi sáng thuyền nhổ sào buổi chiều cập bến. Nhưng trong không khí chiến tranh vây quanh này, cuộc chia ly mang một sắc thái như cả thiên thu.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:38:26 GMT -6
CHƯƠNG XII
Lương đứng lại một mình trên bến sông, chiếc thuyền mang vợ con anh trôi xa dần, khuất hẳn trong sương mù buổi sớm. Đôi mắt thất thần của Hà ngoái nhìn lại anh, bàn tay trẻ thơ sờ soạng trên mặt anh khi anh cúi xuống hôn con, đứa lớn xanh xao vàng vọt, đứa bé u ơ chưa biết gì, tất cả những hình ảnh đó khiến lòng anh quặn đau, anh cố gắng tự nhủ: “Ba tháng, ba tháng, cũng không lâu la gì.”
Lương cúi đầu quay gót bước đi, anh đi không biết đã bao lâu, dọc theo con đường ven sông cho đến khi nắng lên vàng mặt sóng, Lương sợ phải về thấy lại căn nhà vắng vẻ, chỉ còn những khuôn mặt phẳng lặng của những người đàn bà họ hàng giúp việc ở trong nhà.
Vào khoảng mười giờ, Lương nặng nhọc lê chân về đầu ngõ nhà anh. Từ cổng vào Lương chợt nghe một tiếng hát quen thuộc, tiếng hát của một người con gái, điệu hát buồn, xa vắng, thoảng nhẹ trong không khí tịch liêu:
“Lầu trai ấy, nắng đời vương tóc xanh, Tháng ngày dần trôi nhanh Khói rung đó đây, rồi say U trầm trong bóng mây… Nắng, nắng vàng, trùm không gian Nhắc ta ngày xưa ấy…”
Tiếng hát êm đềm, cao vút nhưng rời rạc từng câu,cho Lương thấy người con gái đang vừa hát vừa nghĩ một điều gì đó. Thốt nhiên, Lương thấy lòng rộn lên một niềm yên ủi dịu dàng, dường như thực tại đã lùi xa. Lương nhắm mắt lại, tiếng hát mang anh về một thời xuân xanh vui sướng, một thời mà anh đã từng có tất cả, trời xanh, quê hương, bóng tre ngà, tiếng chim hót mùa xuân, những ước vọng đắm say, thảy thảy đều còn nguyên vẹn chưa hề có gì mất mát. Một thời nên thơ mà tiếng hát quen thuộc đã khơi dậy tất cả, từ mấy năm nay anh không nghe lại tiếng hát đó. Anh vụt la lên:
– Huyên, em đấy à?
Tiếng hát ngưng bặt, từ phía tiền đình ăn thông đến thư phòng của Lương, một thiếu nữ trạc mười sáu tuổi mặc chiếc áo dài màu nâu chạy ra thật vội vàng, nàng chạy về phía Lương, tóc nàng thật dài bay tạt về phía sau để lộ một khuôn mặt trắng xanh, đôi mắt đen láy trong sáng lạ thường, cái nhìn thẳng như đi sâu vào hồn người, sống mũi cao thanh tú nhưng có một tí gồ lên bướng bỉnh, đôi môi nhợt nhạt của chứng sốt rét nhưng nét cười thật tươi, chiếu sáng rực rỡ cả khuôn mặt gầy yếu của nàng. Nàng đưa hai tay về phía Lương:
– Anh, em chờ anh mãi, em đến chậm quá không gặp được chị và các cháu, em chạy ra bến nhưng không thấy ai cả.
Lương nhìn em, người em gái có họ với anh, nói trong mơ: “Thuyền đi từ sáng sớm kia em ạ, chị mang hai cháu về Huế chữa bệnh ba tháng nữa mới về trở lại.”
Anh nắm hai bàn tay nhỏ nhắn ấm áp của thiếu nữ:
– May quá lại gặp em về như thế này là anh mừng lắm. Em về từ bao giờ?
Huyên vui vẻ nắm tay anh đi vào nhà, giọng nói của nàng reo vui:
– Em về đến nhà tối hôm qua, em muốn sang đây ngay nhưng bận bịu với bên nhà mãi, sáng nay em mới qua thì thím Hai bảo anh đưa chị và hai cháu ra bến đò đi Huế, em chạy thẳng ra bến không thấy ai, em về nhà chờ mãi cứ tưởng anh không về trưa nay.” Vào đến thư phòng Huyên buông tay anh chạy lại bàn cầm lên một chiếc mũ lợp bằng lá tro, nàng mang đến đưa cho anh.
– Em mang về biếu anh chiếc mũ; bây giờ nó là mốt mới nhất của Liên khu Tư đấy anh ạ, em đã phải đội nó trên đầu, bên trong cái nón lá của em, suốt cả tháng trời đi trên núi từ ngoài Hà Tĩnh vào đây đó anh. Cả tháng trời mưa rừng ròng rã, may sao về đến đây nó hãy còn nguyên vẹn em mừng quá anh ạ.
Lương đón lấy cái mũ đội lên đầu, anh đến soi vào gương treo trên tường ngắm nghía, cảm động:
– Ừ, trông cũng hay thật đấy em ạ, mà cái công em mang nó đi cả tháng trời đường núi thật là khổ.
Lương giở cái mũ xuống, cầm trong tay nâng niu đoạn thận trọng để nó lên đầu tủ sách, anh kéo ghế ngồi đối diện với Huyên lúc ấy đang ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ đưa mắt vui vẻ nhìn theo Lương. Lương nhìn em xót xa:
– Em gầy và xanh quá, em có bị đau không?
– Không anh ạ, chỉ tại cuộc hành trình vất vả quá, em đã đi dưới mưa tầm tã suốt tháng vì gặp mùa nước lũ ở trên núi, trước kia em chưa từng nghe ai nói đến bao giờ. Anh nghĩ xem cả đoàn người cùng lội qua suối, nước chỉ lên đến đầu gối thế mà trận mưa ập xuống chỉ phút trước phút sau những người đi trước đã qua được bờ bên kia, những người đi sau đành đứng lại nhìn giòng suối dâng cao lên cuồn cuộn như thác có thể trôi phăng cả một tòa nhà to lớn. Em đã gặp nhiều trường hợp thật nguy hiểm tưởng không về đến đây được. Dọc đường em có bị lên cơn sốt rét một vài lần, mà vẫn phải đi dưới mưa.
Huyên dừng lại, nàng mơ màng nhìn quanh phòng:
– Thật không ngờ bây giờ đã ngồi ở đây rồi, nàng lẩm bẩm nhắc lại, thật không thể ngờ được.
– Anh nghĩ lấy làm lạ sao em về nhà vào mùa này. Đây là mùa tựu trường mà, nếu em định về em phải về ngay từ đầu mùa hạ chứ?
Huyên quay lại: “Vâng, đáng lẽ em phải về từ đầu mùa hạ, nhưng em có định về đâu. Hồi đầu tháng năm em ra Thanh Hóa để thi vào trường Y sĩ, em đã phải đi gần nửa tháng trời cả đường thủy lẫn đường bộ mới ra đến nơi. Dọc đường em gặp nhiều chuyện gian nan vô cùng, nào máy bay bắn phá dọc quốc lộ, nào thiên hạ chém giết cướp bóc nhau, đi đến đâu em cũng nghe những vụ thanh toán nhau vì đảng phái, vì nghi kỵ, người ta nhìn thấy khuôn mặt kẻ thù ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng em cũng đến nơi, em thi đậu cao và được nhận vào trường Y sĩ. Thế nhưng em lại phải rời bỏ nơi đó và cũng từ bỏ luôn ý định sẽ trở thành thầy thuốc.
– Vì sao vậy em?
– Vì em không phải là đảng viên, do đó có một vài vấn đề được đặt ra, em có thể vượt qua được nhưng em bỗng thấy chán nản vì thấy trước những ngày kế tiếp phải đương đầu với những điều vụn vặt gây cho mình những khó chịu liên miên như ở trường cũ em đã gặp, nếu mình cứ mãi mãi đứng ngoài.
– Anh nghĩ em còn trẻ quá, nhưng vấn đề đảng phái bây giờ cũng cần thiết cho sự cầu tiến lắm đấy, dù sao em cũng còn nhiều thì giờ lắm mà.
– Vâng, em biết thế, dù sao em cũng mừng rằng nhờ tuổi em còn ít nên vấn đề đó chưa trở nên quan trọng đối với em. Nhưng em biết trước rằng em không thích hợp với những vấn đề đảng phái, thế thôi.
Lương chăm chú nhìn em:
– Em thử nói anh nghe vì sao mà em nghĩ như vậy?
– Ở trường em có nhiều người bạn ở trong Đảng, có nhiều người rất tốt và rất lý tưởng. Nhưng em thấy họ dần dần trở nên giống nhau một cách phi lý. Họ rập nhau từ dáng điệu cho đến cách phát biểu tư tưởng, cứ như khuôn đúc. Những lập luận của họ dần dần trở nên khô khan, giáo điều và từ đó không bao giờ thay đổi. Em không muốn là một cái khuôn bởi vì Trời đã sinh ra mình để làm người. Một cái khuôn không thể là một con người, vậy không có lý gì một con người lại đi biến mình thành một cái khuôn. Những cái khuôn luôn luôn mang lại một hình thức toàn hảo nhưng nhàm chán và buồn tẻ.
– Dạo này em ăn nói có vẻ người lớn quá nhỉ, ở tuổi em bây giờ hồi trước anh còn chơi thả diều.
– Em vẫn còn chơi thả diều được mà anh, nhưng anh nghĩ xem, ở trường trung học chúng em phải học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê hằng ngày, lại tối nào cũng phải sinh hoạt tập thể, học hành kiểm thảo liên miên, mỗi cuối tuần lại thay phiên nhau thuyết trình những đề tài biện chứng pháp, anh có thấy em ăn nói già dặn cũng không có gì lạ.
Huyên dừng lại, nhìn anh tỏ vẻ áy náy không yên:
– Thế còn anh, anh có gì đổi khác không anh? Anh vẫn còn là anh Lương của em ba năm trước đây chứ?
Lương phì cười:
– Thế cô trông anh ra cái gì nào? Để anh nói cho em yên trí, anh vẫn là anh, có nghĩa là anh có muốn khác đi cũng không được, không ai cho anh có quyền làm khác đi đâu.
Huyên cười thoải mái:
– Như thế mà hay đó anh ạ, nàng nói tiếp, chuyện em trở về đây không hẳn là vì như thế, giữa lúc em đang phân vân chưa biết quyết định bề nào vì em cũng tiếc một cơ hội học một nghề chuyên môn mà em yêu thích thì có tin trường Y sĩ nơi em định theo học sắp dời qua Vân Nam, một tỉnh ở địa đầu Trung Hoa, để tránh máy bay địch, để bảo toàn nhân mạng của trường. Nghe nói phải đi đến một vùng xứ sở khác, như vậy có nghĩa là phải đi qua cả mấy khu vùng Bắc Việt, để băng qua biên giới và sẽ phải sống nhiều năm ở một nơi xa hẳn quê hương, khi ấy tự nhiên em thấy nhớ làng vô hạn, từ ba năm ra học ở miền ngoài ấy chưa bao giờ em cảm thấy nhớ quê đến như thế. Có một mãnh lực thâm trầm thúc đẩy em phải trở về đây tức khắc, mặc dầu em vẫn biết rằng gia đình em không còn ở lại đây nữa. Thế là em bỏ hết, lúc bấy giờ vào giữa tháng sáu. Trên đường về cực khổ gian nan cũng nhiều, nhưng bây giờ em đã ngồi đây rồi, nhất là lúc này, gặp lại anh, lại ngồi trong phòng sách của anh em mình như những ngày xưa, em thấy như không có gì cực khổ đã đi qua trong đời mình cả.
Nàng nhìn quanh, vẻ xúc động:
– Như những ngày thanh bình mà bác và ba em còn sống, những ngày chủ nhật anh em mình ở Huế kéo nhau về đây và mọi người đang sửa soạn cho một ngày kỵ giỗ. Thật là tuyệt vời.
Huyên đứng dậy, vươn đôi vai bé nhỏ, phác một cử chỉ sung sướng, nàng vịn tay vào chấn song cửa sổ, nhìn ra ngoài, nàng nhắc lại: – Thật là tuyệt vời.
Lương ngồi yên, nhìn theo từng cử động của em, giọng anh trìu mến:
– Anh cũng có cảm tưởng y hệt như em vậy khi anh về từ ngoài ngõ, nghe tiếng em hát ở trong nhà. Thật vậy, lâu lắm anh hầu như quên mất trước kia chúng ta đã có những thời kỳ sung sướng như thế nào, khi nghe tiếng hát của em anh nhớ lại tất cả. Anh còn nhớ cái hôm em chạy qua rối rít gọi anh “Anh Lương, hãy qua xem em có con chim nghệ,” tiếng nghệ em kéo dài ra nhão nhoẹt, lúc ấy anh đứng sau vườn, nghe tiếng em anh buồn cười quá nhưng anh cứ đứng im không lên tiếng xem em làm gì nữa, chợt anh thấy em nín bặt, rón rén đi đến khóm hồng trước sân vuốt ve nâng niu một nụ hoa hồng mới nở thật đẹp, vừa hát nho nhỏ một mình. Khi ấy anh biết là em đã hoàn toàn quên mất cái chuyện đi tìm anh để khoe với anh con chim nghệ của em.
Huyên cười vang, tiếng cười của nàng thật vui:
– Ồ, giống như chuyện ông cọp đêm ba mươi ấy anh nhỉ?
– Ông cọp đêm ba mươi như thế nào?
– Anh không nhớ à, hồi nhỏ nhà hay kể chuyện cọp đi trên núi chứ ở dưới ruộng mình nói động đến nó là nó nghe hết, nó nghe nó bèn đi kiếm mình để ăn thịt, nhưng phải đến đêm ba mươi Tết nó mới có tài nghe được như vậy. Được cái đêm ba mươi trời tối quá cọp đi không thấy đường húc đầu vào cây, thế là cọp ta quên hết, lại phải trở về rừng lại vậy.
Lương cười:
– Thì ra em cũng là cọp đấy thôi, vừa ở trên rừng về chứ còn gì nữa. Anh thấy bây giờ lớn lên em vẫn không thay đổi gì cả. Vẫn dễ vui, dễ buồn, thích cái gì là làm cho bằng được, và có thể buông rơi tất cả bởi một ý nghĩ nhỏ nhoi nào đó. Cái hồi em xin ra học ngoài Hà Tĩnh anh lo ngại lắm, phải đi cả tháng trời trên núi mà từ bé em quen sống trong sự sung sướng làm sao mà chịu đựng được khổ cực dọc đường, và sự thiếu thốn ở miền kháng chiến, thế mà em vẫn nhất quyết đi, và em đã đi được thật. Bây giờ lại đùng đùng bỏ về, cũng làm một chuyến gian nan vô cùng, chỉ vì tự nhiên nhớ làng ghê gớm. Anh chịu em rồi đó.
Huyên quay lại nhìn anh:
– Ở trường em học có nhiều bạn bè trạc tuổi em, gia đình giàu có sung sướng hơn em nhiều, vậy mà họ cũng rời bỏ gia đình và thành phố đi ra ngoài đó. Có mấy anh em một người bạn gái của em, ông thân sinh ra nó hiện làm Thủ Hiến Trung Việt ở Huế, lừng lẫy sang trọng mà bạn em nó phải chịu ăn đói để đi học ngoài trường em đó anh ạ. Tất cả bạn học của em đều phải đi như em vậy. Chúng em phải qua những chiến khu suốt dãy Trường sơn, qua Liên U Ba Rền, qua những hang động cheo leo, những quốc lộ nguy hiểm, đi sát bên đồn bót của Tây, cực khổ lắm nhưng thú vị cũng nhiều anh ạ, y như một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mình xem trong các phim hồi nhỏ vậy đó.
– Có gì mà không đẹp đẽ thú vị đối với tưởng tượng của em đâu.
Huyên vẫn say sưa kể:
– Em đã đi qua động Phong Nha thật đẹp, thật huyền ảo, vào đó tưởng tượng như mình lạc vào một thế giới huyền hoặc nào đẹp quá để có thể là sự thật. Đến Quảng Bình, em đi qua một thị trấn rất thơ mộng, cảnh trí như trong các chuyện thời xưa, đó là Minh Cầm, cái tên tuyệt đẹp, phải không anh? Minh Cầm là thị trấn ở địa đầu vùng an toàn của Liên khu Tư, thị trấn nằm bên một giòng sông, rộng mênh mông, trên sông nổi lên những ngọn lèn, lèn là tiếng của người vùng đó để gọi những ngọn núi đá dựng lên cao vút như bức trường thành sừng sững giữa sông, cảnh trí thật hùng vĩ. Hai bên đường trước mặt dãy phố dọc bờ sông rặt một thứ cây ngô đồng, thân cây to lớn và bươm bướm bay rợp trời, khiến em bất giác nhớ lại những câu đồng dao của thời vua Ngô Phù Sai và Tây Thi thuở trước, giòng sông Minh Cầm nó còn đẹp hơn Ngũ hồ nhiều, em chắc thế.
Lương mỉm cười: “Em anh trở thành thi sĩ từ bao giờ thế?”
Huyên cũng cười theo anh:
– Làm thi sĩ làm quái gì anh, thi sĩ chán lắm anh ạ, cứ phải lải nhải hoài những điều không bao giờ làm cho họ thỏa mãn, em không muốn trở thành thi sĩ đâu. Để em kể tiếp anh nghe, đến Minh Cầm chúng em được đi goòng một đoạn đường đến một cái bến gọi là Đò Vàng. Goòng là một loại toa xe lửa trước kia còn sót lại, chạy bằng than có khi còn bằng sức đẩy của người để lấy đà qua những đoạn đổ dốc. Chúng em độ mươi đứa đi goòng nhằm đêm sáng trăng, khi chiếc goòng đổ xuống một vùng bình nguyên trắng xóa lau lách trong đêm, em nao nao chỉ muốn khóc, em nhớ những chuyến đi xe lửa từ trên đèo Hải Vân đổ xuống Lăng Cô hồi trước. Có những hạnh phúc mà khi đã qua mình mới biết là có nó, lạ thật anh nhỉ?
– Đó là điều mà con người thường hay nhận ra rất muộn màng, nhưng có vẫn còn hơn không em ạ. Em kể làm anh nhớ chuyến đò dọc trong những mùa trăng những năm về trước. Anh nhớ mỗi buổi chiều thứ bảy là mình ra bến Gia Hội, đò làng mình vẫn thường cập bến ở đó. Xuống đò nằm suốt đêm, sáng ra là đến bến làng mình, chơi cả ngày chủ nhật ở ngoài đồng, chiều lại nằm đò suốt đêm để sáng thứ hai có mặt ở Huế mà đi học. Nhớ lại mình đã trôi bồng bềnh suốt thời niên thiếu đi về trên sông qua phá Tam Giang từ Huế về làng, anh nhớ những giấc ngủ chập chờn trong tiếng hò mái nhì thâu đêm trên mặt nước lòa ánh trăng. Em có nhớ những câu hò mái nhì không em? Nó đã ru mình ngủ một thời tuyệt đẹp. Bây giờ những hình ảnh đó chỉ như truyện cổ tích, mới mấy năm mà tưởng xa lắm rồi em nhỉ.
Cả hai anh em cùng bùi ngùi yên lặng, một nỗi gì xa xôi, không rõ rệt như một thoáng bâng khuâng, như một niềm xa xót. Huyên nhìn vết trũng sâu trên đôi mắt người anh chợt thấy lòng mình chùng xuống.
Có tiếng người cười nói xôn xao ngoài sân, Lương đứng dậy: “Ai đến vào lúc này kìa, để anh ra xem thử ai đó.”
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:41:52 GMT -6
CHƯƠNG XIII
– Cái thằng trông bộ điệu dáo dác thế kia, mày lo tìm bầy gà tơ đấy hẳn? Hãy bỏ cái bộ tịch đói khát đó đi, hãy tỏ ra là một người đàng hoàng xem nào.
Hồ trả đũa ngay: “Có mày mọi rợ thì có, đi tới nhà ai là chỉ lo nghĩ tới chuyện ăn thôi, đi thăm anh Lương mà cứ nghĩ tới bầy gà tơ, không biết ngượng. Hãy tỏ ra đứng đắn tí nào, trước mặt tao mày phải đi đứng cho tử tế nghe không.”
Hoàng làu nhàu:
– Mấy thằng quỷ này, cãi vã nhau cả ngày, nghe nhức óc, khi nào cũng như những đứa trẻ con, đừng làm tao nổi xung lên nghe.
Chưa ra đến sân Lương đã nghe tiếng Hoàng, Bửu, Hồ, Phong cãi nhau ỏm tỏi. Lương mỉm cười, cảm thấy vui vui; các ông tướng đây rồi. Anh bước ra sân vừa gặp Huỳnh, Lương vui mừng ôm lấy bạn:
– A, Huỳnh, anh đã lành rồi sao, đi được rồi đấy à?
Huỳnh siết tay Lương: “Tôi đã trở về đơn vị, hôm nay chủ nhật, các ông ấy rủ kéo nhau qua thăm anh chị đây, ý là các ông ấy muốn nhắc nhở câu mời hấp dẫn của anh tháng trước đấy mà.”
Lương vui vẻ: “Tốt lắm, xin mời cả vào đây. Đây là Huyên, em họ của tôi. Từ ba năm nay Huyên học ở Liên khu Tư, vừa mới về đây hôm qua, sáng nay anh em tôi mới gặp lại nhau đấy.”
Lương lần lượt giới thiệu các bạn với em, mọi người chào hỏi nhau xong, Huỳnh hỏi:
– Chị và các cháu đâu rồi anh?
Lương cười buồn: “Hôm tưởng là ngày buồn lắm vậy mà hóa ra vui. Sáng sớm nay tôi đưa Hà và hai cháu đi Huế. Cháu Cao bị đau, nó cứ mòn dần đi. Hà được phép đưa hai cháu vào Huế chữa kẻo ở đây không đủ phương tiện. Vợ con đi rồi tôi buồn quá, đi lang thang một lúc, định về qua nhà dặn dò một chút rồi qua ở lại với anh đêm nay, ai ngờ về đến nhà thì gặp Huyên rồi tiếp đến bây giờ có anh và các chú nữa. Tất cả mọi người đều đến với tôi đúng lúc quá.”
Huỳnh chép miệng: “Thôi thế cũng hay, để chị ấy đưa cháu đi cho qua một lúc, chứ ở đây cứ nơm nớp chạy giặc mãi, mình đàn ông không nói làm gì chứ đàn bà trẻ con thấy tội lắm.”
Hoàng gật đầu tán thành:
– Vâng có thế thật, thấy cảnh anh Lương bây giờ tụi em nghĩ mà sợ, trời đất kháng chiến này chắc không bao giờ tụi em dám nghĩ đến chuyện vợ con đâu.
Lương cười xoà:
– Hãy cứ biết thế, có chắc gì đâu, người ta nói một đàng làm một nẻo là sự thường đấy nhé. Các cụ ngồi chơi nhé, tôi đi dặn qua người nhà làm cơm trưa nay, họp mặt đông đủ như thế này phải có gà mới được. Hôm nay mừng em Huyên vừa đi xa về nhà và anh Huỳnh vừa bình phục. Thật không ngờ mà vui quá. Huyên kể chuyện Khu Tư cho các anh nghe đi em, anh xuống nhà một tí anh lên ngay.
Lương ra khỏi phòng, Huỳnh nói với Huyên:
– Trông Huyên gầy yếu thế mà đi được từ ngoài kia vào đây, phải đi cả tháng trường, làm sao Huyên đi nổi?
– Vâng, hồi em mới rời gia đình đi ra ngoài ấy cách đây ba năm thật là cực khổ vất vả với chuyến đi đầu tiên ấy, bây giờ thì cũng quen chịu đựng rồi anh ạ.
– Tôi nghe anh Lương nhắc đến Huyên luôn, Huyên về đây đã được tin tức gì về gia đình Huyên ở trong thành phố chưa?
– Em mới vừa về hôm qua, chưa hỏi thăm được tin tức gì của mẹ và các em của em cả. Gia đình em ở mãi trong Hàn chứ không phải ở Huế, nên tin tức cũng khó khăn lắm.
Phong xen vào:
– Huyên kể chuyện đi học ở ngoài Khu Tư cho chúng tôi nghe đi nào, kể chuyện qua Liên U Ba Rền cho bọn này nghe với, xem có kinh khủng như người ta thường tả không nào.
Hồ tỉnh bơ quay mặt nhìn ra sân, hát khe khẽ:
“Trèo đèo Ba Rền Băng qua Nhã Nam Vui lên đi tươi cười nụ cười gian nan, Nghe đâu đây Liên U Nơi chân chồn mỏi gối Đường trường xa lắc, còn đi mấy ngày…”
Phong quay lại, trừng mắt:
– Cái thằng quấy hoài, có im đi cho người lớn nói chuyện không mày?
Huyên cố nhịn cười:
– Anh ấy hát đúng đấy, vâng, Huyên đã đi ngang qua Ba Rền rồi đấy ạ. Đó là một đỉnh núi khá cao mà người ta phải vượt qua trong cuộc hành trình ra vào Liên khu Tư. Nghe mọi người truyền miệng thì cũng ghê gớm lắm, bởi vì dọc theo con đường trèo lên núi có vài nấm mộ rải rác bên đường. Người ta thêu dệt rất nhiều chuyện khủng khiếp chung quanh những nấm mồ vô danh đó. Nhưng theo Huyên thì Huyên nghĩ rằng đó là những người bị chứng đau tim hay bị cảm sốt dọc đường nên họ không chịu đựng nổi một cuộc leo núi, thế thôi. Với những người bình thường thì Ba Rền không có gì ghê gớm cả, chỉ mất nửa ngày để leo lên đỉnh núi và nửa ngày còn lại để trụt xuống chân núi bên kia; lại còn cái thú khi lên tới đỉnh núi bỗng thấy mình đứng trên một biển mây, lần đầu tiên khi nhận thấy thế Huyên kinh ngạc và vui sướng vô cùng. Theo Huyên thấy thì trong một thời thanh bình nào đó, mọi người cũng cần có những cuộc đi núi như thế trong những dịp hè, cũng là điều thích thú và bổ ích lắm đấy chứ.
Bửu gật gù:
– Thế là Huyên vừa qua một cuộc leo núi mùa hè này đấy.
– Vâng, có lẽ cứ xem như thế nó lại bớt tính cách gian nan trầm trọng hơn.
Lương đã trở lại ngồi bên Huỳnh từ lâu, anh nhìn em gái bằng đôi mắt trìu mến:
– Em vẫn không bỏ cái tính lạc quan hóa mọi vấn đề, anh thấy chuyện gì cũng khiến em trầm trồ thích thú, cả những chuyện khiến người khác bực mình, với em bao giờ nó cũng đâm ra hay hay.
Hoàng hỏi: “Như thế chắc Huyên không biết buồn đâu nhỉ?”
Huyên cười, đôi mắt chợt im vắng, tiếng nàng nhẹ nhàng: “Vâng, có lẽ thế.”
Người nhà mang lên một ấm nước chè. Huyên đón lấy, đến bên kệ tủ lấy mấy chén con rót nước ra chén, mang đến từng người. Bửu đón lấy chén nước từ tay Huyên, chàng ấp chén nước ấm nóng trong lòng bàn tay, nhắm mắt hít mùi nước chè xanh có bỏ gừng tỏa ra thơm ngát cả căn phòng.
– Cám ơn Huyên, lâu lắm tôi mới được uống nước chè trong một cái chén xinh nhỏ như thế này, và lại do tay một người khác đưa mời. Thường thì tụi tôi chỉ uống nước trong cái ca bằng nhôm múc nước từ trong một cái vại, mà nếu chậm chân chậm tay là hết.
Hồ liếc xéo Bửu:
– Thằng này lại giở trò tiểu tư sản ra rồi. Huyên biết không, nó dòng vua, cái giống đế quốc phong kiến ấy mà. Đi kháng chiến mà bao giờ cũng mơ mơ màng màng cứ tưởng như mình là ông hoàng như thời trước. Đêm nào trước khi đi ngủ nó cũng làm cái trò như thế này, nó hô: “Hai tay” – “Dạ” – “Làm giường cho cậu ngủ,” thế là hai tay ông ấy lo kê một tấm ván hay quơ một đống rơm vun lại làm chỗ nằm; khi nằm vào chỗ ngủ rồi, ông ấy lại hô: “Hai tay” – “Dạ” – “Đắp mền cho cậu,” xong ông ấy mới thò hai tay kéo chăn lên trùm kín đầu đánh một giấc ngon lành, cứ y hệt như là ông hoàng ấy thôi.
Mọi người cười vang, Bửu quay lại sừng sộ với Hồ:
– Mày chỉ được tài nói người khác, còn cái thứ mày đi kháng chiến mà lúc nào cũng lo kỳ cọ hai bàn chân với hai bàn tay trắng nõn như tay con gái thì sao, xin quý vị cứ nhìn tay chân nó thì biết, cứ gọi cách mạng vô sản vùng lên họ chặt tay chân của mày trước hết.
Mọi người cùng quay lại nhìn Hồ, quả nhiên tay chân của Hồ trắng múp như tay chân con gái thật, Hồ càu nhàu Bửu:
– Trời sinh ra tao như rứa, mi ghen sao?
Tất cả lại cười vui, mọi người đều cảm thấy thoải mái, bọn Hoàng vui vì sự có mặt của Huyên trong buổi họp mặt này như một bóng mát nhắc nhở họ nhớ lại những năm thanh bình ở trong thành phố của họ, ở đó họ có những người chị, những người em gái, bạn gái hay người yêu đã dành tất cả sự thương mến nuông chìu cho họ, đã lâu lắm rồi họ không còn được ai thêu cho một cái khăn hay cái áo gối, đan cho một chiếc áo, làm cho vài thức bánh hay đưa mời một chén nước trà chẳng hạn. Những thói quen cam khổ hiện thời làm cho họ dường như không còn nhớ rằng đã có những điều đó trong đời.
Buổi trưa hôm nay mọi người vui vầy họp mặt trong thư phòng của Lương mà những kệ sách đã gần như trống rỗng không còn gì nữa, những chiếc trường kỷ, bộ bàn ghế bằng gỗ trắc, những cái tủ, tất cả đều được chạm trổ tinh vi lên nước đen bóng có khảm những miếng xa cừ ngũ sắc, những chiếc rui, xà cột nhà to lớn cũng đều được chạm hình long ly quy phượng. Khung cửa sổ màu xanh mở ra khu vườn cây rợp mát phía sau tỏa hắt vào phòng một ánh sáng trong trẻo xanh lơ. Căn phòng tuy không tránh thoát vẻ trần trụi điêu tàn dấu vết của chiến tranh, vài vết đạn xẹt qua mũi chiếc đầu rồng trên cái xà ngang to nhất, chiếc trường kỷ kê ở góc trái bị đạn cày thành một đường trũng để lộ màu gỗ chân hương trắng toát, tất cả đều phủ một lớp bụi mỏng tỏ ra không được săn sóc tỉ mỉ như xưa, nhưng những cái đó gây ấn tượng vang bóng một thời êm đềm vàng son nhất. Sự có mặt của Huyên, người con gái mảnh mai với làn da xanh xao dáng vẻ học trò, hồn nhiên vui vẻ trong ánh mắt nụ cười trong khung cảnh này khiến bọn Hoàng tưởng như mình đang sống lại cả một thời yên vui thuở trước.
Đột nhiên, một sự yên lặng bao trùm tất cả.
Buổi trưa ở miền quê chợt lắng đọng, nghe thật xa tiếng hò của một người thợ cấy buồn não nuột. Nền trời ngoài kia trong vắt không gợn mây, nhưng từ phía cánh đồng xa chạy dài đến tận giòng sông bốc lên một lớp hơi mờ dị hoặc, làm chìm xuống ngọn nắng hanh hao của buổi chớm thu, một màu vàng óng chuốt lung linh tỏa khắp không gian. Từ trong căn phòng im mát này nhìn ra, người ta có cảm tưởng như mình đang được bao bọc bởi những tơ vàng rực rỡ.
Tiếng cười của Huyên trong vắt:
– Sao tự nhiên mọi người yên lặng cả thế?
Huỳnh trỏ bọn Hoàng:
– Mấy ông tướng này có mấy khi ngồi yên vậy mà bây giờ ngồi mặc niệm như thế kia là vì các ông ấy bị ngợp vì cảm thấy hạnh phúc quá trong hiện tại này đấy thôi. Tôi nói có đúng không các cụ?
Hoàng mỉm cười: “Chịu anh rồi đấy, – giọng chàng chợt trở nên bâng khuâng – sao lại có những thời khắc lạ lùng như thế này nhỉ? Mình có cảm giác đầy đủ quá đến nỗi đâm ra lười biếng, không muốn nghĩ gì, nói gì nữa hết.”
Bửu mỉm cười quay sang Huyên:
– Hoàng nói đúng đấy. Huyên biết không, chiều nay khi bọn này rời khỏi đây trở lại nơi trú đóng, lại phải mang cà mèng, ca, muỗng loảng xoảng ra đứng giữa sân chờ hỏa đầu vụ phát cơm, nhận phần của mình xong phải lo đớp cho thật nhanh chứ nếu ăn nhấm nháp chậm rãi sẽ bị phê bình là tiểu tư sản. Tiểu tư sản được coi như đồng nghĩa với phản quốc, là đi theo Tây, giết hại đồng bào, có thể hiểu nôm na làm vậy. Sau khi ăn cơm là buổi họp kiểm thảo việc làm và tác phong của mình trong ngày, phải nặn óc moi cho ra một lỗi nào đó của mình để xung ra, nếu không sẽ bị phê bình là mang bệnh tự mãn, tự kiêu, không hề thấy mình có lỗi. Lại phải xoi bói moi móc cho ra một lỗi nào đó của đồng đội để phê bình họ, nếu không sẽ bị cho là không có thiện chí xây dựng cho đồng đội. Kế tiếp, là thảo chương trình hoạt động cho ngày mai. Cái ngày mai ấy cũng lại sáng làm việc, trưa họp, chiều làm việc, tối họp, và cái vòng lẩn quẩn cứ y như thế đều đều. Chúng tôi phải luôn luôn tự dằn vặt để tìm cho ra tư tưởng xấu và hành động sai của mình cũng như phải xét nét tìm tòi những điều tương tự ở anh em đồng đội tối ngày, không bao giờ được yên ổn thoải mái cả. Vì thế, giây phút này, khung cảnh này, những khuôn mặt bạn bè này đã mang lại cho chúng tôi cảm giác bình yên, thư thái vô cùng. Chúng tôi không được thấy lại tưởng như nhiều năm lắm rồi.
Hồ lại quay mặt đi chỗ khác, ngâm nga:
“Ở đây tai vách mạch rừng…”
Bửu ngoảnh lại, trừng mắt:
– Cái thằng này phá đám hoài, không để người lớn nói chuyện cho yên. Mày sợ hả, tao thì lâu lâu phải nói ra cho nó hả một chút, kháng chiến còn trường kỳ mà, cụ dạy thế mày không nhớ sao?
Hồ nói chậm rãi:
– Đồng ý với mày, nhưng mọi sự nó là vậy, ở đâu cũng thế chứ không riêng gì trong bộ đội chúng mình đâu. Mày hỏi Huyên xem ở trường Huyên theo học ngoài kia có như vậy không?
Huyên gật đầu:
– Không khác gì đâu các anh ạ. Không khí học đường lẽ ra phải được vô tư hồn nhiên nhưng Huyên và các bạn học cũng phải sinh hoạt y như các anh vậy thôi.
Huỳnh mỉm cười khoan hòa:
– Chúng ta không nên làm hỏng mất bữa cơm trưa đầy hứa hẹn sắp tới bằng những câu chuyện buồn thảm như thế, có phải vậy không anh Lương?
Như để trả lời Huỳnh, người nhà lên báo cơm đã được dọn xong, Lương đứng dậy tỏ vẻ hài lòng:
– Anh Huỳnh nói rất trúng, nào, chúng ta hãy đi ăn, mong rằng bữa cơm sẽ ngon cho quên bớt đắng cay trong cõi đời này vậy.
Bữa ăn có măng kho với thịt cò, mùa mưa ngoài ruộng đầy tôm tép và cá đồng nên thịt cò thơm phức và béo ngậy. Những miếng măng trắng ngần nằm lẫn với những thỏi thịt cò săn sắt ngập trong chất nước ngọt ngào trong bóng, bên trên có rắc hạt tiêu, một nhánh ngò xanh tươi mơn mởn vắt ngang trên chiếc tô tráng men có vẽ hình hai ông tiên đánh cờ, nét mặt tiên ông ngẩng lên trong một thần thái ung dung nhàn tản. Bên cạnh là một dĩa thịt gà xé bóp rau răm, những thớ thịt gà trắng muốt trong những lớp da màu vàng mỡ điểm những sợi rau xanh nom thật khỏe mắt và hứa hẹn nhiều cho vị giác. Lại có cá đồng kho với riềng, những con cá nhỏ bằng ngón tay tròn trĩnh vàng óng bên những cọng riềng màu ngà tỏa lên một hương vị đằm thắm hiển hiện những mặt nước cánh đồng dâng khói mùa thu. Và sau hết là món canh chua nấu măng giang với cá ngạnh nguồn, mùa nước lên, cá ngạnh từ trên nguồn kéo về đồng gặp nhau xây mùa tình ái nên con nào con nấy căng đầy bụng trứng vàng tươi óng chuốt giữa những sợi măng trắng, có những hạt mỡ ớt nổi lên long lanh đỏ trên tô canh bốc khói nghi ngút.
Bữa cơm ngon lành và thật là đẹp mắt, được nấu nướng bởi những bàn tay khéo léo của những người đàn bà miền quê Thừa Thiên.
Trong đời sống kháng chiến những bữa ăn như vậy rất hiếm hoi. Căn bếp đầy mùi khói nồng nàn của rơm rạ, người đàn bà quê mùa ngồi quay mặt vào bếp quơ từng nắm rơm đun dần vào lò, lửa nhảy múa vờn liếm trên chiếc ấm nấu nước, tiếng nước sôi reo nghe vui tai, một ngày đầm ấm như trong giấc mơ của một thời thanh bình nào đó.
Hiện tại bỗng xa vời như một bóng mây trôi.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:44:35 GMT -6
CHƯƠNG XIV
Trong lúc mọi người nói chuyện, vui đùa giữa bữa ăn, Lương bỗng sực nhớ, anh hỏi Huỳnh:
– Sao lâu quá tôi không thấy Trần về nhỉ, lâu không gặp lại đâm ra nhớ. Giá bữa cơm hôm nay mà có Trần thì thật là vui hoàn toàn.
Gương mặt Huỳnh thoáng qua một chút u ám:
– Trần vừa đi dự lớp chỉnh huấn về gần một tháng nay, tôi nghe tin Trần bị đau nặng lắm, không biết đã khỏi chưa. Tôi vừa trở lại đơn vị, công việc sắp đặt chưa yên. Có lẽ phải đến tháng sau tôi mới đi công tác về trên ấy để đi thăm Trần luôn thể.
Hoàng chép miệng:
– Cũng khó mà chịu đựng nổi những điều như anh Trần đã trải qua, anh ấy đau nặng là phải.
Lương vốn ít biết tin tức trong giới những người kháng chiến nên anh hỏi:
– Có việc gì xảy ra cho Trần thế?
Huỳnh vắn tắt kể lại cho Lương nghe chuyện Trần đi công tác tình cờ chứng kiến vụ công an xử tử một cô gái ra sao, và người cán bộ công an chỉ huy vụ hành quyết đã dùng cô gái để thí nghiệm ba mũi tên tẩm thuốc độc của người thiểu số cho y ra sao, Huỳnh nói tiếp:
– Việc đó đã làm cho Trần điên đảo, xưa nay nó vốn cả lòng tin, nó mang một ý thức tốt đẹp toàn vẹn về đời sống chiến khu và không khí kháng chiến. Nó yêu đời và yêu người, nó yêu cả kẻ thù khi đã ngã xuống nằm trên trận địa. Có lần tôi và nó gặp nhau giữa trận Thanh Bồ, khi tiếng súng đã im, quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường, chúng tôi đi ngang qua một khe nước trông thấy xác một thằng Tây nằm vắt qua một cành cây mục, hai tay thòng xuống nước, mình mẩy trần truồng, chứng tỏ nó đã bị lính của ta lột sạch, việc đó là thường. Tôi định đi thẳng nhưng Trần kéo tôi lại xin tôi phụ với nó khiêng xác thằng Tây đặt lên một mô đất cao ráo, cho toán thu dọn chiến trường dễ tìm thấy. Thằng Pháp có hững vòng tóc vàng hoe xõa rối trên vầng trán, khuôn mặt thật trẻ trung. Trần vuốt mắt, sửa tay chân cho nó thật ngay ngắn, đoạn nó đi bẻ một cành lá bội đắp lên chỗ trần truồng của xác chết, vừa làm mọi việc đó nó vừa nói thì thầm như thằng kia có thể nghe được nó: “Cái áo tao đang mặc là của quân đội tao phát cho, khi nào tao không đi lính nữa phải trả lại quân đội, vì thế tao không thể cởi ra đắp cho mày như lòng tao mong muốn được. Đồng đội tao nó lột mày trần như nhộng mày đừng giận làm gì, chúng nó nghèo, chúng nó cũng khốn khổ như mày, như tao vậy, đứa nào cũng trẻ trung, cũng yêu đời, đứa nào cũng còn cha mẹ, anh em, chị em, người yêu, bạn bè chờ đợi ở nhà, vậy mà cả lũ kéo nhau đến đây bắn giết nhau bằng thích. Đời nó xui khiến ra như vậy, cuộc đời chó chết lắm, mày thấy không, nhưng mày đã yêu nó, tao cũng yêu nó, yêu quá đỗi đến nỗi bị nó xui khiến cho phải xông ra chém giết nhau. Mày chết thật phi lý, tao mà chết cũng vậy thôi, hỏi quê hương mày, quê hương tao sẽ hưởng được những gì từ cái chết của mày, của tao? E rằng cả mày và tao, chúng ta đều không kịp biết đâu mày ạ.”
Huỳnh ngừng lại ngẫm nghĩ một chút, anh mỉm cười tiếp:
– Rồi nó chỉ mặt thằng Pháp nằm yên như say ngủ, bảo tôi: “Cái mặt thằng Pháp này phải sống để làm thi sĩ phải không mày, mày xem, vầng trán cao, rộng mênh mông xanh ngắt, vòng tóc vàng xõa rối thật lãng mạn, nét mặt thanh cao, chết mà con tươi rói, nó còn có vẻ thi sĩ hơn mày, hơn tao nữa. Nói cho cùng thì cái chết của nó cũng đẹp đấy chứ, trả lại thế gian tất cả những thứ đã khoác lên mình nó, áo quần, vật dụng, tên tuổi, chỉ còn lại chính nó mà thôi. Thì khi cha mẹ nó sinh ra, nó đã trần truồng mà chui ra, bây giờ đời có tước đi tất cả thì nó lại vẫn trần truồng, coi như huề vốn, có mất mát gì đâu mà buồn. Bây giờ nó nằm đây, bên khe ngọc tuyền, có hai thằng lính thi sĩ Việt Nam vuốt mắt nó, đắp lên mình nó nhành lá cây đã từng tô điểm phong cảnh quê hương Việt Nam. Đáng ra phải quấn cho nó bằng một lá cờ, nhưng nghĩ cho cùng, một nhánh lá cây giữa trời đất vẫn hơn, mày nghĩ sao?”
Lương bật cười:
– Ông ấy lếu láo thật, như thế chẳng trách gì, khổ thân là phải.
Hoàng nói:
– Tôi nghĩ tếu như thế mà có thể là đảng viên Cộng sản cũng lạ thiệt.
Huỳnh nhăn mặt:
– Thì tất cả mọi trái ngược đó vây hãm lấy nó, đang làm nó dở sống dở chết kia. Nó làm tôi lo ngại vô cùng.
Huyên tự nãy giờ yên lặng chăm chú theo dõi câu chuyện, đôi mắt nàng sáng lên vẻ hiếu kỳ mãnh liệt, bây giờ mới buột miệng nói:
– Người như thế mà là đảng viên sao, lạ nhỉ, như vậy thì không giống một cái khuôn tí nào, em mới nghe lần này là một đấy.
Phong hỏi:
– Huyên nói gì mà một cái khuôn?
Lương cười giải thích:
– Huyên nó bảo những đảng viên họ như cùng một cái khuôn đúc ra, rập nhau từ dáng điệu cho đến cách phát biểu tư tưởng, đi một chiều, không bao giờ thay đổi.
Bửu gật gù nhìn Huyên, giọng nói cố ý kéo dài:
– Một ví dụ khá đấy, có lẽ lại chính xác không chừng, cần xét lại cho kỹ, nghe.
Hồ lại sừng sộ:
– Mày bỏ cái giọng mệ của mày đi cho tao nhờ, cứ tưởng mình là vua hoài.
Hoàng quay sang, giọng đe nẹt:
– Mấy thằng này hễ người lớn nói chuyện là cứ chộn rộn hoài, tao đập cho một trận nên thân bây giờ.
Mọi người cùng cười nhưng bầu không khí chợt trở nên buồn tẻ, không còn vui vẻ nữa, như có một đám mây vừa giăng qua, bao trùm lên số phận con người.
Sau bữa ăn, trong khi Hoàng, Bửu, Hồ, Phong và Huyên ra ngồi nói chuyện dưới hàng hiên, Lương và Huỳnh vào phòng sách, hai người ngồi hút thuốc bên nhau, yên lặng một lúc lâu.
Huỳnh gạt tàn thuốc vào một cái dĩa, vẻ trầm ngâm cất tiếng, nói chậm rãi:
– Anh để chị mang cháu đi là phải. Có lẽ rồi đây sẽ có nhiều biến chuyển mới, chưa biết ra sao. Nhưng chắc chắn là đời sống sẽ càng ngày càng khó khăn nhiều. Nhất là đối với những gia đình như gia đình anh.
Lương thở ra:
– Tôi hiểu, tôi đã định cho vợ con đi từ lâu rồi nhưng cứ nấn ná mãi cho đến nay, nhân cháu Cao đau nặng nên mới giải quyết được việc đó. Dù sao cũng khổ tâm lắm anh ạ, từ hồi nào đến bây giờ Hà và hai cháu đã quen có tôi ở bên cạnh rồi, vui buồn có nhau, xa nhau lần này là lần đầu, không biết sẽ ra sao, mình người lớn không nói gì chứ trẻ con nó nhớ thì tội lắm.
– Dù sao chị và các cháu vào trong ấy đã có hai bác, anh đừng lo. Nghĩ cho cùng, lêu bêu như tụi tôi mà lại hay, có gì thì chỉ chịu một mình, không làm khổ lụy đến ai hết, không để ai phải lận đận với mình.
– Đôi lúc tôi cũng nghĩ như thế, nhưng phần tôi chậm mất rồi. Như anh và Trần thì có thể thong thả chờ cho hết chiến tranh rồi lập gia đình của không muộn.
– Tôi thì chẳng nói làm gì, có hết chiến tranh cũng thế thôi, chắc gì người yêu có thể chờ đợi mình mãi, hết cả cái xuân xanh đi mất, hơn nữa chắc mình cũng không nỡ để ai chịu khổ vì mình. Thằng Trần nó cứ cằn nhằn tôi khó tính, ở bẩn, lấy vợ thêm tội cho vợ mà thôi. Còn Trần thì chắc sắp lo chuyện vợ con rồi đấy, mẹ Trần đã kén được con dâu rồi, gia đình Trần nhờ tôi gọi nó về vì chuyện ấy đấy, – Huỳnh mỉm cười – cứ tưởng tượng tôi cũng biết trước nó sẽ nhăn nhó bực bội như thế nào rồi.
– Sao vậy, Trần không thích cô ấy à?
– Không phải vậy, nhưng anh nghĩ hoàn cảnh tụi tôi bây giờ mà tính chuyện lấy vợ nó thất sách quá, lấy rồi bỏ người ta đó mà đi biệt à?
– Mẹ Trần nhắn sao?
– Bà Thị, cô ruột Trần vừa đi Huế về, mẹ Trần nhắn Trần cụ sẽ cho hai cô cháu gái về thăm Trần, một cô là cháu ngoại của cụ gọi Trần bằng cậu ruột, còn cô kia là con người chị của anh rể Trần, cha mất sớm, mẹ lấy chồng gởi cô bé cho anh chị của Trần nuôi hộ, vì thế cô ta ở với gia đình Trần từ ngày còn bé. Hiện giờ anh chị Trần đổi vào Sàigòn, để Thương, tên cô bé, ở lại với mẹ Trần đi học với Thể My là cô cháu của Trần. Theo bà Thị kể thì Thương năm nay đã được mười bảy tuổi, rất xinh đẹp nết na, mẹ Trần thương lắm, cô ta quấn quýt mẹ Trần, xem cụ như mẹ ruột, có lẽ vì thiếu tình cha mẹ nên cô bé tìm thấy người mẹ nơi bà cụ của Trần. Vì vậy mà mẹ Trần quyết định nhắm hỏi cưới cho Trần. Bà Thị nhờ tôi nhắn Trần bao giờ về được cho bà biết để bà lên Huế đón hai cô bé về. Số là các cụ muốn đôi trẻ chúng nó gặp nhau, ra cái điều các cụ để toàn quyền cho con cái đấy mà, lắm chuyện thế đấy.
Huỳnh kéo dài giọng pha trò khiến Lương bật cười:
– Trần có biết qua về việc này chưa?
– Rồi, chuyến Trần về thăm tôi vừa rồi bà Thị đã nói cho Trần biết ý mẹ rồi.
– Thế Trần bảo sao?
– Nó coi như chuyện không có gì quan trọng, nó cho đó như một ý nghĩ ngộ nghĩnh hay hay của cụ, nói để mà nghe mà thôi. Phen này mà nó nghe cụ nhắn bảo về gặp cô bé thật sự chắc là nó phải ngã ngửa.
– Xem ý Trần có mến cô ta không?
– Nó bảo nó coi cô bé như cháu của nó là Thể My, con của anh chị của nó vậy, vì cô bé sống với gia đình nó từ hồi còn bé tí, và cũng gọi nó bằng cậu như con bé Thể My, ngày nó đi ra kháng chiến cô bé mới mười bốn tuổi.
Lương chép miệng: “Nếu mẹ Trần nhất quyết muốn thế thì Trần cũng khó mà cưỡng lại được, cụ đã già quá mà Trần lại là con trai một. Kể cũng hay, giữa Trần và cô bé đã có mối giây liên hệ gia đình, đi đến chỗ hòa hợp nhau cũng không có gì khó.”
– Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.
– Bao giờ anh đi trên ấy?
– Có lẽ tháng sau.
– Anh bị thương mới về còn yếu mà họ đã cử anh đi công tác ư? Anh liệu trong mình anh đấy, chứ đi đường núi mùa này vất vả lắm, mưa hoài, người còn yếu dầm mưa thật là không nên đâu.
Huỳnh nhếch môi:
– Không sao đâu anh, tôi chỉ e không làm kịp những việc phải làm mà thôi. Việc đi công tác là do tôi muốn đi, vì ngoài công việc và ghé thăm Trần bị đau, tôi còn phải hoàn tất một việc cần thiết. Đó là tôi sẽ xin tỉnh chuyển về trung ương cho tôi bản điều trần của tôi thỉnh cầu sửa đổi việc cải cách ruộng đất.
– Bản điều trần đó như thế nào? – Lương hỏi vẻ chăm chú và trong đôi mắt trầm tĩnh của anh thoáng qua một chút lo âu bất nhất.
– Trong những ngày nằm chờ vết thương kín miệng, tôi đã làm việc ngày đêm để hoàn thành bản điều trần đó. Tôi thấy thời gian quá gấp rút. Chắc anh cũng đã nghe nói đến vấn đề cải cách ruộng đất do trung ương chính phủ đề ra. Cán bộ ta ở các cấp đã học tập lâu nay, những ngày sắp tới sẽ có những đoàn cán bộ đi đến các địa phương sống chung với đồng bào để phát động phong trào này. Hẳn anh đã đọc qua những tài liệu về cuộc cách mạng về cải cách ruộng đất của Trung Hoa cùng những cảnh đầu rơi máu chảy kinh hồn của nó. Theo nguyên tắc thì cách mạng là phải có đầu rơi máu chảy, cấp lãnh đạo kháng chiến của ta đã đi theo công thức đó. Dù sao nhân dân Trung Hoa đã nếm trải kinh nghiệm ấy trước húng ta, theo chỉ thị của Bắc Kinh, trung ương lãnh đạo kháng chiến của chúng ta đã bắt đầu thi hành chính sách ruộng đất rập theo khuôn mẫu của cách mạng Trung Hoa. Trong bản điều trần tôi muốn trình bày quan điểm của tôi về vấn đề này, tôi nghĩ rằng dù nó có không đi đến đâu nhưng tôi cũng đã gióng lên một tiếng vang nhỏ nhoi nào đó cho hết phận làm người của mình.
– Xin anh tóm tắt nội dung cho tôi nghe.
– Tôi muốn nói rằng vấn đề cải cách ruộng đất đã đề ra quá sớm đối với hiện tình đất nước của chúng ta. Ở Trung Hoa, người ta thực hiện cuộc cải cách ruộng đất trong khi xứ sở của họ đã có chủ quyền, chính phủ và nhân dân họ không phải lo việc chiến tranh chống ngoại bang. Họ rảnh tay đối phó với bên ngoài và dồn hết tiềm lực để thanh toán bên trong. Vì thế cho nên với một nước Trung Hoa rộng lớn và một dân số khổng lồ, cuộc cải cách ruộng đất của Trung Hoa tuy mang lại bao cảnh sinh linh đồ thán, nhưng không bị ảnh hưởng đến sự mất còn của Tổ quốc họ. Hiện trạng đất nước ta trái lại, chúng ta là một dân tộc nhược tiểu đang lâm vào một cuộc chiến tranh chống xâm lăng, chúng ta phải đánh nhau với một ngoại bang thuộc vào hàng cường quốc trên thế giới. Dân tộc ta đang trải qua một cuộc thử thách hiểm nghèo một còn một mất với kẻ thù bên ngoài. Dĩ nhiên mọi tiềm lực của nhân dân đều phải dồn về trọng tâm chống Pháp. Như vậy cuộc cải cách ruộng đất được đề ra trong giai đoạn này sẽ không tránh khỏi làm cho nhân tâm phân tán, tài sản của dân sẽ bị lụn bại trong cơn khủng hoảng của sự thay cũ đổi mới. Song song với cảnh tàn phá chết chóc của chiến tranh, cảnh đấu tố tiêu diệt giai cấp sẽ xảy ra và chúng ta phải mang thêm gánh nặng xương máu của cuộc đấu tranh tương tàn nồi da xáo thịt sẽ còn khủng khiếp gấp ngàn lần tai họa chiến tranh. Sự diệt vong có thể thấy trước mắt vì đó. Một khi nhân tâm đã bị phân tán chia rẽ bởi giai cấp này giai cấp nọ tiêu diệt lẫn nhau, tình trạng đó gieo rắc khắp nơi sự nghi kỵ vu khống, thù ghét, oán hận do đó sự nhất tâm chống giặc cứu nước sẽ bị tan rã mau chóng. Ngoại bang sẽ nắm lấy cơ hội mà xâm nhập và chi phối nội tình của ta. Những bằng chứng trước mắt về sự rập khuôn theo những chính sách của Trung Hoa và Nga Sô để áp dụng trên mảnh đất nhỏ bé lầm than này cho ta thấy trước một hình thức đô hộ mới mẻ hơn, tân kỳ hơn, và cũng tàn khốc hơn nữa. Đó là sự đô hộ về tinh thần và ý thức hệ, ngàn lần kinh khủng hơn những hình thức đô hộ từ xưa đến nay nhiều. Nó tương tự như một cuộc bán linh hồn cho quỷ Satan.
Huỳnh đã ngừng nói, Lương vẫn còn nín lặng, anh nhíu mày, nhìn theo đàn kiến đen bò lên tường, làm thành một vệt đen dài ngoằn ngoèo xao động, làm như nhìn đàn kiến di động anh có thể tìm hiểu được đích xác cái gì mà anh linh cảm được trong khi nghe bạn nói. Huỳnh nhìn Lương, bắt gặp vẻ mặt tư lự suy nghĩ của bạn.
– Tôi biết anh nghĩ gì, có phải anh nghĩ rằng liệu người ta có cứu xét ý kiến của tôi không chứ gì?
Lương gật đầu, Huỳnh định nói nhưng Lương đưa tay ngăn lại:
– Không phải tôi chỉ nghĩ có thế mà thôi đâu. Tôi còn nghĩ rằng liệu anh có lường được hậu quả của việc làm này hay không? Anh có nghĩ đến thái độ của những cán bộ chính trị lãnh đạo cơ quan đối với anh từ lâu nay ra sao không? Chắc anh còn nhớ mới đây anh bị thương trong trận đánh họ đã không tìm kiếm anh và phao đồn là anh đã theo giặc. Tôi nghĩ rằng trung ương thì xa mà những kẻ đó thì gần. Anh là người ngoài Đảng, dù anh đang phục vụ trong bộ đội, dù anh xả thân cho cuộc chiến đấu này, nhưng trên bình diện tư tưởng và thành phần, người ta đã xếp anh vào loại giống như tôi hiện tại mà thôi. Anh có nghĩ đến tất cả mọi điều đó chưa? Dĩ nhiên tôi mong rằng anh hãy suy xét kỹ trước khi làm việc này.
Huỳnh gật đầu, trầm giọng:
– Tôi có nghĩ đến tất cả rồi anh ạ. Nhưng tôi không thể lùi bước được. Khi chúng ta đã đặt số phận của chúng ta vào cuộc kháng chiến này, khi chúng ta tìm đến để có mặt nơi đây, điều trước tiên chúng ta nghĩ đến và chấp nhận, đó là cái chết. Điều chúng ta không chấp nhận là sự thối lui chứ không phải là sự bước tới. Tôi đã thấy những gì trong cuộc kháng chiến này? Tôi đã thấy hàng ngàn người lính đã ngã xuống, tôi đã thấy họ sống dở chết dở trong những trạm cứu thương, tôi đã thấy những làng mạc bị san bằng, hàng ngàn thây thường dân vô tội, đàn bà trẻ con chồng chất lên nhau. Tất cả những cái đó không thể phút chốc biến thành vô nghĩa. Những hình ảnh đó mãi mãi nung nấu lòng tôi, lòng anh, và triệu triệu lòng người Việt Nam, nó biến sự đau khổ lên xương lên da khiến người ta không thể phản bội những người đã chết.
Huỳnh ngừng lại nhìn Lương, cái nhìn thâm trầm cảm mến:
– Có lẽ tôi cũng được như anh. Cái gì đã giữ anh ở lại đây, cái gì đã khiến anh rứt ruột xa lìa vợ con anh? Hẳn là không phải ở đây người ta ân cần tử tế với anh, anh với cái mác tiểu tư sản trí thức mà người ta đã xếp loại, còn hơn nữa, anh lại còn là địa chủ phú hào. Anh thừa biết tác dụng nguy hiểm của những danh từ đó ra sao. Chúng ta đang ở giữa một thời kỳ mà những danh từ đều có công dụng như những thanh mã tấu. Thế mà anh vẫn lưu lại đây, lạc loài, cô đơn, bất lực. Há rằng tôi không được bằng nửa tấm lòng dũng cảm đó của anh sao.
Những lời nói của Huỳnh xuyên vào tận tâm can Lương khiến anh xúc động vô cùng, mặt anh tái ngắt, anh run run siết chặt lấy tay Huỳnh:
– Huỳnh, thế là đủ, tôi không còn biết nói sao với anh nữa, chỉ mong sao khi cuộc nước này đi qua, anh em chúng mình, xin cho được sống xứng đáng, và chết không hổ thẹn.
Trong bóng chiều buông xuống đầu con đường làng băng qua cánh đồng rộng, hai anh em Lương và Huyên dừng lại dưới bóng tre, nhìn theo Huỳnh và Hoàng, Bửu, Hồ, Phong cho đến khi bóng họ nhỏ dần lẩn khuất trong sương chiều. Hai anh em quay gót, không ai nói với ai, nhưng trong buổi chiều quê lặng lẽ này, có rất nhiều tiếng nói thầm đi vào cõi miên man vô cùng tận.
|
|
|
Post by sheen on Jun 11, 2023 1:47:15 GMT -6
CHƯƠNG XV Trên đường đi lên núi, Huỳnh tưởng tượng một Trần xanh xao vàng vọt, với vẻ mặt u uất, giọng nói đắng cay. Nhưng sự thật đã trái ngược hẳn. Huỳnh đến nơi Trần ở vào lúc mười giờ đêm, trong nhà còn ánh đèn, nhìn về gian nhà bếp anh thấy ánh lửa bập bùng lọt qua khe vách. Huỳnh khẽ đập vào tấm liếp cửa, có tiếng Trần hỏi, giọng dõng dạc.
– Ai đó?
Huỳnh trả lời, dõng dạc không kém:
– Huỳnh đây.
Tức thì, tiếng dép khua động đi đến phía cửa, tấm liếp được kéo qua một bên, và trong ánh sáng của cây đèn dầu tỏa ra khắp gian nhà, hiện ra bóng Trần cao lớn thẳng tắp, tiếng chàng cười vui vẻ ấm áp, giọng chàng đầm ấm mừng rỡ:
– Ồ, tao đang định đi về đồng bằng xem mày sống chết ra sao đấy chứ. Vào đây, thằng này liều thật, vừa mới dở sống dở chết thế mà cũng mò lên được tận đây, ồ thật đấy, cái mặt mày trông thấy mà ghê, may mà hai bé Hiền và Hòa chúng nó đã ngủ hết rồi chứ không thì chúng đã khóc thét lên rồi, mày định dọa trẻ con đấy hả? Vết thương của mày đã lành hẳn chưa? Mày qua quốc lộ lúc mấy giờ? Qua hồi bảy giờ mà giờ này đã đến đây là đi mau đấy chứ. Mày đúng là thằng khùng, việc gì phải bò lên đây, tao sắp xuống gặp mày mà. À, mày tưởng tao sắp chết hả, chưa đâu, người như tao sống dai lắm, tụi vi trùng sốt rét chúng nó chào thua tao rồi, bây giờ tụi tao sống thân thiện lắm. Mày hỏi có tiếp tục tiêm thuốc cho dứt vi trùng không hả? Thôi, xua đuổi chúng nó lắm làm gì, tao bằng lòng cho chúng nó ở trọ trong máu tao đó, bây giờ chúng nó ngoan ngoãn lắm rồi, luân lưu dịu dàng trong mạch máu của tao và bằng lòng để yên tao, thế là được rồi, ở đời mình không nên cư xử quá đáng với ai dù là đối với vi trùng sốt rét. Gặp mày là mừng cái đã. Mày đã ăn uống gì chưa, chưa hả, thế là tốt, chúng ta sắp có một nồi cháo vịt, chị Hiếu đang nấu cháo dưới bếp đó. Quý đâu rồi hả, mày xem ông ấy kia, mới chín giờ đã lăn ra ngủ, ngáy thật đều đặn mày thấy không, nhưng nó không quên dặn hễ cháo chín thì gọi nó dậy, đúng là cái đức ăn và ngủ của ông ấy bằng nhau, tội nghiệp, đáng lẽ đang còn cắp sách đến trường kia đấy.
Trần lại gần Quý, lay nó dậy:
– Quý, Quý dậy đi, anh Huỳnh lên đấy.
Quý đang ngủ say sưa, bỗng nó phóc dậy một cái, mở to mắt ôm lấy Huỳnh reo to:
– Đúng anh Huỳnh đây rồi, em nằm mơ thấy anh, em nghe tiếng anh nói, té ra là anh thiệt.
Huỳnh và Trần cười ha hả, mỗi người cầm một tay, nhắc bổng Quý lên, đặt nó xuống đất, nó la oai oái. Chị Hiếu ở dưới nhà bếp chạy lên:
– Anh Huỳnh, nghe tiếng anh mà tôi bận lỡ tay một chút, anh mạnh rồi chứ?
Huỳnh quay lại, anh ngạc nhiên nhìn thấy Hiếu dưới ánh đèn đêm nay trông có vẻ rực rỡ lạ thường, nàng vẫn mặc cái áo cánh trắng và quần đen như thường lệ, không có gì thay đổi trong cách phục sức bên ngoài của nàng cả nhưng trên khuôn mặt nàng có một cái gì chói lọi, sáng rực, đôi mắt vốn bị lé của nàng lóng lánh rỡ ràng, dường như ánh sáng bừng tỏa ra từ đôi mắt đó, đã khiến cho sự xấu xí của đôi mắt lé không còn nữa, Huỳnh vui vẻ chào:
– Chào chị Hiếu, chị mạnh giỏi đấy chứ; tôi trông chị dạo này có vẻ tươi tắn hơn trước nhiều đấy.
Hiếu mỉm cười:
– Cảm ơn anh. Mấy tháng trước nghe anh bị thương tôi lo quá, sau nghe Quý bảo vết thương không nguy hiểm tôi mới thấy mừng. Anh đã khỏe hẳn chưa ạ?
– Chị xem, tôi bò lên đây được là xem như khỏe lắm rồi còn gì, ấy thế mà thằng Trần nó thấy tôi nó không mừng mà còn la lối om sòm đó chị.
– Dạ, tôi trông anh cũng còn gầy lắm, xin mời anh nghỉ một lát cho khỏe, tôi xuống trông nồi cháo chín để mang lên anh dùng, anh vừa đi xa về chắc đói lắm, lại mới yếu đau xong.
Hiếu đi xuống bếp, Trần trông theo, mỉm cười, hỏi với:
– Cũng như Trần vậy, phải không chị Hiếu?
Hiếu ngoái lại nhìn Trần rồi quay đi, vẻ mặt thoáng âu yếm, đôi mắt nàng ngời sáng, trước khi nàng khuất sau tấm phên tre ngăn nhà trên với nhà bếp.
Khi mọi người ăn cháo xong, Hiếu dọn dẹp rồi lui vào nhà trong với hai con. Huỳnh, Trần và Quý cũng đi nằm nhưng họ còn chuyện vãn mãi tới khuya. Huỳnh cảm thấy yên lòng khi thấy Trần tươi tỉnh dịu dàng. Sau cơn đau nặng chàng có vẻ xanh xao nhưng thần thái chàng thật bình thản thanh thoát lạ lùng. Trần không nói gì đến lớp chỉnh huấn, chỉ kể cho Huỳnh nghe về những người bạn chung của hai người mà chàng gặp lại ở phân khu cùng những mẩu chuyện lếu láo giữa họ với nhau.
– Mày đã nghe chuyện “khổ qua cô ơi” chưa mày?
– Chưa, chuyện sao?
– Chuyện như thế này, có một tiểu thư con nhà giàu, một ngày đẹp trời bỗng hứng lên đòi đi kháng chiến. Cô nàng làm cán bộ phụ nữ, người ta cử cô nàng đi họp phụ nữ tận ngoài Liên khu Tư. Phải đi đường núi hàng tháng trời nên cô nàng thuê một chú mọi cõng mình đi. Chú mọi vừa phải cõng cô ả vừa phải mang bọc quần áo, thức ăn, gạo cơm. Được cái nàng cán bộ thì vóc hạc xương mai mà chú mọi nhà ta thì cũng to con nên không nặng nhọc gì cho lắm. Chú mọi cõng cái sự đời trên lưng đủng đỉnh đi trên núi ngày này qua ngày khác, biết bao phong cảnh sơn thủy hữu tình nên cái cõi lòng đen kịt của thằng người núi cũng phải xốn xang. Một ngày nọ, nó cõng cô ả đi chậm lại, tụt ra sau, bỏ xa đoàn cán bộ cùng đi. Cuối cùng khi nó biết rằng đoàn người đi trước đã cách xa độ vài cây số đường rừng, nó mới đặt cô ả xuống, rồi đứng ỳ ra, không chịu đi nữa. Cô ả thấy trời đã về chiều mà chú mọi lại bỏ mình xuống không chịu đi nữa, lấy làm lạ, giục nó đi, nó cứ đứng ỳ ra, mặt mũi ngờ nghệch khổ sở nhìn cô ả có vẻ van xin, cô ả nổi dóa, quát mắng ầm ĩ, thì chú mọi ra vẻ sợ hãi úp mặt vào gốc cây, nói hoài không dứt một câu: “khô qua cô ơi,” là sao mày biết không? Là “khổ quá cô ơi” đó. Thế là cô ả chợt hiểu, cô ả khiếp đảm, mắng chưởi, đe dọa rồi cuối cùng khóc lóc van lơn nó. Phần chú mọi thì chỉ úp mặt vào gốc cây mà nói đi nói lại liền miệng như đọc thần chú: “khô qua cô ơi, khô qua cô ơi.” Trời gần tối, giữa rừng một mình, có muốn đi cũng không dám, cô cán bộ mệt mỏi, tuyệt vọng gọi chú mọi: “Thôi đến đây, – rồi nàng quát – mau lên.” Chú mọi rời gốc cây, đến gần nàng. Xong đâu đó, nó xốc hành lý lên vai, cõng nàng cán bộ lên lưng, hớn hở nhẹ nhàng chạy như bay. Cả hai đến trạm nghỉ sau đoàn cán bộ có vài phút. Câu chuyện nếu chỉ có thế thì không ai biết được. Nhưng cuộc đời lắm nỗi trớ trêu, tối hôm đó khi cùng mọi người mang lương thực ra ăn, cô ả tìm mãi không thấy con dao cắt cơm và thịt, đã sẵn đau đớn hậm hực trong lòng, nàng hét lên hỏi chú mọi con dao ở đâu, nó nhìn nàng với bộ mặt khốn khổ ngờ nghệch khiến nàng càng điên tiết, hét tướng lên, quýnh quá nó đành nói: “Con dao tôi để rớt ở chỗ cô cho tôi…đó.” Mọi người chưng hửng, rồi mọi người hiểu ra, ai nấy được một mẻ cười đau bụng. Chuyện truyền đi rất nhanh, bây giờ tụi cán bộ từ Ba Lòng ra đến Liên khu Tư đều thuộc nằm lòng, hở một tí là tụi nó kêu đong đỏng “khô qua cô ơi.”
Huỳnh và Quý cười lăn lóc, Quý hỏi:
– Chuyện có thật như vậy không anh? Hay họ bày đặt ra để có chuyện mà cười. Làm gì đến nỗi phải thuê mọi cõng đi.
– Có lẽ có thật đấy em ạ, vì hiện giờ ở Quảng Bình trẻ con nó có hát câu đồng dao:
“Ai coi lên núi mà coi, Coi bà cán bộ cưỡi voi không bành.”
Căn cứ vào đó, có thể cho là câu chuyện khó tin nhưng có thật.
Huỳnh chắc lưỡi:
– Chuyện tếu thật, ông cố tổ, sao nó không thuê mình cõng có phải hơn không, thằng mọi thế mà có phúc.
Cả ba lại được dịp cười vang.
– Mày có gặp thằng Hào không?
– Có, tao có gặp, nó học cùng khóa chỉnh huấn với tao.
– Nó có cô chị đẹp lắm, nét mặt đẹp như Đức Mẹ ấy, không biết bây giờ cô ấy ở đâu.
– Cô ấy chết rồi.
Huỳnh kêu lên:
– Chết, sao thế?
– Ừ, chết một cách tội nghiệp lắm mày ạ. Hào nó kể chị nó lấy thằng Mưu, trung đoàn phó, lấy nhau xong thằng kia đi vào đơn vị ở Thừa Thiên, chị nó ở lại Quảng Bình, đi làm việc đoàn thể phụ nữ. Được ít lâu, chị nó biết mình có thai, khi gần sanh cô ta viết thư cho chồng xin gởi một ít tiền để sống qua thời kỳ sinh đẻ vì nghỉ làm việc thì đoàn thể không cấp sinh hoạt phí cho nữa, dù là sinh hoạt phí một tháng là ba chục ký lô gạo mà thôi. Thằng chồng không trả lời thư cho vợ mà lại viết thẳng cho đoàn thể phụ nữ chỉnh rằng các đồng chí không giáo dục vợ tôi để vợ tôi có hành động ỷ lại, hèn yếu, mang nặng tính chất tiểu tư sản là đòi hỏi mè nheo chồng, làm bận tâm chồng trong khi thi hành nhiệm vụ của một chiến sĩ cần đặt hết tâm trí vào việc giết giặc và phục vụ cho nhân dân.
– Hừm, hừm, – Huỳnh nhổ nước miếng xuống đất – lại có cái trò như thế nữa à?
– Thế là các cán bộ phụ nữ được lệnh phái đến giáo dục cô ta. Gần ngày sinh, cô ta phải nghỉ việc vì đoàn thể nhận xét năng suất làm việc bị sút kém. Cô phải chịu đói rách ngồi nghe cán bộ giải thích và dạy dỗ. Đến ngày sinh cô ta bị kiệt sức, cả mẹ lẫn con đều bị sốt rét, hai mẹ con run đây đẩy trên giường sinh, mẹ con nối tiếp nhau chết ngay sau đó. Thằng Hào nó kể cho tao nghe nước mắt nó nhễ nhại, tao buồn quá, chẳng thiết an ủi nó làm gì. Chúng nó bỏ nhà ra kháng chiến có hai chị em, bây giờ còn lại một mình nó.
Huỳnh ngậm ngùi:
– Thôi chết thế mà lại yên thân. Tao nhớ ngày tao gặp nàng xuống lấy nước dưới bến sông Ô Lâu đi với thằng Hào. Hôm ấy tao sửng sờ trước vẻ đẹp thanh tao, trong suốt, đôi mắt trầm tĩnh, dáng dấp đài các trang nghiêm. Ngay khi gặp nàng tao cảm thấy một điều gì lạ lắm, sự hiện diện của nàng như một thoáng mong manh; quả thật, tao đang nói chuyện với thằng Hào, quay lại thì nàng biến mất. Sau đó không có dịp nào gặp lại. Thỉnh thoảng nhớ lại cảnh tượng siêu phàm trên bến sông Ô Lâu hôm ấy, tao cứ nghĩ không biết nàng có thật hay không. Bây giờ thì tao chắc chắn rồi, nàng không hề có thật, nàng là thần tiên hiện xuống gánh bớt khổ đau cho những con người khốn nạn trên đất nước này đó thôi.
– Mày biết chuyện cụ Ưng Úy, thân sinh ra nhà bác học Bửu Hội, lên chiến khu chứ hả?
– Biết, rồi sao?
– Cả cụ ông lẫn cụ bà được võng ra Liên khu Tư. Bửu Tiến, nhà viết kịch nổi tiếng ở Khu Tư dựng ngay một vở kịch nhan đề “Trên Nớ,” diễn lại cảnh cụ Ưng Úy lên chiến khu. Mày tính, một vị đại thần của triều đình cũ, một hoàng thân lão thành đã tự rời bỏ đời sống vương giả để đi lên núi tìm hơi hướng của Tổ quốc, cứ kể thì cảm động thật đấy, nhưng thằng Quyền nó xem vở kịch, nó vào kể lại có một màn, cụ Ưng Úy chia vàng cho cô hầu thiếp son trẻ trước khi đi, có nhiều câu nói tầm thường kỳ cục lắm. Bửu Tiến đóng vai cụ Ưng Úy, lột tả hết những phong thái quan dạng kiểu cách của vua quan phong kiến, nhiều cái rất lố bịch. Trong khi đó cụ Ưng Úy và cụ bà được mời đến xem người ta diễn tả mình, ngay trước mặt mình không cần hỏi ý kiến trước, do một người huyết tộc diễn tả con người mình. Bửu Tiến gọi cụ Ưng Úy bằng chú. Tuy nhiên, thằng Quỳnh nó bảo vở kịch quả thành công về phương diện bố cục chặt chẽ, diễn viên xuất sắc, rất hấp dẫn nhờ những màn cô hầu thiếp trẻ đẹp của vị đại thần ngâm thơ và gảy đàn tỳ bà do Trúc Quỳnh, nữ kịch sĩ có tiếng đóng.
– Chuyện cười ra nước mắt được đấy chứ. Mày có nghe những hoạt động văn nghệ của anh em ngoài đó dạo này ra sao không?
– Tao gặp mấy thằng làm văn nghệ ngoài đó vào cho biết tình trạng bi quan lắm mày ạ. Từ khi Nguyễn Sơn hết làm khu trưởng, bị trả về Tàu, đưa đi Triều Tiên thì anh em ngoài đó lâm vào tình trạng bơ vơ nếu không muốn nói là đen tối. Nguyễn Sơn là một vị tướng lỗi lạc, am hiểu sâu rộng tất cả mọi vấn đề, quân sự, chính trị, văn hóa và cả những vấn đề chuyên môn. Nhưng dù xuất thân là một tướng lãnh của Trung Hoa Cộng sản, đã từng tham dự cuộc Vạn Lý Trường Chinh, khi về nước Nguyễn Sơn đã tỏ tấm lòng nhiệt thành yêu nước quá đến nỗi xao lãng việc bành trướng của đảng, hơn nữa lại có vài thái độ không hưởng ứng đường lối chung, cho nên ông ta đã bị gạt ra khỏi bằng cách bị đưa trở lại Trung Hoa. Thật đáng tiếc, đất nước này cần những người như vậy biết bao.
Huỳnh chua chát:
– Ô hô, kẻ sĩ không thể nào sống nổi trên nước non này.
Trần gật đầu:
– Nguyễn Sơn chiêu hiền đãi sĩ, đã giúp đỡ nuôi dưỡng anh em văn nghệ sĩ để sáng tác, biết dùng người một cách rộng rãi hiểu biết, như việc dùng Nguyễn Tiến Lãng, một tù nhân chính trị quan trọng vào chức vụ giám đốc trường Thiếu Sinh Quân. Nghe đâu sau khi Nguyễn Sơn đi Triều Tiên, Nguyễn Tiến Lãng cũng tìm cách rời khỏi Khu Tư luôn. Anh em văn nghệ sĩ cũng vậy, mỗi người tản mác mỗi nơi. Cái thời hăng say sáng tác không còn nữa.
Huỳnh thở ra:
– Tưởng họ may mắn hơn mình trong này nhiều chứ, té ra đâu rồi cũng vậy. Mày có biết trong khi mày đi chỉnh huấn, trong khi tao còn nằm dưỡng thương, ty Thông tin tỉnh nó mở một cuộc bình thơ, chúng nó tấn công tao ráo riết. Bài “Quay về thương” của tao có một đoạn nói đến ngày mai khi tàn cuộc chiến tranh này, những người yêu thương nhau biết có còn tìm lại được nhau không. Chúng nó mắng mỏ tao kịch liệt vì hai câu:
“Ngày mai tôi đi tìm mẹ tôi Giữa đám trần gian thưa thớt vui…”
Chúng nó nói rằng: “Ngày mai đó là ngày mai thanh bình, ngày mai chiến thắng, một trời hoan ca, một ngày hồng thắm, một rừng người xao xuyến, một rừng cờ đỏ tung bay, đó là một ngày mai huy hoàng lộng lẫy, tại sao Huỳnh lại bảo là “ngày mai tôi đi tìm mẹ tôi giữa đám trần gian thưa thớt vui?” Tại sao lại thưa thớt vui? Điều này chứng tỏ tác giả không hòa mình với niềm vui dân tộc, tác giả đã xa rời quần chúng, người nghệ sĩ cách mạng phải ý thức được rằng khi cầm cây bút mình viết cho ai, viết để phục vụ cái gì.”
– Mày thấy không? – Huỳnh cười lạt – Đó là món quà tặng của người ta để dành cho tao sau khi thoát chết trở về đơn vị. Được cái hồi này tao đâm ra hiền như cục đất, cho nên tao im lặng. Tao nghĩ còn nhiều việc phải làm, hơi đâu mà cãi vã nhau hoài.
Quý đã ngủ say, Huỳnh và Trần nằm lặng yên, họ không nói chuyện nữa, nhưng họ biết nhau đang thao thức. Có tiếng gà rừng gáy ở xa xa, hai người thiếp đi trong khi bên ngoài trời chuyển rạng đông, ánh sáng mờ nhạt đuổi dần những bóng tối ẩn núp trong từng kẽ lá, dưới những ngọn cỏ trĩu nặng sương mai. Ngày lại bắt đầu với tất cả sự rạng rỡ tinh quái của nó, buộc con người phải chạy đuổi theo đến mệt nhoài, in hằn nét ưu tư trên bao vầng trán; và những thành công, những thất bại, và tuổi già, và cái chết không làm nên được sự yên nghỉ nào cả.
|
|