|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:09:44 GMT -6
Vũ Thư Hiên (sinh ngay 18 tháng 10 năm 1933), là con trai của ông Vũ Đình Huỳnh (1905 – 1990), người đầu tiên được phong “quân hàm” sĩ quan và là Đại tá đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nguyên là Bí thư cho Hồ Chí Minh, sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại giao, Vụ trưởng trong Ban Thanh tra Chính phủ. Nhưng vào tngày 18 háng 10 năm 1967 ông bị bí mật bắt giam (không xét xử) vì “Tội Xét Lại Chống Đảng”, do bất đồng với ban lãnh đạo đảng về các vấn đề: 1/ dân chủ trong đảng và trong xã hội; 2/ chủ trương dùng bạo lực thống nhất đất nước; 3/ đi theo đường lối Trung Quốc trong quản trị xã hội và quan hệ quốc tế, ông bị bắt giam không xét xử và được thả 5 năm sau đó cộng với 2 năm quản chế ở thành phố Nam Định.
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trưởng nam của ông cũng bị bắt giữ cùng năm 1967 (2 tháng sau đó). Công an chìm bắt giữ ông lên ôtô và đưa về nhà tù Hỏa Lò ngay trong lúc ông đang đạp xe trên phố Hà Nội. Mãi về sau gia đình ông mới hay tin. Ông bị giam 9 năm, trong đó bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Chính quyền thả ông không án cũng như không xét xử. Ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của chính quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam.
Năm 1993, ông qua Nga với tư cách phiên dịch cho công ty xuất nhập khẩu Vũng Tàu-Côn Đảo VIECO (hợp tác với tổ hợp Minh Phụng) rồi ở lại làm đại diện cho công ty ở Moskva. Tại đây ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày về chín năm bị giam cầm, trong đó ông muốn chia sẻ với người đọc những điều suy ngẫm về mô hình nhà nước chuyên chính vô sản.
Cuối năm 1995, sau một vụ tấn công mà ông cho là của mật vụ Việt Nam, ông thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, nên tìm cách qua Ba Lan. Sau đó ông quyết định tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Đêm giữa ban ngày. Tháng 4 năm 1997, xuất bản hồi ký Đêm giữa ban ngày tại Hoa Kỳ.
Ông ở Strassbourg (Pháp) 1 năm, Bern (Thuỵ Sĩ) 1 năm, Đức 2 năm (2000-2001) sau khi đến Pháp theo lời mời của International Parliament of Writers, German PEN Club và Uỷ ban Nhân quyền thành phố Nuremberg. Ngót ba mươi năm lưu lạc xứ người, cuối năm 2022 ông trở về quê hương với tuổi 90...
Tự bạch
Tôi tặng cuốn sách này cho:
Những người con của nước Việt đã cống hiến đời mình cho một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
Hương hồn cha tôi, và những người cộng sản đã chết bởi tay các đồng chí của họ.
Mẹ tôi, người dạy tôi sống không cúi đầu.
Vợ tôi, người cùng tôi chia sẻ vô vàn khốn khó trong những năm tháng đen tối của đời tôi.
Các bạn tù của tôi, cộng sản cũng như không cộng sản.
Các thế hệ sau tôi, hi vọng họ sẽ không bao giờ phải sống như tôi đã sống, dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào.
Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi ở miền Bắc Việt Nam nổ ra một vụ án lớn, cho đến nay vẫn còn là chuyện khó hiểu đối với nhiều người.
Trong nhân dân, vụ án này có tên nôm na là vụ “xét lại chống Ðảng”. Tên chính thức của nó ít ai được biết, kể cả các đảng viên cộng sản, là “Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”1. Ðây là tấn bi kịch lớn nhất trong hàng ngũ những người cộng sản ở Việt Nam, từ nhà cách mạng lão thành suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc cho tới đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ trong nền độc lập đã giành được2.
Trong vụ án này Ðảng3 cầm quyền bất chấp luật pháp do chính mình đặt ra đã xuống tay hạ ngục, giam cầm và lưu đầy nhiều năm không xét xử những người có tư tưởng bất đồng. Nằm trong phạm vi trấn áp của vụ án do Ban tổ chức Trung ương Ðảng khởi xướng còn phải kể rất nhiều cán bộ, đảng viên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với những người bị bắt. Ngoài ra, một số dân thường cũng bị Ðảng nhân tiện chụp cho cái mũ xét lại hiện đại để xử lý. Tất tật bị nhét chung vào một rọ, bị Ðảng trừng phạt bằng nhiều cách khác nhau, với mức độ khác nhau.
Bị bắt năm 1967, những người tù không có án, còn gọi là tù “xử lý nội bộ”, tới năm 1973 mới lần lượt được thả.
Chưa hết. Sau sáu năm giam cầm họ còn phải chịu đựng những năm lưu đầy biệt xứ và quản thúc tại gia.
Tưởng chừng vụ án đến đấy là kết thúc, nhưng không phải.
Người cuối cùng trong số tù nhân được Ðảng ban cho ân sủng “xử lý nội bộ” mãi tới tận tháng Chín năm 1976 mới được ra khỏi cổng nhà tù.
Người tù ấy là kẻ viết những dòng này. Ðáng ngạc nhiên là sau nhiều năm im lặng đáng sợ, nói theo cách của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, những ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau tính từ thời tổng bí thư Lê Duẩn trở đi, vẫn khăng khăng khẳng định đảng của họ đúng trong cách xử lý vụ án, rằng những kẻ vi phạm luật pháp (của Ðảng và chỉ của Ðảng mà thôi) xứng đáng chịu những án hình lẽ ra phải nặng hơn những án hình mà Ðảng nhân từ đã ban cho.
Trong chín năm tù tôi chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân và cho những người mà tôi thương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế.
Sự nhìn lại đời mình cũng như sự quan sát số phận của đồng bào trong những nhà tù tôi đi qua đã mang lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng đối với những hành động phi nhân của những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã hội trong đó con người dù muốn dù không đều đánh mất mình.
Cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay là một phần những quan sát của tôi, một phần những suy nghĩ của tôi, về cái xã hội khó hiểu mà số mệnh đã an bài cho tôi sống trong lòng nó.
Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết, nó khởi sinh từ những ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng chảy không bao giờ ngưng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp ủ những mưu đồ xấu xa.
Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha hóa của họ, cái gì là tác nhân – chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ thành ra như thế hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với bản thể do trời đất tạo ra, hay là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ.
Cuốn sách này chỉ là một chút ánh sáng soi rọi vào một vụ án cụ thể nhưng mang tính đại diện cho một thời kỳ cai trị của Ðảng cộng sản, một mảnh gương con phản ánh một số mặt ít người biết đến của xã hội Việt Nam.
Là cái nhìn từ phía người trong cuộc, mọi hồi ức đều mang tính chủ quan. Nhưng, cũng lại với tư cách hồi ức, nó vẫn là bằng chứng đáng được chú ý, cho dù chỉ là bằng chứng từ một phía. Tôi cố gắng, trong chừng mực có thể, đưa ra bằng chứng của tôi về vụ án nói trên bằng ngòi bút công bằng.
Trong cuốn sách này chỉ có sự thật. Hình thức văn học mà tác giả sử dụng trong cuốn sách chỉ vừa đủ cho bức tranh sự kiện không thành quá tẻ nhạt. Văn học đích thực không có chỗ nơi đây.
Vì mục đích cuốn sách giới hạn trong một vụ án, cho nên nó không thể là cuốn sách nói về chế độ lao tù ở Việt Nam. Ðể nói về nhà tù Việt Nam cần một cuốn sách khác. Mà đó là một đề tài đáng được chú ý, chí ít cũng là một sự quan tâm không thể thiếu đối với số phận đồng loại trong một nửa thế kỷ.
Quá khứ sẽ chẳng có ích cho ai bởi sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy ngẫm, rút ra từ trong lòng những sự kiện của nó bài học cho tương lai.
Cuốn sách này không phải là lời lên án một xã hội nay mai sẽ trôi vào quá khứ.
Tôi không dám đặt cho mình mục đích buộc tội. Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Tôi cũng không thể đóng vai người buộc tội được bởi trong xã hội mà tôi sống tôi không đơn thuần là nạn nhân. Về mặt nào đó, trong chừng mực nào đó, tôi còn là thủ phạm.
Tôi viết vì tôi không thể không nói lên tiếng nói của mình. Tôi quan niệm kẻ không dám nói “không” trước tội ác là kẻ đồng lõa với tội ác.
Và sau hết, theo cách biểu đạt của nhà văn Nga Prishvine, tôi chỉ là “một cái lá trong hàng triệu cái lá của cây đời, và nói về một cái lá thì cũng là nói về những cái lá khác”. Số phận tôi được nói đến trong cuốn sách này cũng là số phận của nhiều người cùng thế hệ.
Xin hãy coi cuốn sách này là lời sám hối trước đồng bào của cha tôi nay đã không còn. Nó được thực hiện theo lời trăn trối của Người.
Cuốn sách còn là một vòng hoa muộn, một nén hương thêm đặt lên mồ những nạn nhân xấu số của một thời kỳ đen tối, những con người bất hạnh đã không chờ được đến ngày cuộc đời lập lại lẽ công bằng cho họ.
Mãi tới năm 1995 tôi mới được biết tên gọi chính thức của vụ án nhờ bức thư của ông Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng thời kỳ đó, đề ngày 3.2.1995, gửi Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Việt Nam, trong đó ông Thành yêu cầu giải oan cho hơn 30 đồng chí bị bắt và bị xử lý. Tính riêng số người bị bắt không thôi đã vượt quá con số do ông Thành đưa ra. Có lẽ ông chỉ nói tới những người là đảng viên.
“Có thể nói, sau những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức (1956), thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử Ðảng ta, xét về quy mô, tính chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụ án oan sai lớn nhất trong hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam của thế kỷ XX” (trích thư của ô. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ, trong thời gian xảy ra vụ án, gửi cho Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam khóa VII, đề ngày 18/7/1995, về vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”).
Trong các tài liệu chính thức ở Việt Nam từ Ðảng viết hoa được dùng để chỉ Ðảng cộng sản Việt Nam, với ý nghĩa tôn sùng. Trong cuốn sách này nó cũng được viết hoa như vậy cho tiện, cho vắn tắt, chứ không hàm nghĩa đó.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:16:28 GMT -6
Chương 1
Lễ mừng Thiên chúa Giáng sinh năm 1967 tại Hà Nội chẳng hứa hẹn một sự náo nhiệt thường có. Quá nửa số dân đã sơ tán khỏi thành phố. Người ở lại phần nhiều là cán bộ nhân viên các cơ quan Trung ương và địa phương, dân quân tự vệ, cộng với một số dân thường vì lý do này hay lý do khác không thể đi được. Phố xá mất đi vẻ sầm uất. Nhiều nhà đóng im ỉm. Bên trên mái đá đen các công thự cũ thời thuộc địa, trên nóc các nhà cao tầng mới xây, tua tủa nòng đại liên trung liên ngóc lên trời xanh nhiệt đới. Vỉa hè lỗ chỗ hầm trú ẩn cá nhân làm bằng ống cống.
Chiến tranh thực sự chưa dạo bước trên ba mươi sáu phố phường, nhưng bóng đen của nó đã trùm lên mái ngói âm dương thanh bình của kinh thành Thăng Long cổ kính. Trong phố vắng những người ở lại, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ, quần áo gọn gàng, dáng tất bật, cắm cúi đi sát tường, khẩu AK trên vai. Phóng viên AFP ở Hà Nội nhận xét: “Hà Nội bình thản và nhanh chóng hòa nhập với nếp sống thời chiến, cho dù ở bờ bên kia Thái Bình Dương Lầu Năm góc chưa vội vã tuyên bố chiến tranh với nước Việt Nam cộng sản”. Hà Nội sẵn sàng để chống trả.
Người Hà Nội làm việc, ăn, ngủ, yêu đương, sinh con đẻ cái trong bầu không khí căng thẳng chốc chốc lại vỡ ra bởi tiếng nổ của mọi cỡ súng lớn nhỏ rộ lên từng đợt mỗi khi máy bay Mỹ bay ngang; trong tiếng cô phát thanh viên quen thuộc vang vang trên các phố vắng “Ðồng bào chú ý! “Ðồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội hai mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội mười lăm cây số!”; dưới những vệt khói trắng mỏng manh của tên lửa đất đối không SAM-1, SAM-2… vun vút kẻ chỉ lên trời xanh nhiệt đới.
Cuộc xung đột vũ trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn bắt đầu bằng những trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hà Nội khuyến khích và yểm trợ, đã mau chóng lớn lên thành nội chiến. Người Mỹ nhảy vào, biến nó thành chiến tranh Việt-Mỹ, thành cuộc đối đầu giữa hai phe cộng sản và tư bản thế giới. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu đã kéo dài nhiều năm, cuộc chiến tranh nóng ở Việt Nam còn kéo thêm một số quốc gia vào lò lửa của nó, hứa hẹn một sự dai dẳng không biết khi nào mới kết thúc. Trên lãnh thổ Bắc Việt Nam cuộc giao tranh độc đáo và dữ dội chưa từng có giữa bầu trời và mặt đất, bắt đầu từ năm 1965, là sự phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cục bộ nọ. Bằng những trận không tập ồ ạt, rất ác liệt, không ngưng nghỉ, tổng thống thứ 36 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ quyết tâm bắt miền Bắc Việt Nam phải quỳ gối trước sức mạnh của vũ khí1.
Ðêm trước, người Hà Nội thở phào nhẹ nhõm nghe giữa lao xao sóng điện đài gần đài xa tin các bên tham chiến trên bán đảo Ðông Dương đã thỏa thuận được với nhau một ngày ngừng bắn nhân dịp kỷ niệm Chúa Kirixitô ra đời. Lễ mừng Thiên Chúa Giáng sinh 1967 đến với Hà Nội như một ngày hòa bình bất ngờ, một ngày không bình thường trong cuộc chiến, không phải nhờ ơn người mà nhờ ơn Chúa.
Thành phố yên tĩnh như thể chưa bao giờ nó yên tĩnh như thế. Từ sáng sớm không có còi báo động. Chỉ có tiếng loa lanh lảnh nhắc nhở mọi người cảnh giác trước hành động bất trắc của kẻ thù. Quanh Hồ Hoàn Kiếm dân đi lại nhộn nhịp hơn ngày thường. Nhân đợt ngưng chiến ngắn ngủi, những người sơ tán gần thành phố hối hả đạp xe về nhà. Họ tranh thủ khoảng thời gian yên tĩnh ngắn ngủi để đi khám bệnh, đi mua bán, thăm hỏi người thân, đến chơi với bè bạn, ăn với nhau một bữa cơm, uống với nhau một tuần trà, để rồi sớm hôm sau lại tất tả lên đường. Bên miệng hầm tập thể vắng bóng những bà mẹ nhỏ bé bế con nép dưới những khẩu hiệu nhiều kiểu nhiều cỡ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nước hồ phẳng lặng. Tháp Rùa hiện lên không rõ nét trong sương mù lãng đãng. Gió bấc thổi nhẹ. Trời se lạnh. Hà Nội vào đông muộn hơn mọi năm.
Tôi đang thong thả đạp xe từ Hàng Trống qua Hàng Bài thì bỗng nghe tiếng người gọi tên mình. Mải suy nghĩ tôi không nghe thấy ngay, đến khi nghe thấy thì đã đạp quá mất một quãng. Người gọi tôi dừng xe, khua tay loạn xạ để tôi nhận ra anh ta. Thấp béo, đầu sùm sụp cát-két dạ trên cái mặt tròn, trong bộ đồ bảo hộ lao động nhàu nhã, anh ta hớn hở khi thấy tôi quay mặt về phía mình. Ai thế nhỉ?
Ðành phải tạt vào vỉa hè, dừng xe trước một cửa hàng đóng im ỉm trong những cánh gỗ nham nhở, trước kia là hiệu chuyên doanh đồ sơn mài.
– Gớm, tìm anh gần chết! – anh chàng phanh xe lại ngay trước mặt tôi, cười tít, người chúi về phía trước, hai mắt chỉ còn là hai đường chỉ – Anh về ngay cơ quan, thủ trưởng đang đợi anh. Nhanh lên, để kịp tiếp khách! Em qua nhà, chị nói anh vừa đi, em phóng theo ngay, nhưng không kịp…
Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, cơ quan cấp trên của báo ảnh “Việt Nam”, thỉnh thoảng lấy tôi qua làm việc cho ủy ban. Công việc tôi được giao là giúp thủ trưởng Ủy ban tiếp khách. Người ta dùng tôi vào việc này chẳng qua để cho đỡ tốn, bớt được một phiên dịch. Chả là khách đến phần nhiều từ Liên Xô hoặc các nước Ðông Âu, đều biết nói tiếng Nga, là thứ tiếng tôi thông thạo. Tôi lại có thể kiêm hướng dẫn viên du lịch đưa khách đi thăm danh lam thắng cảnh thủ đô hoặc các địa phương, lại có thể giới thiệu cho họ đôi nét về lịch sử Việt Nam. Công việc kể ra cũng dễ chịu, nếu như khách toàn là nghệ sĩ hoặc nhà hoạt động văn hóa. Nhưng đôi khi rơi vào số khách lại là những nhà chính trị được cử sang lãnh đạo văn nghệ. Những người khách này lập tức phương xa, phần lớn lịch sự và phong nhã, mang lại cho tôi những giờ phút vui vẻ và hơi hướng xứ lạ, là cái bao giờ cũng làm cho cuộc sống hàng ngày đơn điệu bớt tẻ nhạt.
Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là khoảng nửa năm nay người ta đã không còn dùng tôi vào việc tiếp khách nữa, không hiểu sao nay lại gọi đến?
Kể từ năm 1964, khi cuộc đối đầu Trung Xô trở thành căng thẳng, thì bầu không khí chính trị ở Việt Nam cũng nóng lên theo. Khắp nơi người ta la lối về nguy cơ của chủ nghĩa xét lại hiện đại và sự cần thiết phải chống lại nó. Những cán bộ bướng bỉnh dám phát biểu những lời nói không vừa tai nhà cầm quyền về bất cứ vấn đề gì, không cứ về đường lối đối nội hay đối ngoại của Ðảng, đều bị lập tức coi là phần tử xét lại, chí ít thì cũng là phần tử hữu khuynh không đáng tin cậy. Tôi bị liệt vào số đó.
– Anh hôm nay không bận gì đấy chứ?
Một câu hỏi để mà hỏi. Vớ vẩn. Ủy ban đã cho gọi thì tôi nhất định phải đi rồi, có thoái thác cũng chẳng được.
– Anh về trước đi! – tôi càu nhàu – Tôi qua nhà một lát, thay quần áo cái đã.
Tôi đã có chương trình cho hôm nay. Tôi không thích nó bị phá vỡ. Tôi đã tính đưa vợ con đi chơi. Ðược đi chơi trong một ngày hiếm hoi không có báo động thật là tuyệt. Chúng tôi sẽ đến thăm một người bạn cũ lâu không gặp. Có thể chúng tôi sẽ ăn cơm ở đó. Vợ tôi muốn cho các con đi cùng, nhân thể mua sắm mấy thứ lặt vặt.
Tôi ngán ngẩm nhìn thằng cha phá quấy. Chán quá, Ủy ban không báo trước để tôi có thể sắp xếp công việc của mình. Mà tay này ở đâu ra nhỉ? Có lẽ ở phòng bảo vệ. Ngoài bộ phận đó ra, có ai đi làm chủ nhật?
– Dào, chẳng sao đâu. – y nhe hàm răng cải mả, cười không có tiếng – Ðang đánh nhau, mặc thế nào chả được. Thế này tươm chán. Khách lại đang đợi.
Trên người tôi là cái áo bông xanh, cái quần ka ki, cả hai đều mới, nhưng nhàu nát. Ðã lâu chúng tôi quên hẳn là quần áo. Không ai trách ai vận đồ không có nếp. Thời chiến quần áo phẳng phiu quá, nếp là rõ quá, còn bị phê phán là sang trọng rởm. Nó là cái gì nếu không phải tàn dư của nếp sống tư sản? Tôi còn lưỡng lự, thì anh chàng đã trườn về phía tôi.
– Anh về làm gì?! – y nắm chặt ghi-đông xe tôi – Xe đến rồi kìa!
Một chiếc com-măng-ca Liên Xô phanh két bên cạnh tôi. Cửa xe bung ra. Hai thanh niên đen nhẻm phóng xuống. Không nói không rằng chúng kéo tôi lên xe. Tôi nhìn anh chàng vừa gọi tôi. Bộ mặt nhăn nhở biến mất, thay vào đó là đôi mắt cá và tiếng cười gằn:
– Lên xe ngay! Biết điều đừng chống cự!
Giờ thì tôi nhớ ra: thằng cha này thường lẽo đẽo theo tôi mấy ngày gần đây. Vận đồ bộ đội, cái xà-cột lủng lẳng bên hông, y lấp ló như một con chuột trong đám đông. Cũng trong thoáng ấy tôi nhìn thấy hơn một chục xe đạp tản ra từ chỗ chiếc com-măng-ca vừa đỗ. Ðó cũng là những tên tham gia vụ bắt cóc, nhưng sự việc diễn ra gọn gàng, chúng chưa phải động thủ. Mọi tình huống đã được lường trước, được sắp xếp trước, y như trong một phim gangster.
Không một người qua đường nào biết ở nơi này vừa xảy ra chuyện gì. Những chiếc xe đạp vẫn vun vút phóng qua. Trong tiệm đồng hồ, sau tủ kính, tôi nhìn thấy Sinh cắm cúi làm việc. Anh là người quen của tôi. Nếu anh ngẩng lên hẳn anh nhìn thấy tôi bị lôi lên xe. Nhưng anh không ngẩng lên. Hình ảnh ghi lại trong trí nhớ của tôi vào mấy giây cuối cùng là một người đàn bà bồng con vượt qua mũi xe. Ðứa bé ngủ say trong tấm ni-lông cứng quèo, má hồng lên trong gió bấc. Theo cái cách kỳ cục như thế, tôi trở thành kẻ tham gia cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế. “Thế là cái việc phải đến đã đến!”, tôi tự nhủ, ngả người trên tựa ghế xe, lòng hoàn toàn bình thản.
Không hiểu sao, vào đúng cái khoảnh khắc gay cấn nhất, tệ hại nhất trong đời mình, tôi không nhớ đến cái gì khác mà lại nhớ tới một câu nói nổi tiếng của Nguyễn Tuân2: “Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu chảy, nhưng có người chết!”.
Bác Nguyễn ơi, bác sai mất rồi. Pháp trường Việt Nam, kể từ năm 1945, không hề trắng. Ðã có đầu rơi, đã có máu chảy. Và có nhiều người chết. Bằng nhiều kiểu chết khác nhau. Bây giờ tôi mới hiểu Nguyễn Tuân thốt lên câu đó trong hoàn cảnh nào. Mấy năm trước, trong một phút phân thân, nhà văn già bỗng bàng hoàng nhìn thấy trước mắt mình một quần thể nhân sinh kỳ lạ không hiểu sao lại kết thành hàng ngũ để sống trong nghi kỵ và thù hằn, trong cuộc chiến không lúc nào ngưng nghỉ. Một cuộc chiến âm thầm, không tiếng súng, với những xác chết không thương tích, hoặc sống vật vờ, với bộ não vô dụng, như những dômbi3.
Giờ đây, trong cuộc chiến mà Nguyễn Tuân nói tới, tôi đã thành con mồi của nó. Tôi đang được đưa đi đâu đây? Tới pháp trường nào?
Ðó là chủ nhật 24 tháng 12 năm 1967.
Tôi nhớ từng chi tiết của ngày hôm đó. Trong hồi tưởng, tôi thấy rõ mồn một, như trước mắt tôi mọi chuyện được diễn ra một lần nữa. Thời gian đang trôi đột ngột dừng lại. Như một cadre-stop trong cuốn phim đang chiếu. Nó là ngày bước ngoặt, ngày cắt đôi, ngày ranh giới của đời người. Về sau tôi mới biết cảm giác đó chẳng phải của riêng tôi – bất cứ ai từng bị bắt cũng nhớ từng chi tiết vụn vặt nhất của cái ngày đáng nguyền rủa đó.
Tôi ra khỏi nhà lúc chín giờ sáng và mất tăm từ đó. Cả nhà tôi bổ đi tìm, nhưng không thấy tôi ở bất cứ đâu, ở nhà họ hàng cũng như ở nhà bè bạn. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, vẫn biền biệt. Thẻ Nhà báo, giấy chứng minh nhân dân tôi thường mang theo người được tìm thấy trong ngăn kéo bàn viết. Như vậy, nếu chẳng may xảy ra tai nạn giao thông người ta cũng chẳng biết nạn nhân là ai.
Vợ tôi đạp xe khắp Hà Nội, đập cửa bè bạn báo tin dữ. Bè bạn tôi nháo nhác. Họ lao tới các bệnh viện, các trạm cấp cứu, xục tìm trong những nhà xác tanh tưởi với những xác chết đủ mọi dạng, trong mọi tư thế. Thời chiến, trong nhà xác la liệt cả đống thi thể vô thừa nhận, nhưng không ở đâu có xác tôi. Mẹ tôi bình tĩnh hơn mọi người. Bà im lặng, suy nghĩ. Không khí hoảng hốt trong gia đình không lây được sang bà. Ngay từ đêm đầu tiên không thấy tôi trở về nhà, mẹ tôi đã đoán tôi bị bắt. Hai tháng trước, đêm 18 tháng 10 năm 1967, cha tôi đang nằm đọc báo thì một toán công an hùng hổ xông vào nhà dựng ông dậy, đọc lệnh bắt khẩn cấp và lệnh khám nhà. Một nhóm đẩy ông lên xe chở đi, nhóm còn lại chia nhau ra lục lọi các phòng cho tới gần sáng, lấy đi nhiều giấy tờ, sách báo và ảnh chụp. Ðêm cha tôi bị bắt, cũng là sinh nhật tôi, tôi đang ở Nam Ðịnh. Thành phố thợ dệt chìm trong bóng tối. Ðèn đường tắt ngấm.
Tôi lang thang trong các phố hiu quạnh, dưới ánh sáng nhợt nhạt của trăng rằm lọt qua kẽ lá. Cuộc leo thang của không lực Mỹ đã vượt quá Nam Ðịnh lên phía Bắc. Thành phố chịu bom hàng ngày. Nhà máy sợi sập từng mảng, khu dân cư Hàng Thao bị san bằng. Dưới chân tôi là gạch vỡ nhà đổ lẫn với đủ mọi thứ tạp nham của đời thường bị thuốc nổ và mảnh bom phá nát – những cái bát vỡ, manh chiếu cháy dở, những trang vở học trò phất phơ trong gió thoảng, con búp bê cụt đầu lăn lóc bên cạnh cái xe nôi tơi tả… Trong những ngày đó tôi không nghĩ tới cuộc chiến tranh nào ngoài cuộc chiến tranh với nước Mỹ. Thế nhưng một cuộc chiến tranh khác, hoàn toàn không ngờ tới, đã xảy ra. Vụ bắt bớ những người có quan điểm bất đồng với Ðảng cầm quyền trong cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối bắt đầu từ tháng 7 năm 1967.
Nạn nhân đầu tiên của nó là viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính4, phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới Phạm Viết, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Kỳ Vân và vài người khác. Như một cơn gió đen, tin Ban tổ chức Trung ương Ðảng phát hiện kịp thời và bóp chết từ trong trứng một âm mưu phản loạn lan nhanh trong thành phố. Ðến lượt cha tôi và thiếu tướng Ðặng Kim Giang5 cũng bị bắt thì dư luận ồn hẳn lên. Chỗ nào người ta cũng thì thào bàn tán về sự kiện này. Những người cộng sản thuộc thế hệ già ngán ngẩm: “Thôi thôi, lại như cái đận Cải cách ruộng đất rồi, có khác gì đâu. Mấy ông lãnh đạo nhìn đâu cũng thấy phản động, bắt bớ lung tung, sau đó thì lại xin lỗi, lại sửa sai, rõ chán chuyện! Mạng cán bộ thời nay đúng là không bằng mạng ngóe”. Số cán bộ cấp thấp hơn to nhỏ với nhau: đây rõ ràng là một cuộc sát phạt, chứ các đồng chí lão thành cách mạng thế kia sao có thể là phản động được? Ðàng sau vụ bắt bớ này chắc chắn là một âm mưu gì đó, vì cái ghế, vì hưởng thụ thôi; bây giờ các ông kễnh chỉ nghĩ tới cái đó, tới tiêu chuẩn, chứ xét đi xét lại cái gì đâu? Những người trước nay không ưa chế độ thì mở cờ trong bụng: “Chúng bắt đầu thịt nhau rồi! Ðã bảo cộng sản là thế mà, chúng không sống yên được một ngày không có máu. Chỉ tội nghiệp cho mấy người hiền lành không cùng phe cánh với chúng, tuy họ cũng là cộng sản”.
Ngày hôm sau, không thấy tôi trở về, mẹ tôi tức tốc đạp xe tới Hỏa Lò. Trước một bà mẹ hung dữ vì vừa mất chồng nay lại mất con, các cán bộ công an chối đây đẩy rằng ở chỗ họ không có ai tên là như thế. Viên giám thị Hỏa Lò lật đật mang cả sổ tù ra tra trước mặt mẹ tôi cho bà thấy: bác đừng nghĩ quẩn, nếu anh ấy ở đây thì phải có tên trong sổ, anh ấy phải làm gì phạm pháp thì mới bị bắt chứ. Không, không có tên anh ấy ở đây đâu, tôi tra hết rồi, xem kỹ lắm rồi, hay là bác sang bên Bộ mà hỏi.6
Tại phòng tiếp khách Bộ Nội vụ ở 16 Trần Bình Trọng, một sĩ quan mặc áo dạ7 không quân hàm tiếp mẹ tôi. Anh ta làm bộ ngạc nhiên: – Chết chết, sao bác lại nghĩ thế! Bắt người thì phải có lệnh bắt chứ, kể cả trong trường hợp bắt khẩn cấp bộ phận trực ở Bộ cũng phải được biết. Không phải đâu, bác ạ, làm gì có chuyện bắt cóc thời bây giờ. Bác đợi cho một chút, tôi kiểm tra ngay lập tức xem có chuyện gì xảy ra với anh Hiên mà các quận được biết không. Trước mặt mẹ tôi anh ta gọi điện hỏi các khu công an Hà Nội. Không ở đâu có tin về tôi. Tiễn mẹ tôi, viên sĩ quan còn ân cần dặn bà khi nào tôi về nhà thì xin báo ngay cho Bộ Nội vụ biết.
“Phải công nhận hắn ta đóng kịch cũng khéo. – mẹ tôi kể lại – Nhưng khéo thì khéo, không qua được mặt mẹ. Miệng hắn leo lẻo, nhưng mặt mày thì lại nhớn nhác, tay chân quýnh quáng. Bụng bảo dạ: nếu bọn này có tập quán giống bên công giáo chắc hắn sẽ kêu tên Mác mà thề quá”. Như bao lần gia đình tôi gặp bão táp mẹ tôi chứng tỏ bà là cây cột cái vững chắc gánh toàn bộ sức nặng của ngôi nhà trên vai, quyết không cho nó sụp đổ. Bà lau nước mắt, chu đáo lo toan trăm thứ việc có tên và không tên cho con cái như thể không có chuyện gì xảy ra. Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà nghĩ đến thần tượng của bà rất nhiều.
Ðêm đêm bà ngồi một mình trong căn nhà vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh. Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin, bà sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ 18×24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ “Thân ái tặng thím Huỳnh” trước ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như của gia bảo. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần chạy giặc càn mất hết đồ đạc nhưng tấm ảnh vẫn còn đó. Nó chỉ bị thu khi công an khám nhà.
Nhiều người khuyên bà hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn8 và Lê Ðức Thọ9 vẫn còn phải nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy ra. Nếu ông biết, ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này. Vài năm nay, do sức khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.
Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước. Bà nhận xét: không phải vô cớ mà trong khi khám nhà, công an quan tâm đặc biệt những tấm ảnh cha tôi chụp chung với ông Hồ, những tư liệu liên quan tới ông Hồ, tất cả đều bị mang đi. Cha tôi bắt đầu giữ những tư liệu về cách mạng, đặc biệt về ông Hồ Chí Minh kể từ khi ông nhận sự phân công của Trung ương Ðảng làm bí thư cho chủ tịch nước.
Vào những năm đầu cách mạng chưa có cơ quan chuyên trách lo bảo quản những tư liệu lịch sử, cho nên cha tôi cho rằng ông có trách nhiệm lưu trữ những gì trong tầm tay của ông, không để chúng bị mất. Cha tôi giữ được khá nhiều ảnh – từ những bức chụp ông Hồ tại chiến khu Tân Trào với đội liên quân Việt Mỹ, những ngày ông Hồ vừa từ chiến khu về Hà Nội, Lễ Tuyên bố Ðộc lập tại vườn hoa Ba Ðình, chuyến chủ tịch nước sang Pháp năm 1946, nhiều nhất là ảnh trong An toàn khu của chính phủ kháng chiến. Những ảnh khác cha tôi chụp chung với các nhà lãnh đạo cũng bị thu hết… Mấy bức ảnh chân dung họa sĩ Pablo Picasso, nhà văn Ilia Ehrenburg10 với lời đề tặng cha tôi tại Paris năm 1946, chẳng liên quan gì tới vụ án, bọn chúng cũng thu tuốt. Tuy nhiên, đây là chuyện dễ hiểu – vào thời kỳ này nhân viên công an thường được chọn lựa trong nông dân ít học. Họ chẳng biết Picsso hoặc Ehrenburg là ai. Dưới mắt họ, ảnh những thằng Tây mũi lõ tìm được trong nhà một đối tượng của cách mạng, gợi nên sự nghi ngờ – hẳn đây phải là ảnh của bọn phản động quốc tế. Chính do những suy nghĩ như vậy mà mẹ tôi không nghe theo lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí Minh. Bà cũng không nghĩ tới chuyện cầu cứu Trường Chinh11. Từ khi mất chức tổng bí thư, Trường Chinh lầm lũi ở ẩn trong sự đường bệ còn lại, tránh can thiệp vào công việc của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Vả lại, cho dù trong khi còn đương chức Trường Chinh bây giờ không hề giống Trường Chinh trước tổng khởi nghĩa. Nếu như trong thời kỳ bí mật Trường Chinh chu đáo với anh em bao nhiêu thì bây giờ ông ta lạnh nhạt với đồng chí bấy nhiêu. Hệt như đã xảy ra một cuộc đánh tráo vậy.
Tôi kể chuyện này làm thí dụ. Ông Trần Ðình Long12, người bạn và đồng chí gần gụi của Trường Chinh bị Quốc dân đảng thủ tiêu năm 1946, để lại vợ và ba đứa con. Hòa bình lập lại, bà Long từ vùng tản cư Phát Diệm trở về Hà Nội. Năm lần bẩy lượt bà tìm đến Trường Chinh, nhưng không được ông tiếp. Người kể cho tôi nghe câu chuyện đáng xấu hổ này là ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ, từng là cơ sở cách mạng. Khi ông Sơ chất vấn ông Bùi Lâm13 chuyện xử sự của Trường Chinh thì Bùi Lâm giải thích: “Con mẹ Long làm như có mình chồng nó hy sinh cho cách mạng. Hy sinh cho cách mạng có hàng đống, nó làm mình làm mẩy, nằng nặc đòi cách mạng phải lo cho các con thằng Long, rõ ngu! Anh Thận14 không tiếp nó là phải”. Nóng mắt, ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ tống ông quan tòa Bùi Lâm ra khỏi cửa: “Vợ đồng chí gặp khó khăn thì tìm đến đồng chí chứ còn tìm ai? Biết chúng mày là giống ăn cháo đá bát chắc vợ thằng Long đã chẳng thèm gặp. Cút ngay khỏi nhà tao! Ðồ đểu! Cả lũ chúng mày đểu! Cút!”. Người vợ và ba đứa con của người cộng sản Trần Ðình Long, bị các đồng chí chối bỏ, lếch thếch dắt nhau xuống Hải Phòng nhập vào dòng người di cư vào Nam. Hai con trai ông Long sau năm 1975 vượt tiếp sang Ữc. Chỉ còn lại một người con gái lấy chồng ở lại Sài Gòn. Nhân tiện cũng xin nói rằng ông Bùi Lâm này, hồi hoạt động bí mật đã ở nhà tôi, là đồng chí rất thân thiết của ông Long và cha tôi. Với gia đình tôi ông là người trong nhà, nhưng sau khi cha tôi bị bắt ông cũng không hề lai vãng một lần.
Ðó là tình đồng chí trong những người cộng sản khi đã giành được chính quyền, đã phân chia ngôi thứ.
Những người vẫn còn đến với gia đình tôi trong những ngày sóng gió đều vì tình bạn, chứ không phải vì tình đồng chí, cho dù họ có là cộng sản.
Bà cũng không nghĩ tới Phạm Văn Ðồng15. Ông quen cha mẹ tôi từ những năm 40 khi còn thanh niên, đang săn đón người vợ tương lai ở hàng kem Zephyr Bờ Hồ. Mẹ tôi biết có tới gặp ông cũng vô ích. Phạm Văn Ðồng, theo bà nhận xét, là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự. Ông lúng túng trước bất cứ một việc cụ thể nào, dù chỉ để đóng một cái đinh giúp hàng xóm, như các bạn ông thường giễu cợt. Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm. Những người từng là bạn ông khi gặp chuyện rắc rối với chính quyền buộc lòng phải cầu cứu ông còn thất vọng hơn. Họ tìm đến ông vì chẳng gì ông cũng là một trong các nhà lãnh đạo quốc gia, ông mà nói cho một câu thì cũng đỡ. Của đáng tội, ông cũng không nhẫn tâm xua đuổi họ, ông an ủi, ông hứa hẹn, rồi ông chẳng làm gì hết. Có khi những gì người ta nhờ ông cũng nhớ, cũng muốn giúp họ lắm, nhưng để tránh tiếng ông lại đi nhờ người khác, rồi ra cái sự nhờ lại ấy có được việc hay không ông không quan tâm. Ông đã nói hộ rồi mà, có phải không nói đâu, khốn nỗi là việc khó giải quyết, các đồng chí từ chối không giúp có nghĩa là không giúp được. Ông không muốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Ðồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!”
Mẹ tôi chỉ còn biết tìm người bạn thân thiết nhất của cha tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật là ông Nguyễn Lương Bằng16. Những ngày ấy ông đi vắng, người ta nói. Mà cũng có thể ông tránh mặt.
Từ Nam Ðịnh trở về, nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt nhòe:
– Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: “Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt trái nó có gì?”. Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:” Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi…” Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
– Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả. Bàng hoàng trước sự việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra, không sao tin được rằng chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà vợ chồng bà hiến dâng cả đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà đến thế. Khi tôi mất tích, có nhiều người cho rằng tôi trốn. Mẹ tôi không tin. Là mẹ, bà hiểu con bà. Hơn bất cứ ai, bà tin tôi vô tội. Không những tin tôi vô tội, bà tin tôi đủ dũng khí để đương đầu với bọn tiếm quyền cách mạng. Chạy trốn, theo quan niệm của mẹ tôi, không phải là hành động của người quân tử. Bà muốn thấy chồng con mình đàng hoàng bảo vệ chính nghĩa trước công luận.
Bà buồn rượi khi nghe những đồng chí cũ đến thăm bà, phân tích tình hình đất nước, rồi kết luận rằng sẽ chẳng bao giờ có một phiên tòa mà bà muốn có.
Khoảng một tuần trước khi tôi bị bắt anh Nguyễn Trọng Luật, vụ trưởng Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa, nhắn tôi tìm cách cắt đuôi đến gặp anh tại nhà riêng ở ngõ Chân Cầm. Trong số các vụ trưởng của Bộ tôi quý anh nhất. Bề ngoài giản dị, thậm chí hơi thô kệch, thoạt trông ai cũng nghĩ anh là một nông dân nòng cốt được Ðảng bồi dưỡng lên làm lãnh đạo. Nhưng chỉ nói chuyện với anh một lần là người ta biết bên trong vẻ chân quê làm cho họ lầm anh Luật là người lịch lãm, hiểu nhiều biết rộng. Tôi quyết định đến gặp anh. Tôi muốn nghe ở anh một lời khuyên. Anh dặn tôi coi chừng bị mật thám theo. Cắt đuôi là việc chẳng khó gì đối với người trong một gia đình có nhiều năm hoạt động bí mật. Thời Pháp thuộc, cha mẹ tôi đã dạy tôi những cách đánh lạc hướng mật thám. Ông bà thường sai tôi mang mật thư đến nơi này nơi khác trong thành phố. Tôi là trẻ con, mật thám không để ý. Anh Luật có hồi cùng hoạt động với cha tôi tại vùng ven sông Hồng. Ðối với cha tôi anh kính trọng, coi như người anh tinh thần. Vì tình cảm với cha tôi mà anh quý tôi.
Gặp tôi, anh vồ lấy, hối hả: – Tình hình gay lắm, chú phải trốn ngay lập tức, đừng để bị bắt! Tôi nghĩ mình sẽ làm thế này…
Theo kế hoạch của anh Luật, tôi sẽ chọn ngày giờ thuận lợi rồi báo cho anh biết. Tốt nhất, tôi báo qua bác sĩ Phan, em nuôi anh, cũng là bạn thân của tôi. Tôi sẽ tới Chùa Thầy, nơi sơ tán của Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa. Từ đây anh Luật sẽ dùng xe cơ quan đưa tôi về Hưng Yên, nơi trước Cách mạng Tháng Tám có thời kỳ anh làm bí thư tỉnh ủy. Con trai một cơ sở cách mạng nay là trưởng công an một huyện là em kết nghĩa của anh đã nhận bảo vệ tôi. Anh này sẽ lo việc thay tên đổi họ cho tôi rồi đưa tôi tới một vùng hẻo lánh. Tôi sẽ nương náu ở đó chờ cho tình hình sáng sủa sẽ trở về.
Tôi im lặng. – Chú nghe anh đi, anh nghĩ kỹ lắm rồi, phải trốn thôi. – anh ra sức thuyết phục tôi – Thử nghĩ mà xem, nếu trong Cải cách ruộng đất tất tật những người bị xử trí oan đều trốn thoát cả thì sai lầm của Ðảng đâu đến nỗi trầm trọng đến thế. Ðảng làm sao hiểu được ta bằng chính ta? Biết mình vô tội bị Ðảng ngờ oan mà lại vẫn xuôi tay mặc cho Ðảng bắt, mặc cho Ðảng giết, không phải là tuân thủ kỷ luật cách mạng đâu, không phải trung thành với Ðảng đâu, mà là làm hại Ðảng đấy, chú hiểu không? Tôi hiểu Ðảng lần này lại đang sa vào sai lầm nên tôi mới khuyên chú trốn.
Thấy tôi vẫn không hưởng ứng, anh bần thần một lát rồi tiếp: – Tùy chú thôi, nghe anh thì nghe, không nghe thì thôi, nhưng chú phải nhớ: tuy hiện nay Ðảng bị thằng Duẩn, thằng Thọ lũng đoạn, nhưng trước sau Ðảng vẫn là Ðảng của ta, chẳng chóng thì chầy Ðảng sẽ thanh lọc bọn chúng. Tôi muốn cười mà không dám cười. Ngẫm ra cách lập luận của anh có cái lý của nó, cái lý chỉ tồn tại được trong lòng người đảng viên trung thành, lúc nào cũng lo lắng cho sức chiến đấu và uy tín của Ðảng.
Bằng nhiều dẫn chứng rút ra từ những huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh, anh Luật khẳng định chuyện này ông Hồ không biết, hoặc giả ông bị désorienté17 bởi Lê Ðức Thọ mà đã đồng ý cho Thọ bắt các đồng chí trung kiên, chứ ông quyết không phải người xấu.
– Lê Duẩn là thằng nhiều tham vọng, điều này ai cũng biết, nhưng anh nghĩ: tự hắn, hắn không muốn gây gổ trong lúc này. Gạt ra bên ngoài các thứ chủ nghĩa, xét cho cùng chỉ là cái cớ, thì vụ này Thọ khởi xướng là chắc, không phải Duẩn. Nhưng Thọ muốn thì Duẩn cũng không ngăn, mọi việc Thọ làm từ trước tới nay đều vì lợi ích của cả hai. Thằng này làm việc đó để làm gì, nhằm mục đích gì?Anh ngờ bên trong vụ này có điều uẩn khúc, liên quan tới thời kỳ Thọ ở Sơn La…18
Tối hôm đó tôi chỉ ngồi nghe anh nói, không tranh luận. Ðầu tôi trống rỗng. Tôi mệt mỏi. Trong anh vẫn có một niềm tin mỏng manh ở Ðảng. Trong tôi, niềm tin ấy không còn.
Nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ với anh Nguyễn Trọng Luật, mẹ tôi hỏi: – í con thế nào? – Con cho rằng đi trốn là cho người ta cái cớ để nói mình có tội, mình sợ nên phải trốn tránh… – Còn con? – mẹ tôi hỏi vợ tôi. – Con cũng nghĩ không nên trốn. – vợ tôi nói – Mình làm gì mà phải trốn? – Ðúng vậy. Cây ngay không sợ chết đứng. Tôi mỉm cười. Mẹ tôi quen miệng nói thế, chứ ai chẳng biết chính cây ngay mới hay chết đứng, chỉ có dây leo là không bao giờ chết đứng mà thôi. Hồi ấy tôi còn ngu ngốc lắm. Thế hệ cha tôi, rồi thế hệ tôi mang trong mình khái niệm Ðảng của những ngày cách mạng còn trứng nước: Ðảng là tổ chức của những chiến hữu cùng chung một mục đích thiêng liêng, cao cả. Không hiếm những thí dụ về tình đồng chí đùm bọc thương yêu nhau, thậm chí hy sinh tính mạng để bảo vệ nhau trong những ngày xa xưa ấy. Một khái niệm, tiếc thay, đã lỗi thời. Sống trong một gia đình mà cha mẹ đều hoạt động cách mạng, tôi nhập vào dòng chảy của công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, cũng là dòng chảy của thời đại tôi, một cách tự nhiên, như muốn sống thì phải thở khí trời. Cũng tự nhiên như vậy, tôi đi theo những người dẫn đầu cuộc cách mạng như con vật trong đàn đi theo con đầu đàn của nó.
Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc Giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953. Ðêm đêm chúng tôi thao thức nghe trong mịt mùng những thôn xóm tối tăm tiếng loa âm u hờ gọi nông dân vùng lên đánh đổ kẻ thù giai cấp. Từ tinh mơ hàng đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ cường hào gian ác.
Ðiều làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ là những cán bộ kháng chiến bị thẳng cánh gạt ra ngoài lề cuộc đấu tranh. Mà tôi biết rõ họ lắm. Mới hôm trước còn là những người lãnh đạo đầy uy tín ở địa phương, bất thình lình họ không còn được tin cậy nữa, thậm chí bị nghi ngờ, bị tước bỏ mọi quyền hành. Tại sao lại như thế? Tôi hỏi một cán bộ trong đội giảm tô giảm tức và được anh ta giải thích: phải đề cao cảnh giác trước kẻ thù giai cấp. Chúng biết chúng không thể ra mặt chống phá cách mạng nên tìm đủ mọi cách chui vào trong các tổ chức của ta, nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Hiện nay không thể biết trong các cơ quan ai là địch ai là ta, nếu không kiên quyết gạt những người cũ ra thì nông dân được Ðảng phát động vẫn bị kẻ thù giấu mặt khống chế, họ sẽ không dám vùng lên giành chính quyền. Ðảng dạy ta chỉ có thể tin những nông dân bần cùng, bị địa chủ bóc lột đến xương tủy, chỉ có họ mới là chỗ dựa vững chắc và lâu dài của Ðảng.
Cứ như thể sự nghèo khổ, bản thân nó, đã là một phẩm chất cách mạng. Ðấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được Ðảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình. Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hay hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ Thái Bình. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Ði cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây!”.
Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, Cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Ðảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng, rùng mình – những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi đây, với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn? Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức tỉnh. Niềm tin ở Ðảng ăn sâu trong lòng mỗi người đến nỗi vừa buông miệng khuyên tôi trốn, lúc chia tay anh Luật lại vớt vát: “Nói thì nói vậy thôi, chứ anh không thể nào tin được Ðảng lại có thể nhẫn tâm bắt một lúc cả hai cha con một gia đình cách mạng như gia đình chú”. Mẹ tôi không muốn tôi trốn, nhưng bà lo. Tôi bị bắt thì trong nhà không còn người đàn ông nào. Hai em trai tôi đều còn nhỏ, lại đang có chiến tranh. Bà cảm thấy những gì xảy ra với người khác nay đang xảy ra với mình
Mẹ tôi nhớ đến bà bạn có chồng bị mất tích trong những ngày Cách mạng Tháng Tám. Người đàn bà khốn khổ lang thang đi hết đền này phủ nọ cầu xin Trời Phật cho chồng bà trở về với bà. Bà gần như mất trí. Khi còn trẻ ông Vinh, chồng bà, gia nhập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội. Bị lộ, ông chạy sang Pháp, vào Ðảng cộng sản Pháp. Từ Pháp ông sang Nga. Tốt nghiệp Trường đại học phương Ðông19, ông hăm hở trở về Tổ quốc tiếp tục cuộc chiến đấu. Vừa bước xuống cảng Hải Phòng ông sa vào tay mật thám. Xa nước quá lâu, ông trở về không quen biết ai, chưa kịp liên lạc với ai trong các tổ chức cách mạng. Mật thám tra tấn ông, ông chẳng có gì để khai. Tra mãi không được gì, chính quyền thuộc địa thả ông, thậm chí để cột chân ông lại, còn chiếu cố cho ông được tòng sự tại Phủ Thống sứ. Trong chuyện này tất nhiên không thể thiếu sự chạy chọt của bà vợ con nhà khá giả. Làm việc trong Phủ Thống sứ, ông Vinh vẫn không ngừng tìm cách liên lạc với những người cộng sản. Không ai dám giao thiệp với ông, kể cả cha tôi. Với ông, cha tôi đóng vai người đã nhụt chí, nay trở về với vợ con làm ăn chân chỉ. Người Pháp hoàn toàn không nghi ngờ gì ông, một công chức mẫn cán. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Lòng yêu nước trong ông không bao giờ tắt. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông hăng hái xuống đường tham gia cướp chính quyền. Thế rồi trong những ngày sôi nổi ấy, như một hòn đá rơi xuống nước, ông biệt tích.
Không ai biết ông biến đi đâu nếu như một hôm ông Trường Chinh không nói với mẹ tôi: “Chị Huỳnh ạ, chị liệu cách an ủi chị Vinh kẻo chị ấy cứ xem bói, xin quẻ mãi, tội nghiệp! Nói riêng để chị biết: ta thịt anh ấy rồi!”.
Mẹ tôi lạnh toát người: “Sao các anh nhẫn tâm thế, tàn ác thế? – bà kêu lên – Anh thừa biết anh Vinh tuy không kiên định cách mạng thật, nhưng anh ấy có phản bội xưng khai gì đâu, có gây hại gì cho đoàn thể20 đâu mà các anh nỡ giết anh ấy?” Trường Chinh phân trần rằng ông không chủ trương giết ông Vinh, người ta giết rồi ông mới biết. Lúc đó ông có muốn can thiệp thì đã muộn.
Về cái chết của ông Vinh mẹ tôi không buộc tội Trường Chinh. Nhưng bà không tha thứ cho ông tội để cấp dưới lộng hành, coi thường sinh mạng con người. Thủ tiêu đối thủ và những người tình nghi phản bội là chuyện bình thường trong Cách mạng Tháng Tám. Nhà văn Lan Khai21 bị bỏ rọ trôi sông cũng chỉ vì ông từng làm thư ký cho một hãng buôn Nhật. Cha tôi quen Lan Khai từ những ngày ở Tuyên Quang, ông rất đau lòng về chuyện này. Bà ngoại tôi thường gặp các đồng chí của cha mẹ tôi tại nhà tôi khi bà đến chơi với các cháu. Không hiểu vì lẽ gì một số người trong bọn họ không gây được cảm tình nơi bà. Bà ngoại tôi nói thẳng cho mẹ tôi biết bà không thích họ. Ðến nỗi mẹ tôi giận bà vì sự không thích ấy. Hóa ra bà ngoại tôi có lý khi nhận xét người này người kia trong bọn họ không phải là những người tử tế. Bằng sự mẫn cảm của phụ nữ, bà thấy trước được cách sống không nhân nghĩa, không có trước có sau, không có tình người, như cách ta thường nói bây giờ, của những người về sau trở thành những nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt22.
Trường Chinh đã không làm một hành động nhỏ nào để cứu cha tôi – người bạn, người đồng chí gần gụi của ông ta trong thời kỳ bí mật. Ông ta cũng không đến thăm mẹ tôi lấy một lần trong những năm cha con tôi ở tù. Cha tôi được thả rồi ông cũng không đến. Một số người biết tình bạn của hai ông cho rằng Trường Chinh không đến vì sợ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, nhưng tôi cho rằng trong thái độ này Trường Chinh trung thực với con người ông ta – ông ta thực sự nghĩ rằng cha tôi đã đứng về phía những người chống Ðảng. Trong sự đồng nhất cá nhân mình với Ðảng từ khi trở thành người lãnh đạo, Trường Chinh là người trước sau nơi một. Hoàng Quốc Việt còn tệ hơn – ông ta trở thành nhân vật tích cực trong Ban chuyên án của vụ trấn phản23. Mà chính vì hai ông cha tôi đã bị chính quyền thuộc địa bắt sau khi đưa họ đi trốn vào năm 1939.
Người như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam bình thường, không thể được coi là tử tế. Vợ tôi kể sau khi tôi mất tích, đêm đêm mẹ tôi ngồi lặng hàng giờ, mái tóc bạc xổ xuống vai. Bà như hóa đá. Linh tính người mẹ báo cho bà biết tôi đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ kiện bà tin chắc tôi đã bị bắt một cách ám muội. – Trong những ngày ấy mẹ lo nhất con bị thủ tiêu. Chúng nó có thể làm chuyện đó lắm. Bà nghẹn ngào nói, ôm chặt đứa con trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi nó cũng đã vượt qua được cái chết để trở về với bà, chín năm sau đó.
L. B. Johnson (1908-1973) cho rằng Mỹ có thể chiến thắng trong một thời gian ngắn. Bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh còn giới hạn trong phạm vi miền Nam Việt Nam bằng cách ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1965. Hậu quả của nhận định này là ông Johnson tạo ra những khó khăn cho chính mình trong cương vị tổng thống Hoa kỳ, để rồi phải rút khỏi chính trường vào tháng 3.1968.
Nhà văn nổi tiếng với những tiểu thuyết Vang Bóng Một Thời, Tóc Chị Hoài, Quê Hương, Chùa Ðàn…
Dômbi (Zômbi), chỉ những xác chết được các thầy pháp châu Phi làm cho sống lại, nhưng không có trí khôn, không nhớ gì về cuộc sống trước kia, chỉ biết thực hiện các mệnh lệnh của chủ, bị sử dụng như những con vật trong các công việc đồng áng.
Hoàng Minh Chính (sinh năm 1920, quê Nam Ðịnh, tên thật Trần Ngọc Nghiêm, nguyên Tổng thư ký Ðảng dân chủ Việt Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học) được coi như người đứng đầu cái gọi là “nhóm xét lại chống Ðảng”. Phạm Viết (1929 – 1971), nguyên sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, thương binh, nhà báo, phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới.
Cùng bị bắt với cha tôi và tướng Ðặng Kim Giang trong đợt này có các anh Trần Minh Việt, Phạm Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Ðinh Chân, Nguyễn Văn Thẩm. Trần Minh Việt – phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, Phạm Kỳ Vân – phó tổng biên tập, Nguyễn Kiến Giang – biên tập viên tạp chí Học Tập, Ðinh Chân – biên tập viên báo Quân đội Nhân dân, Nguyễn Văn Thẩm – bí thư của thứ trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm…
Giám thị trại Hỏa Lò không thấy tên tôi trong danh sách tù nhân là phải. Sau chừng hai tháng ở Hỏa Lò tôi mới biết tên tôi đã bị thay đổi. Cán bộ quản giáo chỉ biết tôi dưới một tên khác.
Áo dạ, theo quy định, dành cho cấp tá.
Lê Duẩn (1908-1986), người Quảng Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần (1931-1936, 1940-1945), từng làm bí thư Trung ương cục miền Nam trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Ðảng, bí thư thứ nhất (1960-1976), rồi tổng bí thư Ðảng (1976-1986).
Lê Ðức Thọ (1911-1990) tham gia cách mạng vào đầu thập niên 30. Tù Sơn La (1939-1944). Trong thời gian được nói tới trong cuốn này là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên thường trực Ban bí thư, trưởng Ban tổ chức Trung ương Ðảng. Ðược Trung ương Ðảng cử vào Nam năm 1946, với tư cách ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Ðảng, cấp bậc Ðảng này có lẽ do một Hội nghị Trung ương cử ra hoặc do Trường Chinh chỉ định.
Pablo Picasso, danh họa của thế kỷ XX, gốc Tây-ban-nha (1881-1973); Ilya Erenburg, nhà văn, nhà báo Liên Xô (1891-1967).
Trường Chinh (1907-1988), nguyên quán xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Ðịnh, hoạt động cách mạng từ 1927, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, quyền tổng bí thư Ðảng một thời gian trước Cách mạng Tháng Tám, ủy viên Bộ Chính trị và Tổng bí thư Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951-1956.
Trần Ðình Long (1905-1946), đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, được đào tạo tại trường Ðại học Ðông phương Moskva. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Long được Ðảng dự kiến giữ chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nhưng sau chức này được nhường cho ông Nguyễn Tường Tam để thể hiện sự đoàn kết rộng rãi trong thành phần chính phủ cách mạng lâm thời. Ông bị người của Quốc dân đảng đột nhập vào nhà riêng của ông bà ở phố Chợ Ðồng Xuân bắt mang đi thủ tiêu, không rõ xác chôn ở đâu.
Một nhà cách mạng lâu năm, xuất thân lính thợ, đảng viên Ðảng cộng sản Pháp, sau năm 1954 làm phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Bí danh của Trường Chinh.
Phạm Văn Ðồng (sinh 1906 tại Quảng Ngãi) hoạt động cách mạng từ cuối thập niên 20. Năm 1929 bị thực dân Pháp bắt giam 7 năm. Ðược bầu vào Bộ Chính trị Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951, làm bộ trưởng bộ Ngoại giao rồi thủ tướng chính phủ từ năm 1954 tới năm 1987 (kiêm nhiệm bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ 1954-1961).
Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), hoạt động cách mạng trước 1930, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, từ 1945 là ủy viên Trung ương Ðảng, đại sứ Việt Nam tại Liên Xô 1952-1957, 1969 làm phó chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau đó.
Bị đánh lạc hướng.
Anh Luật có lý trong suy luận: trong vụ trấn áp “nhóm xét lại chống Ðảng” chỉ có những người tù cũ ở Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ bị bắt. Có lần tôi nghe tướng Ðặng Kim Giang nói về chuyện công sứ Sơn La Coussot có mua chuộc được vài tên phản bội làm chỉ điểm, do đó có những kế hoạch của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.
Trường do Quốc tế cộng sản (Comintern) mở tại Moskva để đào tạo cán bộ cách mạng vô sản.
Một cách gọi Ðảng cộng sản trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Nhà văn nổi tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng.
Tên thật là Hạ Bá Cang, một nhà cách mạng có tiếng trước Cách mạng Tháng Tám, sau này phụ trách công tác công đoàn trong một thời gian dài.
Trấn áp phản cách mạng.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:21:26 GMT -6
Chương 2
Vừa lôi thốc tôi lên xe, tên ngồi bên phải lập tức bẻ quặt tay tôi ra sau lưng. Bàn tay y cứng như sắt. Một nòng súng lục thúc mạnh vào sườn tôi bên trái. Tôi nhăn mặt vì đau. Trong đợt này, cùng với tôi, còn có những ai bị bắt? Ðó là ý nghĩ đầu tiên đến với tôi, không hiểu sao lúc ấy lại dửng dưng với số phận mình đến thế. Người lái xe quặt mạnh vô-lăng. Chiếc xe lạng sang một bên, xoay nửa vòng rồi lao về phía Tràng Thi. Tôi vẫn cầm bông hồng Nam Dương, quà tặng của một người bạn vong niên, trong bàn tay trái còn được thả lỏng.
Nghe tin nhiếp ảnh gia Trần Văn Lưu ốm nặng, anh mắc chứng lao phổi đã nhiều năm, sáng hôm ấy tôi đến thăm anh. Như vậy, Trần Văn Lưu là người cuối cùng và duy nhất gặp tôi hôm đó. Không thấy tôi trở về vợ tôi sẽ lên hỏi anh Lưu và gia đình sẽ đoán được tôi mất tích vào lúc nào. Nhưng tìm ở nhà anh không thấy, mọi người có thể cho rằng sau khi ở nhà anh Lưu ra tôi còn đi chơi nơi nào khác, sẽ nháo nhào đi tìm khắp nơi để rồi cuối cùng mới hiểu tôi mất tích.
Chao ôi, mẹ tôi, vợ tôi sẽ hốt hoảng lắm đây. Tại người ta không bắt tôi ở nhà, như thế có đàng hoàng hơn không? Trong tay nhà cầm quyền có cả bộ máy đàn áp khổng lồ, họ giở trò bắt cóc làm gì? Ðể thủ tiêu chăng? Có lẽ không phải. Nếu muốn thủ tiêu tôi thì bắt cóc giữa Hà Nội là quá dở. Việc đó làm ở một nơi đèo heo hút gió nào khác tốt hơn nhiều. Mà tôi thì lại thường công tác xa nhà. Hay cha tôi làm sao?
– Không cần phải nắm chặt như thế.- tôi cục cựa cánh tay bị bẻ quặt.
Có vẻ câu nói của tôi có tác dụng – những ngón tay lỏng ra được một chút.
Tôi đưa bông hồng lên ngắm nghía. Nó nhỏ hơn hẳn hoa hồng ta thường gặp, chỉ nhỉnh hơn bông nhài một chút, nhưng thật là đẹp. Cánh của nó trắng lên một màu trắng tinh khôi, mịn màng, cho ta cảm giác cánh hoa hơi xốp. Cách phân bố các cánh rất hài hòa với đường cong mĩ miều của đài. Anh Lưu khoe anh cậy cục mãi mới xin được cành hồng Nam Dương này. Anh giâm nó trong một bồn nhỏ, nâng niu chăm bẵm mấy tháng trời. Cành hồng con lớn lên chậm chạp thành một cây hồng mảnh mai và trổ bông đầu tiên. Từ bông hoa bé bỏng trên tay tôi bay lên một mùi thơm dịu dàng. Lướt nhanh về phía sau là những ngôi nhà đóng kín. Phố Tràng Thi trong buổi sáng vắng tanh vắng ngắt. Hè phố ngập lá vàng không người quét dọn. Tôi chú mục nhìn những người thưa thớt đạp xe ngược chiều, nhưng không gặp ai quen.
Bị kẹp chặt cứng giữa hai tên công an trước mặt tôi chỉ có một khoảng trống hẹp phía trước. Tôi buồn rầu ghi vào trí nhớ như thể lần cuối được nhìn thấy những cảnh đang lướt qua. Mọi cái đều quen thuộc, quen thuộc tới mức không còn để ý tới chúng. Kia, những con đường trải sỏi vàng dưới bóng râm những hàng đại thụ quanh Thư viện Quốc gia. Còn đây là ngôi nhà quét vôi hồng nằm trong khu vườn rộng đầy cỏ mần trầu một thời tôi đã ở sau ngày tiếp quản Hà Nội. Lướt nhanh bên phải là Cửa hàng mô-tô xe đạp thường xuyên đóng cửa im ỉm. ê đây tôi mua chiếc xe đạp đầu tiên cho vợ. Tôi nhớ tới kỷ niệm liên quan tới cửa hàng này. Chả là vợ tôi thích chiếc Mercier bằng đuy-ra, còn tôi thì ngang bướng nhất định chọn chiếc Thống nhất nội hóa. “Ta phải ủng hộ hàng nội hóa, em ạ. Nếu ta mà cũng không chịu ủng hộ hàng nội thì nền sản xuất nước mình sẽ ra sao?” tôi nói với vợ bằng giọng gia trưởng. Chiếc Thống Nhất được chọn bởi lập trường hỏng lên hỏng xuống, năm ngày ba tật. Nhìn tôi dắt xe đi sửa vợ tôi tủm tỉm cười, nhưng không trách tôi một lời. Kia nữa, hiệu cắt tóc quen thuộc của tôi. Qua tấm kính lớn tôi thấy bác phó cạo già hay chuyện đang lúi húi tỉa tót mái đầu muối tiêu của ông khách đứng tuổi, chắc cũng loại khách quen, như tôi… Chiếc com-măng-ca rẽ vào đường Phủ Doãn, quặt sang Lý thường Kiệt, chạy thêm một quãng ngắn rồi lại rẽ trái.
Ðến đây thì tôi hiểu mình được đưa đi đâu. Trước mặt tôi sừng sững bức tường đá Hỏa Lò.
Cái nhà ngục nổi tiếng khắp nước này được thực dân Pháp xây dựng trong những năm cuối thế kỷ XIX1, đồng thời với Nhà Dây Thép (nay là Bưu Ðiện Trung Tâm) và Nhà Thương Ðồn Thủy (nay là Bệnh Viện Quân Y 108) cầm giữ bên trong những bức tường đá của nó nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, từ những nhà ái quốc Cần Vương, Văn Thân, Ðông Kinh Nghĩa Thục, cho tới những đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng thời anh hùng Nguyễn Thái Học, và tất nhiên, các chiến sĩ cộng sản. Trong gia đình tôi Hỏa Lò được nhắc tới luôn do sự có mặt thường xuyên trong đó của các bạn cha tôi, và của chính ông, hết người này đến người khác. Mặc dầu nổi tiếng là thế, Hỏa Lò không phải là nhà ngục kiên cố nhất Việt Nam. Bằng chứng là tại đây đã xảy ra nhiều cuộc vượt ngục, lớn nhất là cuộc vượt ngục đông đảo của những người cộng sản vào đêm trước của Cách mạng Tháng Tám. Tên chính thức của Hỏa Lò là Maison Centrale (Lao Trung Ương), nhưng cái tên đó chỉ tồn tại trong các văn bản hành chính thuộc địa. Với dân chúng nó mãi mãi là Hỏa Lò, cái phố tí xíu từ thời “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, nơi phường gốm sản xuất một mặt hàng duy nhất là hỏa lò, thứ bếp dùng than tàu (than hoa) mà ngày nay họa hoằn ta mới gặp. Phần lớn người Hà Nội không biết gốc tích dung tục của Hỏa Lò, nghĩ rằng nó là tên gọi tượng trưng cho sự khủng khiếp bên trong cái nhà tù nổi tiếng. Tên gọi của nó gợi nên liên tưởng gớm ghiếc về hỏa ngục Thiên chúa giáo hừng hực lửa vạc dầu và nhung nhúc quỷ sứ.
Hai cánh cửa sắt được mở ra với một tiếng rít lanh lảnh, kéo dài. Chiếc com-măng-ca rồ máy chui tọt vào trong cái miệng kim loại há hốc của nó.
Hai tên cô hồn nhảy xuống, hất hàm:
– Xuống!
Tôi xuống. Trước mặt tôi là một cái sân mênh mông, vắng ngắt.
– Ðợi đây!
Ðó là tên ngồi bên trái tôi nói. Mặt nhâng nháo, y nhét súng vào cạp quần rồi lấy vạt áo sơ-mi phủ lên. Cử chỉ của y làm tôi nhớ tới điệu bộ của những tên côn đồ nhâng nháo trong những bộ phim đấm đá rẻ tiền của phương Tây. Ðồ vật hóa ra có khả năng làm cho con người trở thành giống nhau. Tôi dám chắc cái tên du côn trong biên chế nhà nước kia chưa hề được xem dù chỉ một phim thuộc loại đó. Chiếc com-măng-ca được lái đi. Hai tên công an biến mất, để lại sau chúng mùi thuốc lá rẻ tiền. Tôi không biết chúng đi lúc nào.
Có lẽ đây là góc im ắng nhất thành phố. Trong vòm cổng Hỏa Lò hai chàng trai trong quân phục công an nhân dân vũ trang mải mê đánh bóng bàn, chẳng thèm nhìn tôi lấy một lần. Ngoài tiếng lách tách của bóng nhựa đập xuống mặt gỗ trong cả một vùng tĩnh lặng không còn tiếng động nào khác. Tưởng chừng cái nhà tù lừng danh một thuở nay đã trở thành Viện bảo tàng tội ác của chế độ thực dân.
Không thấy bị canh chừng, tôi lững thững thả bộ trong cái sân rộng và sạch bong, với những bồn hoa nho nhỏ đặt trước những khối nhà dài. Tôi có cảm thấy sợ hãi không khi bị đưa tới nhà ngục nổi tiếng này? Trong phút đó, không hiểu vì sao, chính tôi cũng ngạc nhiên, lẽ ra phải run sợ thì tôi lại không thấy một chút xao xuyến nào. Mới hay lòng mình chai sạn quá rồi, tâm hồn mình lạnh lẽo quá rồi, lại do mình đã biết chắc cái sự khốn kiếp này nhất định sẽ xảy ra, chẳng cách nào tránh được, chỉ có sớm hay muộn mà thôi, nay nó xảy ra rồi, coi như số phận mình đã an bài, khỏi cần lo nghĩ nữa.
Từ vài tháng nay, tôi biết mình bị theo dõi chặt. Vừa bước chân khỏi nhà đã thấy một lũ công an mật bám theo. Phát hiện chúng chẳng có gì khó. Chỉ cần rẽ ngoặt nhiều lần trong mạng nhện phố xá là đã nhận ra những kẻ bám sát mình không rời. Tôi thường đi cùng Thu Hòa, em gái tôi. Thu Hòa sáng ý, chỉ đảo mắt nhìn qua em tôi đã biết xe nào đang theo xe mình. Nhà tôi ở góc đường Hai Bà Trưng – Phan Chu Trinh, trạm quan sát của mật thám đặt trên tầng thứ ba trường phổ thông trung học ở góc đường bên kia. Từ trên gác cao những tên cá chìm làm nhiệm vụ cảnh giới liên lạc bằng điện thoại với đám trinh sát chực sẵn trong một ngôi nhà nằm trên đường Lý Thường Kiệt. Em tôi còn ghi được cả số xe bọn chúng. Có vẻ, bọn mật thám thấy việc theo dõi là trò hề, bắt chúng tôi lúc nào mà chẳng được, không hiểu cấp trên sai chúng theo dõi để làm gì. Cho nên có vẻ chúng chẳng buồn che giấu công việc chúng phải làm. Chứ làm gì mà chúng khờ khạo đến thế! Về phía tôi, tin mình chẳng làm gì phạm pháp, tôi chẳng sợ chúng chút nào. Bực mình lên, thỉnh thoảng hai anh em tôi còn trêu trọc chúng nữa kia. Tôi bình thản được còn vì tôi ý thức được thân phận mình. Trong chuyện này tôi phải cảm ơn Lênin (hay Engels?). Nếu tôi nhớ không lầm thì trong tập Bút Ký Triết Học của ông, Lênin có nói:”Tự do là sự ý thức được cái tất yếu”. Chí lý thay!
Cái tất yếu trong chế độ này là thế nào tôi đã biết. Tôi, hay bất cứ ai, chúng tôi đều là chim trong lồng, là gà trong chuồng, người ta muốn lôi ra cắt tiết lúc nào được lúc ấy. Con người chẳng có quyền gì hết trước Ðảng toàn năng. Vì thế trước đó mấy ngày tôi đã lạnh lùng chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Vợ tôi sẽ tìm thấy trong ngăn kéo bàn viết của tôi, nếu không ngay lập tức thì một thời gian sau, bức thư tôi dặn dò mọi việc trong nhà. Tôi muốn vợ tôi giúp tôi thực hiện trách nhiệm của người con cả đối với gia đình. Ðó là gánh nặng, nhưng tôi biết vợ tôi sẽ không từ nan. Nghĩ mà bực mình.
Tôi sa vào vụ trấn phản này một cách thậm vô duyên, chẳng ra làm sao cả. Tôi là cái gì kia chứ? Một nhà báo quèn không tên tuổi, không cả bề dày cách mạng, nghĩa là chẳng có gì đáng để người ta phải gờm, để có thể trở thành kẻ thù của nhà cầm quyền. Tôi cũng chẳng làm gì để người ta phải điều một lô một lốc những tên ăn không ngồi rồi lẵng nhẵng theo tôi cả ngày lẫn đêm. Sách lược nhổ cỏ phải nhổ cho tận rễ vốn có tính truyền thống trong các quốc gia châu Á. Chỉ ở châu Á mới có những án hình tàn bạo như chu di tam tộc, chu di cửu tộc. Những triều đại phong kiến ở Trung Quốc, ở Việt Nam đều dùng cách này xử tội những quần thần bất tuân. Bây giờ tôi đang sống trong một xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng nhà cầm quyền của nó xử sự với dân chúng chẳng khác gì những xã hội trước nó, nếu không tồi tệ hơn. Từ lâu rồi người ta áp dụng cách đối xử phân biệt rõ ràng đối với con cái những người mà họ cho rằng có mầm mống phản kháng. Những đứa trẻ chưa kịp có ý thức về lòng căm thù cách mạng đã bị cái gọi là cách mạng của những tên độc tài căm thù trước, bị chà đạp xuống tận bùn đen, không cho ngóc đầu dậy.
Tất cả những lời lẽ đạo đức giả chỉ được dùng như một nước sơn qua quít. Người ta nói nhưng không tin chính lời nói của mình. Tôi thích tính cách Lê Duẩn. Dù sao mặc lòng Lê Duẩn cũng vẫn là một tên độc tài thẳng thắn, so với những tên độc tài khác.
“Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”, Lê Duẩn nói toạc móng heo trước bàn dân thiên hạ. Không quanh co, không uốn éo. Quan niệm chuyên chính này được đương kim tổng bí thư tâm đắc lắm. Nó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ở nhiều cuộc họp, trước đông đảo cán bộ nghe lãnh tụ huấn thị, chính tôi cũng được nghe.
Chuyên chính, chuyên chế, hay độc tài, những từ làm nhân loại sởn gai ốc, ở nơi khác thường được che phủ bằng ngôn từ hoa mỹ, nhưng trong chế độ xã hội chủ nghĩa hiện tồn lại có dáng dấp một đức tính sang trọng, là cái nhiều người còn lấy làm hãnh diện phô ra. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Quốc Hoàn2 phụ họa theo tổng bí thư: “Nhiều đồng chí chúng ta tỏ ra còn thiếu kiên quyết trong việc trấn áp bọn phản cách mạng, thiếu nhiều lắm. Họ run tay. Họ sợ nhầm. Họ không biết rằng trong công tác của chúng ta lợi ích của cách mạng là cao hơn hết, thiêng liêng hơn hết! Sai thì sửa, việc gì mà sợ!” Ði ngược chiều lịch sử ta thấy trong Cải cách ruộng đất Trường Chinh cũng đã từng khuyến dụ “Nhầm mười (người vô tội) còn hơn sót một (địch)”. Biện pháp phòng ngừa chưa từng tỏ ra không hữu hiệu. Sát nhất nhân vạn nhân cụ3, lời cổ nhân nói không sai.
Tôi còn phải chờ hơn một tiếng đồng hồ nữa mới thấy Huỳnh Ngự dẫn xác đến. Y xuống xe, xăm xăm bước tới, hất hàm hỏi tôi:
– Anh đang mần chi ở đó? Tôi cau mặt nhìn y. Cục phó Cục Chấp pháp Huỳnh Ngự không phải người xa lạ đối với gia đình tôi. Chính y dẫn thuộc hạ đến nhà tôi đêm 18 tháng 10 để bắt cha tôi. Sau khi đưa cha tôi đi y còn quay lại chỉ huy việc lục soát tới tận sáng. Phòng vợ chồng tôi ở cũng bị khám kỹ, chỉ chừa một cái tủ. Vợ tôi nói tôi quên, mang chìa khóa theo khi đi công tác Nam Ðịnh, nếu muốn khám thì cứ việc phá ra mà khám. Chúng không phá, mà niêm phong lại, đợi tôi về khám tiếp.
Mẹ tôi kể khi Huỳnh Ngự khám nhà thấy mẹ tôi cứ đứng lì ở khung cửa giữa hai căn phòng đang bị lục soát, y khuyên mẹ tôi:”Chị cứ ngồi xuống, mặc chúng tôi làm việc”. Ðáp lại, mẹ tôi nói: “Tôi phải đứng ở đây để xem các anh có bỏ tài liệu gì vào nhà tôi không. Cái lối chôn rượu lậu trong vườn người khác chúng tôi biết lắm. Chúng tôi không khờ”. Huỳnh Ngự nuốt giận, coi như không nghe thấy câu nói vỗ mặt. Một người quen tôi làm trong Bộ Nội Vụ cho biết y tên Huỳnh Ngự, cục phó Cục chấp pháp. Với tư cách trưởng Ban tổ chức Trung ương, người có công chặn đứng mưu toan lật đổ ban lãnh đạo Ðảng, Lê Ðức Thọ được dư luận nhắc tới nhiều nhất bắt đầu từ vụ bắt bớ này. Những thông báo số 1 rồi số 2, nghe cứ oang oang như những bản tin chiến thắng, với những lời lẽ nửa kín nửa hở về một cuộc nổi loạn vũ trang, được chính Thọ và tay chân trong Ban tổ chức Trung ương đi phổ biến trong các cuộc họp hạn chế, nửa bí mật. Không khí khủng bố đè nặng lên mỗi người. Số đông cán bộ cũ xót xa cho các đồng chí chẳng may rơi vào tay Sáu Búa4. Họ nóng lòng chờ đợi ông Hồ Chí Minh có ý kiến, chờ đợi ông ra tay, hi vọng ông sẽ không để xảy ra sai lầm lần nữa. Một Cải cách ruộng đất, một Chỉnh đốn tổ chức đã quá đủ cho cuộc đời một đảng rồi.
Từ Nam Ðịnh về tôi sửng sốt biết cha tôi đã bị bắt. Mẹ tôi gục vào vai tôi. Bà gày rộc. Cú đánh tàn nhẫn làm bà kiệt lực. Tôi thương mẹ quá! ê xa mọi diễn biến trên chính trường bà không biết cuộc cách mạng của bà từ lâu rồi đã rẽ sang nẻo khác. Bên cạnh bà, tôi bình tĩnh đến lạnh lùng. Có thể, thế hệ tôi ít ảo tưởng hơn các thế hệ đàn anh và cha chú cho nên tôi mới không bị đòn đánh làm cho tê tái, làm cho mất khả năng suy nghĩ. Nhìn ngôi nhà bị xáo trộn tan hoang như vừa qua trận giặc càn tôi chỉ rùng mình. Nó càng lạnh lẽo khi vắng bóng cha tôi. Hồi ông chưa bị bắt ngôi nhà không lúc nào vắng khách. Bây giờ chẳng còn ai dám lai vãng.
Tôi cho rằng cuộc tổng khủng bố chỉ mới bắt đầu. Sau cha tôi sẽ đến lượt nhiều người khác. Trong đó có thể có tôi. Ngày hôm sau, tôi tới Bộ Nội Vụ để báo tôi đã về. Tôi làm đúng như lời dặn của nhà chức trách để họ không có cớ gây sự thêm với tôi, chứ có cả một lũ công an mật đông đảo theo sát tôi từng bước họ thừa biết tôi ở đâu. Tôi cũng chuẩn bị sẵn để có bị bắt cũng không bị bất ngờ. Vợ tôi, nước mắt rưng rưng, giúp tôi xếp hai bộ quần áo, bàn chải răng, khăn mặt và vài đồ dùng lặt vặt khác vào ba-lô5. Khi tôi dắt xe ra khỏi nhà mẹ tôi lặng lẽ đặt tay lên vai tôi và nhìn lâu vào mắt tôi. Trong giây lát, mắt bà đã nhòa lệ. Vợ chồng tôi đạp xe đến thẳng phòng thường trực Bộ Nội vụ ở số 16 Trần Bình Trọng. Chúng tôi đi trong im lặng. Tôi đạp, vợ tôi ngồi ủ rũ trên đèo hàng.
Vợ tôi cũng có mặt trong buổi nói chuyện giữa tôi với anh Nguyễn Trọng Luật. Ngoài miệng vợ tôi đồng ý với tôi, nhưng trong thâm tâm vợ tôi vẫn phân vân – nếu anh Luật đã giúp cho một chỗ trốn thì tại sao tôi lại không chịu trốn, lại để mặc cho bị bắt? Ngồi sau tôi, vợ tôi úp mặt vào lưng tôi khóc khe khẽ.
Ðó là cuộc tiễn đưa của người vợ đưa chồng đến cõi chết. Trên đường Nguyễn Du rẽ sang Trần Bình Trọng tôi gặp Nguyên Hồng6 đi ngược chiều. Trên người anh vẫn cái áo pi-gia-ma xanh nhạt đã ngả sang cháo lòng, vẫn cái quần ximili xám vén gấu, vẫn cái xà-cột đựng bản thảo tòn ten bên hông. Chòm râu anh mới nuôi năm trước giờ chấm cổ áo. Ðang tư lự trên hè, nhác thấy tôi anh giật mình đứng lại. Tôi xuống xe, định đến bắt tay anh thì bỗng Nguyên Hồng hấp tấp lùi lại, bước tránh sang vệ cỏ. Ðôi mắt anh bùi ngùi nhìn tôi. Rồi rất trịnh trọng, anh chắp tay xá tôi, xá dài theo kiểu người xưa, môi mấp máy nói gì không rõ. Tôi đứng lặng. Nguyên Hồng đùa hay thật? Không, anh không đùa. Ðành cúi đầu xá anh, đáp lễ.
Nguyên Hồng làm thế là phải. Ðã mấy tháng nay nhất cử nhất động của gia đình tôi đều bị theo dõi. Không cứ anh, ai cũng phải làm như thế.
Nguyên Hồng lẳng lặng đi, đầu cúi. Nhìn anh lầm lũi trên phố vắng, vợ tôi hỏi:
– Ông nhà quê nào đấy hả anh?
Khổ, chòm râu dài, cái mũ lúc sụp xuống trán, nước da đen nhẻm làm cho vợ tôi không nhận ra Nguyên Hồng. Vợ tôi đã gặp anh, đã ăn cơm với anh ít nhất cũng vài lần ở nhà tôi và nhà anh Bùi Ngọc Tấn7 dưới Hải Phòng. Anh thay đổi nhiều kể từ ngày về Yên Thế. Anh đã tin nhiều để rồi không tin nữa cũng trong những năm ấy. Tôi nhìn theo tác giả Bỉ Vỏ. Anh đi không ngoảnh lại.
Cuộc gặp gỡ Nguyên Hồng để lại trong tôi cảm giác xót xa8. Tôi không giận Nguyên Hồng. Tôi chỉ buồn thôi. Buồn lắm. Trong những ngày ấy mọi người đều xử sự như thế và xử sự như thế mới là khôn ngoan. Chẳng bao giờ tôi được gặp lại Nguyên Hồng nữa, mặc dầu khi tôi ra tù anh còn sống. Tôi yêu mến Nguyên Hồng hơn bất cứ nhà văn nào cùng thời. Anh là người có trái tim trong sáng và tư cách kẻ sĩ. Huỳnh Ngự lạnh nhạt ra tiếp tôi. Y gườm gườm nhìn cái ba lô tôi mang theo, nhưng không nói gì, hẹn ngày khám tủ, rồi bảo tôi về. Vợ tôi cho đó là dấu hiệu tốt, rằng căn cứ cách đối xử không gay gắt của Huỳnh Ngự, chắc nhà cầm quyền sẽ không đụng tới tôi. Ðúng hẹn, vào buổi tối Huỳnh Ngự đến mang theo hai nhân viên. Nhìn con người nhỏ thó, gày còm trong bộ dạ đen, tiếng cười chua loét chọc thẳng vào màng nhĩ, tôi không ngờ rồi đây tôi sẽ còn phải đối mặt với y nhiều, trong một thời gian dài. Mắt hoay hoáy sau cặp kính lão gọng sừng, y vừa khám xét, vừa cười hé hé tự tán thưởng những câu bình luận vô duyên. Tiếng mỗi cuốn sách bị quăng xuống sàn trong yên lặng giội vào tim tôi. Ðược cha mẹ giáo dục từ nhỏ thái độ kính trọng đối với sách báo, và nói chung đối với mọi sản phẩm của trí tuệ, tôi không ngớt ngạc nhiên trước hành động vô văn hóa của bọn mật thám ngày trước và bọn công an bây giờ. Về mặt này chúng không khác nhau. Dường như chỉ riêng có loại chúng sinh đặc biệt này là thích dày đạp lên trí tuệ. Chỉ có chúng mới cảm thấy lạc thú được phỉ nhổ trí tuệ.
Cuối buổi khám xét chúng thu được một bị lớn gồm tất cả những gì có chữ viết – bản thảo, thư từ, sổ ghi chép của tôi và của vợ tôi. Cả những băng ghi âm và bộ đầu từ dự trữ cho máy ghi âm chúng cũng thu tuốt.
– Máy ghi âm đâu? – Huỳnh Ngự hỏi.
– Bán rồi. – tôi đáp.
Y không bằng lòng thấy tôi trả lời trống không. Nhưng y hỏi trống không thì tôi cũng trả lời trống không. Lịch sự với y chỉ có thiệt.
– Ghê thật, dám chơi máy ghi âm. – y dài giọng
– Anh có biết phải có giấy phép mới được chơi máy ghi âm không?
– Không biết. Tôi dùng chứ không chơi.
– Trừ các cơ quan, tư nhân không ai được phép sử dụng máy ghi âm. Quy định của Nhà nước là thế, rõ chưa?
– Tôi chưa được thấy quy định này trên báo chí.
– Không phải quy định nào cũng cần phải đăng báo.
Nhân chứng hình thức cho cuộc khám xét là bà tổ trưởng dân phố, người quen của chúng tôi. Bà này tính tình hiền lành, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, ngồi yên một góc với vẻ mặt buồn phiền vì phải tham gia vào việc làm bất nhẫn. Bà quay mặt đi, tránh nhìn cảnh đang diễn ra. Bây giờ, đứng giữa sân Hỏa Lò, trong lãnh địa của y, Huỳnh Ngự bé nhỏ khuỳnh khuỳnh hai tay chống nạnh, cái mặt quắt vênh lên: – Tôi hỏi: anh đang mần chi? – Các anh đưa tôi đến đây bảo đợi thì tôi đứng đây tôi đợi, chứ còn làm gì? – tôi nhún vai đáp – Ðợi ai, đợi cái gì, để làm gì, thì lại không thấy nói. Ðứng chán, tôi đi dạo. Anh muốn biết tôi làm gì à? Thì đấy, tôi đang ngắm cảnh. Xem nó có gì khác trước… – Nè, anh đừng có láo nghen! Anh chưa từng bị bắt, vô Hỏa Lò khi mô mà phách lối: coi nó có chi thay đổi? Ơ hay, cái lối gì thế này? Câu chuyện giữa chúng tôi vừa mới bắt đầu, hà tất phải giở giọng quát nạt? Một thứ đòn phủ đầu, có lẽ thế. Về sau mới biết tôi hiểu lầm từ láo của Huỳnh Ngự – ở quê hương y nó có nghĩa là không đúng sự thật chứ không phải hỗn láo. Còn thói lớn giọng, như sau này tôi được biết, là cố tật của y.
– Tôi sẽ giải thích cho anh hiểu: tôi đã vào đây một lần vào năm 1939 – không phản ứng, tôi thản nhiên đáp – Hồi ấy Mặt trận Bình dân9 ở bên Pháp vỡ, bên này bọn thực dân tổng khủng bố. Cha tôi bị bắt. Bọn mật thám giở đủ ngón tra khảo không ăn thua, chúng cho phép mẹ tôi mang con vào thăm, hi vọng cha tôi sẽ đổi ý. Nhưng ông vẫn im lặng. Tôi còn nhớ chỗ này có một bức tường ngăn, còn ở góc đàng kia có một giàn nho điếc… Huỳnh Ngự hiểu ẩn ý trong câu nói. Y khịt mũi mấy cái, tìm câu đối đáp. Tìm không ra, y sẵng giọng: – Nè, anh có hiểu anh đang đứng ở nơi mô không đó? Nơi ni kêu bằng Hỏa Lò, biết nó là cái chi không? Biết, hả? Nói thiệt cho anh hay: anh bị bắt rồi đó! Tôi bật cười: – ỷa, anh tưởng đến giờ tôi còn chưa biết sao? Anh báo khí chậm: tôi biết ít nhất cũng cách đây hai tiếng đồng hồ rồi! – Theo tui!
Y hầm hầm ngoắc tay ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi lẳng lặng theo y đi về phía ngôi nhà dài và thấp, đối diện với cổng Hỏa Lò.
Gần tới nơi Huỳnh Ngự đi chậm lại, nói với tôi:
– Nói thiệt cho anh hay: cơ quan an ninh thật ra cũng chưa muốn bắt anh mô! Loại cán bộ tép riu như anh bắt làm chi cho uổng công. Ðảng đã ra thông báo cho các anh thời gian để các anh tự khai báo. Nhiều người đã đến xin Ban tổ chức Trung ương cho được thú tội, họ có sao mô. Họ vẫn sống yên lành với vợ với con. Còn anh thì bị. Anh bị là bởi anh không biết đều. Nghĩ mà coi: trước Ðảng, anh là cái thứ chi? Anh chẳng là cái thá chi hết trọi. Một con muỗi mắt. Một hạt cát… Nhân tiện tui cũng cho anh hay: đích thân anh Sáu10 ra lịnh bắt anh đó!
Tôi bật cười:
– Anh thật sự nghĩ rằng nếu tôi được Trưởng ban Tổ chức Trung ương đích thân hạ lệnh bắt thì hân hạnh nhiều hơn hay sao? Ai hạ lệnh bắt thì cũng thế cả thôi, anh hay anh Sáu, anh Ba, anh Năm11, hay anh nào khác. Chưa tới lúc các anh phải đổ lỗi cho nhau.
Huỳnh Ngự đứng phắt lại:
– A! Anh láo! – y gầm lên, nếu như cái giọng the thé của y có thể gọi là gầm – Vào đến đây rồi mà vẫn còn láo! Anh nhớ lấy: đây là Hỏa Lò! Hỏa Lò, anh hiểu chưa?
Lần này tôi không lầm. Chữ láo mà y dùng lúc này chính là hỗn láo.. Chúng tôi bước vào một căn phòng không cửa, cửa một hàng song sắt có thể đẩy qua đẩy lại. Hai tên cô hồn đã có mặt, như từ dưới đất chui lên. Không hiểu chúng vào bằng đường nào, từ bao giờ. Chúng xun xoe bên Huỳnh Ngự, nhưng Huỳnh Ngự gạt ra. – Cởi quần áo!
Giọng nói hách dịch của Huỳnh Ngự làm tôi lộn ruột. Trước nay chưa có ai nói với tôi bằng cái giọng như thế.
Tôi quắc mắt nhìn y, cởi phăng áo bông, nhưng không đưa cho Huỳnh Ngự mà quăng nó xuống sàn, trước mặt y.
Y lườm tôi rồi lẳng lặng nhặt lên, lật qua lật lại, lộn trái các túi áo, bỏ các vật tìm thấy lên bàn: chùm chìa khóa, khăn mu-soa, ví tiền, các thứ giấy tờ lặt vặt… Tôi có thói hay ghi những điều cần nhớ lên những mẩu giấy bất kỳ rồi sau đó để vãi lung tung. Trong mấy mẩu giấy Huỳnh Ngự thu được có một mẩu tôi ghi lại những số biển đăng ký xe đạp của lũ cá chìm12. Tôi ghi lăng nhăng chơi, chứ chẳng để làm gì. Tôi cũng có ý định chuyển cho các bạn để các bạn chú ý xem họ có bị theo dõi không, bởi vì bọn công an mật thường thay đổi nhau theo dõi các đối tượng, nhưng chưa kịp.
Trông cái cách Huỳnh Ngự lần từng đường chỉ ở nẹp áo bông, tôi nghĩ hẳn y ngờ tôi có mang một cái gì đó đáng ngờ trong người, một bức thư mật chẳng hạn. Nhưng chẳng có cái gì hết. Vừa khám y vừa chun mũi lại, chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ, còn những ngón khác vểnh lên, như sự đụng chạm với quần áo của tôi làm y gớm. Tôi nhớ tới tên mật thám Pháp khám nhà chúng tôi năm 1939, cung cách cũng y như vậy. – Cởi nốt! Tôi lột nốt sơ-mi, quần, quăng tuốt xuống đất. Ðứng mãi cũng mỏi, Huỳnh Ngự ngồi thụp xuống, lần mò khám xét đống áo quần dưới chân tôi. Trong bộ cánh mùa đông bằng dạ đen hai cổ tay gày gò với những ngón tay khô xác thò ra ngoài hai ống tay áo cũn cỡn, trông y giống một con ruồi trâu. – Há mồm!
Tôi há mồm. Cặp mắt nhỏ và khô của Huỳnh Ngự nghiêng ngó qua tròng kính viễn nhìn sâu vào hốc miệng tôi. Chẳng lẽ y thực sự nghĩ trong đó có gì? Y có vẻ mặt thất vọng. Cuộc bắt cóc giữa đường được tổ chức chu đáo, một cách bất ngờ nhất, đã không mang lại kết quả.
Trên người tôi chỉ còn áo may-ô, quần đùi. Ðể chơi chướng, tôi cởi tuốt tuột vứt xuống cho y. Căn phòng không có cửa, gió thông thống. Trong bộ cánh Adam tôi phải cố gắng để không run rẩy. Mùa đông đến muộn, thời tiết mấy ngày qua đặc biệt khó chịu, nay nóng mai lạnh. Mới hôm trước còn nóng như đầu thu, hôm nay từ nửa đêm về sáng trời đột nhiên trở rét. Càng về chiều nhiệt độ càng xuống thấp. Một anh công an đứng bên bàn ái ngại nhìn tôi rồi lẳng lặng bỏ ra ngoài. Quay lại, anh ta đưa cho tôi bộ đồng phục tù mới tinh: áo cánh, quần dài chân què, với những sọc lớn màu huyết dụ trên nền nâu non. Thứ quần áo tù này tôi đã nhìn thấy trên báo, trên người các phi công Mỹ. Nhưng báo chỉ in đen trắng, không biết màu gì. Huỳnh Ngự cho anh ta một cái nguýt dài. – Cảm ơn anh. – tôi nói. Bộ quần áo mới tinh, còn chua mùi hồ. Tôi lóng ngóng mặc. Không hiểu nhà thầu nào đã may thứ quần áo kỳ cục này: áo không cúc cài, quần không dải rút, hồ lại quá dày làm cho nó cứng như mo nang. Trong phòng không có gương, nhưng tôi cũng hình dung ra hình ảnh tức cười của tôi trong bộ cánh mới: áo vắt chéo vạt lại cho kín mà vẫn hở ngực, quần thắt lá tọa kéo cả hai ống lên cao để lộ đôi cẳng chân. Không thấy gì đáng ngờ trong số đồ vật thu được, Huỳnh Ngự chuyển sự chú ý qua bông hồng Nam Dương. Y gỡ tờ pơ-luya mà anh Lưu bọc cuống hoa (anh thích làm đẹp cho bất cứ cái gì), soi nó lên nền trời xám xịt. Bỏ kính ra, đeo kính vào chẳng thấy gì, y sai một tên cô hồn bật đèn để soi lên ánh điện. Cũng chẳng có gì ở trong đó. Một trong mấy tên phụ tá dùng ngón trỏ và ngón giữa cặp lấy tờ giấy, nhẹ nhàng bỏ nó vào một bao polyethylen, hẳn để đem đi xét nghiệm. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống đoạn tả vụng về trong một cuốn truyện trinh thám rẻ tiền.
Huỳnh Ngự hỏi tôi: – Bông hồng ni ở mô ra? Tôi nhún vai. Y dằn giọng lặp lại câu hỏi. – Một người bạn tặng tôi.
Ngó nghiêng bông hồng thêm một phút, y nheo mắt nhìn tôi:
– Mật hiệu, hử?
Cái lối nhìn thấy gián điệp ở bất cứ chỗ nào của các nhà thực hành chuyên chính vô sản làm tôi ngán quá. Biết trả lời tên này thế nào cho y vừa lòng? Tôi ném cho tên Sherlock Holmes13 nội hóa một cái nhìn khinh bỉ.
– Bông hồng ni ở mô ra, tui hỏi anh?
– Tôi nói rồi: một người bạn tặng tôi.
– Ai?
Nói hay không nói cho cái thằng quan cách mạng này biết bông hồng là của anh Lưu? Biết thế này chẳng nhận bông hoa cho xong. – Tôi đợi mãi cây hồng mới trổ bông này để tặng cụ nhà. – anh Lưu nói khi cắt cho tôi cành hoa – Phải là người sành thưởng hoa như cụ mới đánh giá được công sức tôi chăm bẵm cây hồng quý. Tiếc quá, đến lúc có được bông đầu tiên thì cụ lại bị rồi. Thôi thì anh thay mặt cụ nhận món quà mọn này cho tôi, kể như tôi thực hiện được ý mình muốn.
Trong cái sân rộng bốn thước vuông đầy ắp cây cảnh, dưới ánh sáng mờ mờ lọt qua tấm ni lông rách, trông anh gày quá, xanh quá. – Tôi rất quý cụ. Hồi 45 cụ nhà ta có cấp cho tôi một cái giấy ra vào Bắc bộ phủ để chụp ảnh Cụ Hồ đấy. Cụ nhà khoáng đạt lắm, đối với văn nghệ sĩ thì ba chê14 được…Chà, thật là buồn. Tôi không sao hiểu nổi: những bậc tiền bối cách mạng ngày trước vào sinh ra tử có nhau, sao mà bây giờ lại có thể tàn nhẫn với nhau đến thế? Cụ Hồ bây giờ ở đâu? Tôi còn giữ được tấm phim chụp Hồ với cụ nhà ta đứng bên nhau trên tàu Dumont Durville năm 46, khi tàu vừa cập bến Hải Phòng…Tôi sẽ in tặng anh một tấm… – Cảm ơn anh. Bây giờ nó không còn giá trị gì đối với tôi nữa. – À nhỉ, thế mà tôi không nghĩ ra.
Liệu tôi nói ra tên anh Lưu tên nhà quê này có làm phiền anh không? Anh đang mang bệnh, gia đình đang gặp khó khăn, có thể nói là túng quẫn. Nhưng không nói ra còn lôi thôi hơn. Chúng nó theo dõi tôi từng bước, chúng nó đã biết tôi đến nhà ai trong buổi sáng nay. Chắc chắn, nếu nghi ngờ chúng sẽ đến tận nhà anh Lưu, sẽ cật vấn anh, sẽ khám xét…Giữa lúc anh đang ốm đau! Sau một lát ngần ngừ, tôi nói:
– Có gì đáng giấu đâu. Bông hồng do một nghệ sĩ nhiếp ảnh tên là Trần Văn Lưu tặng tôi. Các anh có thể xác minh chuyện này dễ dàng.
Có vẻ cái tên Trần Văn Lưu chẳng nói lên điều gì với y.
– Trần Văn Lưu, hử? Ðược!
Y hí hoáy ghi sổ tay.
Bọn này có thể làm phiền anh lắm, tôi nghĩ. Mình ngu hay hèn khi nói ra tên anh? Trần Văn Lưu là một lãng tử chính cống trong nghệ thuật. Cả cuộc đời anh, anh không ngớt mơ ước về một salon ảnh nghệ thuật của riêng anh, trong đó anh sẽ là chúa tể các thứ ánh sáng làm ra Cái Ðẹp. Ðến ngày đó anh sẽ trở thành Mạnh Thường quân cho chúng tôi, đám nghệ sĩ thất cơ lỡ vận, hay là “thất cơ lơ vận” theo cách nói đặc biệt Hà Nội của anh. Chúng tôi chờ mãi cái ngày mai tươi sáng, khi “salon Trần Văn Lưu” ra đời. Tiếc thay, nó chẳng bao giờ ra đời cả. Không, chúng chẳng làm được gì hơn một vài lần gọi Trần Văn Lưu đi thẩm vấn. Anh sẽ có thêm một chuyện cười để kể cho bè bạn. Sẽ có vô số người bảo đảm cho anh, rằng với chính trị anh không có quan hệ thân tình.
Tôi nhớ lần chót chúng tôi uống cà phê với nhau ở quán Lâm Toét trên đường Nguyễn Hữu Huân. Chẳng hiểu ai gieo vào đầu Trần Văn Lưu và Bùi Xuân Phái15 ý nghĩ sản xuất mực bút máy để bán. Thời kỳ này mực bút máy tốt rất hiếm. Bùi Xuân Phái tự hào về kỹ thuật làm mực xanh đen của anh lắm. Anh khoe anh đã chế không biết bao nhiêu thứ mực dùng cho ký họa bút sắt nhưng thứ anh tìm ra này là tốt nhất. Nó không nhòe cũng không phai. Tôi hân hạnh được tham gia mấy cuộc họp sản xuất của hai anh. Bùi Xuân Phái hứng lên vẽ ngay tại chỗ một bức tranh quảng cáo: một ngòi bút máy cách điệu và bên dưới nó một dòng suối mực chảy quanh co. Màu đen nhánh của mực tàu cứ lung linh trên nền giấy vàng nghệ. Chị Lưu phấn khởi xuất vốn, giúp hai đấng nam nhi rửa chai lọ và nấu mực theo công thức Bùi Xuân Phái. Mực sản xuất ra chưa bán được lọ nào chị vẫn ứng tiền cho hai ông chủ tương lai uống cà phê, cộng với tôi được ăn theo là ba. Chúng tôi nhâm nhi cà phê đen của Lâm Toét, thả hồn theo khói Gold Flake, mơ màng về một tương lai huy hoàng của hãng mực Lưu-Phái.
– Anh cười cái chi? – Huỳnh Ngự vặn.
– Tôi chợt nhớ tới một câu chuyện vui.
Có lẽ còn lâu (hay chẳng bao giờ nữa?) tôi mới được trở lại quán cà phê quen thuộc của các văn nghệ sĩ nghèo ở Hà Nội. Ông Lâm Toét đặc biệt yêu mến văn nghệ sĩ, nhất là các họa sĩ. Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Trọng Kiệm, Lưu Công Nhân,Văn Cao, Nguyễn Sĩ Ngọc…hết thảy đều là khách quen của Lâm Toét. Các họa sĩ nghèo, thường uống chịu, ghi sổ. Ông chủ quán gày còm, nhỏ bé, mắt hấp him, không bao giờ đòi nợ họ. Dào, các vị cứ dùng đi, đáng bao nhiêu đâu, không có tiền thì trả bằng tranh cũng được. Nhận tranh của các họa sĩ gán nợ ông không bao giờ trả giá, không cò kè bớt một thêm hai. Các vị cho ông tranh để ông treo là quý rồi. Tranh gì cũng được, ông không phải cán bộ tuyên giáo, ông không khe khắt. Hiện thực, siêu thực, lập thể, nguyên khai hay đa đa… đối với ông thì cũng thế cả thôi, miễn được mắt ông.
Lâm Toét yêu hội họa bằng tình yêu bản năng. Cũng bằng bản năng ông biết phân biệt tranh đẹp với tranh rất đẹp, tranh sáng tạo và tranh đường mòn. Ông có con mắt tinh đời trong sự cảm nhận cái đẹp, chí ít thì cũng hơn những nhà phê bình hội họa quan phương. Một bức sơn dầu cỡ nhỏ (các họa sĩ không có tiền để làm tranh to) của Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng có giá tương đương với sáu bảy chục hoặc trên trăm ly cà-phê đen (còn gọi là cà-phê bít tất) cộng với dăm chục đĩa trứng ốp la lạp xường. Ai cũng biết rằng tranh mà giá có thế thôi thì mạt quá. Nhưng thử hỏi liệu có ai trong những người biết giá trị thực của những bức tranh dám giúp các họa sĩ qua cơn đói lòng mỗi sáng kèm theo cả cà-phê lẫn thuốc lá? Mà trong túi các họa sĩ lại thường xuyên không có những tờ giấy nhàu nát nhưng đáng quý gọi là tiền? Với một ông chủ quán như Lâm Toét các họa sĩ sẵn sàng biếu không tranh của họ. Nhờ vậy Lâm Toét có cả một phòng tranh trên tầng hai của quán cà phê. Chỉ những người được ông trọng nể lắm mới được ông mời lên thưởng tranh. Ông không chỉ có tranh của khách ăn chịu mà còn có tranh và phác thảo của những bậc thầy quá khứ: Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Ðỗ Cung, Tô Ngọc Vân…, thậm chí cả Tardieu16, hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật Ðông Dương.
– Có đúng là không có chi trong bông hồng ni không?
– Anh cứ khám cho kỹ! – tôi cười hòa nhã – Bông hồng là bông hồng. Nó không phải khẩu súng. Ðể mang một bông hồng, theo tôi hiểu, không cần có giấy phép.
– Hừm! Anh giỏi đối đáp đó! – Huỳnh Ngự lườm tôi
– Ðược, để coi ở Hỏa Lò anh còn giỏi được bao lâu? Ðưa nó đi!
Huỳnh Ngự ký sổ tù. Anh công an lúc lắc chùm chìa khóa, ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi giơ tay định cầm lấy bông hồng, nó hiển nhiên là của tôi, nhưng Huỳnh Ngự đã giơ tay phác một cử chỉ ngăn lại. Nhìn bông hồng mảnh mai nằm cô đơn trên mặt bàn lạnh lẽo lần cuối, tôi buồn rầu chia tay với nó, lững thững đi theo anh công an.
Từ năm 1880, người Pháp bắt đầu xây dựng lại Hà Nội theo quy hoạch mới. Hỏa Lò được khai trương vào năm 1886. Lúc đầu nó được đặt tên là Prison Centrale, sau đổi lại thành Maison Centrale.
Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ Nội vụ, ủy viên Ban bí thư, ủy viên Bộ Chính trị. Bị tù Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ và những người bị Thọ-Hoàn bắt sau này: Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, Vũ Ðình Huỳnh, Phạm Kỳ Vân, Lưu Ðộng. Năm 1945 là bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.
Giết một người vạn người sợ.
Trong thời kỳ công tác tại miền Nam Lê Ðức Thọ được cán bộ đặt biệt hiệu “Sáu Búa”.
Tôi ngây thơ đến nỗi bỏ vào ba-lô cả dao cạo, cả bút máy để viết và vài cuốn sách để đọc. Cứ tưởng mình đang ở một nước văn minh vậy! Trong xà lim tù không được có bất cứ đồ vật sắc nhọn nào, cũng như không được phép đọc hoặc viết.
1918-1982. Nhà văn, tác giả Bỉ Vỏ, Thời Thơ Ấu, Sóng Gầm…Vào thời gian đang được nói tới ông bỏ Hà Nội lên ở ẩn tại vùng Yên Thế, Bắc Giang.
Nhà văn (sinh 1934), từng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, sau cũng bị tập trung cải tạo vì tội có quan điểm xét lại tại trại tập trung Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tác giả Chuyện kể năm 2000 (Chú thích của Vinadia).
Quả nhiên, tại Hỏa Lò người ta bắt tôi phải viết một báo cáo về Nguyên Hồng. Phải chật vật lắm tôi mới thuyết phục được họ rằng tôi không biết gì về quan điểm chính trị của Nguyên Hồng. Không nhà văn nào thoát khỏi con mắt Tào Tháo của cơ quan an ninh.
Mặt trận Bình dân (Front Populaire), bao gồm các đảng cánh tả của Pháp, trong đó liên minh cộng sản – xã hội là nền tảng. Năm 1936 Mặt trận giành thắng lợi, chính phủ Léon Blum của Mặt trận Bình dân giải tán các tổ chức phát-xít, ấn định tuần làm việc 40 giờ cho người lao động, ngăn chặn các hành vi phát-xít trong sự đối xử với nhân dân các nước thuộc địa… Năm 1938 Mặt trận Bình dân yếu dần rồi tan vỡ do những mâu thuẫn bên trong.
Lê Ðức Thọ.
Ba, tức Ba Duẩn, Năm, tức Trường Chinh.
Công an mật.
Nhân vật thám tử tư của nhà văn Anh Conan Doyles.
Không chê vào đâu được. Chê là từ Việt, ba là từ gốc Pháp pas = không. Một cách nói thịnh hành năm vào những năm 40 tại Hà Nội.
(1921-1988) Họa sĩ Bùi Xuân Phái rất nổi tiếng trong số những họa sĩ tiên phong cách tân hội họa Việt Nam. Ðặc biệt, với một loạt tranh các phố cổ Hà Nội, Bùi Xuân Phái trở thành người khám phá một thủ đô chưa ai biết. Vì những bức tranh này nhà văn Nguyễn Tuân đặt tên cho các phố cổ Hà Nội là phố Phái.
Victor Tardieu, họa sĩ Pháp, từng đoạt giải hội họa Ðông Dương năm 1920. Là bạn học của các danh họa Rouault và Matisse. Ông đã tích cực vận động chính phủ bảo hộ cho thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật. Khóa đầu tiên của trường này (năm 1925) đã cho ra các họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lê Thứ… Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu tốt nghiệp trường này năm 1940.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:25:40 GMT -6
Chương 3
Cai ngục của tôi, chính là anh công an mang cho tôi bộ quần áo, dẫn tôi tới trước một cánh cửa lim sơn đen, nằm giữa loạt cánh cửa giống hệt nó trong một hành lang hoang vắng và mốc thếch. Tất cả hiện lên mờ mờ trong ánh sáng bủng beo đầu đông. Tôi đứng lặng, ngắm giang sơn mới của mình. Dội vào óc tôi tiếng mở khóa. tiếng then kim loại trượt trong hõng. Ngoài những tiếng động chát chúa, khu giam người này vắng lặng và ảm đạm như một hầm mộ.
“Những nấm mồ chôn người sống”, tôi nghĩ.
– Anh vào trong này!
Tôi ngạc nhiên. Tôi không chờ được nghe một giọng nói hiền lành như thế. Tôi hình dung mọi cái ở đây phải tồi tệ hơn nhiều, phi nhân hơn nhiều, kể cả cách cai ngục nói với tù.
Bước ngoặt cuộc đời diễn ra quá lẹ. Sau một Huỳnh Ngự hách dịch, giọng nói bình thường mà người ta nói với nhau hàng ngày đã đủ làm tôi sửng sốt.
Tôi lẳng lặng quan sát viên cai ngục. Trên gương mặt nông dân thuần phác, nước da thô đầy những sẹo trứng cá, cái mũi to quá khổ, không có lấy một nét gian giảo hoặc ác độc mà ta đinh ninh phải có. Một gương mặt như thế có thể gặp ở bất cứ đâu trong vùng châu thổ sông Hồng.
Ðã bước một chân vào xà lim, tôi dừng lại:
– Tôi có việc muốn phiền đồng chí.
Anh ta nhướng mắt:
– Việc gì vậy?
– Nhờ đồng chí báo giùm cho cơ quan tôi ở số 76 Lý Thường Kiệt biết tôi hiện ở đây. – tôi nói, giọng không tự tin cho lắm – Ðồng chí gọi điện thoại số 3508, cơ quan tôi lúc nào cũng có người trực.
Hình như anh ta mỉm cười. Tôi sực nhớ: trong nhà tù không được phép gọi công an bằng “đồng chí”.
– Ðược.
– Nhân thể xin anh nhắn giùm người phụ trách căng-tin bảo chuyển cho tôi thuốc lá tiêu chuẩn. Và một cái bật lửa.
– Ðược.
Kiên nhẫn nghe hết lời nhắn của tôi, anh ta quay ra.
Cuộc đối thoại hôm ấy giữa tôi với cai ngục hẳn đã cho những người tù ở các xà lim bên cạnh một trận cười, như sau này tôi hiểu. Nó giống chuyện tiếu lâm.
Cánh cửa lim đóng xầm. Sau cái tiếng động không lịch sự là tiếng then rít lên trong hõng, tiếng bấm khóa, tiếng chân xa dần. Căn phòng tối hẳn lại.
Quay vào, tôi thấy một cái đầu bù xù ngẩng lên trong tranh tối tranh sáng. Thì ra ở đây đã có sẵn một cư dân.
Người này cất giọng khàn khàn hỏi tôi:
– Anh mới vào?
Tôi hiểu đó là một câu chào. Tôi chào lại.
– Vâng.
Mắt tôi quen dần với bóng tối. Trước mặt tôi là một người đàn ông đứng tuổi, mái tóc dài rũ rượi bao quanh gương mặt xương xẩu, đen xạm, râu ria tua tủa. Anh ta khoác tấm chăn sợi Nam Ðịnh đã rách và chắc là rất bẩn, ngồi bó gối trên phản, giống hệt một con cú mèo.
– Anh vừa bị bắt?
Người tù trừng trừng quan sát tôi. Hình hài tiều tụy cộng với cái nhìn thất thần dính chặt vào mặt tôi làm tôi cảm thấy khó chịu. Tôi lạnh nhạt:
– Vâng, cách đây mấy giờ tôi còn ở ngoài kia.
– Thế à?
Xà lim của chúng tôi là một căn phòng hẹp, chiều ngang khoảng hai mét, chiều dài hai mét rưỡi, với hai tấm phản xi măng cách nhau bởi một lối đi vừa cho một người. Cuối mỗi phản, sát cửa, là một cái cùm sắt.
Tôi ngồi xuống tấm phản đối diện với người tù. Cái lạnh lẽo của khối xi măng đặc lọt qua lần vải chạm vào da thịt. Tôi rùng mình. Xà lim phảng phất một mùi hôi hám khó tả, hòa trộn mùi mồ hôi người chua chua nồng nồng, mùi nước tiểu lưu niên khăn khẳn với mùi tanh của đờm rãi thường gặp trong nhà thương làm phúc.
Chà, xà lim Hỏa Lò, nó thế này đây!
Lần đầu tiên tôi được thấy nơi giam tù trong phòng riêng, còn gọi là xà lim cá nhân, là ở nhà tù Petropavlovsk, mùa hè năm 1955. Khi ấy tôi là một sinh viên chưa có ria mép, được nhà trường cho đi tham quan các di tích lịch sử của nước Nga. Nhà tù Petropavlovsk nằm bên kia sông Neva, mà bên này là thành phố Lêningrađ. Nghe cô hướng dẫn viên giải thích thì trước kia nó là một pháo đài, sau được xây lại thành xưởng đúc tiền, Nhà Tiền1, thuộc ty Ngân khố quốc gia, sau nữa mới thành nhà tù.
Trong xà lim dành cho những nhà cách mạng ở nước Nga quân chủ có một giường, một bàn, một bồn rửa mặt, một bàn cầu, tất cả đều bằng sắt, được gắn chết vào bê-tông. Ngoài ra còn có một tủ tường để đựng sách và đồ dùng. Xà lim Hỏa Lò hẹp hơn nhiều, diện tích chưa được bằng nửa, lại trống trơn. Ðem hai cái xà lim ra so sánh thì xà lim thời Nga hoàng giống một phòng trọ rẻ riền, còn xà lim Hỏa Lò giống một chuồng thú.
– Anh ở đây bao lâu rồi? – hai tay ôm ngực cho đỡ rét, tôi hỏi anh bạn tù.
Anh ta không trả lời ngay:
– Năm năm.
Tôi ớn lạnh. Năm năm? Trong cái chuồng này?
Người tù thở nặng nhọc. Anh ta quay mặt vào tường, chậm rãi hút thuốc lào. Tôi không nghe tiếng lọc xọc quen thuộc của điếu ống hay điếu bát. Khói thuốc cay nồng lan tỏa làm cho căn phòng ấm lên được một chút.
– Hà Nội bây giờ có gì khác không anh? – anh tù hỏi, húng hắng ho.
– Năm năm, chà… – tôi đáp – Cũng chẳng khác trước mấy đâu. Xem nào, so với năm năm trước Hà Nội bây giờ khác cái gì? Hai bên hè phố có nhiều hố cá nhân, cứ vài mét một cái. Nhiều tự vệ đeo súng. Trên những nhà cao đặt nhiều đại liên, trung liên. Phong cảnh mới của Hà Nội là thế. Thành phố, tất nhiên, vắng hơn trước.
– Nhưng vẫn còn đông chứ?
– Vẫn đông. Hà Nội bao giờ cũng vẫn là Hà Nội. Vắng đi một anh một tôi chẳng nghĩa lý gì đối với nó.
Anh tù thở dài.
– Anh bị tội gì?
Người tù không trả lời.
– Tôi tò mò hỏi vậy thôi, anh đừng nghĩ ngợi.
Anh ta ngẩng lên lặng lẽ quan sát tôi. Rồi nói khẽ, như thì thầm:
– Tôi bị tội giết người.
Một tên sát nhân đấy ư? Không có lẽ. Trong hình dung của tôi tên sát nhân phải dữ tợn hơn, với đôi mắt xếch đầy lòng trắng chẳng hạn.
– Ngộ sát, chắc vậy?
Anh ta đáp, giọng miễn cưỡng:
– Chuyện dài. Mà rắc rối lắm.
– Anh bị xử mấy năm?
– Nào đã được xử đâu mà biết!
– Mà đã năm năm rồi?
Anh tù lúng túng. Chắc hẳn muốn chọe tên lính mới tò te anh ta đã thổi phồng số thời gian ở đây. Bây giờ anh ta ngượng.
– Còn đang giam cứu. – anh ta thở dài đánh sượt – Chưa biết đến bao giờ.
– Giam cứu nghĩa là thế nào?
– Là người ta cứ giam mình đấy đã để điều tra nghiên cứu. Bao giờ điều tra xong, nghiên cứu xong thì đem xử.
– Giam cứu thường có lâu không?
– Biết thế nào được. Cũng tùy vụ, tùy người…Nhanh thì sáu tháng, một năm, chậm thì vài ba năm không chừng.
– Xử rồi người ta có trừ đi thời gian đã ở tù không?
– Trừ chứ.
– Thế nếu điều tra xong anh lại trắng án? Hoặc án xử lại ít hơn thời gian anh đã ngồi tù, vì tội ngộ sát chẳng hạn?
– Thì người ta cho về.
– Có thế thôi?
– Ðược về là phúc rồi, còn muốn cái gì nữa? Bắt người ta ngồi tù đền à?
Chòm râu rung rung, anh ta cười không có tiếng.
Bên ngoài có tiếng chân người. Miếng tôn ở cái khung hình vuông bằng bàn tay ở cửa dịch sang bên. Một con mắt ngó vào. Miếng tôn khép lại.
– Cái gì thế?
– Các ông bộ đội kiểm tra. Kệ, không sao đâu.
– Bộ đội sao lại gác ở đây?
– Công an quản lý trại, gác trại là Công an nhân dân vũ trang.
– Lôi thôi nhỉ? Ðã có công an rồi lại còn thêm công an nhân dân vũ trang.
Anh ta cười khúc khích.
– Mỹ ném bom Hà Nội có nhiều không anh?
Tôi ngạc nhiên: [M3]
– Trong này anh không nghe thấy gì sao?
– Có chứ, có nghe thấy còi báo động. Nghe thấy tiếng nổ. Nhưng trong phòng kín như bưng thế này nghe chỉ ầm ầm, ầm ầm, không phân biệt đâu là tiếng tên lửa phòng không, đâu là tiếng bom… Anh ở đây rồi khắc biết.
Bom đạn Mỹ rót xuống đất Thăng Long phi chiến địa, theo lời sấm Trạng Trình, không phải bây giờ là lần đầu. Mùa thu năm 1944, những pháo đài bay B26 đã bay đến đây ném bom khu Tám Mái, ném bom bên cạnh Quần Ngựa. Những mẩu tro của đám cháy lớn từ kho Tám Mái bay khắp Hà Nội, rơi xuống những hầm trú ẩn gần đền Hai Bà còn nguyên hình nống vải kaki. Mấy con ngựa đua của ông Ðỗ Kim Hải, bạn cha tôi, chết cứng trong tàu vì mảnh bom, bốn cẳng duỗi thẳng đơ, trông như ngựa gỗ, với những con mắt ngây dại bằng thủy tinh.
Người tù nằm xuống, kéo chăn lên, lạnh lùng quay mặt vào tường.
Tôi còn lại một mình.
Cảm giác đầu tiên ập đến, làm tôi choáng váng, là thời gian đang chảy trôi bỗng ngừng lại đột ngột. Tưởng chừng thấy được, bằng thị giác, bằng xúc giác, cái thanh chắn, cái cột mốc ngăn đôi cuộc đời – bên kia là quá khứ, là phần đã mất, còn bên này, nơi tôi hiện diện, là sự ngưng đọng mở đầu cho cõi bất tri, thăm thẳm, khôn cùng.
Tôi sẽ phải ở đây bao lâu? Bao nhiêu tháng? Hoặc, trời hỡi, bao nhiêu năm?
Tôi không được chuẩn bị để phải chịu đựng cảnh này. Tôi có thể hình dung mình trong nhà tù đế quốc, nhưng không bao giờ tôi hình dung mình trong nhà tù cộng sản.
Nhớ lại những ngày Tháng Tám tưng bừng, khi tôi còn là đứa trẻ, mà tiếc. Trước mắt tôi cuộc đời mở ra toàn một sắc hồng. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập Hà Nội. Tiếng trống ếch thiếu nhi vang rền trên các phố. Những đám đông rầm rập như những dòng lũ người, ồn ào tiếng hát, tiếng thét vui mừng.
Thế là cách mạng thành công rồi, mẹ tôi nói. Nhìn thành phố biến đổi như do một phép màu trong niềm vui chung của mọi người mọi nhà, mẹ tôi nước mắt rưng rưng, miệng cười mếu máo vì xúc động. Thế là nước ta độc lập rồi! Chúng tôi reo mừng, chúng tôi nhảy cỡn lên vì sung sướng. Thế là từ nay chẳng bao giờ mẹ con chúng tôi còn phải thao thức đêm đêm, giật mình với mỗi tiếng phanh ô tô rít lên ngoài đường. Chẳng bao giờ hai mẹ con tôi còn phải chầu chực bên ngoài bức tường đá Hỏa Lò chờ đến lượt mình được gọi tên vào thăm cha tôi trong đó. Cùng với những lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp Hà Nội, tâm hồn chúng tôi mọc cánh trong niềm vui tự do.
Tuổi thơ của tôi chấm dứt từ đó. Tôi lăn vào các công tác cách mạng đáng lẽ của người lớn, bắt đầu bằng một đội viên tuyên truyền xung phong. Chúng tôi diễn kịch, ca hát, chúng tôi lang thang làng này qua làng khác, trong không khí hội hè bất tận. Rồi lớn lên, tôi thành người lính, thành cán bộ. Những năm xen kẽ giữa các công tác, thỉnh thoảng lại bị bố mẹ bắt về đi học, là những năm tôi bứt rứt lắm, ngứa ngáy chân tay lắm; sểnh ra tôi lại lên đường. Chiến tranh, tất nhiên, gắn liền với bom đạn, với hy sinh. Nhưng chúng tôi không sợ. Lớp trẻ chúng tôi đi vào chiến tranh với những khúc quân hành hùng tráng và những bản tình ca lãng mạn. Chúng tôi không sợ hy sinh, chúng tôi không sợ chết. Thế hệ chúng tôi là thế hệ quyết tử quân của cách mạng. “Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh2…”, Chúng tôi nghe thấy giọng nói sang sảng của Bác Hồ giục giã. Chúng tôi hăng hái ra đi theo lời Bác gọi. Không khó khăn gian khổ nào có thể làm chúng tôi chùn bước.
Ðó là những ngày đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Nếu, nói ví thử điều không thể có, tôi sống thêm một lần và lịch sử lại lặp lại những ngày Tháng Tám, chắc chắn tôi sẽ lại sống như tôi đã sống. Trước mặt chúng tôi là quân xâm lược, sau lưng chúng tôi là nền độc lập vừa giành được, là Tổ quốc. Không có sự lựa chọn nào khác.
Nhưng kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thì cuộc cách mạng của chúng tôi bỗng dưng trở thành không phải của chúng tôi nữa. Một phép lạ, hoặc một ma thuật, đã xảy ra. Nó vẫn đấy, nhưng không còn là nó. Trước mắt chúng tôi là một cái gì lạ lẫm, hoàn toàn không giống cái mà chúng tôi hình dung khi lên đường chiến đấu.
Người ta nói với chúng tôi: có gì đâu, chúng ta đang bước vào giai đoạn mới, chúng ta đang xây dựng một xã hội mới, một thể chế mới, nền nếp mới. Phải học tập để quen với nó, để hội nhập với nó. Mọi quá trình tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ đều là gian nan, đều không dễ dàng, đều phải trả giá bằng sự từ bỏ quan niệm cũ, lề thói cũ.
Cái xã hội mới ấy hình thành dần, mỗi ngày một rõ nét. Càng ngày nó càng trở nên xa lạ. Càng ngày nó càng giống cái mà chúng tôi vừa chiến đấu để xóa bỏ. Chỉ có bề ngoài là khác, với ngôn từ khác.
Tôn ti trật tự của xã hội mới được thiết lập ngay từ những ngày đầu chúng tôi từ chiến khu về Hà Nội.
Một thí dụ nhỏ: theo quy định trong quân đội, từ binh nhì tới chỉ huy trung đội phải mặc áo đại quân có hai túi trên, vai áo có đệm dày (để mang vác) với nhiều đường chỉ máy cho bền, tôi không đếm có bao nhiêu đường, lính tráng gọi là “ba mươi hai đường gian khổ”. Cán bộ từ cấp bậc đại đội trở lên được mặc áo không có “ba mươi hai đường gian khổ”, thêm hai túi dưới, gọi là đại cán.
Cán bộ dân chính, cũng theo quy định, phải mang đại cán nhưng khác màu bộ đội. Ðó là thứ áo cổ đứng cài đủ cúc, được những ông phó may gọi là kiểu Tôn Trung-sơn3. Khi lệnh này ban ra đoàn quay phim chúng tôi đang ở thành phố Nam Ðịnh vừa giải phóng. Trên không kịp cấp phát quần áo, người trong đoàn được lĩnh tiền tự đi may. Tôi không thích cái kiểu Tôn Trung-sơn, bèn dùng tiền may quần áo thường: áo sơ-mi, quần ximili. Thế là sóng gió nổi lên, tôi bị phê bình gay gắt về tội vô kỷ luật. Ðành phải thành khẩn nhận khuyết điểm trước tập thể, hứa sẽ may một bộ đại cán đúng quy định, tôi mới được buông tha.
Kỳ cục nhất, buồn cười nhất là chuyện quy định về sử dụng xe cộ. Cấp cục, vụ được đi chung xe Mốt-cô-vích (Moskovich). Cấp thứ, bộ trưởng được đi xe Pobeđa (Pobeda), đi riêng, với rèm che hai kính hông. Cấp ủy viên Trung ương đi xe có che thêm rèm ở kính hậu. Còn các ủy viên Bộ Chính trị, Ban bí thư đi xe Von-ga (Voga), thêm rèm ở hai kính cửa trước. Lãnh tụ tối cao, tổng bí thư sang hơn nữa, có Chai-ka (Tsaika). Khi tiếp khách hoặc trong những dịp khánh tiết thì dùng xe Din (Zil)4 bọc thép có kính chống đạn.
Vừa về tới Hà Nội mỗi vị lãnh tụ đã chiếm một dinh thự khang trang, của Tây hoặc của các nhà giàu bỏ chạy vào Nam, mỗi nhà là một hành dinh với đầy đủ các bộ phận phục vụ, thư ký, lái xe, bảo vệ, cần vụ, cấp dưỡng. Các vị làm việc tại nhà, các thư ký, giao thông viên chạy như đèn cù giữa các hành dinh để các vị liên lạc với nhau.
Khó chịu nhất là cái sự phải gò mình vào trong cái gọi là dân chủ tập trung. Bất cứ quyết định nào của Trung ương cũng là chân lý, là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt, cấp dưới chỉ có việc học tập cho thông để thực hiện.
Không còn đâu bóng dáng của sự bình đẳng giữa những người cùng chung một chiến hào. Tôi nhớ một ca khúc của Tô Hải hồi ấy bị cấm hát. Nó bị cấm vì lời ca ủy mị, theo quan điểm của Ðảng, nhưng lính tráng lại thích. Chỉ với một từ bị đổi, một từ thôi, biến chữ triệu thành chữ vài, tâm trạng người lính sau ngày chiến thắng được bộc lộ:
Ngày về tươi vui. Nhưng giữa thủ đô ai chẳng ngậm ngùi. Bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng, Bao má nhăn nheo lệ cuốn tơi bời. Chờ chồng mong con ngày về chiến thắng, Trông toán quân về đếm thiếu những ai. Ðây căm hờn dựng lên ngàn phố Máu xương xây vài chiếc lâu đài Hồn quân đi còn vương đây đó Với đô thành kiếp kiếp khôn nguôi!
Người ta nói rằng những người cách mạng bị biến chất sau thắng lợi.
Tôi loại trừ khả năng đó. Chất của con người thế nào thì nó thế ấy. Có điều mắt chúng ta kém, tầm nhìn của chúng ta hẹp, chúng ta không thấy mà thôi.
Anh tù lục cục bò dậy. Hình như anh ta khó ngủ.
– Này, Mỹ đã bỏ bom những phố nào hả anh?
– Mỹ chưa bỏ bom Hà Nội. Nam Ðịnh thì có, bị khá nhiều. Tôi vừa ở Nam Ðịnh về cách đây vài ngày.
– Sao người ta nói Hà Nội cũng bị?
– Người ta lầm. Có hai lần máy bay Mỹ phóng tên lửa vào nội thành: một lần ở chợ Hôm, một lần sát đại sứ quán Pháp ở góc Hàm Long – Bà Triệu.
– Chết nhiều không anh?
– Lần ở chợ Hôm chết cũng khá. Lần sau thì không. Hình như có mấy người bị thương.
Anh ta lẩm bẩm câu gì không rõ.
– Khi có báo động người ta có cho tù ra hầm trú ẩn không? – tôi hỏi.
Anh ta bật cười khe khẽ.
– Ra hầm trú ẩn? Còn lâu. Mà sao từ sáng không có còi báo động nhỉ?
Tôi ngạc nhiên thật sự.
– Hôm nay ngừng bắn mà. Anh không biết?
– Ngừng bắn? Mà sao lại ngừng bắn cơ chứ?
– Ủa, anh không biết thật?
– Thì ngồi đây làm sao mà biết được?!
– Hôm nay là 24 tháng Chạp dương lịch. Nửa đêm sẽ có lễ mừng Thiên Chúa giáng sinh.
Anh tù ngẩn người. Như kiểu thất vọng. Nghe ngóng một lát, anh móc từ trong hốc phản ra một cái đinh năm phân, không vội vã khắc lên tường xà lim một cái dấu. Tường xà lim rất cứng. Chật vật lắm anh mới khắc được một nét.
– Tôi lầm ngày mất rồi. – anh buồn bã – Thế quái nào mà lầm được mới lạ chứ? Tôi cứ ngỡ mai mới No-en. Còn anh, làm sao anh bị bắt?
Tôi không trả lời ngay.
– Biết giải thích thế nào cho anh hiểu. – tôi nhún vai – Chính tôi cũng không biết vì sao người ta bắt tôi. Tôi muốn nói không hiểu người ta định buộc tôi vào tội gì…
Chẳng lẽ anh ta hỏi mà mình không trả lời, tôi nghĩ, chuyện của mình thường phạm hiểu sao được.
– Tại sao lại không biết? – anh ta ngạc nhiên – Khi bắt phải có đọc lệnh bắt chứ, mà trong lệnh bắt bao giờ người ta cũng nói tội gì.
– Người ta bắt tôi ở giữa đường rồi đưa thẳng vào đây.
Cái đầu bù xù trầm ngâm gật gật:
– Vậy thì hiểu rồi, hiểu rồi – bị bắt mà không rõ vì tội gì thì chỉ có món số lẻ thôi. Lạ, sao lại bắt giữa đường? Chính trị, nó như con đĩ ấy, kinh lắm…
Tôi bật cười.
– Tại sao anh lại gọi chính trị là cái món số lẻ?
– Anh không biết à? Mà làm sao anh biết được, anh chưa vào tù bao giờ… Gọi chính trị là số lẻ do thế này: tù chính trị mang số tù lẻ, gọi là số lẻ, tù hình sự mang số chẵn.
– Ra thế! Tôi không biết. Không thấy họ nói tôi mang số nào.
– Chắc anh bị ghép vào tội tuyên truyền phản động.
– Tôi cũng chẳng rõ.
– Tội này rộng. Mà lại không rõ ràng. – anh ta thở dài – Ăn nói không giữ gìn, lỡ mồm lỡ miệng đụng đến chính quyền hay lãnh tụ là đi tong. Cứ có đứa báo cáo là người ta tom ngay, không oong đơ gì hết… Trong này ối trường hợp như anh. May thì được đưa ra tòa xử. Không may, bị một suất tập trung cải tạo5 coi như rồi đời.
– Tập trung cải tạo nghĩa là thế nào?
– Nghĩa là cứ tù mút mùa. Bao giờ người ta thích tha thì người ta tha.
– Tại sao lại có thể như thế được?
Người tù im lặng sửa lại cái chăn trên vai vừa tụt xuống, lại quay mặt vào tường, hút tiếp một điếu thuốc lào. Trong phòng mỗi lúc một lạnh thêm. Nghe rõ tiếng gió hú bên ngoài.
– Anh là cán bộ kháng chiến chống Pháp phải không?
– Phải.
– Thế thì không bị tập trung cải tạo đâu, đừng lo.
– Tôi chẳng lo. Họ có quyền bắt thì họ cứ việc bắt.
– Anh không nên nói thế. Người ta đã bắt, nghĩa là mình phải có tội.
Tôi nhún vai.
– Mình không nghĩ là tội người ta cứ nghĩ là tội thì vẫn thành tội như thường…
Có nên trò chuyện với anh chàng giết người này không nhỉ? Nói cũng chẳng sao, đàng nào thì cũng thế.
– Nói của đáng tội, giữa tôi và Ðảng cũng có vài chuyện lủng củng.
– Chết chửa, thế thì căng lắm! – anh tù lắc đầu – Mà tại sao các ông ấy lại cho anh vào xà lim này nhỉ?
Tôi không hiểu ngay ý nghĩa câu nói.
– Anh nói thế nghĩa là thế nào?
– Thường người ta không giam lẫn lộn số chẵn với số lẻ. Mà anh thì rành rành là số lẻ rồi…
Ra thế.
– Nghĩa là tôi là đối tượng6 của cách mạng còn anh thì không chứ gì? Chính tôi cũng không hiểu tại sao người ta lại giam kẻ thù của nhân dân lẫn với bạn của nhân dân?
Trong những cuộc giáo dục chính trị các giảng viên thường xuyên dạy chúng tôi phải phân định rõ bạn thù. Hiển nhiên cách phân định này vẫn giữ nguyên ý nghĩa trong cả Hỏa Lò – những tên lưu manh trộm cướp, những tên sát nhân là bạn của nhân dân, còn người bị buộc tội chống chế độ là kẻ thù của nhân dân.
– Anh có thể phản đối nếu người ta lầm. – tôi nói thêm – Họ đưa tôi vào đây thì tôi vào đây. Họ có hỏi ý kiến tôi đâu. Tôi cũng không đề nghị…
Tôi không kịp nói hết câu. Không khí lạnh trong phòng làm tôi hắt hơi chan chát.
– Anh không có quần áo ấm à?
Anh bạn tù ngẩng nhìn tôi. Giọng nói của anh có chiều ái ngại.
– Chúng nó thu hết quần áo của tôi – tôi vẫn tiếp tục ho – rồi đưa tôi bộ này.
Người tù nhớn nhác. Cái nhìn của anh hướng về ô cửa kiểm tra. Tai tôi cũng bắt được một tiếng động lạ.
– Dào, rồi các ông ấy sẽ cho anh nhận lại thôi, việc quái gì mà sốt ruột. – anh ta cất cao giọng, cố ý nhấn mạnh hai chữ các ông kính cẩn để xóa đi hai chữ chúng nó xách mé của tôi, cốt để người bên ngoài nghe thấy.
Tôi chợt nhớ ra tên gọi tiếng Pháp của cái lỗ cửa nọ: le judas. Tên của tông đồ thứ 13 của Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô, kẻ bán thầy cho quan Phi-la-tô lấy ba mươi đồng đi-na. Có tiếng chân đi xa dần.
– Nếu anh rét quá thì cứ lấy tạm đồ của tôi mà dùng.
Thái độ ân cần của anh làm tôi ngượng. Nhưng dùng đồ của anh ta? Tôi rùng mình. Không khi nào!
– Cảm ơn anh. Chúng nó phải trả lại cho tôi quần áo chứ, ít nhất cũng phải trả cái áo bông. Chúng nó không có quyền…
– Anh vừa vào không biết luật lệ trong này thế nào đâu. – anh ta hấp tấp cắt ngang – Ðã vào đến trong này là mình không còn cái quyền nào hết. Trả hay không trả, trả cái gì, không trả cái gì, trả lúc nào là tùy các ông ấy. Người ta đã tính toán cả.
Cả cái sự tôi bị đưa vào xà lim ở chung với người tù có bộ dạng gớm ghiếc này cũng đã được tính toán, chắc thế. Một phương án, theo ngôn từ nghề nghiệp của công an.
Có tiếng dép nhựa loẹt quẹt trên nền xi-măng ở bên ngoài. Tiếng mở khóa lạch xạch. Rồi cửa xà lim mở toang.
– Cơm!
Viên cai ngục nông dân đặt xuống trước mặt tôi một cái tô tráng men. Trong ánh sáng mờ mờ lọt qua cửa thông gió ở tít trên cao tôi nhìn thấy trong cái bát men lổn nhổn một thứ gì đó giống như rau muống nhưng đen xì. Những cọng rau bập bềnh trong nước lõng bõng, ở trên cùng có hai miếng mì luộc trông giống như cặp bánh dầy con ở các gánh dầy giò thường bán ở bến tàu bến xe, nhưng mỏng hơn.
Liếc nhanh quan sát tôi, viên quản giáo quay ra, khóa cửa lại. Tiếng cài then lạch xạch xuyên vào óc.
– Còn suất của anh đâu? – tôi hỏi.
– Tôi ăn lâu rồi. – anh tù quay mặt đi – Cơm trưa ở đây người ta cho ăn từ 11 giờ đến 12 giờ.
Lúc ấy tôi còn đang bị khám.
Tôi ngán ngẩm nhìn bữa ăn đầu tiên trong tù.
Tôi chưa ăn ngay. Trên đồng bánh mì luộc xác những con mọt tí xíu nổi lên lấm tấm như rắc vừng. Rau muống đen là phải: nấu trong chảo gang rau muống bao giờ cũng có màu như thế. Tôi khều mấy cọng rau lên ngắm. Rau muống không được nhặt và rửa kỹ, hoặc không nhặt cũng không rửa, còn nguyên rễ tua tủa và lá vàng.
Tôi ngồi bất động một lát trước tô cơm.
– Chịu khó mà ăn. – anh tù ái ngại nhìn tôi – Hỏa Lò chỉ có thế thôi.
Tôi xếp chân bằng tròn trên phản, từ từ đưa vào miệng, từng miếng một, cái khẩu phần quái gở. Chưa bao giờ tôi phải ăn một thứ gì tệ hại hơn, kể cả trong năm 1949, năm gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hồi ấy bộ đội chúng tôi thường xuyên ăn cơm gạo mốc với thức ăn là canh bí đỏ nhạt thếch vì thiếu muối.
Tôi chiến thắng bản thân. Một lát sau, viên cai ngục quay trở lại lấy bát rếch. Anh ta ngẩn người trước cái bát sạch trơn, lẳng lặng cầm lấy nó, đi ra.
– Anh giỏi! – người bạn tù buông một lời khen.
Hình như kiến trúc của mọi xưởng đúc tiền đều giống nhau ở chỗ có nhiều khu riêng rẽ, ở tính chất kiên cố trong xây dựng, cho nên chẳng riêng ở nước ta, ở nhiều nước khác khi cần thiết người ta cũng biến chúng thành nhà tù. Nhà tù Petropavlovsk trước kia là một Nhà Tiền thuộc Nha Ngân khố của nước Nga quân chủ. Nhà tiền Hà Nội bị chính quyền chiếm đóng sửa lại thành trại giam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Trên nền nhà tù này Nhà máy in Tiến bộ được xây dựng.
Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh trong Ngày toàn quốc kháng chiến.
Kiểu áo cổ đứng phổ biến ở Trung Quốc. Tôn Trung-sơn, hay Tôn Dật-tiên (1866-1925), nhà cách mạng chủ trương chủ nghĩa tam dân. Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân quốc.
Các nhãn hiệu xe du lịch do Liên Xô sản xuất.
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội mang số 49NQ/TVQH do chủ tịch Trường Chinh ký ngày 20.6.1961. Theo Nghị quyết này chính quyền có thể bắt giam các công dân không cần đến thủ tục tố tụng, mỗi hạn tập trung cải tạo được ấn định là ba năm. Khi hết một hạn, người bị tập trung cải tạo có thể và thường bị ở thêm hạn tiếp theo, và cứ thế kéo dài mãi. Ở Trung Quốc, tập trung cải tạo đã có từ sau khi Ðảng cộng sản chiếm được chính quyền ở Hoa lục với hình thức “trường 7.5”. Mãi tới tháng 2.1980 nó mới được thể chế hóa bằng một chỉ thị của Quốc vụ viện, theo đó thì bất cứ công dân Trung Quốc nào cũng có thể bị đưa vào trại cải tạo đặc biệt trong một thời hạn nhất định. Trong chuyện này Chu Ân Lai rõ ràng đã đi sau Trường Chinh. Xin hiểu: kẻ thù của Cách mạng.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:30:23 GMT -6
Chương 4
Tôi lặng lẽ quan sát người từ nay tôi phải sống cùng, không biết là bao lâu: vài tuần, dăm tháng hay cả năm?
Tôi nhớ đến chuyện cha tôi kể về những lần ông bị bắt. Ông nói quan trọng nhất là mấy ngày đầu. Mọi thủ đoạn của địch nhằm bẻ gẫy mình nằm trong mấy ngày đó. Tra tấn dữ nhất cũng trong mấy ngày đó. Sau thì không đáng kể. Vào thời gian này địch thường cài chỉ điểm vào xà lim, cho ở chung với mình. Những ngày mới bị bắt con người cảm thấy cô đơn vô cùng. Thế là những bí mật anh ta cắn răng không khai với địch thì lại khai thông thốc với tên chỉ điểm trong những câu chuyện tâm tình.
Trời tối lúc nào không biết. Sau cái chạng vạng nhập nhòa, không rõ của trời hay của xà lim, ngọn đèn trong lưới sắt bừng sáng. Dưới ánh sáng điện trông anh tù cũng không đến nỗi gớm ghiếc cho lắm.
Cửa lại mở, lần này không có tiếng động dữ dằn như lúc tôi mới vào. Viên cai ngục nông dân đứng trong khung cửa, cái áo bông của tôi vắt ngang tay:
– Anh!
Tôi hỏi lại:
– Tôi hả?
Anh ta gật đầu, đưa cho tôi cái áo bông:
– Anh mặc vào rồi đi với tôi.
Tôi uể oải xỏ giày, đi theo anh ta.
Chúng tôi đi lặng lẽ trong một cái sân hẹp và tối, qua mấy ngôi nhà dài kiểu trại lính, từ trong đó bay ra tiếng người rì rầm như một tổ ong, qua một xưởng thợ ngổn ngang sắt thép rồi bước vào một ngôi nhà lớn. Trong một góc tối leo lét mấy ngọn đèn màu mắc trên một cành thông. Từ xó tối đó một cái loa vô hình rền rĩ:
Hồng hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê… Cuối í í sông… ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về… Say mê đồng lúa… Vui tràn trề.ề….
Ánh đèn mờ mờ cho thấy nơi này có một hành lang ngắn, một cái ngách, với hai dãy cửa. Tôi đoán đây là khu tù binh. Người ta không chiều tù nhân Thiên chúa giáo bản xứ tới mức tha vào đây cho họ một cây thông. Lại càng không để ý tới chuyện cho họ một chút âm nhạc đang phát ra kia, từ một máy ghi âm cà khổ. Dây cu-roa máy đã rão lắm, nó chạy èo ẽo làm cho bài ca trữ tình trở thành não nuột. Không biết họ sẽ cho tù binh Mỹ mừng Noen theo cách nào đây? Chẳng lẽ lại điệu từng tên ra, cho nó đi những bước dè xẻn quanh cái cành thông nhà quê kia một lát, cho nó hưởng khúc nhạc thê lương kia một lát, rồi điệu về, nhường chỗ cho tên khác? Xem ra với cung cách này lễ Thiên chúa Giáng sinh cho tù binh chắc hẳn được làm đúng như vậy. Thật buồn cười.
Kể từ 5 tháng 8 năm 1964, khi những máy bay Mỹ lần đầu xâm phạm vùng trời miền Bắc Việt Nam đã có không ít phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, mở đầu danh sách là Anvarez lừng danh thế giới. Ngoài số phi công bị bắn rơi trên miền Bắc kể từ khi có cuộc leo thang bằng không lực trên miền Bắc Việt Nam, còn có nhiều tù binh Mỹ khác. Ðó là tù binh thuộc các binh chủng khác của quân đội Mỹ từ các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia được đưa về giam tại các trại bí mật nằm rải rác trên miền Bắc.
Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Ðịnh chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông1 lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở Nhà xuất bản Văn Hóa nữa? Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra2. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút.
Ðã thành một cái lệ – người cầm bút trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải là người có lý lịch rõ ràng, trong sạch, có lập trường vững vàng, có thâm niên càng cao trong tổ chức3 càng tốt. Các nhà xuất bản tuyệt đối không in tác phẩm của những phần tử có vấn đề. Thậm chí có người đã tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chỉ vì dính líu ít nhiều với các văn nghệ sĩ có vấn đề là đã không được in sách, đăng báo nữa rồi. Số phận nhà văn Thanh Châu trong nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước cách mạng là một thí dụ. Anh không bị chính thức coi như thuộc nhóm Nhân văn – Giai phẩm, nhưng vì quan hệ với Nhân văn – Giai phẩm Thanh Châu bị treo bút. Cho đến lúc được phép viết thì anh đã cao tuổi mất rồi, đã xuống sức mất rồi.
Kim Lân may mắn thoát nạn trong cái đận Nhân văn – Giai phẩm. Anh khôi hài nói rằng sau vụ này hết thảy nhà văn đều xây xát, chỉ có các cung văn4 là lành lặn.
Nếu tôi bị bom chết trong chuyến công tác Nam Ðịnh chắc hẳn sẽ có một điếu văn thống thiết rằng sự hy sinh của tôi là một tổn thất to lớn không thể nào đền bù được cho gia đình và cơ quan, còn tôi trở về nguyên vẹn để bị bắt thì người ta lại uốn ngược lưỡi nói rằng tên phản động Vũ Thư Hiên mà ta theo dõi từ lâu đã bị tống giam.
Từ vài năm nay lòng trung thành của tôi đối với cách mạng bị đặt dưới sự soi mói khắc nghiệt. Câu chuyện có nguyên ủy của nó. Năm 1958 tôi từ Liên Xô về nước để lấy tài liệu cho đề tài thi tốt nghiệp khoa kịch bản thì ở trong ký túc xá sinh viên, một ông bạn họa sĩ cùng sang học với tôi một chuyến đã lục lọi đồ đạc của tôi để lấy cuốn nhật ký đem nộp sứ quán. Cuốn nhật ký ghi những kỷ niệm trong chuyến về Việt Nam năm 1957 với nhà quay phim xô-viết Reizman để thực hiện bộ phim Ánh Sáng Tháng Mười, trong đó tôi có những nhận xét xấu về Cải cách ruộng đất, về ông Hồ Chí Minh. Cuốn nhật ký lập tức được gửi về Bộ Công an5.
Nghe nói Nguyễn Văn Kỉnh trước Cách mạng Tháng Tám cũng là một trí thức ở Nam bộ, được nhiều người mến mộ. Nhưng trong việc chỉ đạo ông bạn họa sĩ đảng viên ăn cắp nhật ký của tôi, Kỉnh tỏ ra còn có khiếu làm mật thám, là điều không ai biết. Thời ấy năng khiếu mật thám được coi là một năng khiếu đáng được khuyến khích. Tôi bị Lê Văn Rạng, vụ trưởng Vụ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp, một tay trí thức bảo hoàng hơn nhà vua, giữ lại ở trong nước. Việc tôi có trở lại Liên Xô học tiếp hay không sẽ được xét sau.
Tôi trở về Xưởng phim Việt Nam. ê đó được gần một năm tôi phải bỏ nghề điện ảnh vì không chịu nổi tên trưởng phòng tổ chức vốn là thư ký đội Cải cách ruộng đất. Tên hãnh tiến này gọi tôi lên gặp y rồi vặn tôi: “Cả xưởng chào tôi, tại sao anh không chào?”.
Tôi lễ phép hỏi tên y, rồi cũng lễ phép như thế tôi thưa với y rằng rất có thể y quan trọng, y có ích, tôi biết, tựa như cái cột đèn vậy, không có nó điện không vào nhà được, tôi sẽ không có ánh sáng để đọc. Nhưng, tôi kính cẩn thưa tiếp, không phải vì thế mà tôi sẽ dừng lại trước mỗi cái cột đèn để chào nó.
Tôi sang nghề báo. So sánh các tờ báo muốn nhận tôi, tôi thấy báo ảnh, hay còn gọi là họa báo Việt Nam, hợp với tôi hơn cả. Nó là tờ báo chủ yếu dành cho độc giả nước ngoài, bài vở không nhất thiết phải viết theo công thức của các báo trong nước. Hơn nữa, mấy anh trong bộ biên tập báo ảnh mến tôi qua những truyện ngắn và bài báo đã đăng, chèo kéo bằng được tôi về với tờ báo của các anh.
Trong những cuộc đụng độ lặt vặt kiểu như chuyện xảy ra với anh chàng tổ chức Xưởng phim tôi không thể tránh được những câu nói lẽ ra không nên nói do bực bội. Cơ quan tổ chức, cũng như cơ quan công an, rất mẫn cán thu thập thông tin về thái độ chính trị của cán bộ. Chỉ cần anh ăn nói không giữ gìn một chút, để lộ ra những suy nghĩ không theo dòng chính thống, là tội của anh lập tức được ghi nhận, anh bắt đầu bị theo dõi mà không biết. Cho tới ngày anh chợt nhận ra mình bị theo dõi thì đã muộn – anh đã bị ném khỏi boong con tàu cách mạng.
Còn nhớ năm 1961, mọi người trong tòa soạn đã được nhận Thẻ nhà báo rồi mà mãi tôi chưa được nhận. Tôi chỉ ngạc nhiên tí chút, cho rằng những cái bàn giấy quan liêu bao giờ mà chả thế, chúng không vội vã trong bất cứ việc gì. Tòa soạn gọi điện thoại hỏi. Người ta nói ảnh của tôi bị thất lạc. Tôi đưa tiếp ảnh khác. Vẫn không xong. Hóa ra không phải chuyện mất ảnh. Chỉ sau khi chủ nhiệm tờ báo đích thân lên Sở báo chí kiện cáo thế nào không biết, tôi mới được nhận thẻ. Bây giờ nghĩ lại mới biết chẳng qua người ta ngần ngại, người ta còn phải xin ý kiến trên, bởi vì tên tôi nằm trong một danh sách nào đó đòi những người trực tiếp quản lý các nhà báo phải suy nghĩ. Cấp trên trực tiếp của tôi chắc chắn chẳng khó chịu với tôi, nhưng vào hồi ấy chẳng ai muốn chịu trách nhiệm về ai hết.
Sau vụ này tôi bắt đầu để ý đến thái độ của lãnh đạo, tức là các quan chức cấp trên của tôi, ngang cũng như dọc. Mới thấy rằng trong công việc hàng ngày người ta tránh không phân công tôi làm những đề tài có dính tới bí mật quân sự hoặc những bí mật khác. Mà bí mật trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì lại quá nhiều, cái gì cũng bí mật, thành thử tôi chỉ được phân công đi các địa phương khi cần có các bài về văn hóa, nông nghiệp, công nghiệp hoặc ngồi nhà làm công việc chữa cháy cho các số báo chẳng may bị ông Trường Chinh, người khai sinh ra tờ báo, bất ngờ gạch bỏ một bài, thậm chí vài bài một lúc6.
Ðến lúc thấy mình không có tên trong danh sách những nhà báo được cử đi B7 thì tôi mới biết chắc chắn rằng cái sự cảnh giác cách mạng đã được áp dụng cho tôi rồi. Chả trách đợt vào Vĩnh Linh công tác, khi tôi muốn ra Cồn Cỏ thì bị người ta từ chối khéo. Hòn đảo nhỏ bé lúc ấy đang cô độc chiến đấu chống lại những cuộc tấn công bão táp của hải quân Mỹ. Như bất cứ nhà báo nào tôi muốn có mặt ở đó. Nguyễn Khải8 ở Vĩnh Linh cùng thời gian với tôi. Anh ra được Cồn Cỏ còn tôi thì không. Tàu đi Cồn Cỏ chỉ có một chỗ dành cho văn nghệ sĩ, mà anh Nguyễn Khải đã đăng ký từ lâu rồi, người ta nói thế.
Những tin tức rò rỉ từ Bộ Nội vụ cho biết tôi nằm trong diện không đáng tin cậy. Từ diện không đáng tin cậy sang diện có vấn đề chỉ là một bước, mà bước không dài. Các bạn tôi nhắc tôi phải thận trọng, phải giữ gìn lời ăn tiếng nói. Nghe thì nghe, chứ trong thâm tâm tôi không tin hẳn, chẳng lẽ người ta lại có thể nghĩ bậy bạ đến thế?
Mọi việc chỉ sáng tỏ khi tôi đã ở trong Hỏa Lò: thì ra từ lâu rồi tôi đã bị nhà cầm quyền nghi ngờ. Họ thậm chí còn lo tôi sẽ chạy sang bên kia chiến tuyến khi gặp cơ hội thuận tiện nữa kia.
Tôi cay đắng được biết sự thật. Tôi coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, do những điều kiện lịch sử bó buộc, là bước kế tiếp, lần này là bất đắc dĩ, trong hành trình giải phóng dân tộc. Nguyện vọng thống nhất đất nước bao giờ cũng là nguyện vọng của toàn thể dân tộc.
Ngô Ðình Diệm đã sai lầm khi chủ trương đàn áp mọi xu hướng khác ông ta, chứ không riêng cộng sản, bằng những biện pháp phong kiến, gia đình trị. Trong tình thế đó những người cộng sản không thể không đứng lên chống lại, kéo theo sau mình quần chúng bất bình. Sự chống đối chính quyền Sài Gòn còn mạnh mẽ hơn nữa khi những người cầm quyền sau Ngô Ðình Diệm đã để cho người Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Người Mỹ tự thị đã đi lầm nước cờ. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm, là điều người Mỹ không biết và khi hiểu ra thì đã muộn. Sau năm 1965 người ta không thể trở về với năm 1954, cho dù có muốn.
Ðây là đề tài thuộc thẩm quyền các sử gia, tôi không dám lạm bàn. Nhìn cuộc chiến từ góc độ người làm báo tôi cho rằng trong suốt thời gian chiến tranh không phải hoàn toàn không có cơ hội để thoát khỏi nó, và trong chuyện không muốn tìm cơ hội thoát ra lỗi không phải ở một bên, mà ở cả hai phía.
Nhưng thôi, ta quay lại với Hỏa Lò mùa đông năm 1967 cái đã.
Ði qua khu tù binh, viên cai ngục nông dân đưa tôi tới một ngôi nhà dài phía trái cổng Hỏa Lò, có rất nhiều cửa. Phòng hỏi cung là một trong những căn ở đây. Nó là một phòng nhỏ, chừng mười sáu thước vuông, không hơn, được chiếu sáng một cách hà tiện bởi một bóng điện 60 oát.
Huỳnh Ngự đã chờ sẵn. Thấy tôi bước vào, y ngẩng lên. Mặt nhẹ nhõm, không hằn học, không căng thẳng, trông y thật hiền lành. Khó tưởng tượng được vừa mới đây y còn hầm hè với tôi như với kẻ thù của cá nhân y chứ không phải của Ðảng.
– Ngồi xuống, ngồi xuống đây, anh Hiên! – y vồn vã chỉ cho tôi ghế đối diện – Anh dùng trà, hỉ?
Phòng hỏi cung được bày biện như một phòng khách nghèo – mấy cái ghế ba nan quây quanh một bàn nước chân quỳ. Trên bàn là một ấm men rạn bắt chước đời Lý, không hợp chút nào với mấy chén sứ Hải Dương rẻ tiền. Bộ đồ trà được đặt trong một đĩa sắt tráng men sứt sẹo với mấy con tôm Tề Bạch-thạch bạc màu. Mặc dầu đã có áo bông, tôi vẫn run rẩy – nhiệt độ xuống quá nhanh, buổi sáng trời còn ấm, vậy mà bây giờ đã lạnh dữ. Căn phòng hỏi cung còn lạnh hơn cả xà lim, lại có mùi gỗ mốc, như thể nó bị bỏ hoang lâu ngày.
Huỳnh Ngự bốc trà cho vào bình, tỉ mẩn nhặt từng cánh trà rơi xuống mặt bàn, rồi từ tốn với tay lấy cái phích Trung Quốc, từ tốn chế nước sôi, đợi một lát cho trà thật ngấm mới chuyên chậm chậm vào hai chén. Cung cách pha trà cho thấy y là tay nghiện trà nặng, như mọi cán bộ đứng tuổi hồi bấy giờ.
Tôi lặng thinh quan sát.
– Uống đi, anh Hiên! – y chìa bàn tay gày, với những ngón dài, xương xẩu về phía tôi – Kẻo nguội.
Tôi vẫn nín lặng.
– Tiết trời như ri uống trà thiệt thú vị, phải không? Anh dùng đi, tự nhiên nghen. Anh thấy đó, ở ngoài nhìn vô ai cũng nghĩ cái sự bị bắt, cái sự ở tù nó ghê gớm lắm lắm kìa, khủng khiếp lắm lắm kìa, chớ thiệt ra thì, hì hì… có chi ghê gớm lắm mô…
Y đẩy chén trà về phía tôi.
– Tác giả “Chiếc va-li” đã báo trước cho anh biết anh sẽ bị bắt, phải không? Hắn còn nói với anh những chi nữa, hè?
Ðó là Huỳnh Ngự nói về Hoàng Ðạo9. Tôi không ngạc nhiên. Y muốn khoe y biết hết, đừng hòng giấu y điều gì.
Ðúng là Hoàng Ðạo có báo trước cho tôi điều sẽ xảy ra.
Tôi gặp Hoàng Ðạo tuần trước. Tôi không chủ bụng tới anh, tiện thể đi ngang phố Nguyễn Chế Nghĩa thì rẽ vào. Anh có căn nhà nhỏ ở đó. Từ phòng ngoài nhà anh nhìn ra tôi vẫn thấy thấp thoáng bóng mấy công an mật lởn vởn trong ánh sáng vàng vọt rỉ ra từ những chao đèn phòng thủ.
“Họ sẽ bắt anh, Hoàng Ðạo nói. Hôm nọ tôi có việc rẽ vào Bộ, thấy căng lắm. Còn bắt nhiều. Tôi thì chỉ quan tâm tới anh thôi”. Tôi cười: “Vậy thì bỏ rượu ra, chúng ta uống một trận chia tay”. Tôi cố ý nhắc lại câu Hoàng Ðạo nói với một sĩ quan Phòng Nhì Pháp trong một lần tính mạng anh ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Anh vào Hà Nội dưới vỏ bọc đảng trưởng đảng Ðại Việt. Tình báo Pháp hoan hỉ đón tiếp anh. Rồi muốn kiểm tra anh, giữa đêm hôm khuya khoắt họ cho viên sĩ quan Phòng Nhì nói trên, người vẫn xưng là bạn thiết của anh, lẻn đến nhà anh báo tin anh sắp bị bắt, khuyên anh trốn ngay. Hoàng Ðạo không mắc mưu. Anh cười ngất, nói anh cảm ơn, nhưng anh sẽ không trốn, dấn thân vào nghiệp chính trị anh đã dự kiến tình huống này, những người Pháp đa nghi rồi sẽ ân hận, còn bây giờ anh muốn uống ly rượu chia tay với người anh coi là bạn. Bài toán thử của tình báo Pháp thất bại. Sau thái độ cứng rắn của anh họ cho rằng họ nhầm.
Chúng tôi dẹp mọi chuyện qua một bên, bàn tiếp việc viết kịch bản cho bộ phim về hoạt động của tổ điệp báo do anh chỉ huy, kết thúc bằng vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d’Inville tại ven biển Thanh Hóa năm 1950. Ý định này có từ lâu, khi tôi còn ở Moskva. Hoàng Ðạo và tôi vẫn thư từ cho nhau để bàn về bộ phim tương lai.
Khi điệp vụ được thực hiện, Hoàng Ðạo là trưởng ty công an Thanh Hóa. Anh bố trí một chiến khu giả tại Ngọc Lặc (miền Tây Thanh Hóa), rồi vào Hà Nội với tư cách người chủ của chiến khu. Lãnh tụ giả mạo của một đảng không có thật vượt qua được thử thách của tình báo Pháp, trở thành bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Bảo Ðại. Trong thời gian ở lại trong vùng địch Hoàng Ðạo đã gặp Ngô Ðình Diệm, Năm Lửa, Ba Cụt, Bẩy Viễn… và nhiều nhân vật chính trị ở miền Nam. Sau khi biết chắc người Mỹ có ý định dùng con bài Ngô Ðình Diệm thay thế Bảo Ðại, Hoàng Ðạo đề xuất với Trung ương cho phép anh thủ tiêu Ngô Ðình Diệm để thế chân ông ta. Kế hoạch của anh bị Trường Chinh gạt đi. Trường Chinh kịch liệt phê bình điệp vụ này, nói rằng việc Hoàng Ðạo tổ chức chiến khu giả ở Thanh Hóa làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính phủ kháng chiến, lợi bất cập hại. Ông còn nói Hoàng Ðạo là người ham mê tửu sắc, nếu làm việc với Mỹ sẽ bị Mỹ mua chuộc, “đến lúc ấy đánh nhau với nó còn khó hơn đánh nhau với Ngô Ðình Diệm nhiều”10. Hoàng Ðạo nhận được lệnh kết thúc điệp vụ, trở về vùng tự do. Việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d’Inville là hành động cuối cùng của tổ điệp báo trước khi rời bỏ trận địa.
“Anh không thể xử nhũn một chút được sao? – Hoàng Ðạo hỏi khi tôi ra về – Anh dây vào chính trị làm chi?”. “Không được, anh ạ. Tôi không quan niệm nói ra ý kiến của mình là dây vào chính trị. Tôi không làm điều gì sai trái. – tôi nói – Tôi chỉ có tội cho rằng con người có quyền tự do tư tưởng”. Hoàng Ðạo ôm lấy tôi. Chúng tôi bùi ngùi chia tay.
– Anh không muốn nói cũng không sao. – Huỳnh Ngự nói bằng giọng khinh khỉnh – Chuyện Hoàng Ðạo chẳng có gì quan trọng. Không phải đối tượng đáng chú ý. Cũng không phải người chúng tôi cần anh báo cáo. Nhân tiện thì tui hỏi cho biết, tức là chúng tui biết hớt, nhưng chúng tui muốn nghe anh nói coi ra răng. Những chuyện khác cũng rứa. Anh thích nói thời nói. Không thích thời thôi. Tui sẽ chờ. Bao chừ giác ngộ tự anh sẽ nói. Cơ quan an ninh chúng tui rất kiên nhẫn.
Tôi tưởng y sẽ nói thêm: “Chúng tôi sẽ chờ năm năm mười năm, hai mươi năm, hay lâu hơn nữa” theo cách ông Hồ Chí Minh nói với người Mỹ. Hình như y định nói thế thật, nhưng kìm lại được.
– Nói thiệt cho anh hay để anh đừng sợ, Ðảng đưa anh vô nơi ni là để ta có chỗ mần việc cho thuận tiện mà thôi. – Huỳnh Ngự nhe răng trong nụ cười không thành tiếng – Ðảng muốn hỏi anh một số việc, hỏi xong thời cho anh về, Ðảng cũng không giữ anh mần chi. Ngoài tê anh công tác phục vụ Ðảng, phải không nào? Nơi ni anh cũng vẫn mần việc đó, không có chi khác. Anh là cán bộ của Ðảng, phải biết chấp hành mịnh lịnh của Ðảng. Bữa ni Ðảng biểu anh mần việc ở nơi ni thì anh mần việc nơi ni. Mai mốt Ðảng biểu anh vô Nam thì anh vô Nam, còn khi mô Ðảng biểu chừ phải qua Liên Xô thì anh xách va li qua bển. Vậy đó, thanh niên phải như rứa, hè hè, nơi Ðảng cần thanh niên có, nơi khó có thanh niên…
Ngon lành chưa! Cứ như thể nay mai Ðảng sẽ cử tôi đi công tác Moskva, hoặc xa hơn nữa, tới Paris hoặc New York chửa biết chừng.
Mặc cho y ba hoa, tôi đủng đỉnh nhấp trà. Trà ngon. Không phải ai cũng pha trà Hồng Ðào11 được thế này. Té ra Huỳnh Ngự cũng sành uống trà ra phết.
– Tui nói vậy là trúng chớ? Không trật chớ? – y nói bằng giọng tin chắc ở lẽ phải mà y đang ngồi ở trên – Vậy, chừ Ðảng chỉ thị cho anh ở nơi ni, vị trí chiến đấu của anh lúc nầy là ở nơi ni, anh hãy yên tâm phục vụ ở vị trí mới. Chỉ thị của Ðảng là cái mà chúng ta, những cán bộ của Ðảng, chỉ có việc tuân theo…
Một con cừu trong đàn cừu Panurge, tôi nghĩ. Kết quả sự hoài thai kỳ cục giữa các thứ chủ nghĩa: chủ nghĩa Mác bị chặt đầu, chủ nghĩa Mao động dục, chủ nghĩa phong kiến hiện đại.
Trong yên lặng tôi nghe tiếng mấy con sẻ rên rỉ vì rét trên mái nhà. ê đâu đó, từ một thế giới khác, vẳng tới tiếng xe tải nặng lăn bánh trên đường. Mà cũng có thể là xe bọc thép. Những chuyến xe nối tiếp nhau không ngớt, ì ì ầm ầm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống tiếp. Tôi nhã nhặn nâng chén, chờ y rót thêm.
– Nào, uống xong ta mần việc! – có vẻ ấm trà ngon làm cho Huỳnh Ngự cảm thấy sảng khoái và rộng lượng – Anh không thấy sao, trong ni cũng bảnh chẳng kém chi ngoài tê, hả? Cũng Hồng Ðào loại một, cũng Ðiện Biên12 bao bạc như ai. Anh hút đi, khi ta mần việc trên cho trà thuốc thoải mái. Tiêu chuẩn, chớ không phải của tôi đâu. Phải nhịn thuốc cả ngày, khó chịu lắm hè?
Tôi nhìn bao thuốc y đẩy tới trước mặt. Chao ôi, giá mà được rít một hơi lúc này nhỉ, chỉ một hơi thôi! Tôi cảm thấy một cơn thèm ghê gớm không sao cưỡng nổi chạy râm ran trong cơ thể.
– Cảm ơn. – tôi nói – Tôi không hút.
Y ngả hẳn ra trên ghế để nhìn tôi, theo cách người viễn thị.
– Ủa? Anh mà không hút.
– Thì có gì lạ đâu?
Huỳnh Ngự làm mặt giận:
– Tui mời thiệt tình mà. Bộ anh giận hả?
– Cảm ơn. Tính tôi thế, đã không hút là không hút.
– Mà sao vậy chớ? Hay là anh chê thuốc Ðiện Biên của ta không ngon bằng Gold Flake? Cánh văn nghệ sĩ các anh khoái Gold Flake lắm thì phải? Hồi ấy ở Hà Nội thuốc lá ngoại chỉ có độc một thứ Gold Flake. Ðồn rằng nó lọt ra từ sứ quán Indonesia. Việt Nam đang ra sức lấy lòng người hùng Suharto sau sự sụp đổ bất ngờ của cái gọi là lực lượng mới trỗi dậy và ghế tổng thống suốt đời của Sukarno, cố tình lờ đi chuyện nhân viên sứ quán Indonesia buôn lậu13.
Cái ghế kêu cọt kẹt dưới tấm thân gày còm của Huỳnh Ngự.
– Tôi không chê Ðiện Biên. Nhưng tôi không hút.
– Chà, anh Hiên nè, anh coi thường cơ quan an ninh hơi nhiều đó! – mặt Huỳnh Ngự toác ra trong nụ cười khoái trá – Anh nghĩ tụi tui biết về anh quá ít thì phải?
Tiếng cười khanh khách của y làm tôi nóng mặt.
– Tôi chẳng coi trọng mà cũng chẳng coi thường cơ quan an ninh. Tôi cũng chẳng quan tâm chuyện các anh biết về tôi nhiều hay ít. Tôi không có thời giờ để nghĩ vớ vẩn.
Huỳnh Ngự nghiêm nghị trở lại.
– Nè, nói cho anh hay, trước khi bắt một người tụi tui nghiên cứu về người đó rất kỹ. Tui biết mọi khuyết tật của anh, mọi thói quen của anh. Tui biết anh ghiền thuốc lá, mà còn ghiền nặng nữa kìa.
Ðến lượt tôi bật cười.
– Thế thì không đúng rồi. Tôi chưa bao giờ liệt mình vào loại nghiện nặng.
– Chẳng ai bắt bẻ anh chuyện ghiền thuốc hay không ghiền thuốc. Có chi mà phải chối!
– Hút thuốc lá đến độ bỏ điếu này ra phải nạp ngay điếu khác vào, không thì không chịu được mới là nghiện nặng. Tôi có hút nhưng chưa nghiện tới mức đó.
– Anh bắt đầu hút từ năm nào nhỉ?
– Từ năm tôi mười sáu.
Chẳng có cuốn trinh thám nào viết về sự hỏi cung kỳ cục như thế này. Không có lấy một dụng cụ tra tấn nào – không một cái magnéto, không một sợi thừng, không một cái roi, không một móc xích lủng lẳng trên trần.
– Sớm quá, hút thế sớm quá! – Huỳnh Ngự lắc đầu – Thuốc lá có hại lắm, chẳng nói anh cũng biết. Ung thư phổi, ung thư vòm họng từ đó mà ra. Ðể coi, bao nhiêu phần trăm người hút thuốc bị ung thư hè? Tui có đọc mà không nhớ. Nhưng hút chút chút thì không sao. Tui lâu lâu cũng hút một điếu, ghiền thì không, tui không ghiền.
Thì cứ nói chuyện chơi với thằng cha này một lát xem y định dẫn câu chuyện tới đâu? Một nghệ thuật hỏi cung độc đáo? Buồn cười, y trẻ con quá!
– Hồi ấy chúng tôi đói. – tôi dịu giọng – Hút thuốc quên đi được phần nào cảm giác khó chịu.
– Nói chi lạ? Anh mà đói?
– Anh người Khu 5, phải không?
Huỳnh Ngự cau mặt. Y bỏ điếu thuốc ra khỏi cặp môi thâm.
Tôi chợt hiểu – y bị chạm nọc. Trong số những người từ bên kia vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc theo Hiệp nghị Genève, Khu 5 đông hơn cả. Ngoài cán bộ và gia đình họ, còn có một đám lúc nhúc tù hình sự được tập kết theo. Người ta nói Khu ủy Khu 5 sợ không đưa tù theo chúng sẽ chạy theo địch. Trong lúc công tác đón tiếp cán bộ tập kết diễn ra lộn xộn, chẳng hiểu sao bọn tù lại được thả ra, thậm chí còn được bố trí công tác, phần đông sung vào ngành thuế và quản lý thị trường, gây nên nhiều tiếng tăm không đẹp. Nói chung, hồi ấy cả dân Bắc lẫn dân Nam bộ tập kết đều có định kiến rất xấu với dân khu 5.
– í tôi muốn nói ở chiến trường Liên khu 5 các anh không bị đói, – tôi nói chữa, trong lòng ân hận cảm thấy mình thiếu tế nhị – chứ ngoài này năm 1949 là năm bộ đội chúng tôi bị đói nhất, sắn không có mà ăn…
Tôi đã làm cho y hiểu tôi không có ý nói xỏ, nhưng mặt y vẫn lạnh như băng. Y không muốn nghe chuyện tôi đã ở trong quân ngũ, chắc thế. Rất có thể, trước đây y cũng từng ở bộ đội như phần lớn cán bộ kháng chiến, nhưng lúc này đây y không muốn thấy giữa tôi và y có cái gì đó giống nhau, là cái làm nhòa đi ranh giới giữa viên cán bộ chấp pháp và tên tù đang bị hỏi cung. Tuy nhiên, chuyện tôi đã ở bộ đội là sự thật không thể bác bỏ. Y nói y nghiên cứu kỹ lý lịch tôi, thế tất y phải biết điều đó.
Nhưng rồi y cũng lấy lại sắc mặt bình thường:
– Anh không có thuốc hút là tại tui. – y nói như thể phân trần – Anh nào ghiền vô đây cũng có tiêu chuẩn thuốc lá như khi ở ngoài. Tui mắc nhiều công chuyện quá. Lẽ ra anh phải có thuốc ngay mới đúng. Thôi được, cứ hút tạm thuốc tiêu chuẩn của tui cái đã. Mai mốt rồi tính.
– Cảm ơn. Nhưng tôi đã quyết định thôi không hút nữa.
– Anh tính nhân tiện vô đây cai thuốc luôn, hỉ? Hay đó.
Tôi lắc đầu:
– Không phải. Chẳng qua là thế này: tôi không muốn trở thành một Ngô Ðức Trì14.
Huỳnh Ngự đang uống dở ngụm nước, y ngưng lại, đặt mạnh chén xuống bàn. Cái nhìn soi mói xoáy chặt vào mắt tôi:
– Anh vừa nói đứa nào? Thằng Trì nào?
Ðến lượt tôi ngạc nhiên. Chẳng lẽ y, vụ phó một bộ quan trọng là Bộ Nội vụ, chẳng gì cũng là một cán bộ có cỡ, lại không biết Ngô Ðức Trì là ai.
– Thế này, Ngô Ðức Trì là ủy viên Trung ương Ðảng vào thời kỳ trước khi Mặt trận Bình dân vỡ…
Y nhíu lông mày nhìn tôi.
– Khi bị Pháp bắt, bị tra tấn, – đành phải giải thích cho y vậy – Ngô Ðức Trì đã bán đứng cho Pháp một số cơ sở của Ðảng để đánh đổi lấy một lần gặp vợ và, thật khó tưởng tượng nổi, để được chúng cho… hút thuốc lá. Giữa hai thứ mà Ngô Ðức Trì đem mạng sống của các đồng chí ra đánh đổi tôi không rõ cái nào quan trọng hơn: vợ hay thuốc lá? Có người nói Ngô Ðức Trì phản bội vì thèm mụn con trai nối dõi tông đường…
Ẩn ý của câu nói thật dễ đoán. Huỳnh Ngự ném cho tôi một cái nhìn bốc lửa. Tôi nghĩ y sẽ nổi khùng, sẽ quát nạt, nhưng không, y tỏ ra biết tự kiềm chế.
– Anh ngồi ngay ngắn lại
Tôi quan sát tư thế của mình – tôi vắt chân chữ ngũ theo thói quen, cái áo bông để hở làm lộ ra cái áo tù không cài cúc. Tôi bỏ chân xuống.
– Thế này được chưa?
– Nghe đây! – y dằn giọng – Hôm nay tôi cho gọi anh ra trước hết là để phổ biến cho anh nội quy trại giam.
– Tôi đang nghe.
– Thứ nhất, kể từ bây chừ, khi anh đã nằm trong trại giam thì quyền công dân của anh không còn nữa, quyền đó tạm thời bị tước bỏ, anh không được phép kêu cán bộ thực hành pháp luật ở nơi ni, từ cán bộ chấp pháp cho tới bộ đội gác trại bằng đồng chí! Với bất kỳ công dân nào khác là người tự do cũng vậy…
Cái sự tung hứng ngôn từ và đánh tráo khái niệm được thực hiện tuyệt vời ở mọi lĩnh vực, mọi nơi chốn, không trừ cả trại giam! Những khái niệm còn đó cả nhưng đã rỗng ruột. Các ngôn từ vẫn bay lượn, nhưng chỉ là những cánh diều giấy mà sợi dây nằm trong tay nhà cầm quyền.
Chao ôi, tôi, kẻ bị bắt cóc giữa đường đưa thẳng vào xà lim mà gia đình không được báo, bản thân không biết bị kết tội gì, mà còn có quyền công dân nữa cơ đấy!
Tôi có nghe kể trong trại giam tù nhân phải gọi cán bộ trại bằng ông, bằng bà15. Tôi không tin. Thì ra không phải chuyện bịa. Cách quy định về xưng hô này bắt nguồn từ thời kỳ Cải cách ruộng đất. Hồi đó, để hạ nhục các đối tượng của cách mạng, cán bộ đội Cải cách ruộng đất bắt địa chủ, phú nông phải gọi bất cứ ai là người tự do bằng ông, bằng bà: ông đội, bà đội, ông nông dân, bà nông dân….
Vợ tôi hiện nay là người tự do. Nếu bây giờ tôi được gặp vợ thì, theo đúng cái quy định quái gở kia, tôi cũng phải lễ phép chào vợ: chào bà ạ!
Vui thật!
Tôi bật cười. Thái độ hách dịch của Huỳnh Ngự không làm tôi sợ y, mà ngược lại, làm tôi thấy dễ chịu. Y quát nạt, có nghĩa là y thấy cần phải trấn áp, y thấy y không thể chiến thắng dễ dàng. Tôi nói:
– Chà, chẳng hóa ra tôi đã thực hiện đúng nội quy của các anh ngay cả khi chưa được nghe anh phổ biến hay sao? Từ khi gặp anh tôi chưa một lần gọi anh bằng đồng chí, có đúng thế không nào?
– Hừm. – y xác nhận với vẻ mặt chưng hửng.
– Không phải tôi nghe ai nói hoặc thông minh mà đoán ra đâu. Chẳng qua, nói thực với anh, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng, trong gia đình chúng tôi hai tiếng đồng chí được coi là rất thiêng liêng, tôi đã thấy vì tình đồng chí những người cách mạng sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình…
– Hừm.
Huỳnh Ngự tím mặt. Y lúng túng, không biết nên xử sự thế nào khi thấy tôi đối đáp bằng giọng điềm đạm như thế. Lẽ ra nên kết thúc, y lại ngu xuẩn kéo dài cuộc đối thoại:
– Không những không được xưng hô đồng chí, mà anh còn phải kêu cán bộ tụi tui bằng ông hoặc bằng bà…
Hoàn toàn bất ngờ đối với y, tôi đã sẵn sàng để đập lại.
– Một cách xưng hô tuyệt vời, thưa ông! – tôi nói, còn vui vẻ hơn trước – Thú thực, tôi vui mừng được biết ngành công an, tiếc thay lại không phải ngành văn hóa chúng tôi, đã có công trong sự phục hồi những từ ngữ chết uổng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám những từ lịch sự tự nhiên bị ác cảm, bị miệt thị, cứ như thể chúng thuộc về một ngôn ngữ kém cỏi, của riêng giai cấp thống trị. Vô lý, và hơn thế, còn đáng buồn, có phải không ạ? Tôi hoan nghênh sự phục hồi những từ đó. Bản thân chúng vô tội. Ðể mất chúng, tiếng Việt của ta chỉ có nghèo đi, trong khi nó cần được bổ sung càng nhiều cách diễn đạt càng tốt để trở nên phong phú thêm. Hay lắm, hay lắm! Vậy thì thưa ông cán bộ, về phía các ông, các ông sẽ gọi tôi bằng gì?
– Chúng tôi kêu các anh bằng anh chớ bằng cái chi?
– Chết chết, sao lại thế? Gọi như vậy đâu có được?! Như vậy là không công bằng.
Huỳnh Ngự trề môi, cười đểu:
– Bộ anh muốn tui kêu anh bằng ngài chắc?
Tôi nghiêm mặt:
– Nói về xưng hô tôi yêu cầu phải có sự sòng phẳng. Chúng tôi đã lịch sự gọi các anh bằng ông thì về phía các anh tôi yêu cầu các anh cũng phải gọi chúng tôi bằng ông.
Huỳnh Ngự bật khỏi ghế. Y đã mất bình tĩnh.
Từ đầu cuộc nói chuyện, y chơi trò mèo vờn chuột với tôi, đến đây vai trò bị đảo ngược. Y cảm thấy nhục nhã bị tên tù giỡn mặt.
– A, anh láo! Vô tới nơi ni rồi mà vẫn còn láo! Anh…anh dám ví tui với anh hử? Anh dám đặt tui ngang hàng với anh hử? Tui là ai? Tui là người trông coi pháp luật, anh hiểu chưa? Còn anh là ai? Anh là kẻ vi phạm pháp luật. Rứa đó, hiểu chửa? Anh là can…can phạm, anh…anh…là thằng tù! Bình với chả đẳng! Bình đẳng cái con c…tui nè! Ðược, rồi tui sẽ cho anh biết thế nào là bình… bình… bình đẳng! Tui… tui sẽ vặn…vặn cổ anh!
Mặt tôi nóng bừng. Khi có quyền trong tay cái lũ hư đốn này coi người bằng nửa con mắt. Chúng leo lẻo ca tụng những anh hùng cách mạng trước kẻ thù, nhưng không bao giờ chúng thừa nhận có những anh hùng trước mặt chúng.
– Hãy bình tĩnh nghe tôi nói. – tôi bình thản nhìn vào mặt y – Anh bảo tôi là can phạm ư? Ðó mới chỉ là quan điểm của các anh. Của riêng các anh thôi. Chúng tôi có quan điểm của chúng tôi. Nó khác quan điểm của các anh, khác hẳn. Theo quan điểm này chính các anh mới là can phạm. Các anh phạm tội lợi dụng chức quyền tước đoạt những thành tựu của cách mạng. Các anh ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, chà đạp những quyền tự do dân chủ của nhân dân…
– Láo!
– Ðừng vội nóng. Rồi đây lịch sử sẽ phán xét tất cả, chính anh sẽ được thấy sự phán xét đó, chính anh cũng sẽ hiểu ra ai đúng ai sai, ai vì nhân dân, ai phản bội nhân dân……
– Câm ngay! Câm ngay lập tức!
Huỳnh Ngự ré lên. Toàn thân y run bần bật. Trong phút chốc mặt y méo xệch, dãi nhểu ra nơi khóe miệng.
Tôi đâm lo. Thằng cha này mắc chứng kinh phong? Tôi sẽ phải làm gì nếu đột nhiên y lăn đùng ra? Trong trường hợp này phải luồn một cái thìa giữa hai hàm răng để bệnh nhân khỏi cắn phải lưỡi, người ta nói thế. Nhưng bới đâu ra một cái thìa bây giờ? Mà y thì đang lên cơn. Tệ hơn, nếu y chảy máu não? Y có thể chết.
Tôi chẳng muốn làm chết một ai. Tôi không muốn trở thành nguyên nhân cái chết của thằng phải gió này.
Luống cuống vì không biết nên làm gì, tôi rót một chén nước đưa cho y.
Nhưng Huỳnh Ngự đã trấn tĩnh lại được. Y gạt mạnh tay tôi ra làm chén nước đổ tung toé.
– Chờ đó! Cái… thứ… cái thứ anh còn…còn ở nơi ni còn lâu! Ðồ…đồ…! Nói trước cho… cho anh hay: cái thứ anh rồi sẽ…sẽ chết rục xương trong Hỏa Lò nầy! – cuối cùng, rồi y cũng nói được thành lời – Anh sẽ được biết thế nào là… là chuyên chính vô sản! Trong Hỏa Lò nầy đến thép cũng phải chảy, nói chi cái thứ ruồi muỗi như anh…
Toàn thân tôi run bắn lên trong một cơn giận không kiềm chế nổi. Giờ y có giãy đành đạch mà chết trước mặt tôi tôi cũng mặc.
– Hừm, cái đó thì còn phải chờ xem!
– Không phải chờ lâu đâu. Láo đến như Hoàng Minh Chính mà vô đây còn phải quỳ mọp xuống xin tha tội kìa!
Y lấy ngón trỏ chọc chọc vào không khí:
– Ðó, hắn ta quỳ chỗ nớ đó!
Tôi cười phá:
– Ðâu, chỗ nào?
– Ðó chỗ tui chỉ đó!
Sao mà một quan chức như y mà ngây thơ đến thế! Chẳng lẽ y nghĩ tôi là đứa trẻ lên ba? Hay là trong đầu y có cái gì không ổn.
Tôi phá lên cười:
– Thú vị quá nhỉ? Vậy thì thưa ông, ông có thể vui lòng cho tôi được thấy cảnh tượng ấy một lần không? Một lần thôi! Tôi quen Hoàng Minh Chính. Tôi biết tính cách anh ấy. Tôi không tin Hoàng Minh Chính lại có thể sa sút tinh thần như vậy. Một con sư tử quỳ gối trước một con chuột? Không, không thể có chuyện đó được.
– A, anh láo hử?! – Huỳnh Ngự kêu choe chóe – Tui…tui bẻ cổ anh bây chừ…
Y lại thở hổn hển, mặt tái nhợt.
Viên cai ngục hốt hoảng chạy vào, theo sau là một anh chàng búng ra sữa, hình như là thư ký của Huỳnh Ngự.
Tôi những tưởng chúng sẽ bổ tới đánh tôi, khóa tay tôi, nhưng chuyện đó không xảy ra. Cả hai đứng sững, ngơ ngẩn nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt.
– Bây giờ các anh hãy nghe tôi nói đây! – hai tay khoanh trước ngực, tôi cao giọng diễn thuyết trước cái cử tọa ít ỏi trời cho – Các anh có tất cả: súng đạn, gông cùm, nhà tù. Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ có một thứ: chính nghĩa. Các anh có thể thủ tiêu tôi, tôi biết, nhưng công khai giết tôi thì đến bọn chủ các anh cũng không dám. Nói thật đấy, cho ăn kẹo cũng không dám. Cứ hành hạ thân xác chúng tôi đi, đó là việc trong tầm tay các anh, bởi vì ở đây tôi không có gì để chống lại, nhưng bẻ gãy tinh thần chúng tôi thì không được đâu, đừng hòng.
Huỳnh Ngự rít lên:
– Ðược! Ðược! Rồi anh sẽ biết thế nào là chuyên chính vô sản!
– Tôi đã nói rồi, không muốn nhắc lại nữa: dọa nạt tôi vô ích!
– Tui không thèm dọa anh!
Nổi giận với thằng tay sai này làm gì, tôi tự nhủ. Vô ích. Mà hùng hồn thuyết giáo như vừa rồi, mình không nhìn thấy mình đấy thôi chứ nhìn thấy thì phải đỏ ửng mặt lên vì xấu hổ, phường tuồng ơi là phường tuồng!
Hai anh chàng cấp dưới của Huỳnh Ngự nhìn tôi bằng cặp mắt van lơn, thật lạ. Có vẻ như họ muốn đụng vào tôi, để nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
– Vả lại, còn điều này nữa là điều anh chưa biết, và tôi thấy cần phải nói ngay để cho anh biết. – tôi lạnh lùng tiếp – Ðó là: ngay tại chốn này, ngay trong Hỏa Lò của các anh, tôi vẫn còn có quyền của tôi, cái quyền cuối cùng không kẻ nào tước đoạt nổi…
– Anh nói chi lạ? Anh? Mà còn có quyền? Hứ! Quyền, quyền cái con…Chỉ chúng tôi mới là người có quyền, hiểu chưa, đồ…
Máu tôi lại bốc lên mặt:
– Lẽ ra tôi không nói thêm với anh nữa, vì anh lại giở giọng du côn, cho nên tôi phải nói cho anh hiểu…
– Quyền chi mô? Nói coi thử!
Khoanh tay trước ngực. tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây dại của y:
– Còn cái quyền này: tôi-tuyên-bố-không-nói-gì-với-anh-nữa!
– Tui… tui sẽ… gang họng anh ra, bắt anh phải nói!
Y lại hét, giọng đã đuối.
– Không ăn thua gì đâu. – tôi dằn từng tiếng – Anh chẳng là gì đối với tôi. Ðừng phách lối. Nhờ anh chuyển lời tôi tới bọn chủ của các anh, bảo họ cử người khác đến gặp tôi. Bằng không tôi sẽ không nói gì hết. Các người cần nói chuyện với tôi, không phải tôi cần nói chuyện với các người.
Không thèm nhìn Huỳnh Ngự, tôi quay ngoắt, bước nhanh về phía cửa. Viên cai ngục lật đật chạy theo.
– Ðưa tôi về xà lim!
Tôi ra lệnh cho anh ta.
Bản dập thử để sửa lỗi của nhà in.
Cuốn Năm Người Im Lặng vẫn được xuất bản trong năm 1968, khi tôi đã ở trong tù. Người quyết định cứ in cuốn sách này bất chấp thói thường thời ấy không dám in sách mang tên người bị bỏ tù là giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa, ông Lý Hải Châu. Trong kháng chiến chống Pháp Lý Hải Châu chỉ huy Ðội biệt động Sài Gòn – Gia Ðịnh, bị chính quyền chiếm đóng kết án tử hình, rồi giảm xuống chung thân và đầy ra Côn Ðảo.
Chỉ tổ chức Ðảng.
Cung văn là người chơi đàn tranh trong cuộc hầu đồng, trong dàn nhã nhạc lễ bái. Cung còn có nghĩa là ngôi nhà tráng lệ, cung điện. Cung văn đây được hiểu như nhà văn cung đình.
Bộ Nội Vụ trước khi đổi tên.
Cho tới năm 1965, Trường Chinh vẫn duyệt từng số báo ảnh, như khi tờ báo vừa ra đời dưới sự bảo trợ của ông, mặc dầu ông không có trách nhiệm đó. Sự đưa tổng bí thư duyệt báo trước khi ra không bị coi là kiểm duyệt, mà là để xin ý kiến. Cho tới nay ở Việt Nam, về mặt công khai, không có chế độ kiểm duyệt nhà nước.
Cách gọi tắt các chiến trường: B – miền Nam Việt Nam, C – Campuchia, D – Lào, E – Thái Lan. Tại những chiến trường này đều có mặt bộ đội Việt Nam. Tại Thái Lan, trong thời kỳ chiếm đóng Campuchea bộ đội Việt Nam chỉ vào sâu trong nội địa chừng hai chục cây số.
Nhà văn (sinh năm 1932) nổi tiếng với những tác phẩm Xung Ðột, Mùa Lạc, Cha Và Con Và…
Nguyên trưởng ty Công an Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp. Ðiệp vụ do Hoàng Ðạo tổ chức kết thúc bằng việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d’Inville tại vùng biển Thanh Hóa năm 1950. Một nữ điệp viên cảm tử tên là Nguyễn Thị Lộc trong vai vợ của lãnh tụ Ðại Việt Hoàng Ðạo đi nhờ tàu ra Hải Phòng đã mang một va li thuốc nổ lên thông báo hạm và cho nó nổ tung. Do không thỉnh thị Trung ương ông bị tổng bí thư Trường Chinh thi hành kỷ luật. Hoàng Ðạo có viết một hồi ký nhan đề Hà Nội – Huế – Sài Gòn – Ðà Lạt rất thú vị, tôi có được đọc bản thảo, nhưng hình như nó đã thất lạc.
Theo lời chứng của cha tôi.
Một loại trà gói rất phổ biến trong những năm ấy. Trà gói loại sang có Ba Ðình, nhưng cán bộ thích Hồng Ðào hơn vì nó vừa rẻ tiền lại vừa ngon.
Thuốc lá loại sang, trên nó chỉ có thuốc lá Thăng Long. Dưới Ðiện Biên bao bạc còn có Ðiện Biên bao thường, Tam Ðảo (bao bạc và bao thường), đứng hạng chót là Bông Lúa. Như vậy có nghĩa tôi được đối xử khá tốt lúc đầu để mua chuộc.
Năm 1965 uy tín của tổng thống suốt đời Sukarno (1901-1975) xuống tới mức thấp nhất kể từ Hội nghi Bandung 1955. Ðường lối thân Trung Quốc đã dẫn tới một cuộc tàn sát của phe hữu chống lại Ðảng cộng sản và các lực lượng cánh tả. Phe quân sự do tướng Suharto giành chính quyền về tay mình năm 1965, lật đổ Sukarno, chấm dứt thời kỳ hỗn loạn. Thời kỳ này ban lãnh đạo Việt Nam rất lúng túng trong quan hệ với chính quyền mới của Indonesia sau Sukarno.
Năm 1927 Ngô Ðức Trì học tại Trường Ðại học Phương Ðông cùng với Bùi Công Trừng, Nguyễn Thế Rục, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Xích. Nhóm cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại Moskva, trong phòng ngủ của Nguyễn Xích, gồm 5 người nói trên. Lê Hồng Phong còn đang học Trường hàng không ở Leningrad nên không có mặt (theo hồi ký Phải Sống Cho Ðời Sống của Bùi Công Trừng).
Tôi còn nhớ hồi Cách mạng Tháng Tám tù cũng gọi cán bộ công an bằng đồng chí.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:35:16 GMT -6
Chương 5
Năm 1956 được ghi lại trong trí nhớ của tôi như một năm đầy sự kiện.
Tôi ở trong một căn phòng ba người trên tầng thứ tư của ký túc xá sinh viên Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô nằm ở phía Bắc Moskva.
Ký túc xá của chúng tôi không lớn, nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng chân người ngoài hành lang, những cuộc tranh luận nghệ thuật thâu đêm suốt sáng. Ðó là thời gian của những giọng ca vàng Imma Sumak, Yves Montand, Robertino Loretti1, những bộ phim tân hiện thực Italia với những tên tuổi sáng chói một thời như Roberto Rossellini, Luchino Visconti, Vittorio De Sica, Giuseppe de Santis2…; thời gian Serguei Eiseinshtein3 phục sinh với bộ phim Ivan Bạo nhiều năm nằm chết trong kho lưu trữ…
Tôi thiếu quá nhiều để tiếp cận cái mới – cả trí thông minh lẫn kiến thức cần có. Theo truyền thống cha ông tôi tìm cứu cánh trong sự học gạo. Ðúng vào lúc tôi vùi đầu chuẩn bị thi kiểm tra thì Ðại hội lần thứ XX Ðảng cộng sản Liên Xô khai mạc.
Tôi chẳng để ý gì tới nó. Những Ðại hội Ðảng, những Hội nghị Trung ương của đảng này đảng nọ trong phe xã hội chủ nghĩa là chuyện cơm bữa, cái nào cũng giống hệt cái nào. Tôi ngán đọc những diễn văn dài dằng dặc kín mấy trang báo, những từ ngữ ồn ào, sáo rỗng và mòn vẹt vì lặp đi lặp lại. Chính trị chưa bao giờ quyến rũ tôi. Với tôi chính trị là thứ chỉ dành cho một số người phi thường và những tên cơ hội, hai loại nhân sinh có tài tìm thấy niềm vui trong trò chơi lá mặt lá trái của nó. Vì thế, ngồi dưới cái loa suốt ngày lải nhải tin tức và bình luận chính trị tôi vẫn học bài được như thường.
Ðó là một cái loa-hộp già lão đã hỏng chiết áp, hỏng từ bao giờ không biết, tôi đến thì nó đã có đấy rồi. Già nua, xơ xác, nó lảm nhảm suốt ngày, nỉ non suốt ngày cho tới tận khuya, với sự kiên trì chỉ có ở máy móc. Tôi đánh vật với nó để bắt nó câm miệng, nhưng thất bại. Làm đủ cách không xong, tôi lấy vải bịt nó lại, nhưng chỉ làm cho tiếng nó nhỏ đi được chút ít. Ðành đọc sách, làm bài trong tiếng lẩm bẩm không dứt của cái loa cần mẫn, riết rồi cũng quên được sự hiện diện của nó.
Tôi đang chìm đắm trong số phận bi đát của Vua Lear thì Shpalikov4 xồng xộc chạy vào:
– Trời đất ơi, đồ mọt sách! Ðang xảy ra chuyện động trời mà cặm cụi với cái ông Shakespeare của cậu được thì lạ quá! Nghe đi kìa!
Tôi ngẩng lên nhìn cái loa. Trong đầu tôi vua Lyr tội nghiệp vừa bị các cô con gái cắt tiền tiêu, cắt cả lính hầu khi vương quốc của ông không còn là của ông nữa. Tôi đang thương ông, ngán ngẩm cho tình đời. Cái loa lẩm bẩm điều gì đó, Shpalikov tươi cười, đôi mắt đen lấp lánh. Tôi không nhận ra ngay giọng nói của Nikita Khrushov5. Những tràng vỗ tay lớn và kéo dài quá mức làm cho cái khăn bịt màng loa rung lên bần bật.
Tôi tháo nó ra để nghe cho rõ. Thì ra chuyện động trời!
“Vào những năm cuối đời mình Iosif Vissarionovich Stalin6 đã phạm những sai lầm nghiêm trọng… – giọng Nikita Khrushov sang sảng – Ông coi thường và vì thế đã vi phạm thô bạo những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ… Những tội ác xảy ra trong thời kỳ Stalin đứng đầu Ðảng và Nhà nước…Tệ sùng bái cá nhân là xa lạ với bản chất của đảng cộng sản…!!”
Tôi bàng hoàng, Cha mẹ ơi, gì thế này?! Ðại nguyên soái Stalin, người thầy, người cha của nhân dân lao động toàn thế giới và… tội ác??
Ngoài trời, tuyết bay thành những dải chênh chếch. Mới tháng Hai, mùa xuân Nga còn lâu mới bắt đầu.
– Nghe thấy chưa? Một cuộc cách mạng! Cậu hiểu không, một cuộc cách mạng? – Shpalikov nhảy lên, hoa chân múa tay dưới cái loa sứt sẹo. – Một quả bom nguyên tử ném thẳng vào dinh lũy của nền chuyên chế! Tự do muôn năm!
Tôi ngẩn người. Anh chàng xuất thân thiếu sinh quân học viện Suvorov, vốn nồng nhiệt yêu chế độ xô-viết, sao lại có thể vui mừng đến thế trước cuộc tấn công trực diện vào lãnh tụ Stalin vĩ đại? Mà người mở đầu cuộc tấn công lại không phải là ai khác Nikita Khrusov, người báo chí hôm qua còn gọi là “học trò xuất sắc và trung thành” của ông?
Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng chân người đi lại rầm rập ngoài hành lang, tiếng mở cửa, đóng cửa ầm ầm ở các phòng. Giọng ai đó rung lên mãi một khúc aria không rõ lời. Tiếng vỗ tay rộn ràng theo nhịp một bài ca cách mạng năm 1917.
Tối hôm đó nhóm bạn Nga tổ chức tại phòng tôi một bữa tiệc sinh viên. Chúng tôi uống vốt-ka, nhắm với cá sấy, xúc xích tiết lợn, bánh mì khô và tin nóng hổi nhận được từng giờ từ phòng họp Ðại hội. Bữa tiệc kết thúc bằng cuộc cãi vã to tiếng giữa phái đến cùng đòi ngay lập tức phải tiếp tục đi xa hơn nữa những kết luận của Ðại hội và phái chủ trương cải tổ từ từ có Ðảng lãnh đạo. Phái ngay lập tức bỏ đi. Phái từ từ ở lại.
Tôi buồn ngủ. Trong cơn mơ màng tôi nghe Shpalikov hỏi:
– Cậu hiểu rồi chứ?
Tôi im lặng. Tôi không hiểu hoặc chỉ mới hiểu lờ mờ. Nhưng tôi tin Shpalikov. Nếu anh vui mừng đến thế mà tôi không cảm thấy như anh thì tôi cần xem lại mình. Chắc rằng trong tôi còn nhiều tăm tối, còn nhiều u mê. Cũng như tôi không hiểu hết được cái đẹp trong thơ Pushkin7 vậy. Trong ngày hôm nay Pushkin được nhắc tới rất nhiều. Bài thơ Những Người Tháng Chạp của ông được cả hai bên tranh luận ngâm nga.
Ðại hội XX không phải chỉ vạch trần tệ sùng bái cá nhân Sta-lin, đòi phục hồi các chuẩn mực dân chủ trong mọi mặt sinh hoạt xã hội, trong sinh hoạt đảng… Nó còn mở ra tầm nhìn mới cho cả thế giới cộng sản. Nó bác bỏ quan điểm coi bạo lực là phương pháp giành chính quyền duy nhất của giai cấp vô sản, coi mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới là không thể điều hòa. Ðó là Ðại hội của tinh thần hòa bình – cùng tồn tại trong hòa bình, hợp tác hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, tinh thần giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt mọi thứ chiến tranh nóng cũng như lạnh, giải trừ quân bị…
Ðó là ngày 25 tháng Hai năm 1956.
Hôm sau tôi vào trung tâm thành phố để xem phim “Chiến tranh và hòa bình” của Mỹ tại Cung Ðiện ảnh. Các ga metro dông nghịt. Những con đường dẫn tới Hồng trường1 cuồn cuộn những cơn lũ dân chúng vui vẻ, phấn khích. Họ hò reo, ca hát, mang cờ đỏ búa liềm, chân dung Nikita Khrushov tới điện Kremli chào mừng Ðại hội. Họ ôm nhau, hôn nhau, nhẩy múa trong tiếng nhạc đệm của đàn bay-an. Rải rác trên vỉa hè là những bức chân dung Stalin, cái còn nguyên, cái bị xé nát, nhem nhuốc dưới gót giầy khách bộ hành.
Tôi rùng mình. Cảnh tượng diễn ra trước mắt làm tôi bàng hoàng.
Những người chưa từng bị giáo dục lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại Stalin không thể hiểu nổi nỗi xúc động của chúng tôi khi thần tượng của mình bị quật ngã, bị chà đạp.
Tôi còn nhớ tin Stalin qua đời đến với chúng tôi như thế nào. Cuộc kháng chiến trường kỳ bước vào năm thứ bẩy. Tôi đang ở Thanh Hóa. Hàng ngày, từng tốp máy bay Hellcat và Spitfire từ Hà Nội chốc chốc lại bay vào quần đảo trên những làng mạc thanh bình vùng tự do8. Thỉnh thoảng chúng thu hẹp vòng lượn và bên dưới, từ mặt đất, bốc lên những cột khói đen. Tin Stalin qua đời đến với chúng tôi trong một ngày như thế. Người ta quên bẵng những máy bay – thần chết khi tiếng loa cất lên vang vang trong thôn xóm báo tin người Cha, người Thầy vĩ đại của nhân dân thế giới không còn nữa.
Lớp trẻ chúng tôi lặng đi. ớt lâu sau, học sinh các trường phổ thông đã ra rả học bài thơ Ðời Ðời Nhớ Ông của Tố Hữu9, trong đó nhà thơ khóc Stalin:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương Ông thương mười. Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu, Ngày xưa khô héo quạnh hiu, Có Người mới có ít nhiều vui tươi…
Tôi quyết định bỏ Shakespeare đấy đã để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Tôi đem những thắc mắc của mình hỏi giáo sư Turkin. Ông thầy giảng môn kịch bản điện ảnh xua hai tay:
– Chính trị không phải cái để cho chúng ta, anh bạn trẻ ạ. Khi còn ở tuổi 20 tôi cũng chú ý tới nó, y như anh bây giờ, sau đó thì… thôi, tôi chán. Mà không phải chán, tôi sợ. Tôi khuyên anh quên nó đi. Những việc anh thấy hôm nay có vẻ ghê gớm thật đấy, nhưng ngày mai mọi sự lại có thể khác. Dây vào làm gì!
Nghe tôi trình bày, giáo sư môn văn học nước ngoài Nina Anosova ra hiệu cho tôi đi theo bà. Chúng tôi xuống tầng hầm của nhà trường. Trong góc tối, bà chỉ cho tôi cái thang dựng sát tường:
– Ðối với tôi thời Stalin gắn liền với cái thang này. Nó trở thành biểu tượng. Anh có thấy chân dung các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước treo trên hội trường không? Thời Stalin còn sống, cái thang được dùng đến luôn. Thỉnh thoảng anh thợ điện Stepan lại vác nó lên để tháo vài vị xuống, treo vài vị khác thế vào. Báo Pravda (Sự Thật) thông báo họ là những tên phản bội, kẻ thù của nhân dân xô-viết. Rồi chính những vị vừa được treo lên lại bị gỡ đi – hóa ra họ cũng là kẻ thù của nhân dân xô-viết nốt. Tất cả đều từng được ngợi ca là bạn chiến đấu, là học trò ưu tú của Lênin và Stalin. Cứ mỗi vị bị bắt thì một loạt cán bộ khác bị bắt theo, như là một đợt sóng. Ngay tại trường ta này những cán bộ hiền lành bỗng nhiên cũng bị công an đang đêm tới nhà bắt đi. Hồi ấy chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên: chế độ mình tốt thế sao có lắm người chống lại đến thế, lắm kẻ thù của nhân dân xô-viết đến thế? Tôi không tin những người nọ là kẻ thù của nhân dân xô-viết, tôi biết rõ họ mà, người khác cũng không tin, nhưng chẳng ai dám nói ra. Thật xấu hổ, nhưng chúng tôi đã sống hèn như thế đấy!
Anosova là người trung thực. Bà không bịa đặt. Chẳng lẽ bà cũng là một trong những kẻ thù của nhân dân xô-viết?
Tôi được nghe một người vừa được tha về từ trại tập trung Kôlưma nổi tiếng10 phát biểu. Người đàn ông đứng tuổi, trước kia làm việc tại văn phòng nhà trường, khóc nức nở trong cuộc họp chi bộ11: “Các đồng chí ơi! Tôi bị Ðảng đưa đi giáo dục mười một năm. Trở về, tôi như bị lạc vào một thế giới khác. Tất cả đều khó hiểu, mọi cái đều xa lạ. Hãy giúp đỡ tôi, các đồng chí! Tôi muốn được làm một người bình thường…như mọi người”.
Người tù được tha không hề thốt lên một lời oán trách đảng. Ông cũng chẳng nói gì tới lý tưởng cộng sản. Dường như cơn ác mộng còn đó, về tới Moskva rồi ông vẫn chưa hết sợ. Nhưng lý trí phản bác rằng cảm giác của tôi sai, rằng nhờ tính đảng cao nên trải qua đọa đầy ông ta vẫn trung thành với đảng. Chỉ đến khi chính mình nếm trải những gì mà những người cộng sản nọ nếm trải tôi mới hiểu trực cảm của tôi là đúng.
Ðó chính là cái sợ. Không phải cái gì khác12.
Trong những cuốn hồi ký được xuất bản sau đó, các tác giả viết rằng khi nước Ðức Quốc xã vượt qua biên giới Ba Lan tiến vào lãnh thổ Liên Xô, xé toạc hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Ðức, Stalin mới ngã ngửa người ra thấy các tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội đã nằm gần hết trong các trại tập trung. Ông hạ lệnh tha khẩn cấp để họ trở về đi đánh nhau với Ðức. Ðiều đáng ngạc nhiên và hơn nữa, đáng khâm phục, là những người được tha đều sẵn sàng ra ngay mặt trận để chiến đấu chống quân xâm lược.
Những người bị bắt oan khi được tha vẫn phải ký vào một tờ giấy cam đoan không nói lại với ai về giai đoạn đã qua. Một quân đoàn trưởng gặp cấp dưới, tư lệnh sư đoàn, tại nhà an dưỡng miền Nam Liên Xô:”Kìa, Ivan, lâu lắm tôi mới được gặp đồng chí! – ông mừng rỡ kêu lên – Dạo này đồng chí gày quá!”, “Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa đi công tác xa về. – tư lệnh sư đoàn trả lời – Tôi trông thủ trưởng cũng không được khỏe?”. Quân đoàn trưởng cười:”Tôi cũng vậy, tôi vừa đi công tác xa về”.
Một số người bênh Stalin nói rằng Sta-lin không biết gì về các nguyên soái, các tướng lĩnh bị bắn hoặc bị đi đầy. Tôi không tin. Cái huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh bị cấp dưới bịt mắt, bị lừa dối, không đứng vững trước sự thật hàng ngày diễn ra bên những người dân biết suy nghĩ như giáo sư Anosova.
Một người bạn ở khoa lý thuyết điện ảnh, Naum Kleiman13, cho tôi biết chính anh và gia đình đã bị đầy đi Sibir gần chục năm chỉ vì họ là người Do Thái. Mà người Do Thái, theo Stalin, là giống người không tin được, phải chịu tội chung cùng với những bác sĩ Do Thái bị bắt trong cái gọi là “vụ án bọn áo choàng trắng” ở Lêningrad14. Mãi tới khi Stalin qua đời Naum mới được trở về Moskva. Anh nói anh không bao giờ quên chuyến đi tới miền Cực đông băng giá trong toa chở súc vật với những thanh gỗ đóng chéo ngoài cửa. Cách di chuyển dân đi đày của cơ quan an ninh Liên Xô giống hệt cách phát-xít Ðức chuyển tù.
Câu chuyện của Naum làm tôi choáng váng. Chủ nghĩa cộng sản trong hình dung của tôi không có và không thể có gì chung với tệ kỳ thị chủng tộc. Tôi quan niệm mọi giống người là như nhau, bình đẳng với nhau, người ta sinh ra là để thương yêu nhau. Tôi rất thích một ca khúc của Lưu Hữu Phước15, mở đầu bằng hai câu “Vàng, đen, trắng – nước da không chia tấm lòng. Biên giới kia khôn ngăn mối dây tâm tình…” Ðó chính là thế giới mà tôi muốn được thấy khi đi với chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản của Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và Huỳnh Ngự hoàn toàn không giống thế. Có thể, tôi sai. Trong tôi chủ nghĩa cộng sản có dáng dấp Thiên Chúa giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa. Lần đầu tiên tôi được thấy một chủ nghĩa cộng sản phân biệt chủng tộc.
Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng tàn sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản: nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân xô-viết thì con cái họ lớn lên nhất định cũng sẽ là kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một trong những nghị định của Bộ Nội vụ thời Sta-lin ghi rõ: “…Vợ con những tên phản bội Tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của Bộ Nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt ”16.
Thì ra dưới lớp vàng son lộng lẫy trưng ra mặt tiền một xã hội tuyệt vời lại là những vụ thanh toán cung đình, những vụ thủ tiêu mờ ám, những vụ trấn phản đẩy hàng triệu dân chúng vô tội vào các trại tập trung khủng khiếp, không trừ phụ nữ và trẻ em.
Tôi bị sốc thật sự.
Một phần trong những tội ác của Stalin – tôi nói một phần vì sau này người ta còn phát hiện nhiều tội ác khác, thí dụ như vụ thủ tiêu binh lính, sĩ quan và các nhà chính trị Ba Lan vào năm 1940 (lực lượng những người kháng chiến Ba Lan này chạy sang lánh nhờ đất bạn) tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk. Con số được nói tới khoảng 30.000 người. Không thể nào tưởng tượng nổi: bắn chết 30.000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. Lời bình trong một bộ phim tài liệu về khu rừng khủng khiếp nói trên nói rằng ở đây còn có cả di thể các công dân xô-viết “không rõ là những ai, con số họ là bao nhiêu, bởi vì chẳng ai quan tâm tới những người xấu số ấy”. Những gì được nêu lên trong Báo cáo mật17 do Nikita Khrusốp trình bày trước Ðại hội XX còn xa mới tới sự thật. Không biết bằng cách nào, chỉ ít lâu sau Ðại hội Báo cáo mật đã được đăng tải trên trang nhất những tờ báo lớn ở “thế giới tự do”. Những người cộng sản Liên Xô được đọc Báo cáo mật về tình hình quốc gia mình sau những kẻ vô công rồi nghề ở các nước khác.
Lẽ đương nhiên, các đoàn đại biểu dự Ðại hội đều nhận được Báo cáo mật. Nhưng ở Việt Nam trừ các ủy viên Bộ Chính trị và vài ủy viên Ban Bí thư, không ai được đọc nó. Tôi được biết nội dung Báo cáo mật tướng Lê Liêm kể lại. Ông chỉ là ủy viên Trung ương, không có tiêu chuẩn đọc Báo cáo mật, ông phải đi mượn. Nhiều ủy viên Trung ương khác thậm chí chưa được cầm nó trong tay.
Báo cáo mật là tiếng nói bất bình, là sự lên án lối cai trị tùy tiện, độc đoán, tàn bạo nhưng chưa phải sự đoạn tuyệt với nó. Nikita đã không đi đến cùng. Hoặc ông chưa đủ gan, hoặc ông còn bị kiềm chế bởi các thế lực thân Stalin, hoặc chính ông thấy xấu hổ nếu phơi bày tuốt tuột những cái xấu của chế độ xô-viết. Vì thế báo cáo mới là mật, mới không công khai. Cái còn thiếu trong bản báo cáo là thái độ sám hối. Trong báo cáo Nikita xuất diện chỉ với tư cách người buộc tội. Ông xấu hổ trước những gì xảy ra trên đất nước xô-viết. Ông kịch liệt lên án những việc làm bất nhân, vô đạo. Như chẳng lẽ không phải chính ông đã từng ở trong đám thuộc hạ của Stalin trong khi tội ác diễn ra, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp nhúng tay vào máu. Ông cũng chưa một lần nói “Không!” để chặn đứng bàn tay giết người của Stalin.
Như một nghịch lý, những người dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa lại thiếu đức tính mà họ có thừa khi còn đấu tranh chống nền chuyên chế: lòng dũng cảm. Chỉ tới Ðại hội XX các đại biểu mới bàng hoàng trước sự thật: trong số 139 ủy viên Trung ương được Ðại hội XVII (1934) bầu ra đã có tới 98 người bị bắn và tống giam. Vị chi là trên hai phần ba. Không một ai trong những người còn sống sót dám lên tiếng. Stalin đã thành công trong việc đánh thức bản năng sinh tồn trong mỗi người. Ai cũng sợ cái chết cầm chắc khi động tới lãnh tụ vĩ đại. Không cứ Ban chấp hành Trung ương, trong số 1.956 đại biểu đi dự Ðại hội XVII có tới 1.108 người sau này bị kết án phản cách mạng, bị bắt và bị giết.
Hiện tượng Khrusov gây ra sự ngạc nhiên có lý trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Kể cả những người có tư tưởng cấp tiến nhất trong thời kỳ ấy cũng không hiểu nổi vì sao ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập vững chắc ở Liên Xô lại nảy nòi ra một Khrusov bặm trợn dám đạp đổ thần tượng.
Tôi cho rằng trong khi giải thích hiện tượng Khrushov người ta có khuynh hướng làm rối rắm vấn đề. Sự thật, theo tôi, đơn giản.
Khrusov cũng là con người. Như mọi con người, ông thèm tự do. Chế độ toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do không riêng của bầy nô lệ mà của cả quần thần. Chỉ có thấm thía nỗi đau khổ bị mất tự do, ý thức được nỗi nhục nhằn phải làm thân tôi tớ, Khrusov mới đủ dũng khí tự tước bỏ quyền thống trị mặc nhiên có nếu như ông không vì tự do mà phanh phui tệ sùng bái cá nhân Stalin18.
Trong ý nghĩa này Khrushov còn hơn một anh hùng, ông là một Con Người, viết hoa.
Cuộc tấn công của Ðại hội XX vào tệ sùng bái cá nhân không phải chỉ là quả bom nguyên tử ném vào dinh lũy chế độ chuyên chế ở Liên Xô. Nó còn làm rung chuyển toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bất kỳ nước nào thuộc hệ thống này cũng có sự sùng bái cá nhân y như thế.
Nhưng nghịch lý còn đó: những người cộng sản mới hôm trước đi đầu trong việc xóa bỏ sùng bái cá nhân, bảo vệ quyền con người, thì hôm sau lại đàn áp những người dân thường tại Hungari19 chỉ vì những người này dám đòi thêm một chút tự do. Ông Khrushov chống sùng bái cá nhân biện bạch: xe tăng Liên Xô đến Budapest để bảo vệ chủ nghĩa xã hội!
Thì ra sống bảo thủ dễ chịu hơn sống sáng tạo nhiều.
Hoàn toàn bị bất ngờ trước bước ngoặt trong phong trào cộng sản quốc tế do Ðại hội XX gây ra, Ðảng Lao động Việt Nam khéo léo chọn thái độ kẻ ngoài cuộc: dào, chống sùng bái cá nhân là phải thôi, là đúng, lãnh đạo là phải tập thể chứ, nhưng đó là chuyện Liên Xô, chuyện các nước Ðông Âu, đâu phải chuyện nhà mình. Và thế là trong khi cả thế giới cộng sản chống sùng bái cá nhân hối hả dẹp đi những trò chướng mắt của thói xấu đó thì ở Việt Nam người ta vẫn ngang nhiên trương chân dung ông Hồ Chí Minh và ông Trường Chinh ở hàng đầu trong những cuộc mít tinh, biểu tình.
Ðại hội XX lôi tôi ra khỏi nghệ thuật, bắt tôi mở mắt ra để thấy ở bất cứ nước nào có chế độ độc tài tình hình cũng thế cả. Những nhà độc tài của mọi nước chỉ cho phép tồn tại thứ nghệ thuật tay sai, nghệ thuật bồi bếp, để thực hiện chức năng tôn vinh nền chuyên chính và nhà độc tài, để đánh bóng mạ kền cho chế độ. Mọi hoạt động nghệ thuật ở bên ngoài không gian sinh tồn đã được quy định đều bị coi là bất hợp pháp.
Mùa đông năm 1956 tại trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô xảy ra một sự kiện chưa từng có. Sinh viên Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên Hô Un Pây, nhà thơ, đảng viên cộng sản, trong cuộc họp bất thường của chi bộ mà anh là bí thư, đã lên tiếng đòi Ðảng Lao động Triều Tiên phải nghiêm khắc kiểm điểm Chủ tịch Kim Nhật Thành20 về những hiện tượng phi dân chủ, sùng bái cá nhân.
Trước khi sang Liên Xô học, Hô Un Pây là sĩ quan tình báo hoạt động tại Hán Thành, nhiều lần bị thương, bị địch bắt. Sau khi anh gửi kiến nghị, các nhân viên mật vụ Triều Tiên đội lốt cán bộ ngoại giao đến trường mời anh tới gặp đại sứ, rồi giam anh lại trong sứ quán. Hô Un Pây đã dùng mẹo nhà nghề lừa được bọn chúng. Anh nhảy từ tầng lầu thứ tư xuống, vùng thoát ra ngoài. Tuyết gom thành đống dưới chân tường đã giảm nhẹ cú rơi từ độ cao hơn hai chục thước.
– Chúng nó định thủ tiêu cậu? Ngay trong sứ quán? – được tin anh thoát hiểm, chúng tôi kéo đến hỏi thăm.
– Không, chúng nó nói sẽ áp giải mình về nước. – anh kể về cuộc đào thoát của anh khỏi sứ quán, cánh tay bị sái khi ngã đeo trước ngực – Mình đề nghị chúng nó cho gặp vợ trước khi về (anh có vợ, cũng người Triều Tiên, học tại trường Y Moskva), đề nghị cho mình quay lại ký túc xá lấy quần áo thì chúng nó cười gằn: “Về đến Triều Tiên mày không cần vợ nữa đâu, quần áo thì một bộ đã thừa đủ”.
Nước mắt dòng dòng Hô Un Pây đọc cho tôi nghe những bức thư anh gửi Trung ương Ðảng, chính phủ, quốc hội, gửi Kim Nhật Thành:”Tôi tuyên bố từ bỏ Ðảng đã phản bội nhân dân Triều Tiên anh hùng và đau khổ…Tôi đau lòng từ bỏ quốc tịch Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, vì nó không xứng đáng với tôi, nó không phải là quốc tịch của tôi mà là dấu ấn đóng trên trán tên nô lệ…Trong mình tôi mãi mãi chảy dòng máu của tổ tiên và tôi mãi mãi mang trong tôi niềm tự hào là người Triều Tiên…”
Tôi gai người khi nghe Hô Un Pây đọc những hàng chữ chua xót.
Người của Kim Nhật Thành đã thất bại trong vụ bắt cóc Hô Un Pây. Liên Xô sau Ðại hội XX đã là Liên Xô khác. Nhưng cũng chưa khác lắm. Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô đã làm một việc đáng xấu hổ. Người ta công bố lệnh đuổi học đối với sinh viên Hô Un Pây mà không nêu lý do.
Hô Un Pây bỏ đi Tashkent21 làm giảng viên văn học Triều Tiên.
Sau việc xảy ra với Hô Un Pây, tôi kinh tởm Kim Nhật Thành và cái nhà nước của ông ta. Anh trung úy Hồng quân Liên Xô22 đã biến Bắc Triều Tiên thành một trại lính, trong đó dân chúng bị cai trị theo cách lính tẩy.
Phản ứng của Mao Trạch-đông đối với những kết luận của Ðại hội XX mạnh mẽ hơn cả. Mao không tha cho Khrushov tội dám tấn công vào trật tự đã được thiết lập một lần cho mãi mãi tại cái quốc gia cho đến lúc ấy còn đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, mà phản ứng dây chuyền của nó có thể làm lung lay ngai vàng của chính Mao.
Chống sùng bái cá nhân không thể không ảnh hưởng tới vị trí độc tôn của Mao. Ðể đối phó với tình hình mới, khi những tiếng nói đòi dân chủ và tự do vang lên ngay bên trong “bức màn tre” Trung Quốc, Mao gài bẫy “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng23) để “cỏ dại”, “tiếng lạ” lộ hình. Cuộc vận động này mở đầu cho cuộc tấn công nhằm vào những người muốn thay đổi trật tự xã hội Trung Quốc, gọi bất cứ ai không ưa Mao và không được Mao ưa là phần tử hữu khuynh chống Ðảng chống chủ nghĩa xã hội.
Những lời bài bác Liên Xô vốn có sẵn trong Mao nay được nhấn mạnh thêm. Sự rạn nứt trong khối xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu.
Cuộc họp mặt các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới năm 1957 và đặc biệt Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới tại Moskva vào tháng 11 năm 1960, bốn năm sau Ðại hội XX Ðảng Cộng sản Liên Xô, với bản Tuyên bố chung gượng gạo, chỉ là những thỏa hiệp bất đắc dĩ. Bị lôi kéo vào cuộc chiến ý thức hệ không những chỉ có những đảng cầm quyền một số nước xã hội chủ nghĩa, mà còn một loạt các đảng cộng sản và công nhân. Tình trạng phân liệt xảy ra trong hầu hết các đảng, có những nước có tới hai ba đảng, đảng nào cũng xưng mình là mác-xít – lê-nin-nít.
Trong cuộc chiến ý thức hệ Mao hi vọng Bắc Kinh sẽ trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế. Báo chí Trung Quốc khua chiêng gõ mõ về một thời đại mới – thời đại gió Ðông thổi bạt gió Tây, trung tâm cách mạng chuyển về châu Á.
Ðến lượt mình Khrusov lại phạm vào sai lầm tổ tông truyền của chủ nghĩa nước lớn: cắt viện trợ, rút toàn bộ chuyên gia giỏi về nước24. Lập tức các phương tiện truyền thông của cái quốc gia gần một tỷ dân được huy động toàn lực để vạch mặt những tên phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch mặt bọn xét lại hiện đại và chủ nghĩa xét lại hiện đại. Cuộc tấn công bằng nước bọt và mực in diễn ra theo bài bản mà người Việt Nam đã hân hạnh được biết trong Cải cách ruộng đất: bắt đầu bằng đấu lưng (vạch tội khi kẻ bị đấu ngồi quay lưng lại), sau mới đấu mặt (đấu trực diện, chỉ tận mặt, gọi đích tên mà đấu).
Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc cãi vã giữa hai nước đàn anh, ông Hồ Chí Minh, nhạc trưởng của cái dàn nhạc khôn ngoan chỉ chơi một bài tủ “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh” liền cho cử nhạc lên, nhưng lần này tiếng kèn yếu ớt của ông bị tiếng trống của hai bên xung đột đang hăng máu ăn thua dập tắt.
Do kém học thức, các văn kiện Liên Xô làm các nhà lãnh đạo Việt Nam thất đảm bởi giọng văn hàn lâm cao đạo. Trong khi đó cách lý giải theo lô gích tam đoạn rất bình dân của các lý thuyết gia Bắc Kinh hợp với tầm kiến thức của họ hơn. ấy là chưa kể giữa hai nước cộng sản châu ỏ trước nay vẫn có một mẫu số chung là gốc rễ phong kiến lạc hậu, trong lòng mỗi người dân có một ông quan. Trong tâm trạng hoang mang trước một tương lai bỗng dưng trở thành không xác định của phong trào cộng sản, các nhà lãnh đạo Việt Nam, mặc dầu đã ngả theo Trung Quốc, vẫn kiên trì chủ trương đường lối khôn ngoan của nhà nghèo – gửi tiền vào hai ngân hàng cùng một lúc. Cho nó chắc ăn.
– Ông Cụ lừng khừng vì ông lúng túng trong những vấn đề phức tạp của cuộc đấu tranh lý thuyết. – cha tôi giải thích lập trường trung dung của ông Hồ trong cuộc cãi vã quốc tế – Ông Cụ chỉ thích những cái đơn giản. Cái vụ ông chọn Ðệ tam Quốc tế chứ không chọn Ðệ nhị Quốc tế ở Ðại hội Tours là một thí dụ. Quốc tế tốt là Quốc tế ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Ông Hồ thuộc sử nước nhà lắm. Ðánh nhau với thiên triều, thắng thì thắng đấy, mà vẫn phải sai sứ sang cầu hòa, xin được làm chư hầu. Noi gương các cụ, ông nhũn nhặn với bất kể Trung Quốc nào, Trung Quốc Tưởng hay Trung Quốc Mao. Ðường đường là chủ tịch một nước năm 1945 ông Hồ vẫn hạ mình thân đến chào các tướng Tiêu Văn và Lư Hán25 vào ngày họ tới Hà Nội. Ông căn dặn cha tôi phải lo thuốc phiện cho tướng Long Vân con26 “kẻo nó giận thì lôi thôi lắm, thằng nhóc ấy có thể ảnh hưởng xấu đến mối bang giao của ta với họ”. Khi La Quý Ba, đại sứ đầu tiên của Trung Quốc Mao tới Việt Bắc, ông sai cha tôi phải chọn địa điểm cho đẹp, dựng nhà cho đẹp để họ La ở:”Mình thế nào cũng xong, chứ với người ta thì phải chu đáo. Họ xét nét lắm đó!”. Ông nhớ lần ông bị bắt ở Hongkong27, ngày một ngày hai sẽ bị Anh trao cho Pháp, những đồng chí Trung Quốc đã lờ ông đi, mặc cho ông tự xoay xỏa. Ông cũng không quên lần ông tới Bắc Kinh để đi tiếp Moskva, bị Mao bắt chầu chực chán chê ở nhà khách rồi mới cho tiếp kiến. Ông nhớ, và ông để bụng.
Biết ông Trần Huy Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích:”Ðồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch cho bắt tay” nhân forum Bắc Kinh năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu:”Người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà!” Một hôm tôi đến chơi thấy bức ảnh Mao Trạch-đông vẫn thường treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an ủi ông. Ông nói:”Tao cũng như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.
Chính thái độ lừng khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu chống Liên Xô coi thường ông28. Mặt ngoài họ làm ra vẻ kiên trì đường lối đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung Quốc rồi.
Khởi đầu cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở Việt Nam là như vậy. Nó có diện mạo một cuộc thánh chiến vì lý tưởng mác-xít. Càng về sau nó càng lộ ra tính chất đời thường. Nói chung, chính trị cởi bỏ áo quần thì nó là đời thường, như tôi thấy.
Chuyện đó nói sau.
Cuộc tấn công lý thuyết nhằm vào điện Kremli đã được họ Mao tính kỹ. Nó giúp Mao Trạch-đông bắn một mũi tên mà được hai con thỏ: một mặt nó che lấp hậu quả nặng nề của bước nhảy vọt vĩ đại đã và đang làm suy kiệt nền kinh tế Trung Quốc, mặt khác nhân cơ hội này Trung Quốc sẽ giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới cộng sản.
Thế giới cộng sản đang tách đôi: hai con đường, hai mô hình xã hội.
Bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản, chúng tôi chỉ có sự lựa chọn hai lấy một. Không có con đường thứ ba. Không lưỡng lự, chúng tôi bỏ phiếu cho mô hình Liên Xô. Mô hình này, theo chúng tôi, tốt hơn hẳn mô hình Trung Quốc. Tại Liên Xô đang manh nha một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó những quyền tự do và dân chủ được luật pháp bảo đảm. Nhà nước này chủ trương hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc, là cái phù hợp với tình hình thế giới hiện tại.
Chế độ xã hội Trung Quốc, cũng như chế độ xã hội Việt Nam không hứa hẹn một cái gì tương tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng thì ở Việt Nam còn giữ lại manh khố.
Lấy Trung Quốc làm thí dụ. Mao muốn thế giới thấy dưới sự lãnh đạo của ông ta Trung Quốc trong một thời gian cực ngắn sẽ đạt được sản lượng gang vượt nước Anh. Thế là các lò luyện thép sân sau mọc lên như nấm trên đất nước bao la. Người ta mang ban thờ ra đốt lò. Chẳng ai cần tới thứ gang ấy, chúng chẳng để làm gì.
Mấy anh bác học nhà quê trình lên Mao một con toán lập theo quy tắc tam suất rằng nếu một con chim sẻ một ngày ăn hết bằng này hạt thóc thì toàn bộ chim sẻ ở Trung Quốc trong một năm sẽ ăn hết bao nhiêu. Một con số khủng khiếp. Người cầm lái vĩ đại bèn hạ bút ký một nhát ra lệnh tiêu diệt bằng hết lũ chim ăn hại. Gần một tỉ dân đổ ra đồng, khua chiêng, gõ mõ, thúc trống, đập mẹt, đập thùng, đốt pháo… làm cho trăm họ chim chóc kinh hồn táng đởm bay tán loạn, bay mãi, bay mãi mà không dám đáp xuống, không còn chỗ nào yên để đáp xuống, cho tới khi rã cánh thì rơi xuống mà chết, hoặc để bị đập chết. Tôi rùng mình khi nhìn thấy những bức ảnh xác chim chất cao như đống rạ trên họa báo Trung Quốc. Thiên nhiên lập tức cho Mao một cái tát trời giáng29. Mất mùa. Sâu bệnh. Không còn chim để bắt sâu. Cùng với chim sẻ mọi giống chim biến mất trên đại lục mênh mông. Nạn đói hoành hành.
Chẳng bao giờ người cầm lái vĩ đại lẫn đám đệ tử của ông ta nhận sai. Cái vụ tàn sát chim, cũng như những vụ tàn sát người, rồi bị lờ tịt, cho chìm vào quá khứ, coi như chưa từng xảy ra.
Cơn cuồng phong bắt đầu từ Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô lớn dần thành cơn bão trong khối nhân sinh cộng sản, mà mắt bão ở Trung Quốc. Chúng tôi cảm thấy rõ rệt bầu không khí ngột ngạt báo trước cơn bão sẽ tràn tới Việt Nam. Nhưng chúng tôi không có cách nào tránh nó.
Ðành tự an ủi: mình còn may chán – ở Việt Nam chỉ có bão rớt thôi!
Những ca sĩ nổi danh giữa thập niên 50.
Những đạo diễn tên tuổi của trào lưu Làn Sóng Mới của điện ảnh Ý.
Seguei Mikailovich Eisenshtein (1898-1948), đạo diễn, nhà lý luận điện ảnh Liên Xô. Bộ phim Ivan Bạo đế gồm ba phần: phần Một được giải thưởng Stalin năm 1945, phần Hai miêu tả Ivan Bạo đế có nhiều nét giống Stalin nên không được dựng và chiếu, mãi tới năm 1956 mới được được đưa ra công chúng, phần Ba tác giả chưa hoàn thành, tôi chỉ được xem toàn bộ phim này vào năm 1991 tại Viện bảo tàng điện ảnh bản chưa hoàn chỉnh tại trường đại học điện ảnh.
Về sau Guenadi Shpalikov viết kịch bản, làm đạo diễn, làm thơ. Cuộc đời anh kết thúc bi thảm. Anh nghiện rượu nặng rồi tự vẫn, thất vọng thấy cuộc sống xã hội chủ nghĩa không đẹp như anh muốn thấy. Shpalikov để lại những bộ phim mà khán giả xô-viết rất yêu mến:”Lang thang trên phố phường Moskva”. “Cửa ô Ilích”, “Nhũng chuyến xe điện đi về tỉnh xa”.
Khrushov Nikita Sergeievich (1894-1971) Bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô 1953-1964. Tên của Khrushov phiên theo cách phát âm Nga, ở phương Tây họ của ông được viết Khrushchev.
(1879-1953).Tên thật là Iosif Vissarionovich Dzugashvilli, con một gia đình nông dân tỉnh Gori (nước Cộng hòa Gruzia), thời niên thiếu theo học Chủng viện Tbilisi, bị bắt và đi đầy Sibir vào những năm 1902-1904, tham gia Ðảng Xã hội Dân chủ Nga từ năm 1899, “học trò và bạn chiến đấu của Lênin”, như được ghi trong Lịch sử Ðảng cộng sản Liên Xô. Sau khi Lênin chết (1924) trở thành tổng bí thư Ðảng cộng sản Liên Xô.
Pushkin A.S. (1799-1837), nhà thơ lớn của nước Nga.
Vùng của các lực lượng kháng chiến, phân biệt với vùng tạm chiếm do quân Pháp chiếm đóng.
Nhà thơ, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Tố Hữu bắt đầu lên nhanh sau vụ đánh “Nhân văn – Giai phẩm”, sau đó trở thành tổng tư lệnh nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong một thời gian dài cho tới khi nhậm chức phó thủ tướng phụ trách kinh tế.
Một trong những trại tập trung nổi tiếng nhất Liên Xô thời Stalin, được miêu tả tỉ mỉ trong tiểu thuyết “Quần đảo ngục tù” của Solzhenitsyn.
Tôi tình cờ rơi vào một cuộc họp chi bộ mở rộng Ðảng cộng sản Liên Xô do chủ trương công khai hóa mọi công việc của đảng trong lý thuyết đảng toàn dân rất dễ thương của Nikita Khrusov. Khrusov cho rằng đảng không có gì bí mật đối với dân bởi vì mọi công việc đảng làm là vì dân. Trong cuộc họp mà tôi được dự người ta chỉ bàn chuyện mắc thêm máy điện thoại công cộng cho nhà ở tập thể của sinh viên, chuyện làm vệ sinh quanh trường sở, chuyện kết nạp đảng viên mới.
Veléri Frid, nhà biên kịch điện ảnh nổi tiếng, từng ở tù 11 năm trong các nhà tù GULAG, đồng ý với nhận định của tôi. Sự sợ hãi dưới thời Stalin đã hình thành như một tính cách xô-viết.
Naum Kleiman, viện trưởng Viện bảo tàng điện ảnh, chuyên gia về Eisenshtein.
Vụ này bắt đầu bằng một bức thư của nữ bác sĩ Timashuk tố cáo âm mưu chống Ðảng và Nhà nước xô-viết của một nhóm bác sĩ.. Một cuộc tổng khủng bố nổ ra, nhiều chuyên gia y tế lỗi lạc bị bắt và bị giết. Những biện pháp chuyên chế trung cổ được áp dụng. Stalin ra lệnh trói viện sĩ Vinogradov bằng xích sắt. Mục đích của nhà độc tài xa hơn – qua vụ “áo choàng trắng” ông muốn lợi dụng lời khai của các bị can để triệt hạ các đối thủ của mình trong Bộ Chính trị.
Nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả nhiều ca khúc cách mạng, trong đó có hai bài được chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chính quyền lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chọn làm quốc ca (dưới tên Huỳnh Minh Siêng).
Trích chỉ thị của bộ trưởng Bộ Nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15.8.1937. Sau cuộc chính biến mùa thu năm 1991 báo chí Liên Xô (cũ) khui ra được rất nhiều văn kiện mật và tối mật của chính quyền xô-viết liên quan tới những vụ trấn áp.
Tên chính thức của nó là: “Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó” do Nikita Khrusov đọc suốt đêm 24 rạng ngày 25 tháng Hai năm 1956 trong một phiên họp bí mật của Ðại hội, mà không một đoàn đại biểu của các đảng anh em có mặt tại Ðại hội được tham dự.
Ðáng ngạc nhiên là trong chuyện vạch tội ác của Beria, Nikita Khrusov cũng dùng những phương pháp bịa đặt đặc trưng của thời kỳ Stalin. Beria bị xử như một tay sai đế quốc. Thực ra, như bây giờ mọi người đã biết, Beria cũng xuất thân từ thành phần lao động, vào Ðảng năm 1930, ủy viên Trung ương năm 1934 (cùng một lượt với Khusov và Bunganin), ủy viên Bộ Chính trị từ 1939. Beria còn là bộ trưởng Bộ Nội Vụ, thống chế quân đội Liên Xô, một trong ba ủy viên Bộ Chính trị được vinh dự đọc điếu tang Stalin.
Ngày 23.10.1956, nhân dân Hungari, với trí thức và sinh viên đi đầu, nổi dậy chống chế độ độc tài. Imre Nagy, một nhà lãnh đạo chủ trương cách tân trong đảng cộng sản lên làm thủ tướng. Ông kêu gọi lập chính phủ liên hiệp, dân tộc tự trị, kinh tế nhiều thành phần, nhưng ngày 4.11 quân đội Liên Xô vào dập tắt cuộc nổi dậy, hạ bệ Imre Nagy. Ông bị quân đội Liên Xô mang sang Rumani, rồi bị chính quyền Hungari (thân Liên Xô) mang về nước năm 1957, hành quyết năm 1958.
Kim Nhật Thành (Kim Il Sung, tên thật là Kim Song Ju, 1912-1994), chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên.
Thủ đô nước Cộng hòa xô-viết Uzbekistan (Ouzbékistan).
Trước khi được Liên Xô đưa về Triều Tiên sau chiến thắng phát-xít, Kim Nhật Thành phục vụ trong Hồng quân Liên Xô, cấp bậc trung úy.
Cuộc vận động “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” được Mao Trạch-đông phát động từ tháng 5.1956. Nó được đặc biệt đẩy mạnh sau Ðại hội VIII kỳ I (từ 15.9-27.9 năm 1956) của Ðảng cộng sản Trung Quốc.
Theo những nguồn tin Trung Quốc thời kỳ đó thì tháng 7-1960 Khrushov đã đơn phương xóa bỏ 600 hiệp định và hợp đồng, rút toàn bộ chuyên gia đang làm việc tại Trung Quốc về nước làm tổn hại nặng nề cho nền kinh tế Trung Quốc. Một số tài liệu Liên Xô nói rằng Trung Quốc yêu cầu cho rút chuyên gia về.
Hai tướng chỉ huy các cánh quân của quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật bại trận.
Ðể phân biệt với tướng Long Vân bố không sang Việt Nam.
Ông Hồ Chí Minh bị cảnh sát Hongkong bắt năm 1931.
Năm 1965, trong một cuộc nói chuyện với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên, trưởng ban tuyên giáo Trung ương Tố Hữu nói: “Ông Cụ lẫn cẫn rồi, mọi việc bây giờ đều do anh Ba (Lê Duẩn) và tụi tôi giải quyết”.
Càng thấy rõ Mao Trạch-đông chẳng hề đọc sách của Marx và Engels. Trong cuốn Phép Biện Chứng Của Tự Nhiên, Engels đã cảnh cáo loài người chớ có kiêu ngạo, chớ tưởng mình có thể chế ngự thiên nhiên.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:38:25 GMT -6
Chương 6
Hôm sau, tôi lại bị gọi ra. Thấy Huỳnh Ngự ngồi trong phòng hỏi cung, tôi quay ngoắt lại. Huỳnh Ngự nghiến răng ken két sai cai ngục đưa tôi sang phòng bên. Tôi ngồi đấy, một mình trong căn phòng trống rỗng, ngáp ngắn ngáp dài. Ðến gần trưa quản giáo mới đưa tôi về.
Suất ăn lạnh ngắt đợi tôi ở xà lim. Trên phản, bên cái bát men đựng suất cơm tù là bộ quần áo tôi mặc trên người khi bị bắt.
Trong khi tôi vắng mặt quản giáo đã đem thức ăn vào cho tôi, nhân tiện trả lại tôi quần áo. Về sau mới biết việc quản giáo đưa cơm vào tận xà lim cho tù là ngoại lệ. Có vẻ người trong vụ chúng tôi được đối đãi khác, được nể nang hơn so với tù thường. Tôi nghĩ không phải chúng tôi được Ðảng yêu mến, mà chắc Ðảng lo chúng tôi có thể gây chuyện om sòm, không có lợi.
Chẳng có chuyện gì để nói, anh bạn tù nhẩn nha giới thiệu cho tôi biết về cảnh sống trong xà lim.
Thường lệ, đến giờ ăn thì quản giáo mở cửa cho tù trong các xà lim ra nhận phần cơm, sau đó đóng cửa lại. Ðộ nửa tiếng sau, tính rằng tù đã ăn xong, họ lại trở vào mở cửa cho tù ra trả bát rếch. Ðối với tù xà lim không có hiệu lệnh cho giờ ăn, không kẻng cũng không trống. Người tù không có quyền được ăn đúng giờ. Quản giáo có khi bận việc riêng, nhà bếp gánh cơm cho khu xà lim cả tiếng đồng hồ rồi cũng chưa buồn vào mở cửa cho tù ra nhận. Mùa hè còn đỡ, chứ mùa đông ăn nguội đối với tù là cực hình.
Tôi rất muốn biết có ai cùng vụ với mình ở đây không, nhưng ngoài mấy tiếng ho khan, tiếng đằng hắng khe khẽ vẳng đến từ những xà lim gần tôi không nghe thấy người ta nói chuyện với nhau. Trong xà lim tù không được phép nói to. Mỗi lần tôi quên, hơi cao giọng một chút là anh bạn tù đã nhắc:
– Chết, anh nói khẽ chứ!
Nói to, gây tiếng động lớn bị cấm ngặt. Chỉ có một lần tôi thấy người tù nói to, nói oang oang, bất chấp mọi cấm đoán. Anh ta điên. Ðiên thì phải cho đi bệnh viện, lệ phải thế, ở nước nào cũng thế. Nhưng để tin chắc người tù điên thật chứ không điên giả, Ban Giám thị để anh ta trong xà lim một thời gian đã. Suốt thời gian ấy, những người tù xà lim đành chịu trận với những tiếng kêu gào xé họng, những bài ca ư ử như tiếng người bị bóp cổ, những cơn khóc lóc thảm thiết nghe rợn tóc gáy giữa đêm khuya.
Cái cùm sắt dưới chân phản lúc nào cũng sẵn sàng ngoạm lấy cổ chân người tù nếu anh ta vi phạm nội quy, mà tội dễ bị phát hiện nhất là tội nói chuyện với xà lim bên cạnh.
Thế hệ ông tôi không biết đến loại cùm này. So với cùm gỗ lim thời phong kiến đó là sự cải tiến mà bản quyền thuộc về nền văn minh thuộc địa. Nó là một thanh sắt bản rộng nối với một thanh sắt khác bằng bản lề. Khi người tù đã tra hai cổ chân vào hai chỗ lõm rồi, cai ngục mới chốt lại bằng khóa ở bên ngoài. Cái cùm không có cỡ, dùng chung cho mọi loại chân. Anh bạn tù dí dỏm nói rằng trông nó hao hao cái cổng tam quan.
Vì cái cùm là biểu hiện quyền uy, cho nên cán bộ quản giáo khoái trưng nó ra lắm. Họ cũng chẳng ngần ngại dùng nó mỗi khi có dịp.
Quản giáo thường xuyên rình mò bên ngoài, người ở trong khó mà biết được. Tưởng quản giáo đi rồi, tù buồng nọ liền í ới gọi buồng kia, thế là bị bắt quả tang. Cách rình mò của đám quản giáo giống hệt trò trốn tìm của trẻ con – quản giáo vờ loẹt quẹt đi khỏi khu xà lim, rồi rón rén đi những bước chân mèo quay trở lại. Không phải chỉ có quản giáo rình mò, các ông bộ đội cũng rình mò. Tóm được một tên tù phạm nội quy để cùm chân nó cái chơi là thú vui của lính tráng coi tù.
Tôi chiến thắng lần thứ hai trong ngày tù đầu tiên, không để sót cọng rau nào. Chỉ có nước rau đen xì, quá mặn, là tôi bỏ. Những con mọt luộc không gây phiền nhiễu cho đường tiêu hóa, cả bèo tấm cũng vậy.
Huỳnh Ngự trả lại quần áo nhưng lại quên phát chăn chiếu. Anh bạn tù nói rằng đêm Noen, hơn nữa lại chủ nhật, thủ kho nghỉ. Tôi nghĩ khác: nếu đã có người để phát quần áo thì cũng có thể phát chăn chiếu chứ. Người ta không phát là vì kịch bản của vụ bắt đã ghi không phát, để cho tôi nếm cái rét Hỏa Lò.
Ðêm xà lim khó chịu nhất ở cái bóng điện sáng choang, có dễ tới 200 oát, treo ở chính giữa, bên trong rọ sắt. Nó sáng suốt đêm. Sau cái tranh tối tranh sáng ban ngày ngọn đèn chói chang làm cho mắt rất nhức nhối. Tôi lấy cái quần gấp lại che mắt nhưng ánh sáng vẫn luồn qua được mấy lần vải để chui vào võng mạc.
– Kệ nó, rồi quen tuốt ấy mà! – từ phản bên anh tù nói vọng sang.
– Hồi mới vào đây anh có khó chịu lắm không?
– Ai chẳng khó chịu. Chẳng ai muốn sống như thế này.
Anh bạn tù ngủ không cần che mắt. Ðể cho tôi đỡ rét, anh đưa cho tôi cái màn.
– Anh cứ dùng, đừng ngại. Mùa đông ở đây thảng hoặc mới có vài con muỗi mắt, tôi chịu được.
Tôi ngần ngại đắp cái màn lên người. Tôi lầm. Nó không hôi, nhưng cũng chẳng thơm tho.
Trong ánh sáng chói lòa những con muỗi chui sâu vào bên trong gậm phản ẩn nấp chờ thời. Những con choai choai thiếu kiên nhẫn xông lên đốt chúng tôi đều bị tiêu diệt nhanh chóng. Trên tường đầy vết máu khô, di tích cuộc chiến hàng ngày của tù với muỗi và rệp. Anh bạn nói tôi số đỏ, Hỏa Lò vừa mới được phun DDT vài ngày thì tôi vào. Một tháng nữa xem, thuốc hả rồi ấy à, muỗi lại bằng trấu, rệp lại nhung nhúc. Anh kể rệp khôn hơn muỗi nhiều. Khi người tù chống lại bằng cách trải nylon lên phản, chui vào màn rồi gấp chân màn lại nhiều lần cho rệp không chui vào được, tức thì chúng dùng cách nhảy dù từ trên trần xuống. Tôi tặc lưỡi, trùm cái màn lên người. Rồi mình sẽ quen, tôi nghĩ, nếu người khác quen được.
Lúc mới bước chân vào tôi không sao chịu nổi bầu không khí tù hãm đầy mùi xú uế trong xà lim. Thế mà mới có mấy giờ đồng hồ qua, tôi đã không còn thấy khó chịu như trước. Lúc mới vào cái im ắng trong khu xà lim đè nặng lên tôi, giờ tôi lại thấy nó thú vị – ở ngoài không phải lúc nào tôi cũng được yên tĩnh như thế.
Nói tóm lại, chịu được
Anh tù hóa ra không đến nỗi hà tiện lời như tôi tưởng. Dần dà anh cũng tâm sự với tôi chút ít. Anh cho biết anh tên Thành, hồi kháng chiến chống Pháp là bộ đội tình nguyện ở Thượng Lào.
Thấy tôi không có ý định cởi mở với anh, anh ngừng ngay những lời tâm sự. Nét mặt anh không vui. Biết làm thế nào được, cần phải quan sát anh cái đã. Tôi tin rằng chúng tôi ở cùng nhau cũng là một phương án của công an.
Tôi thao thức. Phản bên, anh bạn tù ngâm thơ:
Lần này chị bước sang ngang, Là tan cả giấc mộng vàng từ đây. Rượu hồng em uống cho say, Vui lên cùng chị vài giây cuối cùng Rồi đây sóng gió bão bùng, Ðầy thuyền hận chị lo không tới bờ. Miếu thiêng vụng kén người thờ Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em. Ðêm nay là trắng ba đêm, Chị thương thân chị con chim lìa đàn. Một vai gánh vác giang san, Còn vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương. Lòng sầu tóc rối tơ vương, Em còn cho chị lược gương làm gì?…
Trong tù tôi còn nhiều lần được nghe người ta ngâm Lỡ Bước Sang Ngang. Những vần thơ của Nguyễn Bính(1) không hiểu sao lại hợp với tâm trạng người tù đến thế? Cũng là một thứ lỡ bước trong cuộc đời, mỗi người một cách, chắc vậy.
Mỗi người tù là một số phận riêng, chẳng số phận nào giống số phận nào. Mà chẳng phải người tù nào cũng có nỗi niềm oan ức. Hầu hết họ đều phạm tội đối với xã hội và họ đang bị sống cách ly, bị trừng phạt xứng với tội của họ. Họ có chung nỗi buồn của kẻ cô đơn, bị giam cầm trong cái chuồng thú giống cái chuồng của tôi và họ than thở nỗi mình qua những vần thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính qua đời, theo người ta kể, vào đêm trừ tịch Bính Ngọ (1966) trong một hoàn cảnh bi thảm. Hàng xóm thấy mấy ngày ông không ra khỏi nhà, báo công an đến phá cửa vào thì thấy nhà thơ nằm chết còng queo bên chai rượu uống dở, trên manh chiếu rách. Cũng lại xóm giềng chung tiền mua cho ông cỗ ván mộc và cùng nhau đưa chân nhà thơ đã để lại một Lỡ bước sang ngang đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hội Nhà văn chỉ được biết về cái chết của ông sau khi ông đã mồ yên mả đẹp.
Tôi không có hân hạnh quen biết Nguyễn Bính. Hồi Nguyễn Bính làm báo Trăm Hoa thì tôi đang ở Liên Xô. Tôi chỉ có hân hạnh quen Thiết Vũ, cán bộ Sở báo chí, người đã đánh Nguyễn Bính (theo nghĩa đen, thượng cẳng chân hạ cẳng tay). Trong một cơn yêu Ðảng ác tính, cho rằng Nguyễn Bính dám chửi xỏ Ðảng, Thiết Vũ đã nện Nguyễn Bính một trận dữ dội, đến nỗi các báo phải lên tiếng. Kể chuyện cũ Thiết Vũ tỏ ra ân hận(2), anh nói sau đó anh đã xin lỗi Nguyễn Bính.
Theo lời đồn, và theo những lời kể không rõ ràng trong Cát Bụi Chân Ai của Tô Hoài, Nguyễn Bính chết đi còn để lại đứa con trai. Trước hôm chết, ông bế con ra phố, cho không một người qua đường. Người xin chắc cũng chẳng biết người cho là Nguyễn Bính. Ðứa bé sẽ lớn lên với họ khác tên khác, không biết nó là con nhà thơ dân dã tuyệt vời, một nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam. Những thiên tài thường giàu linh cảm. Nguyễn Bính tiên đoán cuộc ra đi cuối cùng của ông sẽ diễn ra trong nỗi cô đơn bậc nhất mà con người có thể gặp:
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ, Một mình làm cả cuộc phân ly.
Tính từ ngày khởi đầu vụ đánh Nhân văn – Giai phẩm cho tới nay là sắp trọn một con giáp. Phải chăng lịch sử trận chiến hư cấu với những vết thương có thật đã đi được một vòng để quay lại với hình dạng khác?
Trước ngày bị bắt không lâu tôi gặp Trần Dần(3). Anh giơ xe điếu dứ dứ vào mặt tôi mà phán:
– Này, cẩn thận đấy ông nhá! Nhìn đây này!
Anh chỉ cái sẹo ở cổ, nó được Nguyễn Sáng ghi lại trên bức ký họa bút sắt trên tờ Nhân Văn, kỷ niệm một cuộc tự vẫn không thành.
Văn Cao(4) khó chịu với Trần Dần. Lý do: Trần Dần trong khi tự kiểm thảo đã đụng tới nhiều người, kéo họ vào cuộc với anh, làm cho họ điêu đứng.
– Thằng Dần tiếng thế mà không có gan. – Văn Cao nói – Mới bị đánh đã gục, đã phản tỉnh lung tung. Nó khai với Tố Hữu rằng Văn Cao khuyên tụi nó phục xuống mà đánh. Mà mình có nói thế bao giờ đâu. Mình chẳng chủ trương đánh ai. Thằng văn nghệ làm văn nghệ, thằng chính trị làm chính trị, mỗi thằng mỗi việc. Mình chỉ bảo tụi nó: làm gì thì làm, phải từ từ, phải ngó trước ngó sau. Ðâu có cái câu phục xuống mà đánh…
Văn Cao kể anh có gặp Nguyễn Hữu Ðang (5), Trần Dần, Hoàng Cầm, Trần Duy vài lần thật, nhưng chỉ bàn chuyện sáng tác, chuyện làm báo, không phải họp bàn chuyện chống lãnh đạo.
Qua những lần trò chuyện với Trần Dần, Trần Duy(6), và những người khác trong vụ Nhân văn – Giai phẩm, được nghe các anh kể về giai đoạn đen tối đối với văn nghệ sĩ và trí thức những năm 1956-1957, trong rất nhiều chi tiết rối rắm, bùng nhùng, cái thật cái giả, cái phải cái trái, lẫn lộn không biết đâu mà lần, tôi thấy nổi bật lên một điều – những nhà lãnh đạo của chúng ta rất giỏi xui nguyên giục bị. Sau trận đánh, hàng ngũ văn nghệ sĩ tan tác, người nọ sợ người kia, người này hận người khác, mọi người nói xấu nhau. Nghe mà buồn, mà ngán cho thế thái nhân tình.
Tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần Dần hèn(7). Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn, con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị, như trong cuộc lên đồng. Trần Dần, khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi giục, có thể bị ám thị rằng Văn Cao đã nói như thế. Còn Văn Cao, trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn mình lắm.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới rẽ vào thăm Trần Dần, vào nhanh rồi đi ngay. Anh cũng muốn thế, tôi ngồi lâu một chút là anh giục, sợ nguy hiểm cho tôi. Nhà cầm quyền nhìn anh như con bệnh suốt đời có khả năng gây ra lây nhiễm. Tôi thì lại không thấy ở anh bất kỳ sự nguy hiểm nào. Hồi mới ở Liên Xô về tôi thương Trần Dần, tôi nghĩ mình may mắn hơn anh. Bây giờ anh thương lại tôi, hóa ra anh còn may mắn hơn tôi. Dường như Trần Dần đã thấy trước, bằng trực giác, trận đòn thù tôi sẽ phải chịu.
Trần Dần ít nói (hay bị đánh nặng quá mà thành ít nói?), có khi ngồi cả buổi với nhau anh chỉ nói vài câu tào lao. Nói cho đúng, nói thì vẫn nói, nhưng không bao giờ có chuyện về một đề tài cụ thể, mà là những mẩu độc thoại cần có hai người để thành đối thoại. Tôi nhớ một hôm anh thủ thỉ:”Này, mình cũng người Nam Ðịnh đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng vì những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ.” Anh hút thuốc lào liên tục, tiếng điếu bát ròn tanh tách vang trong căn phòng vắng lặng. Tôi tha hồ mầy mò những mẩu bản thảo vương vãi quanh cái điếu, lặng lẽ đọc, thỉnh thoảng lại giật mình bắt gặp một tia chớp chói lòa trong chữ nghĩa của anh. Nhưng dù anh rất quan tâm tới bộ cánh cho ý nghĩ của mình, tôi thấy những ý thơ của anh luôn luôn cảm thấy chật chội vướng víu trong những bộ cánh cách tân. Chia tay, anh hỏi tôi:”Cậu hiểu mình muốn nói gì chứ?”. Tôi gật đầu. Nhưng tôi chẳng hiểu gì trong những lời ngắn ngủi và lộn xộn của anh, câu trước không ăn nhập với câu sau, chưa nói hết mà đã tưởng nói hết rồi. Nếu anh muốn truyền tâm trạng anh sang tôi bằng ánh mắt của anh để tôi hiểu tâm trạng đó thì đúng là tôi đã hiểu. Tôi hiểu và tôi buồn. Buồn cho anh. Buồn cho tôi.
Trần Dần thương tôi, muốn tôi học được nết sợ hãi. Như anh đã học.
Thế hệ chúng tôi bất hạnh: chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.
Tôi chạnh nghĩ đến cha tôi. Giờ này ông ở đâu? Theo lời đồn thì ông bị giam trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi tại Hà Nội. Tôi không tin. Lời đồn không thể kiểm chứng nọ chắc hẳn do một trung tâm có chỉ đạo tung ra. Cũng như trong những việc đồi bại khác, các nhà lãnh đạo vẫn thích chưng ra bộ mặt tử tế – các đồng chí tuy có sai lầm khuyết điểm thật, nhưng đều là người có công với cách mạng, cho nên cách đối xử với các đồng chí phải khác.
Tôi lo cha tôi đêm nay lại bị cơn đau gan dày vò. Bệnh gan là hậu quả những cơn sốt rét rừng mà ông kiếm được từ trại giam Sơn La của Pháp. Nhưng ông còn đau đớn hơn bởi sự đối xử tàn nhẫn của những đồng chí ngày hôm qua.
Dòng suy tưởng lan man dẫn tôi về năm 1949, khi tôi bắt đầu cuộc đời người lính. Khi ấy tôi chưa đủ mười sáu tuổi. Ðể được nhận vào bộ đội, tôi và mấy người bạn thân rủ nhau nhét đá vào túi quần cho đủ cân để vượt qua cuộc sát hạch. Súng sính trong bộ quân phục kaki mới tinh do mẹ may cho, tôi đứng vào hàng ngũ bộ đội, lòng tràn đầy tự hào. Cả trường đổ ra tiễn chúng tôi. Mẹ tôi, nước mắt lưng tròng, giúi cho tôi mấy đồng bạc phòng khi tôi cần đến. Sự săn sóc của mẹ làm tôi xấu hổ. Tôi vùng khỏi mẹ, chạy đi. Tôi đã là anh bộ đội cụ Hồ rồi mà mẹ còn coi tôi như bé bỏng lắm.
Chúng tôi hành quân theo đường Kim Tân, Kiểu, Bái Thượng, qua Nho Quan, giữa những đồi sim hoa tím của Hữu Loan(8), qua những rừng lau sậy của Trọng Hứa, bằng những bài thơ, bài hát của các anh:Bông lau ngập ven đồi. Ðây đồi xưa, đây rừng xưa in bóng cô nàng…Chiều ơi, lúc chiều về rực nắng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, hỡi chiều…
Tôi nhớ chuyến đi gian nan vượt đường số 6, ở quãng giữa hai bốt Ðồng Bến và Ðồng Bái gần Lương Sơn. Lần đầu tôi giáp mặt với cái chết hiện hình trong những bộ xương người trắng hếu trong cỏ rậm mà những tên lính mới chúng tôi phải chúi vào đó để trốn đạn cối địch bắn cầm canh trong ánh hoàng hôn ảm đạm.
Tôi nhớ đêm vượt dốc Sống Trâu trên đường từ Khu 3 lên Việt Bắc trong mưa tầm tã, trong ánh chớp xé rách bóng tối dày đặc của rừng già. Chúng tôi chặt cây làm gậy chống, người nọ bám vào người kia mà đi, mà vẫn ngã oành oạch trên triền dốc dựng đứng. Lên được đến đỉnh rồi, bắt đầu đổ dốc thì tôi bị cảm lạnh. Run lẩy bẩy, tôi loạng choạng ngã sấp mặt vào bùn, sặc sụa. Tôi cứ nằm đấy, nhổ phì phì những vốc bùn lợm giọng, cố hết sức cất mình lên mà không nổi. Trên lưng tôi là cái ba lô sũng nước mưa, quanh bụng tôi là cả yến gạo chứa trong hai ruột tượng, kèm theo khẩu mút-cơ-tông(9) nặng chịch bám chặt vào vai. Bỗng có ai đó dừng lại bên tôi, cúi xuống tháo từng thứ trên người tôi, tháo hết, rồi vực tôi dậy. Tôi luống cuống bám chặt lấy người ấy. Khi trên người tôi không còn vật nặng nào, tôi thấy tôi nhẹ bỗng, nhẹ đến mức tưởng chừng trong khoảnh khắc đó, không còn gì giữ lại, tôi sẽ bay vụt lên trên bầu trời đen kịt. Một ánh chớp lóe lên, tôi nhìn thấy anh Môn, trung đội trưởng của tôi, đang ôm chặt tôi trong tay. Anh lấy khăn lau mặt cho tôi và dìu tôi đi, trên người anh chồng chất gấp đôi trọng lượng hàng ngày. Tôi xấu hổ vì sự kém cỏi của mình, tôi nằng nặc đòi anh trả tôi những thứ anh phải mang đỡ tôi, anh nhất định không nghe. “Cậu sốt bừng bừng rồi đây này, đừng gắng thêm nữa. Ðường ta đi còn dài”.
Cuộc cách mạng này là cái gì vậy, khi người của nó không còn tình thương? Chỉ cần thấy một đứa trẻ như tôi trong một đêm hành quân cực khổ vì cách mạng thôi người có lương tri không nỡ đối xử với nó thế này.
Một tiếng sấm nổ gần làm tôi giật mình. Thành bật dậy, mắt đỏ ngầu:
– Cái gì thế?
Một tiếng sét tiếp theo làm màng nhĩ muốn rách. Trong những xà lim bên cạnh những người tù cũng đồng loạt tỉnh giấc. Tiếng ho húng hắng. Tiếng người thì thào. Tiếng nước tiểu chảy vào bô.
Lắng nghe, tôi biết mình lầm. Bên ngoài xà lim có ai đó đang đập rầm rầm vào những tấm tôn, như thể giận dữ ném chúng xuống nền xi măng. Những tiếng động vang dội bên trong những bức tường xà lim làm chúng tôi tưởng là sấm sét.
Tiếng động chát chúa vừa lặng đi thì lại đến tiếng béc-giê tru lên từng hồi. Thì ra có một con chó được thả vào khu này. Nó lồng lộn đòi ra. Mọi lối ra đều đóng, nó nhảy chồm chồm lên những tấm tôn xếp nghiêng ngoài sân.
– Quái lạ, sao họ lại thả chó vào đây nhỉ?
Thành ngồi hẳn dậy, lẩm bẩm. Anh chậm chạp vê rất lâu một điếu thuốc lào.
Con chó lại tru lên một hồi dài, như tổ tiên nó từng tru như thế trong những rừng thẳm nguyên khai. Tôi biết chắc đó là một con béc-giê. Những năm lâu rồi, khi gia đình tôi còn ở phố Nhà Rượu, đêm đêm tôi vẫn nghe tiếng những con béc-giê tru lên từng hồi như thế từ những chuồng sắt cũi sắt của Nhà thương Chó ở đầu Lò Ðúc.
– Buổi chiều nghe có tiếng người ta xếp gì loảng xoảng bên ngoài mình đã nghi nghi – Thành nói – Mình nghĩ: xưởng thợ còn rộng chán, họ xếp nguyên liệu vào đây làm gì? Lúc đi cung ông có thấy gì ngoài sân không?
– Tôi không để ý.
– Lúc về cũng không?
Tôi gật đầu.
Chúng tôi không ngủ lại được. Thành hút thuốc lào. Ðiếu thuốc đầu tiên sau giấc ngủ làm anh say dúi dụi. Tôi sợ anh ngã xuống sàn nhưng anh chỉ đảo đồng đảo địa một hồi rồi tỉnh.
– Hôm nay ông đi cung chắc có chuyện không bình thường?
– Là thế nào?
– Có căng không?
– Cũng như mọi khi.
– Không xảy ra cãi cọ gì?
Tôi không muốn kể cho Thành nghe chuyện tôi làm cho Huỳnh Ngự tức tối. Nhưng tôi cũng không muốn nói dối.
– Nói cho đúng, cũng không được êm dịu cho lắm.
– Thế thì hiểu rồi. – Thành cười – Con chó được đưa vào đây là có tính toán cả đấy, ông bạn ạ. Cả những tấm tôn nữa. Người ta chơi ông đâm ra chơi luôn tụi tôi, tệ quá!
Tôi cười gằn:
– Tệ gì? Chó má ấy thì có!
– Thây kệ, nghĩ làm đếch gì! – Thành dùng hai tay vuốt râu như tín đồ đạo Hồi – Coi như chuyện vặt đi. Ông biết chơi cờ không?
Tôi lắc đầu. Về cái khoản cờ bạc tôi đặc cán mai. Tôi không biết chơi bất cứ thứ gì. Của đáng tội, hồi còn nhỏ tôi có biết chơi tam cúc. Nhưng tam cúc không được coi là bài bạc. Trẻ con nhà quê đứa nào mà không biết chơi tam cúc. Những ngày Tết trẻ con có tiền mừng tuổi, chúng chơi tam cúc để tập làm người lớn. Người lớn quê tôi mê đủ mọi thứ bài bạc, từ xóc đĩa cho tới tổ tôm. Nhất là cánh lái gỗ. Rời quê hương lên rừng làm thuê, giàu lên thì mở lối, trở thành lái. Những ông lái gỗ làm nhà trên bè, tài sản cóp nhặt được trong nhiều năm, đánh tổ tôm tài bàn suốt con đường lênh đênh về xuôi, đánh cho tới nhẵn túi, cho tới khi trở thành anh chân sào cho một lái khác, trên con bè trước kia là của mình.
Thành ngáp trẹo quai hàm, nói:
– Ngày tù nhiều khi dài ơi là dài. Rồi tôi sẽ dạy ông chơi cờ cho khuây khỏa. ông mới vào chưa biết chứ sống trong xà lim nhiều lúc mệt lắm. Phát điên lên được. Chơi cờ cũng vợi đi được một phần. Nhưng chơi một mình thì chán…
Con chó lại tru lên. Nó chỉ ngừng từng lát khi quá mệt.
Tôi định bụng hôm sau tôi sẽ phản kháng chuyện này. Họ muốn hành tôi thì cứ việc hành, nhưng không được làm khổ lây người khác.
– Họ cũng đã chơi anh thế này? – tôi hỏi.
– Không phải y như thế. Họ có nhiều bài bản. Với mỗi người mỗi khác. – Thành lửng lơ – Mình cứ phải tỉnh táo, tùy cơ mà ứng biến. Ðã ở trong tay người ta rồi nhất cử nhất động đều phải cân nhắc. Cũng chẳng nên gây sự với họ làm gì…
Cứ rỉ rả như thế, Thành cho tôi rất nhiều kiến thức bổ ích cho đời tù của tôi sau này.
– Ðã nói gì thì cứ thế mà nói, trước sao sau vậy, kẻo họ hành cho tới số đấy. Lại nữa, nói về mình thì lỡ miệng còn được – mình làm mình chịu. Lỡ lời làm hại người khác thì ân hận cả đời. Trong một vụ án người ta chú trọng nhất cái anh đầu vụ. Với người có liên quan họ nhẹ nhàng thôi. Cũng có khi không bẻ gãy được người đầu vụ, họ đôn người khác lên thay…
Thành nằm xuống. Lát sau tôi đã nghe anh ngáy khe khẽ. Con chó vẫn cứ thế, thỉnh thoảng nó lại tru lên một hồi, giọng mỗi lúc một yếu. Nó thấm mệt, nó tuyệt vọng, hay là chúng tôi đã quen với nỗi tuyệt vọng của nó, tôi không rõ.
Tôi tập trung tư tưởng vào một điểm trong hư vô, cố tách mình khỏi những ý nghĩ vẩn vơ, thở đều đều theo phương pháp khí công.
(1) (1918-1966) Nhà thơ dân dã rất nổi tiếng với các tập Lỡ Bước Sang Ngang, Hương Cố Nhân, Mười Hai Bến Nước… Ðoạn người tù ngâm có khác với nguyên bản của nhà thơ.
(2) Trong cuốn Cát Bụi Chân Ai Tô Hoài có nói tới việc tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính được mua giấy do Nhà nước cung cấp, khiến người đọc nghĩ rằng tờ Trăm Hoa là do Ðảng Lao dộng Việt Nam chủ trương, mà Nguyễn Bính là người thực hiện, để đối phó với phong trào đòi tự do, dân chủ của văn nghệ sĩ, trí thức hồi ấy. Tôi cho rằng không phải. Nếu Nguyễn Bính làm báo theo chỉ thị của Ðảng thì ở Sở Báo chí những cán bộ cỡ Thiết Vũ phải được biết, và như thế vụ Thiết Vũ đánh Nguyễn Bính khó có thể xảy ra. Trong những lần gặp Thiết Vũ tôi không thấy Thiết Vũ nói đến một chuyện như vậy.
(3) (1926-1996) Nhà thơ cách tân, tác giả tập thơ Ta Nhất Ðịnh Thắng, tiểu thuyết Người Người Lớp Lớp, một trong những nhân vật bị coi là đứng đầu nhóm Nhân văn – Giai phẩm.
(4) Nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ nổi tiếng (1923-1995), tác giả Tiến Quân Ca, một bài hát rất phổ biến trong những ngày nổ ra cuộc Cách mạng Tháng Tám, được chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất và Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn làm quốc ca. Sinh thời ông bị chính quyền bạc đãi vì những tư tưởng tự do, dân chủ.
(5) Nguyễn Hữu Ðang (1913), tham gia cách mạng năm 1929, năm 1930 bị bắt, ra tòa năm 1931, nhưng vì nhỏ tuổi nên chỉ bị quản thúc. Tham gia Mặt trận Dân chủ Ðông Dương, viết báo Ngày Mới, Thời Báo và các báo Tin Tức, Ðời Nay do Ðảng Cộng sản Ðông Dương chỉ đạo, tham gia Hội truyền bá quốc ngữ cùng Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thai Mai. Ðảng viên cộng sản từ năm 1943, năm 1945 là thứ trưởng Bộ Thanh niên. Năm 1956 bị kết án 15 năm tù. Mãn hạn, còn bị quản thúc 20 năm.
(6) Nhà thơ Trần Dần, nhà thơ Hoàng Cầm, họa sĩ Trần Duy là mấy nhân vật được nói tới nhiều nhất trong vụ Nhân văn – Giai phẩm. Trần Dần được coi như người đứng đầu nhóm Nhân văn – Giai phẩm, người phát ngôn của bộ phận trí thức đòi chia quyền lãnh đạo với Ðảng.
(7) Theo một số nhân chứng, Trần Dần là người không biết sợ, Trần Dần không hèn. Câu phục xuống mà đánh là do Hoàng Cầm phát ra, nhưng Trần Dần đã “gánh” cho Hoàng Cầm.
(8) Nhà thơ, rất nổi tiếng với bài “Màu tím hoa sim”.
(9) Súng trường Pháp.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:40:57 GMT -6
Chương 7
– Cung, cung, cung!
Viên quản giáo nông dân đứng trong khung cửa, mặt dửng dưng buông một câu trống không. Thành ngồi im, đầu gối quá tai, không tỏ ra phản ứng nào.
Tôi ngơ ngác: anh ta gọi tôi? Hay gọi Thành?
– Cung, cung, cung!
Anh ta nhắc lại.
Ðến lúc ấy Thành mới nói:
– Ông quản giáo gọi ông kìa!
Ra thế! Vậy mà anh chàng quản giáo cù lần kia không nói rõ là đi cung cho rồi, cứ lằng nhằng mãi cái từ ngữ thổ tả của nhà tù, bắt tội tôi phải hiểu.
– Mặc quần áo vào còn đi chứ! – Thành lại giục.
Khốn nạn, tôi có còn gì nữa mà mặc! Tôi đã mặc hết cả rồi. Trong xà lim lạnh buốt tôi đã phải đắp lên mình tuốt tuột những gì tôi có mà vẫn còn thấy rét. Nhiệt độ mấy ngày qua tụt xuống đùng đùng. Mùa đông thực sự đã đến. Nằm khàn trong xà lim, không bị gọi ra đi cung, tôi ngán ngẩm nghe gió bấc thổi ù ù bên ngoài. Nếu tôi bị bắt muộn vài ngày chắc chắn tôi đã có thêm cái áo len. Hôm bị bắt trời còn ấm, may mà tôi lại vận áo bông.
– Nhanh lên! – Viên quản giáo nhắc.
Tôi cẩn thận khép chặt hai vạt áo bông cho gió khỏi lùa vào trong người. Chỉ còn có việc xỏ chân vào giày là xong. Giày cũng không cần buộc dây. Dây giày đã bị thu, chắc hẳn người ta nghĩ rằng có thể dùng nó mà treo cổ.
Phải dành vài dòng cho đôi giày, nó đáng được nói đến. Tôi bị tê thấp. Lo sắp tới mùa đông vợ tôi xăng xái kiếm cho tôi một đôi giày đen, da Mông Cổ hẳn hoi. Ðôi giày bị Huỳnh Ngự khám rất kỹ, tưởng y sẽ dùng dao banh cả đế ra để tìm cái y muốn thấy. Ðôi giày đẹp là thế, da mềm lắm, đóng cũng khéo, nhưng về mặt thực dụng, khốn nạn cho tôi, nó lại thua xa đôi dép lốp rẻ tiền.
Tù xà lim buổi sáng được ra ngoài làm vệ sinh thân thể một lần cho cả ngày. Mỗi lần được dăm phút, không tính thời gian đóng cửa mở cửa. Xà lim có hai người, mỗi người được ngót nghét hai phút rưỡi. Chúng tôi phải đi như chạy (nhưng không được phép chạy thật) để vào phòng tắm đổ bô, rửa bô, rửa mặt rồi đi về. Thế mà sau này, áp dụng vận trù học tôi và Thành còn đi đại tiện được (xin lỗi), còn tắm được trong mấy phút ngắn ngủi ấy mới tài.
Tôi còn có thể làm nhanh hơn nếu không vướng đôi giày. Ði rửa phải xếp nó ở xa cái vòi nước chảy tồ tồ trong phòng tắm chật hẹp. Rửa xong phải nhảy lò cò tra chân và cho nhanh để trở về phòng giam, có khi phải đi cà nhắc vì một bàn chân chưa xỏ hẳn được vào giày. Bất tiện là thế nhưng lại không thể quăng nó đi được. Nhà tù Việt Nam không có lệ phát dép. Trừ một bộ quần áo, một cái chăn sợi, một manh chiếu, người tù nhập trại không được phát một thứ đồ dùng thiết thân nào khác. Bàn chải, thuốc đánh răng, xà-phòng đều do gia đình tiếp tế(1). Bên cạnh Thành tôi là người vô sản chính cống. Khác với tôi, khi bị bắt anh đã biết phải mang theo cái gì.
Chúng tôi đi qua xưởng thợ, nơi mấy người tù áo xọc đang cặm cụi gò hàn. Họ chăm chú làm việc, không để ý đến chúng tôi. Nhưng không phải, những con mắt tò mò vẫn liếc xéo quan sát người tù đi qua. Viên quản giáo đứng trên đống sắt ngổn ngang la hét, giọng Nghệ An đặc sệt: ” Ê, anh tê, mần đi chợ! Ngọ ngọ cải chi? Vào nơi ni rồi phãi chăm chĩ lao động! Không chăm chĩ lao động thì đừng cỏ hòng về, chị cỏ chệt mục xương!” Trong khu xà lim tù binh cây thông Noen ủ rũ vẫn đứng đó, mấy ngọn đèn màu leo lét. Cái máy ghi âm vẫn chạy, tiếng méo xẹo. Ðỗ Nhuận vẫn ê a “Hồng Hà mênh mông…trôi cát tới chân làng quê.ê.ê…Cuối sông, ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về…”
Lần này viên quản giáo không đưa tôi tới phòng hỏi cung lần trước mà đi xa hơn, tới gần cổng Hỏa Lò, nơi có một lối đi hẹp dẫn vào những ngôi nhà dài thuộc cánh phải. Anh ta bảo tôi đứng đợi trong lối hẹp đó.
Từ chỗ tôi đứng mở ra một nhánh nhỏ với một dẫy phòng đóng kín cửa. Nhìn bề ngoài những phòng này giống các phòng tập thể cho cán bộ độc thân, nhưng tôi nhanh chóng gạt đi ý nghĩ đó – ở cửa mỗi phòng là một cái khóa Tuto treo lủng lẳng.
Bỗng tôi giật mình: cách tôi chừng mươi mét, phía ngách hành lang, một người tù già tóc bạc phơ, dáng đi nặng nhọc, hai tay bưng tô cơm, một con cá khô cắm đầu xuống giương chẽ đuôi cứng đơ lên trời. Người tù ngẩng mặt lên và tôi nhận ra tướng Ðặng Kim Giang. Bác Giang của tôi gày xọm, râu mọc dài, cũng bạc như cước. Chao ôi, chúng nó đã làm gì bác mà mới có hơn hai tháng tù bác thay đổi nhiều đến thế? Nhưng phong thái ông xem ra vẫn không thay đổi, vẫn đàng hoàng lắm. Nhìn thấy tôi ông mỉm cười. “Ðừng sợ, cháu! Phải cứng rắn lên!”, cái nhìn của ông nói. Một giây sau ông đi khuất vào một khúc quanh, theo sau là một quản giáo màu hoàng thổ. Có phải với cái nhìn ấy, nụ cười ấy ông muốn nhắn tôi phải kiên định, không nhận gì hết. Nhưng tôi thì kiên định cái quái gì chứ! Tôi có gì để mà nhận? Hay ông lo tôi bị dụ dỗ, bị lung lạc, do quá sợ hãi mà bị bọn chấp pháp ép cung, khai bậy bạ cho người khác?
Tướng Ðặng Kim Giang hoạt động cách mạng cùng với cha tôi từ những năm 30, từng ở tù cùng cha tôi tại ngục Sơn La. Trước khi trở thành đảng viên cộng sản ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Quốc dân đảng. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm tổng cục phó Tổng cục Hậu cần, là chủ nhiệm hậu cần mặt trận Ðiện Biên Phủ. Hòa bình lập lại, ông phụ trách khối bộ đội chuyển sang làm nông nghiệp, với chức vụ thứ trưởng Bộ Nông trường. Nhanh nhẹn trong chiếc áo choàng bằng dạ kaki cấp tướng, ông xăng xái lúc ở chỗ này lúc ở chỗ khác trên địa bàn rộng lớn miền Bắc. Chúng tôi, những đứa cháu con bạn ông, rất yêu ông. Trong ông chẳng có gì của vị tướng trong cái hình dung thông thường của mọi người. Ông giản dị, xuề xòa và hồn hậu. Cũng giống như chúng tôi, những người lính nông dân vừa rời tay súng về cầm cày không coi ông là tướng, mà là người cha, người chú trong gia đình.
Khi nổ ra cuộc xung đột ý thức hệ Trung-Xô, ông không do dự đứng ngay về phía Liên Xô. Là đảng viên cộng sản lão thành, nhưng ông không rành lý thuyết cộng sản bao nhiêu. Ông, theo chỗ tôi biết, là một nho sĩ với phương châm xử thế bất biến lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu. Với tinh thần nho sĩ ông gay gắt lên án Stalin giết hại đồng chí để củng cố quyền lực, ông chống Mao, mà ông gọi là “tên đồ tể” cũng mạnh mẽ không kém.
– Stalin ngập trong máu, bác biết lắm chứ, nhưng đó không phải là chủ nghĩa xã hội. – ông nói với tôi – Cái nhà không xấu chỉ vì chủ nhà là một thằng khốn nạn. Bác nghĩ thế. Hôn quân có thể làm sập một vương triều, nhưng không làm mất nổi một đạo. Cháu thấy không, các triều vua thay nhau đổ trong khi Nho giáo, Khổng giáo vẫn cứ trường tồn. Chủ nghĩa Mác với tư tưởng giải phóng nhân loại còn mãi. Chủ nghĩa Mác không muốn thấy một nhân loại như bây giờ. Nhân loại phải được sống hạnh phúc. Con người phải được sống như con người. Khrusov lên án sùng bái cá nhân là phải lắm, người có luân thường tất không thể làm khác. Mao mới là tên ăn cháo đá bát. Lợi dụng chống Khrusov chống luôn Liên Xô. Thử hỏi không có Liên Xô làm sao Trung Quốc có ngày nay? Công nghiệp gang thép ai dựng cho? Rồi công nghiệp máy cái, tàu bay, tàu biển, ô tô? Trước kia Trung Quốc có gì? Ngày nay có gì? ỉ thì lãnh đạo Liên Xô cư xử không nên không phải khi nổ ra bất đồng, nhưng ai là người đổ mồ hôi sôi nước mắt giúp Trung Quốc vững vàng được như bây giờ? Là nhân dân Liên Xô chứ, là người lao động Liên Xô chứ. Xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm lạ – mộng vương bá là cố tật của người Trung Hoa. Cứ xem sử Trung Quốc thì thấy, mỗi vùng mỗi vua, anh nào cũng lăm le bá chủ thiên hạ, chưa bá chủ được chưa yên. Nước ta rồi còn khổ với mấy cái anh bá này!
Trong thời gian làm thứ trưởng Bộ Nông trường ông đã đề xuất những chủ trương táo bạo như khuyến khích sản xuất bằng lợi ích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông trường viên, hợp tác đầu tư với các nước xã hội chủ nghĩa, cho các nông trường liên doanh với các nông trường nước bạn. Tất cả những chủ trương cách tân đó đều bị Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi là “xét lại”, “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”.
Tướng Giang đi khuất rồi, tôi còn phải đứng đợi một lúc nữa mới thấy viên quản giáo xuất hiện.
Anh ta lẳng lặng dẫn tôi tới một phòng hỏi cung khác nằm sâu trong dãy nhà bên cánh trái Hỏa Lò. Ðợi tôi ở đó là một người đàn ông cao to, da mặt bì bì, đẹp trai như một con hà mã. Trong quân phục dạ dành cho cấp tá, không quân hàm, bên trong chiếc áo choàng cũng bằng dạ, y lừ lừ nhìn tôi.
Thế là chúng nó phải thay người làm việc với mình, tôi nghĩ. Nhìn Huỳnh Ngự khúm núm bên cạnh y, tôi đoán y là cấp trên của Huỳnh Ngự.
Ðã một tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt, nếu không hơn. Trong những ngày đó, sau cuộc cãi vã tay đôi làm Huỳnh Ngự tức điên, y còn gọi tôi ra vài lần nữa, nhưng cứ vừa nhìn thấy y là tôi bắt viên quản giáo đưa tôi lộn lại xà lim. Cái lối chơi chướng ấy thế mà được việc. Cần phải cho chúng nó biết tôi không dễ nhá. Cha tôi nói về đối sách của ông với nhân viên sở Liêm phóng:”Chỉ cần run sợ một chút là chúng lấn tới. Cho chúng nó đánh, cho chúng nó tra khảo, tra chán rồi chúng nó mệt, chúng nó bỏ. Chứ tỏ ra sợ đòn thì cứ cần hỏi gì là chúng nó lại lôi ra”.
– Tôi đã đọc những báo cáo về anh. – người đàn ông đặt tập hồ sơ đang đọc khi tôi bước vào lên bàn – Hôm nay tôi bố trí thời gian gặp anh…
Tôi lặng thinh nhìn y.
– Chỉ để khuyên anh một điều, với tư cách người lớn tuổi…
Tôi không nói gì.
– Trước hết, tôi khuyên anh không nên cố chấp. – bằng giọng không có hồn, y dề dà nói – Anh là trí thức, hẳn anh biết cổ nhân có câu:”chấp kinh thì phải tòng quyền”…
Tôi liếc nhìn Huỳnh Ngự. Bên cạnh con người này y nhỏ bé hẳn, so rụi hẳn, chẳng giống Huỳnh Ngự những ngày trước.
Không đợi con hà mã nói hết, tôi hất hàm chỉ Huỳnh Ngự, làm ra vẻ không biết hoặc không nhớ tên y:
– Nếu anh có ý định phổ biến nội quy trại giam cho tôi một lần nữa, như anh này đã phổ biến thì tôi xin cảm ơn, tôi đã được nghe kỹ…
– Khoan đã. Tôi hiểu anh đang bực bội trong lòng. Bực bội là phải thôi, ai muốn mình bị Ðảng coi là kẻ thù của cách mạng? Nhưng cho tới giờ đã có ai coi anh là kẻ thù đâu! Sai thì có, sai quá đi ấy chứ. Do nhận thức sai nên hành động sai. Cũng là lẽ thường tình. Sai thì sửa. Mao chủ tịch dạy: chỉ có hai thứ người không sai thôi – ấy là đứa trẻ trong bụng mẹ và người nằm trong quan tài. Mình chưa hiểu ra cái sai, Ðảng biết thì Ðảng chỉ ra, Ðảng uốn nắn cho, sửa chữa cho. Vì thế, như tôi vừa nói với anh, tôi nhắc lại lần nữa anh nghe cho rõ: đừng cố chấp. Nội quy, xét cho cùng, nó là cái gì? Nó chẳng là cái gì hết – một quy ước được soạn ra cho cuộc sống tập thể mà mọi người có trách nhiệm tuân thủ để duy trì trật tự chung…
– Tôi nói rồi: tôi không thích cái nội quy ấy. – tôi lạnh nhạt, đồng thời cương quyết – Tôi không chấp nhận nó.
– Bình tĩnh, bình tĩnh nào! Nghe tôi nói đã. Sáng nay anh Thành(2) thay mặt anh Sáu, có vào đây gặp các anh, từng người một. – người đàn ông vẫn bình thản, nhưng qua giọng nói, cách nói của y tôi hiểu y phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh như thế – Nhưng rồi do công tác đột xuất lại phải quay về ngay, không gặp được. Anh Thành ủy nhiệm tôi phổ biến cho các anh quyết định mới nhất của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương…
Người được ủy nhiệm của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương không thèm tự giới thiệu. Sau mới biết tên y là Trúc, không rõ họ gì, cục trưởng Cục chấp pháp. Trúc là nhân vật quan trọng nhất trong đám quan binh mà tôi được tiếp kiến kể từ khi bước chân vào Hỏa Lò. Trong ngành công an người giữ chức cục trưởng quan trọng hơn thứ trưởng ở các bộ khác.
Y đúng là một nhà mác-xít – lê-nin-nít chân chính. Y nói nhân nói nghĩa, nhưng không nhích một li khỏi lập trường chuyên chính vô sản. Tôi không ngạc nhiên nếu sau những lời phi lộ dài dòng đầy nhân ái y sẽ nói tới những quyết định tàn bạo.
Có thể nói toàn thể cán bộ hồi ấy được Ðảng nhuộm đỏ một màu máu. Bạo lực được tôn sùng như biểu hiện của tính kiên định cách mạng. Những câu cách mạng đầu lưỡi được đánh giá như nhiệt tình chiến đấu cho sự thắng lợi của đường lối mác-xít.
Tại tòa soạn chúng tôi học tập liên miên. Tài liệu học tập là những bài giảng của Trung ương gửi xuống, của Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh do sứ quán Trung Quốc phát không. Công việc củng cố lập trường chiếm hết thời giờ làm báo. Ðược cái làm báo xã hội chủ nghĩa không khó. Tờ báo là công cụ giáo dục nhân dân, không cần bán chạy, chỉ cần minh họa các chủ trương của Trung ương sao cho khéo là được. Không ai trách anh nếu anh viết giống bài nào đó đã in rồi trong báo Ðảng. Nhai lại những gì báo Ðảng viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen: ý thức tổ chức cao. Nay có viết giống Ðài phát thanh Bắc Kinh hoặc Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh thì cũng được khen không kém: lập trường vững.
Trong những buổi kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết 9 các nhà báo ngồi cùng các nhân viên tòa soạn, cả anh tiếp phẩm lẫn chị cấp dưỡng. Mọi người đua nhau lên án bọn xét lại hiện đại chủ trương chung sống hòa bình giữa các chế độ xã hội khác nhau, thi đua hòa bình, quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Ai đọc được nhiều tài liệu của Ðảng, của Trung Quốc, lại có trí nhớ tốt, phát biểu hăng hái, thì được coi là tích cực học tập.
Trong Hỏa Lò Huỳnh Ngự cũng ông ổng chửi chung sống hòa bình:
– Là người thời không thể sống với dã thú. Mà bọn tư bản là dã thú, chung sống làm sao được với chúng nó. Bây giờ anh đã thấy đường lối nớ sai chưa?
– Chưa. – tôi đáp – Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có hòa bình trước đã, tôi quan niệm như vậy. Còn cụm từ chung sống hòa bình mà báo chí quen dùng là do dịch sai gây ra hiểu nhầm. Người Nga nói mirnoe soshushestvovanie, người Pháp nói coexistence pacifique không có nghĩa chung sống hòa bình, mà là cùng tồn tại trong hòa bình.
Huỳnh Ngự hừ một tiếng không rõ rệt.
Vài năm sau trên báo chí không thấy dùng cụm từ chung sống hòa bình nữa. Người ta dùng đúng như tôi nói hôm đó: cùng tồn tại trong hòa bình.
Cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn Liên Xô Boris Polévoii(3) bị đặt lên bàn mổ. Nó bị phỉ nhổ là lá cờ rách của “chủ nghĩa nhân đạo chung chung”, thứ đồ bỏ nhặt từ trong đống rác thối tha của chế độ tư bản. Các nhà tuyên giáo(4) nói rằng thứ nhân đạo chung chung của bọn xét lại hiện đại không mê hoặc nổi ai. Nhưng cứ phải cảnh giác (!), họ nhấn mạnh, bởi vì nó thường dùng hình thức văn học là cái đi vào lòng người một cách êm ái.
Chủ nghĩa cộng sản, cũng theo các nhà tuyên giáo, đương nhiên hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo tiến bộ nhất, văn minh nhất, rộng rãi nhất, cao cả nhất. Mọi thứ chủ nghĩa nhân đạo khác, không phải của giai cấp vô sản, chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, là lời lẽ mị dân.
Chúng tôi họp suốt ngày. Không phải một hai ngày, mà ngày này qua ngày khác. Dưới cái quạt trần quay vù vù và sự chủ tọa của thư ký tòa soạn Nguyễn Thanh Ðịch, các cán bộ của tờ báo mồ hôi nhễ nhại phê phán tính chất nhân đạo phi giai cấp của những bộ phim xô-viết: Số Phận Con Người, Ðàn Sếu Bay Qua và Bài Ca Người Lính(5). Dù không tán thành, mỗi người cũng phải phụ họa đôi ba câu vô thưởng vô phạt. Tôi ngồi im. Ngồi im cũng là một thái độ, và các nhà mác-xít cấp phường nhìn tôi bằng cặp mắt hằn học. May cho tôi, bí thư chi bộ Hoàng Nguyên Kỳ là một họa sĩ. Anh chỉ giữ ý thức tổ chức đến mức vừa đủ. Anh dặn tôi: “Chớ có phát biểu ngang xương đấy nhá!”.
Nhân đợt học tập chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, những chồng báo lưu của tòa soạn được mang ra. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 9, người ta đọc lại các số báo xuất bản một hai năm trước bằng kính lúp. Một số bài bị mang ra phê phán, trong đó không thể thiếu những bài của tôi. May cho tôi – những câu chữ bị đem ra mổ xẻ, bị lên án hóa ra lại là của quý vị Phạm Văn Ðồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, mà tôi đã lười biếng cóp vào bài viết. Thậm chí tôi còn nghịch ngợm đóng vai phản tỉnh, đề nghị cho tôi được nghỉ học để ngay lập tức viết thư lên các vị lãnh đạo. Tôi giận các vị lắm, tôi nhất quyết buộc các vị phải công khai nhận sai lầm, chính vì các vị mà tôi sai lầm theo. Thư ký tòa soạn tỉnh giấc đấu tranh vội vã ngăn tôi lại.
Không khí chỉnh huấn tưởng đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ nay trở lại với sức mạnh gấp đôi.
Nạn nhân đầu tiên của cuộc tiến công ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại là Minh Tranh, giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Là một Nhà xuất bản chuyên cho ra những cuốn kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lẽ thường giám đốc phải là người con trung thành của những giáo điều mác-xít. Ai ngờ Minh Tranh lại là một trong những tên xét lại cứng đầu. Mấy anh cán bộ tuyên giáo không có thông tin cập nhật, không biết tôi là phần tử có nghi vấn nói với tôi: “Bọn xét lại có ba pháo đài kiên cố là Viện Triết học, Nhà xuất bản Sự Thật và ỷy ban khoa học nhà nước”. Viện Triết có Hoàng Minh Chính, Nhà xuất bản Sự Thật có Minh Tranh, còn ỷy ban khoa học nhà nước thì có Tạ Quang Bửu.
Minh Tranh không bị hạ ngục. Ông được Ðảng ban cho ân huệ được rời bỏ cái ghế giám đốc mà chính ông không thiết tha. Trước khi rời Hà Nội ông tới chia tay với cha tôi. Hai người lững thững đi bộ dọc đường Hai Bà Trưng. Tôi không biết họ nói gì với nhau trong buổi chiều đầy lá rụng hôm đó. Cha tôi đánh giá cao Minh Tranh, coi ông là một đồng chí có học và có tinh thần cách mạng kiên định. Tôi không rõ Minh Tranh đi đâu. Ông biến khỏi thành phố, như rời xa ổ dịch. Không ai nghĩ ông sợ. Mọi người đều hiểu – ông đi vì chán ngán.
Tôi buồn. Tôi ngơ ngác. Tôi không thể hiểu nổi những lời thóa mạ bỗng dưng nổi lên đùng đùng nhằm vào một kẻ thù không biết mặt. Cứ như thể mọi người chung quanh tôi bất thình lình phát điên. Không điên thì không thể nói ra những luận điệu phi nhân như thế với bè bạn, anh em mình. Ðến chủ nghĩa Mác họ cũng chỉ biết bập bõm thì làm sao họ biết được mặt ngang mũi dọc cái chủ nghĩa xét lại chủ nghĩa Mác nó thế nào.
Nhìn sâu vào phong trào chửi bới chủ nghĩa xét lại, tôi rùng mình. Chưa bao giờ tôi chứng kiến một sự hư hỏng trong tâm hồn người như thế. Người ta bới lông tìm vết trong các đồng chí với nhau, người nọ vu cáo người kia, anh này hại anh khác, đấu đá nhau không thương tiếc. May là số đông vẫn cố giữ đạo đức truyền thống. Họ tham gia cuộc đại đấu đá do Ðảng đề xướng một cách vừa phải, chỉ đủ để trình ra cái lập trường không thể thiếu, để cấp trên khỏi quên họ trong những đợt xét lên lương, xét thăng chức. Mỗi người đều có những đứa con phải nuôi, một ngân sách gia đình eo hẹp, tất cả đều bị viêm màng túi, như chúng tôi thường cay đắng tự nhạo báng. Nỗi sợ hãi bị Ðảng nghi ngờ làm cho người ta phải ra sức chứng minh rằng họ trước sau một lòng một dạ trung thành với Ðảng.
Cái sợ được vun trồng, chăm bón nhiều năm đã cho vụ mùa bội thu.
Năm 1963 tôi có viết một kịch bản điện ảnh nhan đề Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên. Nội dung kể chuyện một anh du kích đường sắt trong đêm chót của chiến tranh đã lặn lội đi gỡ trái mìn anh dặt và dự tính sẽ được giật nổ sáng hôm sau. Lệnh ngừng bắn làm đảo lộn kế hoạch của anh. Anh du kích đã mất cả gia đình trong chiến tranh. Anh coi chú bé liên lạc đi cùng anh như con ruột. Hai người bị quân Pháp trong một đồn ven đường phát hiện. Chú bé hy sinh. Vượt qua nỗi đau anh du kích tiếp tục gỡ mìn, thực hiện lệnh trên. Kịch bản được thông qua để đưa vào sản xuất. Những biên tập viên Xưởng phim truyện Hà Nội tâm đắc đoạn cuối tả con tàu dừng lại trước người du kích đường sắt vừa gỡ xong quả mìn. Những người lính Pháp trên chuyến tàu “ngượng nghịu tháo những cái mũ sắt nặng nề xuống, cầm trước bụng bằng hai tay, như cách cầm mũ phớt, đầu cúi thấp trước thi hài người du kích tí hon, người anh hùng đã cứu họ khỏi cái chết cầm chắc…Trước khi là lính, mọi người lính đều là dân”.
Anh Phạm Văn Khoa(6) đề nghị tôi để anh làm đạo diễn. Ðoàn làm phim được thành lập. Tôi được lĩnh một món tạm ứng kha khá cho kịch bản, là của hiếm trong những năm ấy. Kịch bản hoàn toàn phù hợp với tinh thần hướng về nền hòa bình chung và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Những nhà điện ảnh Việt Nam vừa dự Liên hoan phim ở Leiptzig(7) về đã nghĩ tới Giải thưởng lớn hoặc một Huy chương vàng cho nền điện ảnh nước nhà.
Ðùng một cái, tướng Nguyễn Chí Thanh đăng đàn diễn thuyết trong một hội nghị cán bộ trung cao cấp quân đội kịch liệt lên án kịch bản này. Ông tướng nông dân buộc tội tác giả kịch bản trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa nhân đạo chung chung, tính người chung chung bên ngoài tính giai cấp. Giọng điệu của Nguyễn Chí Thanh khi phê phán các tác phẩm văn học không khác giọng điệu Ðài phát thanh Bắc Kinh là mấy.
Bộ phim chưa được quay bị đình lại, coi như xóa sổ.
Hồi ấy Xưởng phim truyện Việt Nam đã cho đánh máy kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên thành nhiều bản để chuyển cho các cơ quan văn nghệ nghiên cứu, hi vọng dùng ý kiến của nhiều nguồn dư luận khác nhau buộc Nguyễn Chí Thanh rút lại ý kiến của ông(8). Nhưng chẳng ai dại gì đối đầu với viên đại tướng nhà quê tự thị trong cảnh loạn lạc của cuộc đấu tranh không biết lối ra ở đâu.
Thời gian này các nhà lãnh đạo bỗng nổi cơn sính văn chương. Các nhà-thơ-lãnh-tụ xuất hiện, lúc đầu còn bẽn lẽn, còn dè dặt, càng về sau càng tự nhiên. Nguyễn Chí Thanh không làm thơ được như Trường Chinh, Lê Ðức Thọ(9) thì làm nhà phê bình. Các tác phẩm vốn đã bị các tên lính gác cổng tư tưởng ở các Nhà xuất bản, các cấp tuyên giáo xét nét duyệt đi duyệt lại, nay lại thêm ông tướng Quảng Lạc(10) nhảy vào soi mói. Lác đác cũng có những tác phẩm không đến nỗi tồi, nhưng chỉ cần trong đó có vài dòng không vừa lòng ông tướng, thế là sấm sét lại nổi lên đùng đùng trên bầu trời văn chương, tác giả của chúng bị đánh tơi tả. Ðó là những trường hợp xảy ra với Hà Minh Tuân (tiểu thuyết Vào Ðời), với Phù Thăng (tiểu thuyết Phá Vây).
Tôi đã đi hơi xa sự kiện trong Hỏa Lò.
Cục trưởng Cục chấp pháp bắt tôi phải chờ đợi một lúc lâu để tôi ý thức được tầm quan trọng của điều y sẽ nói:
– Quyết định mới nhất của Ðảng về việc xử lý vụ của các anh là như sau…
Tôi chẳng bao giờ hiểu nổi khái niệm Ðảng trong những ông cán bộ này. Họ thường nói Ðảng chủ trương thế này, Ðảng quyết định thế nọ, nhưng Ðảng là Ðảng nào – Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban tổ chức Trung ương, hay là đảng đoàn Bộ thì người ta lại không nói rõ. Tại đồng bằng sông Hồng thậm chí tôi còn được nghe một câu nói thế này trong một hội nghị cán bộ xã:”Chúng ta đã cấy hết diện tích theo đúng kế hoạch trên giao xuống trong điều kiện”toàn Ðảng toàn dân ho gà…”. Hóa ra toàn Ðảng có nghĩa là cái Ðảng bé của xã, có khi chỉ là một chi bộ mươi người, chứ không phải cái Ðảng to. Không hiểu cái Ðảng mà ngài cục trưởng đang nói tới có phải là Ðảng to không, hay chỉ là Ðảng bé, Ðảng đoàn Bộ Nội vụ chẳng hạn?
Tôi dán mắt vào mặt y, chờ đợi lời phán quyết của Ðảng.
– Bộ Chính trị đã họp và quyết định để vụ của các anh trong phạm vi nội bộ.
Tôi không tin ở tai mình. Thế tức là chủ trương của cái Ðảng lớn rồi! Không phải của Ðảng bé!
– Do đó – y nói tiếp, cố ý để tôi nuốt từng lời – vụ án sẽ được xử lý nội bộ, coi như mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế, chứ không áp dụng luật pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính…
Chao ôi, chẳng lẽ một sự bắt bớ ồn ào như thế, rùm beng dư luận như thế, để rồi kết thúc lặng lẽ thế này ư? Nhà cầm quyền đã tỉnh, hay là dư luận xã hội đã đánh thức họ?
Xử lý nội bộ có nghĩa là chúng tôi sẽ được thả, sẽ được trở về nhà mình, sau khi phải viết những bản xưng tội, phải đấm ngực mà kêu rên thống thiết mea culpa, mea maxima culpa(11). Một thứ xà lách chỉnh huấn trộn xà lim?
Hãy cảnh giác, không có lẽ mọi chuyện lại đơn giản như vậy.
– Có phải chúng tôi sắp được về? – tôi thọc một mũi thăm dò – Ðảng bao giờ cũng sáng suốt.
– Cái đó tôi không biết – Trúc nhăn nhó – Ðảng sẽ thả các anh hôm nay, ngày mai hay thả lúc nào là do Ðảng quyết định. Mà giá có biết chúng tôi cũng không được phép nói trước khi Ðảng lệnh xuống cho chúng tôi.
Y nói tràng giang đại hải một hồi về chính sách nhân đạo của Ðảng, rằng chủ trương của Ðảng bao giờ cũng nhất quán là trị bệnh cứu người. Vả lại, phòng bệnh hơn chữa bệnh, thậm chí có trường hợp chưa tới mức phải bắt mà Ðảng vẫn bắt thì chẳng qua cũng chỉ nhằm để các anh không đi quá xa. Ðảng đau lòng lắm, y nói, khi phải bắt cán bộ của mình, nhưng trong sự việc cụ thể này những hành động sai trái của chúng tôi đã vượt quá giới hạn mà Ðảng có thể chịu đựng, cho nên Ðảng buộc phải dùng biện pháp giam giữ, tuy nhiên giam giữ thế này cũng không nhằm mục đích nào khác hơn là “giáo dục các anh, để đưa các anh trở lại trong lòng Ðảng…”
Nghĩa là, than ôi, chẳng có gì mới. Chúng tôi vẫn tiếp tục ở tù. Lạy Chúa tôi lòng lành! Ðảng của chúng tôi tốt quá, tử tế quá!
Tôi buồn ngủ. Dù sao con béc-giê của Huỳnh Ngự cũng làm tôi ngủ ít hơn là không có nó. Tôi nói ngủ ít hơn vì đòn đánh của Huỳnh Ngự không gây được hiệu quả mong muốn. Thành xé một mụn giẻ, tước sợi tơi ra như bông, chúng tôi vê lại làm nùi nhét vào lỗ tai, gắng rồi cũng ngủ được.
Tôi cúi xuống, giấu cái ngáp trẹo quai hàm.
– Sở dĩ Ðảng giao việc trông nom các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng…
Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này Ðảng sẽ lần lượt cho hết thẩy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành với chủ nghĩa xã hội hơn.
– Các anh đang làm một công việc rất cần thiết cho Ðảng, đó là: bằng những báo cáo của mình giúp Ðảng củng cố tổ chức, để Ðảng đã vững mạnh rồi còn vững mạnh hơn nữa. Có nghĩa là ngay tại đây các anh cũng có công tác để làm, cũng tham gia chống Mỹ cứu nước.. Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ các anh hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng ta càng được tiến hành khẩn trương bao nhiêu thì Trung ương càng có điều kiện quyết định tương lai của các anh sớm bấy nhiêu. Tôi mong chóng được gặp lại các anh trên những cương vị công tác mới…
Trời hỡi, cứ như tôi là đứa trẻ không bằng! Ban tổ chức Trung ương muốn quăng một mẻ lưới lớn đây. Nhưng sai những con chim mồi ngớ ngẩn đi làm mẹ mìn thì ngu quá!
Viên cục trưởng không nhận thấy cái nhếch mép của tôi.
– Tôi cũng thông báo để các anh được biết: chiếu cố công lao của các anh đối với cách mạng, Ðảng giữ nguyên biên chế cho các anh. Giữ nguyên biên chế có nghĩa là các anh vẫn được hưởng nguyên lương, nhưng gia đình chỉ được lĩnh một nửa, cho tới khi các anh trở về. Mọi tiêu chuẩn cung cấp ở ngoài thế nào ở đây thế vậy, nguyên như trước…Tiêu chuẩn thịt của anh bao nhiêu nhỉ?
– Một cân.
– Hơn cả tôi đấy. Ðường bao nhiêu?
– Cân rưỡi.
– Nhiều thế?
Nghe trong câu hỏi của y có âm sắc khó chịu. Y tiếc cho nhà nước hay ghen tị với tôi?
Tôi lạnh nhạt:
– Ðó là tiêu chuẩn cho phóng viên phải công tác xa tòa soạn trong điều kiện chiến tranh(12)…
– Ra thế! Anh sẽ được hưởng đúng tiêu chuẩn của anh khi còn ở đây, coi như đang công tác xa tòa soạn…
Từ chỗ chúng tôi đang ngồi tới phòng làm việc của tôi tại tòa soạn chưa đầy hai trăm mét tính theo đường chim bay. Theo cách y diễn đạt thì không phải tôi đang ở tù, tôi chỉ công tác xa tòa soạn mà thôi.
Không biết trong những ngày này ở tòa soạn người ta đang nói gì về tôi? Nhiều người thương tôi, tôi biết. Kể cả những người buộc phải nói theo Ðảng rằng tôi là tên phản động. Với nửa lương của tôi vợ tôi khó bề xoay xỏa để nuôi hai đứa con. Khi chưa bị bắt lương tôi đã chẳng ra gì, nhưng hàng tháng còn kiếm thêm chút ít bằng nhuận bút dịch và viết, cũng đỡ. Trong những ngày đó tôi không biết tôi sắp có đứa con thứ ba.
Sau khi cha tôi bị bắt, gia đình tôi được một tổ sản xuất thương binh giúp đỡ. Không hề quen biết riêng cha tôi hoặc tôi, các anh thương binh thời chống Pháp tỏ ra có lòng nhân ái không ngờ. ỏi ngại cho một gia đình cách mạng bị trấn áp, các anh tự tìm đến bàn cách giúp chúng tôi sinh sống. Ðó là một việc mạo hiểm. Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng bị theo dõi ngày đêm. Những người đến thăm đều bị công an hỏi: đến gặp ai, có việc gì, nói những chuyện gì? Các anh chân thật và mộc mạc trong sự phản kháng thầm lặng.
Mẹ tôi lúc đầu còn e dè: hay họ là cá chìm(13)? Chẳng bao lâu sau chúng tôi hiểu ra: tình đồng chí vẫn còn lại trong những con người bình dị.
Các anh đã có mặt bên cạnh gia đình tôi trong suốt thời gian hai cha con tôi nằm trong tù. Chúng tôi mãi mãi coi các anh là ân nhân. Làm sao có thể quên anh Trường cụt một tay một chân, anh Phúc thương tích đầy mình, đã nhường cơm xẻ áo cho chúng tôi trong những ngày khốn khó.
Cho đến ngày tôi bị bắt, chúng tôi đã được lĩnh hai lần tiền công dán túi ni-lông trong hợp đồng mà các anh thương binh nhường cho.
Mẹ tôi đếm tiền, nhẩm tính, rồi vui mừng ra mặt:
– Sống được, các con ạ!
Ðang vui bà bỗng ngẩn người:
– Nếu chúng nó chặn nốt cả đường sống này nữa thì biết làm sao đây? Thời Pháp thuộc mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bịt kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó. Lạy Trời, nếu chúng nó không phá thì các anh ấy giúp được. Mẹ tin các anh ấy, có các anh ấy mẹ thấy yên tâm hẳn. Nhưng nếu các anh không giúp được nữa thì các con phải tự lo, tính trước đi thì vừa…
(1) Quà gia đình gửi vào cho người tù. Gọi bằng tiếp tế trong thời kỳ này rất sát nghĩa, bởi vì phần nhiều quà gửi vào là thực phẩm để cho người tù đỡ đói.
(2) Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng vào thời kỳ đánh xét lại. Trong thư gửi Tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam Trần Minh Việt (Lê Quang Dụ), phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, bị bắt ngày 18.10.1967 có viết:”Hai người trực tiếp tham gia vụ đàn áp này là ông Thành (nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương) và ông Dương Thông (Bộ Nội Vụ)”.
(3) Vào thời kỳ này cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn xô-viết Boris Polévoy đang bị những lý thuyết gia cộng sản Việt Nam phê phán về lập trường tính người chung chung.
(4) Tuyên truyền và giáo dục.
(5) Vào giai đoạn sau Ðại hội XX ÐCSLX, ngành điện ảnh Liên Xô đã cho ra đời nhiều tác phẩm tiến bộ như Ðàn Sếu Bay, Số Phận Con Người, Bài Ca Người Lính…Những tác phẩm này bị các cơ quan tuyên giáo Trung Quốc, Việt Nam tấn công dữ dội. Ðài phát thanh Bắc Kinh dành hàng tháng trời để phê phán chúng.
(6) Nguyên giám đốc Quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh được thành lập năm 1953, tiền thân của ngành điện ảnh Việt Nam, năm 1954 làm giám đốc Xưởng phim truyện Hà Nội, rồi đạo diễn phim truyện.
(7) Một tỉnh thuộc Cộng hòa Dân chủ Ðức (Ðông Ðức), thường được tổ chức các cuộc Liên hoan phim trong các nước xã hội chủ nghĩa.
(8) Sau khi tôi ra tù, vào cuối thập niên 70, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ, giám đốc một trong hai Xưởng phim truyện Hà Nội muốn tiếp tục công việc bỏ dở đã cho người đi tìm kịch bản này, nhưng không tìm ra. Bản thảo bị công an thu khi khám nhà đã không được trả lại.
(9) Trường Chinh có bút danh Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) dùng chính bí danh.
(10) Tướng trong các vở tuồng, khi bước ra sân khấu bao giờ cũng vỗ ngực xưng danh “Như ta đây…!”. Quảng Lạc là một gánh hát thời trước Cách mạng Tháng Tám, sau lập một nhà hát mang tên của gánh tại Hà Nội.
(11) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng (tiếng la-tinh, lời cầu nguyện hàng ngày của tín đồ Thiên chúa giáo).
(12) Vào thời gian này cán bộ được mua nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn hàng tháng như sau: gạo – 13,5kg, thịt 0,3kg, đường 0,5 kg, đậu phụ 1kg, vải 4,5m/năm… Nhưng không phải các hàng tiêu chuẩn đều được mua đúng với tên gọi của chúng: gạo thường được thay bằng ngô hoặc nửa ngô nửa gạo, thịt thường được thay bằng đậu phụ hoặc cá khô vv…
(13) Công an mật.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:43:30 GMT -6
Chương 8
– Nào, ta mần việc, hỉ?
Huỳnh Ngự nói, run rẩy xoa xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ cóng.
Thái độ Huỳnh Ngự mềm mỏng hẳn. Cứ như thể nhờ cấp trên xuống giải quyết chúng tôi đã giảng hòa được với nhau, giờ đã có thể thân mật với nhau được rồi. Tôi thấy cũng nên quên đi cuộc cãi cọ bữa trước. Muốn hay không, tôi vẫn phải làm việc với một tên chấp pháp, mà làm việc với tên mình biết rồi tốt hơn nhiều so với tên mình chưa biết.
Huỳnh Ngự bận rộn bầy ấm chén lên bàn, lấy nước sôi pha trà, ra dáng chủ nhà. Vừa chuyên trà từ chén nọ qua chén kia, y vừa ôn tồn nói với tôi:
– Nè, tui nói anh đừng tự ái, chớ đám nhà văn các anh là chúa hay nghĩ ngợi lung tung. Việc bình thường rơi vào tay các anh là cứ rối tinh rối mù lên không còn biết đâu là đầu đâu là cuối nữa. Còn về lập trường thì ôi thôi, khỏi nói, khi tả khuynh khi hữu khuynh, nói tóm lại dao động lung tung. Trong bọn nhà văn các anh, Nguyễn Ðình Thi(1), Nguyễn Khải được coi là lập trường vững nhất, đúng vậy không?
– Tôi không rõ. Trong giới văn nghệ chưa có bình bầu lập trường. Nhưng cứ tạm coi là vậy đi. Thì sao?
– Vậy mà, tui nói cho anh hay, kể cả mấy anh nớ, cũng không thể làm việc trong cơ quan an ninh tụi tui lấy một ngày. Nói rứa để anh rõ Ðảng lựa chọn người mần chuyên chính vô sản khe khắt ra răng. Cơ quan an ninh tụi tui không lạ chi ba cái lập trường tả hữu bất tường của mấy ảnh… Anh cũng rứa, lập trường cái chi, Ðảng tính cái chi mà vừa bị bắt đã bi quan muốn chết, mất hết lòng tin ở Ðảng. Ðó, anh coi, Ðảng đã có quyết định rồi, có giống như các anh nghĩ mô…
Tôi không hiểu y muốn gì. Tôi lặng thinh.
– Hì hì, nghe trên phổ biến rồi, bữa ni anh còn thắc mắc không? Hết rồi chớ? Có thắc mắc thì cứ phát biểu, Ðảng cho phép các anh nói thẳng, nói thật, nói hết, thì cứ mạnh dạn mà nói. Tui có trách nhiệm giải đáp mọi thắc mắc của các anh, tuốt tuột. Anh phải biết khi tư tưởng chưa thông suốt thì làm việc sẽ khó, khó lắm. Mà ta phải làm sao cho công việc Ðảng giao được tốt nhứt, hiệu quả nhứt. Anh hiểu chớ?
Câu đáp bật ra theo phản xạ tự nhiên, như không phải tôi nói:
– Khoan nói tới chuyện hiệu quả. Trước khi làm việc chúng ta cần phải thỏa thuận với nhau chuyện hôm nọ còn bỏ dở cái đã.
Chà, sao tôi lại thế nhỉ? Tôi đã định bụng quên cái chuyện đôi co bữa trước trong ngày hôm nay rồi kia mà. Có lẽ thái độ coi tôi như trẻ con của Huỳnh Ngự làm tôi phát khùng.
Huỳnh Ngự ngạc nhiên, hay làm ra vẻ ngạc nhiên:
– Chuyện chi hè?
Tôi thấy ái ngại cho y. Y thiệt thòi quá! Ðáng lẽ đương nhiên được gọi bằng ông ngon lành thì y lại đụng đầu với một thằng dở hơi và cù nhầy là tôi để phải mà cả lằng nhằng cả buổi chỉ vì một từ. Mà tôi cũng dở. Quay lại đề tài cũ trong một ngày có điều kiện để không cãi nhau làm gì? Khi bị gọi đi cung tôi đã vạch cho mình cách ứng xử khác. Tôi định bụng nếu có gặp một chấp pháp khác hay gặp lại Huỳnh Ngự thì tôi cũng sẽ không gây sự nữa, mà sẽ mềm mỏng để moi ở người đối thoại những điều tôi cần biết. Không có những tên chấp pháp thì làm sao tôi có thể biết được sự gì đang xảy ra bên ngoài. Nhưng gọi y bằng ông để y gọi mình bằng anh là bất bình đẳng, cũng không được!
Chúng tôi im lặng hồi lâu.
Tôi quyết định rút chân ra khỏi bãi lầy:
– Hay là thế này vậy: gọi bằng anh thì không được, quy định cấm, chính tôi cũng không muốn. Gọi bằng ông thì tôi đã nói rồi, tôi không chịu – nó quá ư bất bình đẳng. Thôi thì, nếu anh không phản đối, chúng ta sẽ chọn một cách xưng hô khác, ở giữa, vừa phải cho cả hai…
– Anh cứ nói.
– Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, tuổi anh nằm giữa hai thế hệ cha tôi và tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng bác xưng tôi, còn bác thì cứ gọi tôi bằng anh là xong. Như vậy tuy không hợp với nội quy cho lắm, nhưng cũng không trái với nó…
Huỳnh Ngự lưỡng lự vài giây. Rồi chặc lưỡi:
– Vậy cũng được.
Rốt cuộc, chúng tôi đã đạt được một thỏa hiệp không đến nỗi tồi. Nếu không chúng tôi còn lúng túng còn lâu, chưa biết khi nào mới thoát khỏi ngõ cụt.
Huỳnh Ngự còn khó chịu một chút, tôi biết. Về phía mình, tôi hài lòng. Ðã đến lúc phải chấm dứt, bằng cách này hay cách khác, cuộc tranh luận vô bổ.
Tôi hiền lành nhìn Huỳnh Ngự, nói bằng giọng yêu cầu được thông cảm:
– Bác đừng buồn tôi, bác Ngự ạ. Con người thường có những nguyên tắc không thể vượt qua. Bác vừa nói đám nhà văn hay nhiễu sự. Cái đó có phần đúng…
– Chu cha, lại còn có phần đúng! – Huỳnh Ngự lườm tôi, nhưng trong cái lườm không có ý ghét bỏ – Ðúng quá đi chớ! Các anh là rứa, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, đã vậy lại còn thích chẻ sợi tóc làm tư, chẻ làm tư rồi còn muốn chẻ làm tám. Rút cuộc đa thư loạn thị, mới hiểu sai đường lối của Ðảng, hiểu sai rồi đâm mất lòng tin. Nghĩ làm chi cho mệt trong khi ở trên đã có Ðảng, có Trung ương nghĩ hộ cho hết trơn hết trọi. Ðảng là trí tuệ, là bó đuốc soi đường, là lương tâm thời đại(2)… Ðảng được võ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, cho nên Ðảng không thể sai lầm. Chúng ta, như anh hùng Lôi Phong bên Trung Quốc đã nói, mà nói rất đúng, chỉ là những cái đinh ốc của cách mạng. Nhưng phải là những cái đinh ốc không rỉ kìa!
Tôi bất giác mỉm cười.
Anh chàng Lôi Phong mà Huỳnh Ngự nói là một anh hùng từ nông dân được những nhà lãnh đạo mao-ít Trung Quốc đôn lên làm anh hùng, làm tấm gương sáng cho cả nước noi theo. Anh chàng gàn bát sách này quyết không đi xe điện để dành hai xu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Anh ta nhặt bàn chải răng người ta vứt đi trong thùng rác, rửa sạch để dùng lại, cũng vì mục đích cao cả đó. Ðể đồng đội khỏi phải đi cả chục cây số đến hiệu cắt tóc, Lôi Phong lấy tiền dành dụm mua cái tông-đơ rồi đè đầu một đồng chí Lý nào đó ra mà cắt. Sau đây là đoạn tôi nhớ gần như nguyên văn trong cuốn sách mang tên anh ta:”Ðồng chí Lý kêu váng lên, nói tông-đơ rứt tóc chịu không nổi. Lôi Phong “bèn mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Ðọc rồi, thông rồi, Lôi Phong thêm quyết tâm, lại tiếp tục cắt. Ðồng chí Lý vẫn kêu la. Lôi Phong vò đầu bứt tai rồi “lại mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Anh tiểu đội trưởng Giải phóng quân là người đề xướng cái thuyết nổi tiếng toàn Trung Quốc rằng mỗi con người trong xã hội phải là cái đinh ốc không rỉ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
– Tất nhiên, mỗi người mỗi nghề, tui không đi sâu, tui không hiểu giới văn nghệ sĩ bằng anh, – mắt kém, Huỳnh Ngự không nhận thấy nụ cười thoảng qua trên mặt tôi – nhưng tui cũng có gặp người nầy người nọ trong đám văn nghệ sĩ chớ, tui cũng hiểu được các anh phần nào chớ. Nói thiệt, tui thấy các anh đông tây kim cổ cái chi cũng biết, nhưng cái chính, cái cốt lõi, là chủ nghĩa Mác vô địch thì, hè hè, các anh lại chẳng nắm được là bao…
– Thì bác chả nói mỗi người mỗi nghề đó sao! – tôi nhấp trà, hiền lành đáp – Bác có nghề của bác, tôi có nghề của tôi, bác thạo nghề của bác, chúng tôi thạo nghề chúng tôi…
Huỳnh Ngự không để cho tôi nói hết câu, y chặt ngang:
– Nhưng trong chế độ của chúng ta thì làm nghề nào cũng vậy, phải lấy chủ nghĩa Mác làm đầu. Nhiều người mắc sai lầm là bắt đầu từ chỗ nớ, từ chỗ không đánh giá đúng tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác vô địch, không chịu học tập chủ nghĩa Mác vô địch, khoa học của mọi khoa học. Nó là kim chỉ nam cho hành động. Chỉ có dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác ta mới nhìn mọi sự được minh bạch, trắng ra trắng, đen ra đen…
Ðĩa hát cũ, chẳng cần nghe cũng biết trong đó có gì.
Không khí trở lại như ban đầu, không còn căng thẳng.
Tôi tận hưởng chén trà ngon đậm đặc trong căn phòng lạnh căm căm, dưới ánh sáng không phải chủ nghĩa Mác mà của ngọn đèn vàng vọt trong buổi sáng ảm đạm. ê ngoài nhìn vào chắc hẳn ai cũng phải nghĩ ở đây có hai người đang dông dài chuyện trà dư tửu hậu.
– Bữa ni ta chưa dùng tới giấy bút. – Huỳnh Ngự đổ bã ấm thứ nhất rồi không vội vã pha ấm thứ hai – Chuyện vãn cũng là một hình thức làm việc, anh có đồng ý vậy không? Nhứt là đối với những người làm công việc trí óc như tụi mình. Uở, râu anh sao mà mọc nhanh quá vậy?
Tôi bất giác đưa tay lên mặt. Ðúng là râu mọc nhanh thật. Tôi chẳng bao giờ có ý định để râu, thành thử chẳng quan tâm tới râu ria. Tôi có thói quen cạo mặt hàng ngày kể từ khi thành đàn ông.
– Cạo đi! Ðể vậy gớm chết đi được!
– Kệ, chẳng sao. – tôi chặc lưỡi – Có phải tôi đang ở nhà mình đâu. Cũng chẳng có việc gì phải ra phố.
Huỳnh Ngự sững một giây, nghĩ xem có phải tôi định nói xỏ không.
– Ðể tui kêu quản giáo cắt tóc cho anh. Tóc cũng tốt rồi. Hôm nay anh cạo đi cái đã, tui sẽ đưa dao bào cho anh.
– Cảm ơn.
Huỳnh Ngự đưa tôi tới cửa ngách. Nó mở ra một mảnh sân tí din, nơi ri rỉ một vòi nước hỏng van. Chỉ cần động khẽ vào cái vòi là nước chảy tung tóe, nhưng không dễ khóa nó lại. Muốn khóa nó phải vặn nhẹ nhàng cho tới khi nước ngừng chảy, nín thở mà hãm nó tại đúng vị trí ấy rồi rón rén đi ra. Tôi tranh thủ rửa mặt mũi chân tay cho thoải mái trong khi chờ viên quản giáo đi lấy dao cạo.
Mảnh sân tiếp giáp với tường Hỏa Lò, mặt quay ra đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ðứng bên vòi nước tôi nghe rõ mồn một tiếng bánh xe đạp lăn trên mặt đường nhựa, tiếng người lao xao. Chao ôi, giá mà lúc có được mảnh giấy trong tay nhỉ! Tôi sẽ viết mấy dòng nhắn tin cho gia đình rồi lợi dụng một phút sơ hở của Huỳnh Ngự, xin ra rửa ráy và ném nó qua bức tường kia. Người nhặt được sẽ đem mẩu thư tới cho gia đình tôi. Tôi tin vẫn còn nhiều người tốt bụng. Nhưng trong tay tôi chẳng có mẩu giấy nào, chẳng có cái bút nào.
– Nè, dao bào đây, cạo đi!
Nhìn thấy con dao tim tôi thắt lại.
Tôi nhận ra nó, con dao cạo cũ mà lớp kền mạ đã bong từng mảng. Ðó là con dao của cha tôi. Ông dùng con dao nhãn hiệu Gillette này đã nhiều năm.
Nghĩa là cha tôi đang ở đây, ngay trong Hỏa Lò này. Nghĩa là tin đồn ông bị Ðảng giữ tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi là tin vịt. Bằng việc cho tôi thấy con dao, Huỳnh Ngự muốn tôi hiểu một điều: nếu cha tôi cũng đang ở Hỏa Lò, thì điều đó có nghĩa là Ðảng đã thẳng tay trừng phạt, không chiếu cố gì hết. Không có chuyện người ta nể nang gia đình cách mạng mà nương nhẹ cho cha con tôi. Chúng tôi chỉ có một con đường: đầu hàng, chịu khuất phục.
Tôi điềm tĩnh cạo mặt, cố tình không cho Huỳnh Ngự được hí hửng thấy kết quả dự liệu. Thậm chí tôi còn khe khẽ huýt sáo.
Trả lại Huỳnh Ngự con dao, tôi hồn nhiên nói:
– Bác có biết không, cạo mặt sướng nhất là dùng loại dao cạo này, nhưng lưỡi phải đúng là lưỡi Gillette, và phải nhúng dao vào nước thật nóng kia, lúc ấy râu cứ đi êm như ru.
– Vậy hả?
Huỳnh Ngự chưng hửng.
Càng thấy rõ việc tôi nhìn thấy tướng Ðặng Kim Giang chẳng phải là ngẫu nhiên. Huỳnh Ngự dựng vở, có điều y là đạo diễn vụng… Y muốn đánh tiếng cho tôi biết đến những bậc lão thành cách mạng, thành tích đầy mình, vào đây rồi cũng đành chịu tho, huống hồ tôi.
Cái gọi là xử lý nội bộ của Ðảng là thế. Nó không hơn một lời hứa suông nhằm moi ở chúng tôi lời nhận tội theo ý muốn. Cụm từ xử lý nội bộ chỉ tô đậm thêm tính chất phi lí của vụ án do Ðảng làm. Ðảng, mà lại làm án đã là phi lý rồi. Chẳng Ðảng nào có quyền lập án, xử án cả.
– Tui mừng cho anh. – Huỳnh Ngự đặt tay lên vai tôi – Nếu Ðảng đã quyết định để vụ này trong nội bộ có nghĩa là ở đây không có mâu thuẫn địch ta, mâu thuẫn đối kháng, mà chỉ có mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi. Anh thấy chưa? Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào người cộng sản cũng cứ phải tin tưởng ở Ðảng. Ðảng bao giờ cũng anh minh, cũng sáng suốt. Ðã bảo là không phải mâu thuẫn địch ta thì tức là mâu thuẫn trong nhà với nhau, Ðảng chỉ giơ cao đánh sẽ, ví như cha mẹ thấy con cái hư thì phải đánh, chớ đánh con mình lòng cha mẹ cũng đau đớn lắm…
Tội nghiệp cho Ðảng quá!
Tiếp theo Huỳnh Ngự cho chạy đĩa hát khác về các loại hình mâu thuẫn được Mao Trạch-đông tổng kết trong trước tác Bàn Về Mâu Thuẫn. Tôi đã đọc cuốn này qua bản viết lại theo cách Việt Nam cho dễ hiểu của Hồ Chí Minh. Ðối với Mao, đó là cẩm nang chia để trị dành cho các giáo đồ, phân biệt các loại kẻ thù lớn bé, xa gần, các loại đồng minh lâu dài và giai đoạn. Nó là một chương trong bộ Sấm truyền mao-ít.
Huỳnh Ngự không phải là ngoại lệ trong lớp cán bộ cỡ gia nhập cách mạng theo phong trào, tiến thân bằng lý lịch. Vỗ ngực khoe thành phần cơ bản, hợm hĩnh với những ưu đãi tinh thần được Ðảng ban phát, những loại cán bộ này luôn phô ra, một cách rất hoạt kê, vốn hiểu biết nghèo nàn của họ bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Họ vênh vang tự đắc về những hiểu biết chỉ riêng họ mới có. Các lãnh tụ – những người độc quyền chân lý – bao giờ cũng dành cho họ những suất chân lý lớn hơn hẳn lũ thần dân bên dưới. Không hiếm lần chúng tôi phải chầu chực ở nhà ông chủ nhiệm tờ báo để được nghe ông nói lại những gì ông được trên phổ biến. Thông thường, mỗi khi có những sự kiện lớn hoặc chính sách mới ban hành thì Trung ương phổ biến cho cấp tỉnh, cấp tỉnh phổ biến cho cấp huyện, cứ thế chân lý của Ðảng đi lần lần xuống đến người cuối cùng trong bậc thang xã hội.
Xã hội Việt Nam trong những năm ấy là xã hội khép kín. Một lỗ thủng để dân chúng có thể nhòm được ra ngoài là sơ suất của ngành an ninh, là trọng tội đối với kẻ đã dám khoét cái lỗ thủng đó hoặc phát hiện ra nó để sử dụng.Mọi thứ sách báo nước ngoài đều là sách báo địch, mọi thứ đài nước ngoài đều là đài địch, trừ các sản phẩm văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau Ðại hội XX ít lâu, sách báo Liên Xô và các nước Ðông Âu cũng bị cấm nốt, cũng bị coi là những sản phẩm văn hóa độc hại(3). Tin của Việt Nam Thông tấn xã cũng chia làm nhiều loại: loại thường, loại mật và loại tối mật. Loại thường là tin tức trong nước, tin nước ngoài được biên soạn lại cho sự sử dụng rộng rãi. Cán bộ cấp cao được đọc tin mật, hoặc tin tối mật. Tin mật và tối mật, không phải lấy từ kho tin tình báo mà lấy từ các đài phát thanh nước ngoài, vẫn là thứ bị cấm ngặt, không ai được nghe. Cán bộ thấp, cấp cơ sở hoặc dân thường thì nghe loa truyền thanh cũng đủ. Người dân, không trừ cả giới trí thức, trí thức kỹ thuật hay trí thức nhân văn thì cũng thế, chỉ còn cách tự túc món ăn tinh thần bằng những câu chuyện ngồi lê đôi mách.
Ngu dân là chính sách không của riêng Việt Nam. Chỉ sau Ðại hội XX người dân xô-viết mới được biết đến Giã Từ Vũ Khí của Ernest Hemingway, Chùm Nho Nổi Giận của John Steinbeck(4). Ðến cả thơ của Esenin(5) cũng bị cấm trong thời gian dài, người Nga chỉ được đọc thơ ông qua các bản chép tay. Vào năm 1957, khi thơ Esenin được xuất bản, trước mỗi cửa hiệu sách là những dòng người xếp hàng rồng rắn cả cây số. Tôi cũng phải xếp hàng cả nửa ngày để mua cuốn Bút Ký Triết Học của Lênin trong thời kỳ này.
ê Việt Nam kiến thức được chia thành hai loại: chính thống và phi chính thống. Người giám định văn hóa duy nhất có thẩm quyền là Ðảng, hiện thân trong cái gọi là Ban Tuyên-Giáo, Ban Tuyên-Huấn, Ban Khoa-Giáo, Ban Văn hóa-Tư tưởng vv. Những gì không được các Ban nói trên cho là chính thống thì nhân dân không được dùng. Cho nên những vụ đốt sách Victor Hugo, Shakespeare, Guy de Maupassant, Molière…đập đĩa nhạc của Beethoven, Verdi, Mozart(6),… được lặp đi lặp lại nhiều lần không phải chuyện lạ. Nhà cầm quyền không muốn nhân dân được biết những gì họ không muốn cho biết. Và ở đây, một nghịch lý nảy sinh: trong khi các lãnh tụ ngủ yên trên chức vị, thì nhân dân ngày một trưởng thành về nhận thức do sự học hỏi vụng trộm, còn các vị thì mỗi ngày một lùn thêm trong mắt họ.
– Tôi muốn hỏi bác câu này.
– Ðược, anh cứ hỏi.
– Theo bác, chừng nào tôi sẽ được về nhà với vợ con?
Huỳnh Ngự lắc đầu:
– Cái nớ tui không trả lời được. Cái nớ phụ thuộc ở anh nhiều hơn ở tui. Căn cứ thái độ của anh mà Ðảng sẽ cho anh về lúc nào.
– Tôi chắc cũng không lâu nữa đâu.
– Căn cứ nơi mô mà anh nghĩ rứa?
– Thì căn cứ vào quyết định của Ðảng mà cấp trên vừa phổ biến đó. Ðảng đã nói rõ: đây là mâu thuẫn trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, Ðảng không áp dụng luật pháp cũng như các biện pháp hành chính…
– Ðúng vậy!
– Nhưng đó là đối với các đảng viên của Ðảng thôi chứ! Tôi không phải đảng viên thì Ðảng giữ tôi làm quái gì? Ðã không phải là đảng viên thì lẽ đương nhiên tôi không phải chịu bất cứ kỷ luật nào của Ðảng…
Huỳnh Ngự ngớ ra. Câu hỏi và cách suy luận ngây ngô của tôi đưa y vào ngõ cụt.
– Vả lại, theo thiển ý của tôi, Ðảng cho bắt đảng viên thế này cũng là vạn bất đắc dĩ, Ðảng không nghĩ được cách nào khác nên mới làm như thế. Nó không đúng Ðiều lệ. Kỷ luật cao nhất đối với đảng viên chỉ có khai trừ là hết, không thể có chuyện bắt giam. Chẳng riêng điều lệ Ðảng ta, các đảng phái khác cũng vậy.
– Anh lý sự gớm.
– Cho nên Ðảng mới có quyết định vừa rồi. Thả ra là phải. Nếu các đảng viên còn được thả thì dĩ nhiên, là người ngoài Ðảng, tôi phải được thả sớm hơn họ…
– Cái nớ thì tui lại không dám khẳng định. Các hình thức kỷ luật của Ðảng không phải là bất di bất dịch. Ðảng linh hoạt trong đối sách, luôn sáng tạo những hình thức đấu tranh mới, kể cả trong lãnh vực đấu tranh tư tưởng…
Y đối đáp kể cũng giỏi. Y có cái lô-gích của y. Nhưng cách y phát triển lô-gích mới tài. Y bảo:
– Còn chuyện anh bị bắt cùng các đảng viên thì anh nghĩ thử coi, nghĩ kỹ chút thì hiểu liền à? Anh tham gia cách mạng từ lúc còn là đứa trẻ, đúng vậy không hè?
– Nếu tính cả những việc mà cha tôi và các bạn ông sai tôi làm hồi bí mật là tham gia cách mạng thì đúng thế…Còn nếu tính từ ngày tôi ăn cơm của cách mạng, lĩnh phụ cấp của cách mạng để làm việc cho cách mạng thì có thể tính từ năm 1946 khi tôi gia nhập một đội tuyên truyền xung phong ở Nam Ðịnh.
Huỳnh Ngự cười hì hì:
– Thấy chưa? Tui là tui nắm lý lịch anh rõ lắm. Anh đã ở trong hàng ngũ cách mạng từng ấy năm, từng ấy năm anh chiến đấu dưới lá cờ của Ðảng, được Ðảng giáo dục, bồi dưỡng để trở thành trí thức cách mạng như bây chừ, cho nên Ðảng mặc nhiên coi anh như đảng viên. Anh phải lấy làm hãnh diện mới phải. Còn bây chừ có khuyết điểm thì Ðảng lại giáo dục cho tốt lên. Sửa chữa xong khuyết điểm thời lại về với Ðảng.
Ngụy biện đến nước ấy là cùng!
Tôi không cãi. Tôi còn nghịch ngợm đeo lên cho tôi cái mặt nạ xúc động nữa kia. Thử nghĩ mà xem, có thể nào không xúc động cho được khi Ðảng dành cho mình vinh dự lớn đến thế! Nếu mang cái cuộc đối thoại kỳ cục đó nhào nặn thành một truyện ngắn kiểu Azis Nexin(7) thì ắt hẳn phải đặt cho nó cái tên: Tôi Ðược Coi Như Ðảng Viên Của Ðảng Vĩ Ðại Như Thế Nào.
Tôi không còn gì để nói nữa. Câu chuyện vãn cho một ngày làm việc đến đó kết thúc được rồi.
– Bữa ni có vậy thôi, anh về nghỉ. – Huỳnh Ngự đứng lên, vuôn vai nặn ra một cái ngáp thân mật – Quên, còn chuyện thuốc lá cho anh. Tui đã báo cơ quan anh gởi tiêu chuẩn trà thuốc của anh vô, không hiểu sao chưa thấy gởi… Ðợt cung cấp nầy hơi chậm. Cơ quan tui cũng rứa hà, bữa đực bữa cái, thời chiến mà…Anh cầm tạm bao nầy về hút cho đỡ ghiền.
Trong suốt buổi gặp gỡ Huỳnh Ngự nhiều lần nhả khói thuốc về phía tôi nhưng không thấy phản ứng y muốn thấy. Bao thuốc để trên bàn, trước mặt tôi, không được tôi đụng đến.
– Cảm ơn. Tôi đã quyết định không hút nữa là không hút.
Huỳnh Ngự điềm nhiên bỏ bao thuốc vào túi.
– Còn việc nầy nữa! Anh Hoàn(8) sẵn sàng cho anh gặp. Anh có đề nghị được gặp anh Hoàn không?
– Không! Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có gì để nói với ngài bộ trưởng.
Cách gọi Trần Quốc Hoàn bằng ngài rõ ràng chướng tai Huỳnh Ngự, nhưng lần này y không bắt bẻ. Nếu cái gì cũng bắt bẻ chắc y chẳng còn thời giờ nào làm việc với tôi về những chuyện khác.
– Tùy anh.
Chúng tôi chia tay, lần này không giống như những kẻ thù, nhưng cũng không phải là những người bạn.
Tôi trở về xà lim, lòng trĩu nặng. Bỏ ra ngoài tính chất bất cần đời pha chút tinh nghịch cố hữu đã giúp tôi sống qua mấy ngày tù đầu tiên, tôi thấy trước mặt một tương lai xám xịt. Không thể nói trước cái gì sẽ đến với chúng tôi. Xử lý nội bộ chỉ là một cách nói. Họ chẳng dại gì mang chúng tôi ra xử công khai. Họ thừa hiểu chúng tôi là người thế nào. Họ sợ khi có diễn đàn chúng tôi sẽ vạch trần tội ác của họ, vạch trần sự lộng quyền đã mang lại những tai họa cho dân tộc, cho đất nước. Cho dù sau đó là pháp trường hoặc thủ tiêu.
“Con người là một sinh vật kỳ lạ. Chỉ mình nó thích nghi được với mọi hoàn cảnh”, Dostoevsky vĩ đại đã nói như thế trong Hồi Ký Nhà Chết(9). Quả nhiên, rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống bị giam cầm. Nói quen thì không đúng, tôi dần thích nghi được với nó, hơn nữa còn thích nghi được một cách không đến nỗi quá khổ sở.
Tôi tự khẳng định rằng một khi đã sa vào tay bọn độc tài thì đừng hi vọng được chúng rủ lòng thương. Những tên độc tài ở mọi thời đại, mọi quốc gia đều giống nhau. Chúng hoặc là những tên vị kỷ đến cùng cực, trong trường hợp tốt hơn cũng là những tên cuồng tín thâm căn cố đế. Chúng sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng của người khác để thực hiện mục đích. Thảng hoặc cũng có những tên độc tài có công làm cho quốc gia trở nên thịnh vượng trong thời điểm nào đó. Nhưng những cái tưởng chừng là công trạng ấy chẳng gột sạch được tội ác của chúng khi vinh quang của chúng được xây dựng trên những núi xác chết và những đại dương bi kịch.
Không thể so sánh bi kịch của cá nhân với bi kịch của một quần thể, một dân tộc, để nói rằng bi kịch cá nhân không có ý nghĩa. Bi kịch nào cũng là bi kịch. Mỗi con người cảm nhận bi kịch của mình cụ thể hơn bi kịch của số đông và vì thế nỗi thống khổ của một cá nhân là nỗi thống khổ cần được chia sẻ trong tình nhân ái.
Thành lồm cồm bò dậy đón tôi:
– Về sớm thế?
– Họ bảo đi thì đi, họ bảo về thì về. Anh có phải đi đâu không?
– Không.
Thành trả lời, tránh cái nhìn của tôi. Tôi thấy anh lúng túng. Không hỏi thêm, tôi lẳng lặng về chỗ mình.
Nếu người ta bắt tên chỉ điểm gặp họ để báo cáo về tôi thì gọi y ra vào lúc tôi đi cung là tiện nhất.
– Ăn đi, cơm canh nguội ngắt rồi.
Thành bối rối đẩy suất cơm tù đến trước mặt tôi.
Tôi ngồi xuống, xếp chân bằng tròn trước khổ hình hàng ngày.
(1) Nhà văn, nhạc sĩ, nhà thơ, nổi tiếng với những tác phẩm Xung Kích, Sống Mãi Với Thủ Ðô…Ông là một nhà văn hàng đầu trong đội quân Văn nghệ của Ðảng.
(2) Câu chữ của Phạm Văn Ðồng.
(3) Giới thạo tin kể rằng chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosyghin (1904-1981) trong cuộc hội đàm với thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng năm (1965?) đã hỏi thẳng về chuyện báo chí Liên Xô bị cấm bán. Thủ tướng Phạm Văn Ðồng chối. Kosyghin đề nghị ngừng hội đàm để cả hai cùng đi ra phố xem hư thực ra sao thì Phạm Văn Ðồng thoái thác. Ðể giữ hòa khí với nước đàn anh, người ta vẫn mua sách báo Liên Xô với khối lượng lớn như trước, nhưng chở thẳng đến các nhà máy giấy để tái chế.
(4) Ernest Miller Hemingway (1899-1961), nhà văn Mỹ nổi tiếng. John Ernst Steinbeck (1902-1968), nhà văn Mỹ nổi tiếng, giải thưởng Nobel.
(5) Nhà thơ trữ tình (Nga).
(6) Victor Marie Hugo (1802-1885), William Shakespeare (1564-1616), Jean Baptiste Poquelin Molière (1622-1673), Guy de Maupassant (1850-1893), Ludwig Van Beethoven (1770-1827), Volfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Giuseppe Verdi (1813-1901)… – các nhà văn, nhà soạn kịch, nhạc sĩ nổi tiếng thế giới.
(7) Nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ, nổi tiếng trong độc giả Việt Nam với tập truyện Nếu Tôi Là Ðàn Bà.
(8) Trần Quốc Hoàn.
(9) Fiodor Mikhailovich Dostoevsky (1821-1881), nhà văn nổi tiếng của Nga cuối thế kỷ XIX, tác giả Tội ác và trừng phạt, Thằng ngốc, Anh em nhà Karamazov… Mấy năm trước đó tôi có dịch cuốn Hồi Ký Nhà Chết theo kế hoạch Nhà xuất bản Văn hóa. Bản thảo đã chuẩn bị xong, nhưng cuốn sách không được phép in vì Dostoevsky bị Maxime Gorky nhận định là “một thiên tài độc ác”.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:45:46 GMT -6
Chương 9
Chiến thắng Cao-Bắc-Lạng (1950) không chỉ xóa sổ hai binh đoàn cơ động Le Page và Charton, giải phóng một vùng rừng núi rộng lớn, nó còn mở tung cửa biên giới phía Bắc, chấm dứt tình trạng cô lập của nước Việt Nam kháng chiến.
Ngay lập tức sau khi biên giới hai nước được nối liền, người anh em cộng sản phương Bắc đã viện trợ cho nước Việt Nam kháng chiến đủ thứ – lương thực, vũ khí, quân dụng. Cùng với các thứ hàng hóa thiết yếu, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hẳn lên với những điệu Ương ca tưng bừng, những buổi chiếu bóng lưu động ngoài trời với những bộ phim hấp dẫn: Bạch Mao Nữ, Nam Chinh Bắc Chiến, Chiến Sĩ Gang Thép…Chúng tôi được phát bát men, ca men thay cho cái gáo dừa khổ hạnh của nhà chùa. Trên ngực chúng tôi chói sáng huy hiệu Mao chủ tịch.
Chẳng bao lâu sau tôi phát hiện ra rằng kèm theo những niềm vui mới, sự nối liền biên giới Việt-Trung còn đem đến cho chúng tôi những điều khó chịu.
Ðập vào mắt chúng tôi là sự phân biệt phẩm trật kỳ cục trong Giải phóng quân. Ðàng sau khẩu hiệu “tất cả để phục vụ cách mạng”, những anh lính trơn và hạ sĩ quan sống như trâu ngựa, cúc cung tận tụy phục vụ cấp trên, bảo gì làm nấy, như những cái máy. Cuộc cách mạng Việt Nam khởi đầu bằng một lối sống khác hẳn, làm cho chúng tôi sững sờ trước những cảnh tượng khó hiểu nọ. Chúng không phải chỉ khó hiểu mà còn khó chịu. Chúng tôi không phải quá ngu để không thấy được Ðảng Việt Nam hoàn toàn tin theo hình mẫu Trung Quốc, do đó nếp sống của quân đội Trung Quốc anh em sẽ là nếp sống tương lai của quân đội Việt Nam.
Thời kỳ này tôi đang theo học khóa 6 Trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Ðây là nơi quân kỷ quân phong được tôn trọng và thi hành khắt khe hơn hẳn ở các đơn vị khác, quân chính quy cũng như quân địa phương.
Nhưng kỷ luật sắt của bộ đội Việt Nam không có gì giống trật tự phong kiến trong quân đội nước bạn. Như ở mọi đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng tôi sống với nhau như trong một gia đình lớn, không có sự phân biệt sĩ quan với học viên, ăn cùng mâm, nằm cùng lán, mọi tiêu chuẩn gần như ngang nhau. Những cái đó không có trong Giải phóng quân Trung Quốc, ít nhất thì cũng trong các đơn vị Giải phóng quân đầu tiên qua Việt Nam.
Lần đầu tôi được thấy tận mắt trong quân đội cách mạng cũng có lính hầu là ở trạm Quảng Nạp, một trong cửa ngõ vào ATK(1) từ ngả Thái Nguyên. Trước đó tôi không bao giờ hình dung có người đi làm cách mạng chỉ để hầu ai đó. Trong quân đội Việt Nam cũng có các vệ sĩ, hồi mới kháng chiến còn gọi là gác-đờ-co(2) nhưng họ hoàn toàn không phải là lính hầu. Cơn sốt rét rừng bất chợt buộc tôi phải nằm lại trạm này đã cho tôi có dịp quan sát mấy đoàn cố vấn Giải phóng quân đi ngang. Những cố vấn Trung Quốc, thường là cấp tướng, đến Việt Nam mang theo cả đoàn lính hầu nhộn nhịp, nào bảo vệ, nào cần vụ, nào cấp dưỡng, nào giám mã. Khi cố vấn lên đường công tác, anh cấp dưỡng quảy nồi niêu xoong chảo lên vai, anh cần vụ lỉnh kỉnh chăn màn gối đệm trên vai, anh giám mã chạy tới cúi gập mình xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng mình mà leo lên ngựa. Cố vấn đến nơi cần nghỉ ngơi thì cần vụ kê giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa mặt rửa chân, cấp dưỡng te tái lo nấu cơm nấu nước, bảo vệ lăm lăm súng đứng gác, giám mã te tái đi cắt cỏ ngựa. Răm rắp, răm rắp, không chê vào đâu được.
Nhìn cảnh đó tôi vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm. Có lẽ không có quân đội nào trên thế giới có thứ lính hầu khốn khổ khốn nạn như lính cần vụ Trung Quốc.
Ăn uống trong quân đội Trung Quốc cũng phân biệt rõ rệt theo cấp bậc, hay nói cho đúng hơn, theo đẳng cấp. Lính trơn cho tới cấp chỉ huy trung đội thì ăn tiêu chuẩn đại táo, tức là mức ăn phổ thông, thấp nhất. Trên đại táo là trung táo, dành cho cấp chỉ huy đại đội tới tiểu đoàn. Tiểu táo là mức ăn dành cho cấp trung đoàn trở lên. Cao nhất là đặc táo, dành riêng cho các nhà lãnh đạo, để đãi khách, bữa nào cũng như tiệc.
Nỗi kinh ngạc của chúng tôi kéo dài không lâu – cả về mặt này quân đội Việt Nam cũng nhanh chóng tiếp cận quân đội đàn anh. May mắn thay, cái sự phân biệt các thứ táo tồn tại không lâu, và ở mức độ thấp hơn nhiều. ê ngoài mặt trận không ai dám liều lĩnh sao chép nguyên bản cái trật tự đẳng cấp kỳ cục ấy. Trước mặt người lính là kẻ thù xâm lược, người lính có thể nổi giận. Mà ở chiến trường thì chẳng ai biết được người lính nổi giận sẽ hành động thế nào. Ðiều chắc chắn là sức chiến đấu của quân đội sẽ giảm sút.
Tiếp đến là chỉnh huấn. ê quê hương nó, nó mang tên chỉnh phong, gọi tắt cuộc vận động chỉnh đốn tam phong: học phong, văn phong, Ðảng phong trong Ðảng cộng sản Trung Quốc(3). Chỉnh huấn là chuyện hết sức lạ lùng đối với chúng tôi, những chàng trai học trò vừa xếp bút nghiên lên đường kháng chiến. Cứ đinh ninh rằng mình cũng tựa những tráng sĩ thời xưa, thanh gươm yên ngựa ra sa trường. Ðến chỉnh huấn mới ngã ngửa ra rằng không phải: đi theo cách mạng trước hết là để cải tạo những tư tưởng thối tha, bao giờ cũng sẵn có trong mình như một thứ tội tổ tông truyền. Phải cải tạo tư tưởng để xứng đáng là người của Ðảng, của xã hội mới. Người ta giảng cho chúng tôi: tất cả ưu điểm các anh có được là nhờ ơn Ðảng, nhờ ơn cách mạng. Tất cả khuyết điểm các anh mang trong mình là do phong kiến, đế quốc truyền cho.
Nhờ chỉnh huấn chúng tôi mới biết ngoài thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai, chúng tôi còn một lũ một lĩ kẻ thù khác. Hi vọng rồi đây sẽ có người viết kỹ về chỉnh huấn, bởi vì không thể nói ngắn về nó được. Không nói kỹ về chỉnh huấn thì không thể hiểu được cái cơ địa tâm thần của vài thế hệ cách mạng, không giải thích được vì sao con người Việt Nam có thể trở thành ù lì trong mấy thập kỷ như vậy được. Ðọc báo chí phương Tây tôi buồn cười thấy họ hiểu biết quá kém về cái trò chỉnh huấn mà họ gọi là tẩy não.
Tôi được biết chỉnh huấn vào năm 1951, trong một hội nghị cán bộ Liên đoàn Thanh niên Việt Nam. Trong hội nghị này Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam ra đời, thay cho Ðoàn Thanh niên Cứu quốc trước nó, trong vai trò trợ thủ và hậu bị của Ðảng, trên ngực mỗi đoàn viên từ nay sẽ sáng chói huy hiệu tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên do họa sĩ Tôn Ðức Lượng vẽ. Cuộc chỉnh huấn được tổ chức ngoài chương trình được thông báo trong công văn triệu tập. Những cán bộ vừa dự chỉnh phong ở Hoa Nam về làm hướng dẫn viên(4). Những người vừa qua một cuộc đại tẩy não bên nước bạn rất nghiêm nghị, ít cười nói, trong bộ đồng phục cán bộ Trung Quốc, với cây bút Kim Tinh gài trước ngực, với cuốn sổ tay có hình Mao chủ tịch phương phi.
Thoạt đầu hướng dẫn viên giới thiệu một số tài liệu – bài giảng của Mao Trạch-đông, Lưu Thiếu-kỳ, Ngãi Tư-kỳ dành cho cán bộ… Sau đó, mỗi học viên liên hệ những điều học được với tư tưởng và hành động của bản thân, đưa những thu hoạch ra trình bày trước tổ để tập thể góp ý, phân tích, phê phán. Chúng tôi lén gọi những buổi phê phán là những tự xỉ vả. Ai tự xỉ vả nhiều được coi là thành khẩn. Những bản cung khai tội lỗi xuất sắc nhất được báo cáo trước toàn hội nghị, gọi là báo cáo điển hình.
Vắt óc mãi không nghĩ ra tội gì khả dĩ coi được, tôi bộc lộ rằng tôi thương địa chủ, tôi lén lút đem khoai lang cho mấy đứa con kẻ thù đói lả; tôi có tư tưởng sợ địch khi nhìn thấy trong tờ Paris Match ảnh chụp hàng đàn máy bay với những trái bom bay ra như trấu vãi. Mặc dầu đã tố thêm cho ra vẻ thành khẩn, tội lỗi của tôi vẫn chưa ăn thua gì với tội lỗi những người cùng tổ: họ bộc lộ cha mẹ là phú nông, địa chủ; có anh bộ đội khai đóng quân ở đâu là hủ hóa(5) ở đó, có anh còn khai đã ngủ với em ruột… Học viên vận dụng kiến thức vừa học được xỉ vả thậm tệ những người bộc lộ. Nào là với tư tưởng bóc lột của cha mẹ truyền lại đồng chí không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Nào là hủ hóa với con gái nông dân lao động có khác nào con hủ hóa với mẹ vân vân và vân vân. Nói chung, sự suy diễn theo luật tam đoạn được tha hồ đẩy tới phi lý. Tôi nhớ mãi một buổi báo cáo điển hình, khi một anh chàng hùng hổ đứng lên xơi xơi xỉ vả người báo cáo:”Ðồng chí có biết với tư tưởng như thế, với hành động như thế, đồng chí là cái giống gì không? Ðồng chí là… là… con chó, là con chó ghẻ…., con chó ghẻ lang thang…trên…trên…” Ðến đó anh ta ngắc ngư mãi không tìm ra đoạn tiếp cho câu ví. Thế rồi đánh liều, anh ta nói một hơi: “…lang thang trên…cánh đồng… cánh đồng xanh”.
Tôi nhìn quanh. Mặt người nào người nấy đỏ lựng. Không phải vì căm thù tư tưởng địch, mà vì nhịn cười.
Thâm ý của các tác giả chỉnh huấn, theo tôi nghĩ, nhằm làm cho con người tự ti đi, hạ mình xuống mức thấp nhất bên cạnh Ðảng cao vòi vọi, đấng cứu thế vô song, để trở thành dễ trị.
Cái mớ tạp pí lù made in China ngày một lớn sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Một phái bộ Trung Quốc với La Quý Ba (cố vấn tối cao về chính trị), Vi Quốc Thanh (cố vấn tối cao về quân sự) đặt bản doanh tại Việt Bắc, tham gia vào mọi công việc của ban lãnh đạo Ðảng (La Quý Ba và Vi Quốc Thanh còn tham gia các cuộc họp của Bộ Chính trị) khẳng định thêm vị trí hình mẫu Trung Quốc trong đời sống của khu kháng chiến. Họ đều có mặt trong những bức ảnh cha tôi giữ, với ông Hồ, với Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh.
Tôi nói lại chuyện cũ để giải thích việc đang xảy ra trong Hỏa Lò.
Ðùng một cái, Huỳnh Ngự bảo tôi:
– Ta ngừng công việc. Anh viết lý lịch cái đã.
Lại lý lịch! Tôi muốn kêu trời. Chúng bắt tôi viết lý lịch làm gì khi chúng có thể lấy lý lịch cán bộ của tôi tại cơ quan?
Cần phải làm dân Trung Quốc hoặc Việt Nam mới biết đến tận cùng nỗi bực mình do chứng lý lịch cuồng gây ra. Trước hết, đó là cái sự phải khai không chỉ cuộc đời mình, cha mẹ anh em mình, mà cả chú bác cô dì nội ngoại, khai đầy đủ chi tiết họ tên, thành phần, nghề nghiệp, trước cách mạng làm gì, ở đâu, sau cách mạng làm gì, ở đâu vân vân. Những thế hệ đã nằm yên dưới mộ cũng bị dựng dậy để khai trước Ðảng họ là ai.
Mà có phải viết một lần là xong đâu. Thỉnh thoảng lại có lệnh viết lại lý lịch, không biết để làm gì. Trong kháng chiến lý lịch bị mối xông phải viết lại đã đành, hòa bình rồi vẫn viết và viết. Thuyên chuyển công tác – viết, chuyển cơ quan – viết, đi học nghiệp vụ – viết, vào Ðoàn(6) – viết, vào Ðảng – viết. Ðể khỏi phải viết quá nhiều, tôi nhờ cô văn thư cơ quan đánh máy sẵn cho một tập. Khốn nỗi người ta lại không nhận lý lịch đánh máy mới cực.
Tôi còn khổ với sự khai lý lịch ở chỗ tôi cảm thấy mình dối trá. Ðể tránh bị lục vấn lôi thôi, tôi lờ tịt một ông bác bên nội, một ông bác bên ngoại. Từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nào tôi có biết hai ông ở đâu, làm gì. Chỉ biết hai ông dinh tê(7) vì không chịu được gian khổ, thế thôi. Nghe nói một ông buôn bán chi đó, ông kia làm thư ký Nhà Dây thép (Bưu Ðiện). Có anh cán bộ tổ chức chẳng hiểu tình cờ thế nào lại biết tôi có hai ông bác ấy, nhưng anh ta lờ đi cho tôi. Thế là tôi đâm ra mắc nợ. May là anh ta chỉ vì cảm tình cá nhân với tôi chứ không có ý lợi dụng.
Sự quản lý cán bộ và dân chúng nói chung bằng lý lịch là đặc điểm chung cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. ê Việt Nam, trong hai thập niên 50 và 60 nó được đẩy tới mức cao nhất nhờ chủ nghĩa thành phần. Nếu anh là bần nông, cố nông nữa càng tốt, ba đời không dính dấp gì với các giai cấp bóc lột, không có thân thuộc làm việc cho chính quyền cũ, đi lính chẳng hạn, thì anh được coi là cán bộ có lý lịch trong sạch, anh cứ yên tâm thẳng tiến. Ngược lại, chẳng may anh ra đời trong một gia đình giàu có, phú nông hoặc địa chủ, hoặc tệ hơn, cường hào gian ác, thì đời anh ra tóp(8). Một anh bạn cùng công tác với tôi có ông chú ruột ở miền Nam. Chẳng hiểu anh ta nghe ai nói, thành khẩn khai trong lý lịch có ông chú làm việc cho chính quyền Sài Gòn. Từ đó anh không được giao một công việc quan trọng nào, không được cử đi nước ngoài, mỗi lần xét tăng lương là một lần lý lịch anh được giở ra. Sau khi đất nước thống nhất mới biết ông chú làm cho địch của anh chỉ là một ông tùy phái trong một trường tư thục, gọi nôm là loong-toong.
Nhà báo Chính Yên mai mỉa:
– Khi nào có suất đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, thì chúng nó rêu rao thằng Chính Yên là con quan tuần phủ(9), để nó đi Tây cho nó chạy sang với địch à? Còn khi nào phải sang Lào viết phóng sự chiến tranh thì chúng nó khiêm tốn nhường ngay cho đồng chí Chính Yên, đồng chí ấy có kinh nghiệm chiến đấu. Tổ sư đời!
Chính Yên làm biên tập viên báo Nhân dân, một nhà báo có tài theo chúng tôi đánh giá, một “bồi bút siêu hạng” theo anh tự nhận. Anh tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chiến đấu bảo vệ thủ đô, là sĩ quan lâu năm trong quân đội. Nhưng suốt cuộc đời đi với cách mạng (đi theo cách mạng, nói cho đúng cách thời ấy), anh chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu, gánh vác mọi khó khăn, phần ngon anh chưa kịp nhường đã có kẻ khác hưởng.
Chẳng phải chỉ chúng tôi khổ về chuyện lý lịch. Ngay thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng khổ. Ông Ðặng Xuân Thiều, anh em con chú con bác với nguyên tổng bí thư Trường Chinh, không rõ từ đâu lại biết được câu chuyện hi hữu trong lịch sử nước ta, rằng do sự trớ trêu của số phận vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới lại… chưa từng vào Ðảng cộng sản(10) bao giờ.
Huỳnh Ngự hài lòng. Tôi hoàn thành bản lý lịch một cách xuất sắc, không nói gì tới hai ông bác, cũng không bỏ sót đứa em nào.
– Anh thấy đó! Anh sinh trưởng trong một gia đình cách mạng nòi, có lý mô anh lại đi với bọn phản cách mạng? Con đường anh đi đã được Ðảng vạch sẵn. Ðó là con đường duy nhất: đi theo sự lãnh đạo của Ðảng, của Bác Hồ vĩ đại. Ðược đi dưới lá cờ vinh quang của Ðảng, của Bác là hạnh phúc vô cùng lớn lao của mỗi cán bộ cách mạng!
Từ trên bức tường đối diện, ngay trên đầu Huỳnh Ngự là Bác Hồ tiên phong đạo cốt, với vầng trán cao lồng lộng, cặp mắt anh minh và chòm râu thưa phơ phất, đang hiền từ nhìn xuống đứa cháu bị bỏ tù. Bên dưới chân dung Bác là lời Bác dạy “Công An Là Bạn Dân” viết nắn nót, chữ đỏ rực trên nền giấy vàng!
Chúa ơi, tôi đang ở đâu thế này? Phải sống với một ông bác và đám bạn bè thế kia mà gọi là hạnh phúc được ư?
Tôi buồn. Hi vọng mau chóng được ra khỏi đây nguội dần.
Thành tìm cách an ủi tôi. Nhưng anh không vẽ ra một viễn cảnh dễ chịu, mà làm ngược lại – cho tôi quen với sự thật.
– Ai sa chân vào đây mà mang tội chính trị là coi như đời tàn. Anh ta chỉ có một sự lựa chọn: hoặc là quyết sống, hoặc là tự sát.
– Anh cho rằng với tù chính trị người ta cứ giam miết, không thả??
– Sao không? Có thả chứ. Nhưng người ta chỉ thả khi nào tin chắc tên tù đã mất hết ý chí. Mà biết đến mùa quít nào người ta mới tin chắc?
Trong những cuộc học tập chính trị, giảng viên bao giờ cũng nhấn mạnh mục đích tiêu diệt ý chí của địch. Tiêu diệt sinh lực đã đành là quan trọng, tiêu diệt ý chí mới là cơ bản. Tiêu diệt sinh lực cũng nhằm mục đích cuối cùng là tiêu diệt ý chí.
Bây giờ tôi là địch rồi. Họ sẽ sử dụng đối sách như đối với địch. Mà tôi có ý chí quái gì đâu cơ chứ!
– Anh có hay nhận được thư nhà không? – tôi hỏi Thành.
– Thi thoảng.
– Chị với các cháu lười viết à?
– Ðâu phải. Chấp pháp có cho nhận mới được nhận chứ. Thời gian mới bị bắt tôi không được nhận thư, người ta sợ thông cung. Sau, họ cho nhận, nhưng kiểm duyệt kỹ, cái nào đúng lập trường, khuyên mình cải tạo tốt thì họ cho nhận, thư nào có giọng oán trách Ðảng thì họ hủy.Ðược nhận thư hay không còn phụ thuộc vào thái độ cải tạo của mình nữa…
Tôi rõ ràng không phải là tù cải tạo tốt rồi, ngay từ ngày đầu tiên.
Cái sự vô công rồi nghề làm tôi rầu rĩ. Không rầu rĩ sao được khi cả ngày ngồi bó gối nhìn vào bức tường trước mặt và không sao xua đuổi được hàng đống bòng bong những ý nghĩ quậy lộn trong đầu.
Huỳnh Ngự cho quản giáo mang vào cho tôi mấy tờ Nhân dân có đăng “Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng”. Tôi hiểu: y muốn cho tôi thấy chúng tôi là loại tội phạm nào theo pháp lệnh này. Khi đã ra tù tôi có ý tìm lại, mới biết Trường Chinh ký “Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng” vào ngày 30.10.1967, nhưng hồi đó hoặc giả tôi không chú ý, hoặc giả mãi tới tháng 12 người ta mới đăng, nhưng tôi nhớ rất rõ rằng tôi được đọc nó trong Hỏa Lò, tức là vào cuối tháng 12 chứ không sớm hơn. Sự việc Trường Chinh ra sức hợp pháp hóa việc làm của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Trường Chinh đã cum cúp tuân lệnh Duẩn-Thọ, chứng tỏ họ đã kết lại với nhau thành một băng rồi, và như vậy thì chúng tôi chẳng còn gì để mà trông đợi. Giọng hàn lâm phố huyện của pháp lệnh này, với những khái niệm mơ hồ về sự liên hệ với “nước ngoài” và “người nước ngoài” xới lên mảnh đất màu mỡ cho những hành động không kiềm tỏa của bọn độc tài.
Thành nhìn tôi ái ngại. Bằng những câu chuyện xa xôi, anh khuyên tôi đừng tuyệt vọng. Người tù mang tâm trạng tuyệt vọng sẽ thua ngay từ trận đầu trong cuộc chiến dai dẳng với những nỗi khốn khó trong cuộc sống giam cầm. Người tù chỉ có thể sống được đến ngày ra khỏi nơi tù ngục nếu anh ta không để nỗi tuyệt vọng hủy hoại. Cách tốt nhất là buộc mình quên mình đi, tự xóa sổ sự hiện diện của mình đi trong tâm thức, như cách các đạo sĩ yoga thường làm.
Tôi buồn rượi. Làm sao học được cách biến mình thành gỗ đá vô tri vô giác đây? Con người từ tấm bé vốn chỉ quen học sự khẳng định mình, bằng mọi cách nó nhắc nhở mọi người rằng nó có, nó đang hiện diện trong cộng đồng, nó không phải vô hình vô ảnh, thế mà giờ đây nó lại phải học cách quên mình đi, xóa mình đi, khốn nạn là thế!
Phải mất bao nhiêu thời gian tôi mới học được nghệ thuật đó?
Viên cai ngục không nhắc nhỏm gì tới việc tôi nhờ anh ta nữa. Tôi nghĩ anh ta chưa có thời gian. Sau mới biết lời hứa của cai ngục với tù là thứ lời hứa tào lao nhất trần đời. Chẳng bao giờ anh ta nhắn hộ tôi cả.
Sau mấy ngày hỏi cung liên tục, với những câu hỏi lăng nhăng nhảy từ đề tài này qua đề tài khác, đề tài nào cũng xa cách cái mà tôi rất muốn biết – họ định buộc tôi vào tội gì – Huỳnh Ngự bỗng nhiên bỏ bẵng, không gọi tôi ra đi cung tiếp.
Một hôm tôi lại bị điệu ra. Lần này không phải đi cung. Ðón tôi là mấy tay công an trẻ, lạ hoắc. Họ đưa tôi tới một góc sân đầy rêu, bảo tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu, đàng sau là một mảnh vải xám bẩn thỉu mắc vào một sợi dây phơi quần áo.
Thì ra họ đưa tôi ra chụp ảnh, lăn tay. Một phó nháy ra lệnh cho tôi ngồi trong mọi tư thế thẳng, nghiêng phải, nghiêng trái. Tôi phải đeo một biển số trước ngực, đúng cách chụp ảnh tội phạm. Một người khác, phụ việc cho anh ta, ép mười đầu ngón tay tôi vào cái bảng mực in đen xì để lấy dấu. Sau đó tôi được đưa đi rửa tay. Không có xà phòng, tôi phải chà tay vào đất cát đến khi hai bàn tay đỏ ửng. Thế mà cái mực in quái ác vẫn không đi. Cả tuần sau tay tôi vẫn còn đen.
Thế là rõ. Ðây là cách người ta làm với tù chứ chẳng phải xử lý nội bộ gì hết.
Tôi cho rằng diễn biến của tình hình có chiều hướng xấu đi, chí ít thì cũng không tốt lên. Là đoán vậy thôi, chứ làm sao biết được ở ngoài kia cái gì đang xảy ra. Từ khi vào xà lim tôi không được đọc một tờ báo nào.
Que sera sera(11), ngồi bó gối trong cái chuồng chật hẹp tôi hát khẽ, tự an ủi, tự khuyến khích, cảm thấy lòng mình dần tĩnh lại. Bên ngoài, bầu trời mùa đông vẫn xám xịt một màu chì bức bối.
Thường một lần đi cung kéo dài cả buổi sáng hoặc chiều, thành thử tôi cứ đinh ninh trong lúc tôi vắng mặt những người tù ở xà lim bên cạnh cũng bị gọi ra đi cung như tôi. Hóa ra không phải. Chỉ những người mới bị bắt mới đi cung nhiều. Sau một thời gian làm việc liên tục, thỉnh thoảng họ mới bị gọi ra. Thành nói anh không đi cung đã hơn hai tháng. Có xà lim cả năm không đi cung.
Cũng Thành cho biết, ở Hỏa Lò có vài khu xà lim nằm rải rác ngoài rìa, giữa là trại chung gồm những nhà giam lớn mà tôi đã đi qua. Nơi chúng tôi đang ở gọi là xà lim 3, nằm ở khu vực bên trái Hỏa Lò, gần nhà bếp. Con đường gần xà lim 3 nhất là đường Hai Bà Trưng. Nhà tôi nằm ở đầu đường đàng kia con đường này, phía sông Hồng. Từ đây đi bộ về nhà tôi mất chừng mười lăm phút.
Tù xà lim Hỏa Lò không được đi dạo hàng ngày. Cũng không được đọc báo, không được mượn sách. Tôi đồ rằng Hỏa Lò không có cả thư viện cho công an, đừng nói gì thư viện cho tù. Nói tóm lại, nó chẳng giống như cái nhà tù mà tôi hình dung qua sách báo và phim ảnh nước ngoài.
Một ngày cửa xà lim được mở ra năm lần: buổi sáng một lần cho tù ra đổ bô, rửa ráy; trưa và chiều mỗi bữa hai lần cho tù nhận cơm và trả bát rếch. Thay vào viên cai ngục nông dân hôm trước là một người đàn ông, cũng dáng nông dân nhưng đã được cách tân, rất hách dịch, rất ít lời, tù sợ một phép. Thành nói y tên Hách, nhưng tôi đồ rằng đó là biệt hiệu tù đặt cho y chứ không phải tên thật. Quả vậy, tên cúng cơm của y là Dư, chắc hẳn cha mẹ y đặt cho với hi vọng đời y sẽ sung sướng trong thừa thãi.
Cai ngục thường không tự giới thiệu tên họ với tù. Phép lịch sự ở đây đại khái cũng giống như phong tục nước ngoài, người ta biết nhưng không theo. Viên cai ngục thoạt vào Hỏa Lò tôi gặp có hai biệt hiệu: Sứ giả Hòa bình hoặc Ðiền Mũi đỏ. Tên Sứ giả Hòa bình là do tù đặt. Viên quản giáo này bao giờ cũng thân mật đáp lễ khi tù chào chứ không kênh kiệu lặng thinh như các quản giáo khác. Ði kiểm tra khu xà lim anh ta luôn dừng lại ở các judas, nói một câu hỏi thăm, cho tù lửa hút thuốc hoặc vui vẻ đáp lại một câu hỏi về ngày giờ. Người tù cảm thấy mình được an ủi với một viên quản giáo như thế. Ðiền là tên thật. Anh ta có cái mũi lúc nào cũng đỏ lựng như mũi người nát rượu, mặc dầu anh ta không phải dân nghiện.
Tôi thích quan sát Hách. Tôi nghĩ nếu rồi đây tôi có may mắn được làm phim về nhà tù Việt Nam thì anh ta sẽ là nguyên mẫu không chê vào đâu được. Cai ngục phải như anh ta mới đúng là cai ngục chứ. Một vai cai ngục giống Sứ giả Hòa bình thì thể nào cũng bị khán giả chê, cho là không giống, không đúng. Thế mới biết cuộc đời phong phú hơn trí tưởng tượng, còn chúng ta thường nô lệ những hình dung giáo điều.
Thấp bé, với số tuổi đáng trọng, Hách đi những bước đĩnh đạc, khoan thai, rõ ràng là vay mượn, nhưng đã nhập thần. Người tù cúi đầu len lén chui qua cái nhìn lừ lừ bên trên cặp tròng kính lấp loáng của viên quản giáo quyền uy. Hách đứng đó, nhìn những con vật ở trong chuồng chui ra, mái đầu còn xanh của y hơi cúi, như thể bị sức nặng của vẻ đường bệ đè xuống, đôi giày tây khẽ nhún nhẩy trong một nhịp chậm chạp cố ý. Tôi khoái mẫu người của Hách đến nỗi nhiều lần tôi bắt chước dáng điệu trịnh trọng của anh ta. Thành cười rúc rích khen tôi bắt chước khéo, còn tôi thì hình dung nếu có lúc phải hướng dẫn cho diễn viên thì phải biết cách đóng thế nào cho thật giống.
Khi mở cửa xà lim bao giờ Hách cũng lùi ra xa, nhún nhẩy ở bức tường đối diện. Tôi nghĩ y cẩn thận, lo bị tù tấn công bất ngờ.
– Dào, có gì đâu. – Thành giải thích – Trong xà lim hôi thối lắm. Mình ở quen không nhận thấy chứ người ở ngoài vào uế khí xộc vào mũi chịu không nổi đâu.
Niềm mong ước của cha mẹ Dư đã thành. Y không giàu, nhưng so với các quản giáo khác, y có nhiều thứ sang trọng hơn người. Trong các trại giam mọi thứ đều rẻ – một phong thuốc lào có thể đổi lấy một cái quần simili mới, một bao Tam Ðảo là giá cho một cái áo len. Thành kể cặp kính gọng đồi mồi của Hách giá ba cái bánh mì.
Kể ra ở trong xà lim ngày này qua ngày khác mà không có lần đi cung nào thì cũng chán. Ði cung cũng ví như một sự đổi gió, cho dù nó căng thẳng. Căng thẳng thì căng thẳng, vẫn còn hơn là sự đơn điệu kéo dài. Người tù ở hàng năm trong xà lim không đi cung hệt như con thú bị nhốt trong chuồng.
Nằm trong xà lim những ngày đầu tiên, ngoài nỗi nhớ vợ nhớ con, tôi bỗng nổi cơn nhớ Hà Nội da diết. Ai đời nằm giữa lòng Hà Nội mà nỗi nhớ cứ bổi hổi bồi hồi như thể mình đang ở nơi nào tít tắp bên kia địa cầu. Nhớ cồn cào. Nhớ lắm lắm. Bỗng thấy Hà Nội như một người. Bỗng phát hiện Hà Nội có bộ mặt không lẫn với bất cứ bộ mặt nào khác. So
sánh Moskva với Hà Nội, tôi thấy Hà Nội đáng yêu vô cùng. Có lẽ chỉ có người Hà Nội mới coi thành phố là ngôi nhà của mình. Người Moskva coi Moskva là thành phố, là tài sản của nhà nước. Người Moskva chỉ ra đường khi có việc. Người Hà Nội bắc cái chõng ra hè, ngồi đấy mà cảm thấy như ngồi trong nhà. Sau năm 1954 người tứ chiếng theo chân đoàn quân chiến thắng ùa vào, người Hà Nội tản mát khắp bốn phương trời, kẻ di cư vào Nam, người bị đẩy đi mạn ngược lập vùng kinh tế mới. Tưởng chừng Hà Nội không còn là Hà Nội nữa, thế mà không – Hà Nội vẫn là Hà Nội. Nó nuốt chửng những người xa lạ vào lòng, nhào nặn họ theo kiểu của nó, biến họ nếu không thành người Hà Nội hẳn thì cũng thành người của hè phố, nhưng là hè phố của nó.
Tôi là người Hà Nội tính theo đàng mẹ. Hà Nội là quê ngoại của tôi, là nơi tôi ra đời, vì mẹ tôi là “con gái hàng Bạc”. Người Việt vẫn quen với phụ hệ, tính quê theo bên nội, mà như thế thì tôi lại là người của đồng bằng đất thịt.
Ðể về quê, tôi phải đáp xe lửa tới Nam Ðịnh, qua Ðò Quan sang hữu ngạn sông Hồng, đi ô tô theo đường hàng tỉnh số 21 tới thị trấn Cổ Lễ rồi từ đó cuốc bộ vài cây số nữa theo con đê Vàng mới về đến làng. Tôi cũng gắn bó với cái quê nội đất thịt lắm, một phần tuổi thơ của tôi đã trôi qua ở đó. Thỉnh thoảng ở đâu đó bên ngoài Hỏa Lò người ta đốt lá rụng đầu đông, gió đưa khói những đống lá cháy âm ỉ lọt vào tận xà lim, y như khói những đống rấm ở nông thôn, và thế là nỗi nhớ cái quê đất thịt lại nổi lên xao xuyến lạ lùng.
Những ngày đầu tiên trong tù tôi không hề nghĩ tới một thời hạn giam giữ lâu tới vài năm. Chỉ vài tháng thôi, trong cái chuồng người gọi là xà lim, đã đủ chết rồi.
Suốt ngày anh bạn tù của tôi ngồi bó gối nhìn chòng chọc vào một điểm nào đó rất xa, mặc dầu trước mặt anh là bức tường xám xịt lốm đốm máu muỗi máu rệp và những tên người, trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hai cổ tay bị xích, ngày bị bắt, những lời than van, những lời nguyền rủa, những câu chửi đời… Thành thử bức tường vì thế giống vách đá chùa Hương hoặc hang Ðầu Gỗ trên vịnh Hạ Long.
Lâu lâu đang ngủ Thành choàng tỉnh, ngồi dậy cục cựa một lát để sửa soạn cái nghi thức trang trọng của sự hưởng lạc trong xà lim. Trước hết, anh sờ soạng lấy cái điếu và gói thuốc giấu trong bọc quần áo ra, vê rất lâu những sợi thuốc màu cánh gián cho tới khi chúng xoắn vào nhau thành một viên tròn xoe đúng kích cỡ và tiêu chuẩn ngầm định rồi mới từ tốn nhồi vào nõ. Những sợi rơi ra ngoài được anh thu vén nhặt cho bằng hết cho khỏi phí. Ðoạn, anh khẽ khàng quẹt diêm lấy lửa, châm vào mảnh giấy đã vê sẵn thành đóm, dùng đóm này hút thuốc. Hút xong, Thành từ từ nhả khói rồi gục mặt vào hai đầu gối hồi lâu, người hơi đung đưa. Ðó là anh đang ngụp mình trong khoái lạc mà điếu thuốc mang lại.
Tôi thèm thuốc lá lắm nhưng làm sao có được nó trong bốn bức tường xà lim bây giờ? Thành mời tôi thuốc lào, nhưng lần nào hút tôi cũng ho sặc sụa.
Tôi không thể đừng để không nói thêm vài lời về cái điếu tự tạo của anh bạn tù. Nó là một cái hộp dẹt, hình chữ nhật, làm bằng hai vỏ bao diêm ghép lại, được bồi cho cứng thêm bằng giấy. Nõ điếu là khúc đầu của tuýp kem răng lộn ngược. Cái điếu có bề ngoài sặc sỡ bởi những ảnh mầu cắt trong họa báo, chắc hẳn từ giấy gói đồ tiếp tế. Tuy không có nước bên trong nhưng cái diếu kín hơi và thỏa mãn được cơn nghiền chẳng kém gì điếu ống hoặc điếu bát.
Ðể tiết kiệm diêm Thành chẻ một que thành hai, dùng tới đâu chẻ tới đó. Khi tôi vừa vào anh còn kín đáo quay mặt vào tường để chẻ diêm, cái chăn lòa xòa che khuất hành động giấu giếm. Trong xà lim chỉ có hai người với nhau, giấu cũng chẳng được, anh đành tiết lộ:
– Trong tù cấm ngặt không được giữ dao hoặc vật gì có thể dùng làm dao. Chết nỗi con dao ở đây lại cần lắm, bao nhiêu việc phải dùng nó, không có không xong: cắt móng chân móng tay, vót que tăm hay là chẻ diêm thế này chẳng hạn… – anh rì rầm giải thích – Không phải người ta sợ mình dùng dao đâm cán bộ đâu, thứ dao này thì đâm chết ai, cơ mà người ta sợ cái khác…
Anh cho tôi xem con dao anh chế tạo. Nó là một mẩu sắt đai thùng dài lối bốn năm phân, rất bén. Tôi không hiểu anh làm cách nào để cho mẩu đai thùng nọ trở thành cứng và bén như thế. Trong xà lim tất nhiên không có lửa để tôi, không có đá để mài. Với kích cỡ liliput con dao dễ dàng chui gọn vào nẹp quần nẹp áo.
– Họ sợ tù tự sát?
– Cũng chỉ trong thời kỳ giam cứu thôi. – Thành lắc mạnh cái đầu bù xù – Trong thời kỳ này, là khi còn đang hỏi cung, cán bộ chấp pháp phải chịu trách nhiệm về người tù. Có trường hợp cán bộ chấp pháp dọa dẫm thế nào không biết, anh tù vừa mới vào được mấy ngày đã treo cổ chết tốt. Ðiều tra xong mới biết anh ta chẳng có tội tình gì ráo. Dĩ nhiên, trách nhiệm là liên đới – không riêng cán bộ chấp pháp, cả cán bộ quản giáo, cả bộ đội gác cũng có khuyết điểm.
– Chỉ là khuyết điểm thôi ư? Có ai trong bọn họ bị truy tố không?
– Làm gì có! Tất nhiên, cũng bị lôi thôi tí chút. Giả thử anh tù nọ bà con với cán bộ cỡ, người ta moi móc ra, cố tình kiện cáo thì cũng phiền lắm đấy. Nhưng kiện công an thì phải coi chừng, công an người ta bênh nhau lắm, có khi đã chẳng được gì mà còn mắc vạ. Con kiến mà kiện củ khoai. Với dân đen thì họ chẳng lo, cứ lờ tịt đi là xong. Thằng tù ấy mà, cái mạng nó có giá gì!
– Anh tù lấy đâu ra thừng mà treo cổ?
– Xì, có gì khó, xé cái quần ra, hoặc cái chăn, bện lại một loáng là xong.
Thảo nào, người ta phát cho tôi cái quần không có dải rút.
– Còn xong cung rồi thì xin mời, muốn tự sát tự sinh gì mặc mẹ mày. Càng đỡ tốn gạo. ấy là nói tù xà lim, chứ tù ở các trại làm ra của cải gấp bao nhiêu lần tiền nuôi họ ấy chứ. Thử tính mà xem, nuôi thằng tù hết có mười hai kí rưỡi gạo một tháng, mà nó làm như trâu, nó chẳng cần ai nuôi, tự nó làm ra cái để nuôi nó, nhà nước chẳng mất gì sất. Nước sông công tù, đã có câu như vậy.
– Thế thì nhà nước lợi nhỉ? Càng nhiều tù càng lợi.
– Thời Pháp thuộc chỉ có mấy trại ai cũng biết tên Hỏa Lò là một, Chí Hòa là hai, Sơn La là ba, Ban Mê Thuột là bốn, Lao Bảo là năm, Bá Vân là sáu, Côn Ðảo là bảy… – Thành thủng thẳng liệt kê các nhà tù của Tây – đếm đầu ngón tay còn thừa. Thời ta thì sao? Trung ương hàng chục trại, tỉnh nào cũng trại… Chẳng nói đâu xa, ngay ở Hà Nội ngoài cái Hỏa Lò ra, còn có một nhà tù nữa, cũng lớn lắm, thuộc Bộ quản lý, là trại B, hay là trại Thanh Liệt. Ông có nghe nói đến trại Thanh Liệt bao giờ không?
– Không.
– Ông không nghe nói là phải. Chẳng ai biết cái trại này đâu, người ta giữ kín lắm. Nó đâu ở gần thị xã Hà Ðông. Xà lim ở đấy mới thật ác, không có chút ánh sáng nào lọt vào. Diện tích còn hẹp hơn xà lim Hỏa Lò nhiều. Mấy ngày rồi ông chưa đi cung nhỉ?
– Bốn.
Anh gật gù.
– Lạ thật. Thường tù mới bắt vào người ta hỏi cả ngày lẫn đêm, cho đến khi mệt lử ra rồi họ còn chưa tha, đàng này… Cái ông chấp pháp của ông có dễ chịu không?
– Tôi không rõ anh cho thế nào là dễ chịu? Có thể tay này là dễ chịu cũng nên, phải qua vài tay mới so sánh được. Mà này, anh có biết vì sao người ta gọi cái anh công an
hỏi cung là chấp pháp không? Trước kia người làm việc hỏi cung gọi là dự thẩm, nếu tôi không nhầm.
Thành suy nghĩ một lát.
– Tôi nghĩ đó là do mấy chữ chấp hành pháp luật nói tắt.
Cách Thành giải thích không đủ thuyết phục tôi.
– Chấp hành pháp luật thì mọi công dân đều phải chấp hành. Nếu anh ta thừa hành pháp luật thì sao không gọi là thừa pháp, hoặc hành pháp? Lại còn cái lối nói đi cung nữa, nghe chướng không chịu được.
– Thoạt kỳ thủy, tôi cũng không hiểu như ông, nghe cũng chướng lắm, nghe mãi rồi quen, thấy nó cũng bình thường. Ngôn từ trong ngành công an này tựa như tiếng lóng của lưu manh vậy, không ở trong nghề chúng nó nghe cứ như vịt nghe sấm. Thế mà ở tù ít lâu là hiểu hết, chẳng cần ai giải thích.
Cách so sánh của Thành làm tôi bật cười.
Thành kiên nhẫn giải thích cho tôi những điều đối với tôi là lạ lẫm, anh độ lượng không coi lỗ hổng kiến thức của tôi là sự đần độn. Mà làm sao tôi có thể biết được những từ quỷ quái ấy kia chứ, khi trại giam là một thế giới cách biệt hoàn toàn với thế giới người thường. Người đọc Việt Nam hầu như chẳng biết gì về cái thế giới đóng kín ấy. Ðề tài trại giam là đề tài cấm kỵ. Các nhà báo không được phép thò mũi vào công việc của ngành trừng phạt, xin lỗi, tôi nói nhầm, ngành cải tạo. Trong những người tôi quen chỉ có anh Trần Ðĩnh, phóng viên báo Nhân Dân, là đã có dịp tham quan Hỏa Lò để lấy tư liệu cho cuốn hồi ký Bất Khuất anh ghi chép cho ông Nguyễn Ðức Thuận. Trần Ðĩnh rồi cũng rơi vào số những người bị gọi là xét lại hiện đại, nhưng anh chỉ bị ép về hưu non, bị trù úm, chứ không bị đưa vào ở trong những cái xà lim anh đã được xem ở Hỏa Lò.
Thảng hoặc cũng có vài nhà văn nhà báo được mời đi xem để viết về trại giam xã hội chủ nghĩa. Họ ngồi trên com-măng-ca phóng vù vù qua những cánh đồng, những lán sản xuất thủ công của tù để tối đến dự các cuộc chè chén với Ban Giám thị, với tư cách khách quý của ngành. Ðể hiểu tâm tư người tù, họ vừa ngồi xỉa răng vừa nghe anh tù do Ban Giám thị lựa chọn cho gặp. Anh tù, tất nhiên, một mực ca tụng hệ thống cải tạo của Ðảng và Nhà nước. Về sau tôi có được đọc mấy bài báo loại này. Cứ như mấy nhà văn nọ miêu tả thì hệ thống cải tạo của Việt Nam là tuyệt hảo, là cây gậy thần gõ vào đầu tên tội phạm nào là tên ấy lập tức cải tạo tốt, thành người tử tế, thành công dân lương thiện, thậm chí thành công dân gương mẫu.
Trong thời gian ở trại Phong Quang (Lao Kai) tôi biết nhà văn Bùi Huy Phồn tức Ðồ Phồn có đến thăm trại này. Chắc chắn ông phải biết tôi đang ở đó, nhưng ông không gặp tôi, hoặc vì người ta can gián, hoặc chính ông coi tôi là tên cầm bút phản động. Những người tù được Ban Giám thị lựa chọn trong số cải tạo tốt sau cuộc gặp gỡ kể rằng họ vừa gặp “một thằng nhà văn nói láo nhà báo nói điêu”.
– Thế còn cai ngục? Bây giờ được gọi là quản giáo, có phải vì ngoài việc canh giữ cho tù khỏi xổng anh ta còn phải dạy dỗ chúng mình không?
Thành cười toác. Anh có tiếng cười thật hồn hậu.
– Làm gì có chuyện dạy dỗ! Trình độ của quý vị ấy thường chỉ trên mức thoát nạn mù chữ một ít thôi thì hỏi giáo dục ai? Giáo dục cái con khỉ!
Anh cho biết ngành công an đặc biệt coi trọng lý lịch cán bộ. Người được chọn vào ngành này nhất thiết phải thuộc thành phần cơ bản (tức là bản thân hoặc cha mẹ thuộc các tầng lớp vô sản – công nhân, nông dân hoặc bộ đội), hơn thế, phải tuyệt đối trong sạch, tức là không có dây mơ rễ má gì với các giai cấp bóc lột bởi huyết thống, trực hệ cũng như bàng hệ. Người ta nói vào ngành công an bị truy xét lý lịch bốn đời là chuyện không ngoa đâu, nếu không phải bốn thì cũng ba. Nếu anh đã là công an thì con anh, cháu anh được nhận vào công an dễ hơn hẳn so với người khác, cho dù họ cũng con bần cháu cố. Cũng theo Thành thì trong ngành này đông nhất dân Thanh Nghệ Tĩnh, những tỉnh không có chiến sự trong kháng chiến chống Pháp. Những cán bộ đắc thọ này, kháng chiến thành công rồi, mới dắt díu con cháu vào theo. Trong ngành quản lý trại giam nhiều người Sơn Tây và Thanh Hóa, cái đó cũng có ý nghĩa truyền thống – hai tỉnh này có những trại giam đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tôi nghe Thành dẫn giải, phục lăn. Càng ngày tôi càng tin Thành không phải một tên giết người. Anh phải là cán bộ đã lăn lộn nhiều, hiểu biết rộng, có cách nhìn nhận, phân tích sự việc sắc bén, chứ nhất quyết không phải cán bộ thường. Dần dà, qua những câu chuyện tâm tình tôi thấy trong anh lộ ra hình ảnh một cán bộ quân đội lâu năm, dày dạn kinh nghiệm. Bằng cách gợi đến những chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp, nhắc đến những người tôi quen ở các cấp tiểu đoàn, trung đoàn, Thành cho biết anh đã từng gặp ai trong những người đó. Quan hệ giữa chúng tôi vì thế càng thêm gần gụi. Ðiều tôi không hiểu là nguyên nhân nào làm anh không dám thổ lộ với tôi về vụ án của anh?
Khi tôi làm ra vẻ tình cờ nói tới tướng Ðặng Kim Giang, hỏi anh có biết tướng Giang không thì anh nói:
– Ông ấy tôi biết. Ông ấy còn có một cái tên nữa là Lý Giang. Chả là trước ông có chân lý trưởng hay phó lý trong hội đồng kỳ mục(12). Thế mà tác phong lại rất chi là bình dân mới lạ, lính tráng lắm. Hồi Ðiện Biên ấy, tiếng là ông Trần Ðăng Ninh làm tổng cục trưởng, chứ toàn bộ công tác hậu cần cho mặt trận này, tôi biết, là do một tay ông Giang lo, công to lắm. Anh cũng biết ông Giang à?
Tôi lắc đầu:
– Tôi không quen.
Lát sau, tôi nói thêm:
– Nghe nói ông ấy vừa bị bắt.
Ðang nằm gối đầu trên đôi tay, Thành bật dậy:
– Sao? Anh nói sao? Bậy, làm gì có chuyện ấy được? Ông Giang là bậc lão thành cách mạng, hoạt động chống Pháp từ trước khi có Ðảng, là bậc khai quốc công thần, công lao còn hơn cả mấy ông lãnh đạo bây giờ, ai bắt được ông ấy?
Nhìn vẻ mặt Thành, tôi hiểu tin này làm anh choáng váng.
– Vừa qua nhiều người bị bắt lắm. Cùng bị với thiếu tướng Ðặng Kim Giang còn có một số người nữa, như viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính…
– Anh nghe nói hay biết chắc?
– Tôi nghe, nhưng chuyện đó là chắc chắn. Cả Hà Nội biết.
– Lạ thật! Lạ thật! – Thành lẩm bẩm – Phải anh Hoàng Minh Chính trước kia làm công tác thanh niên không?
– Chính anh ấy. – tôi đáp.
– Tôi không quen Hoàng Minh Chính, nhưng nghe tiếng anh ấy thì nghe nhiều – anh nói, tư lự – Anh Chính này hồi 54 lãnh đạo một đội quyết tử quân đánh sân bay Gia Lâm mà, người giỏi lắm, được ông Trường Chinh quý lắm. Sao lại thế được? Chà chà, chuyện gì đang xảy ra ở ngoài kia vậy? Anh còn nghe nói những ai bị nữa?
– Cục trưởng Cục quân báo Lê Trọng Nghĩa, anh biết chứ?
– Anh Nghĩa, cục trưởng Cục 2?
Thành kêu lên. Lần này anh nhảy hẳn sang bên phản tôi.
– Thật thế không? – anh thì thào.
– Thật. Anh biết anh Nghĩa à?
Thành vỗ đùi đánh đét.
– Biết quá đi chứ. Ai nữa?
– Còn ai nữa nhỉ? À, còn ông này, không biết anh có biết không: ông Vũ Ðình Huỳnh, nguyên vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao?
Thành trợn mắt.
– Cả ông Vũ Ðình Huỳnh nữa ư?
Tôi giả bộ ngạc nhiên:
– Anh cũng quen ông ấy?
– Không. – Thành thần ra, lắc đầu – Tôi cũng chỉ biết tiếng. Trước ông này làm bí thư cho cụ Hồ.
– Ðúng đấy.
Thành bậm môi suy nghĩ rồi thở dài:
– Tôi biết tiếng ông ấy là do thế này. Tôi có anh bạn thân, anh ấy chịu ơn ông ấy lắm. Nếu không có ông Vũ Ðình Huỳnh thì ông cụ anh ta đã bị bắn. Công ông ấy là công sống tết chết giỗ với gia đình bạn tôi. Hồi Cải cách ruộng đất nghe nói ông ấy còn cứu nhiều người nữa, không phải chỉ mình gia đình anh bạn…
– Chuyện ông Huỳnh bị bắt là chính xác. Nhà ông chú tôi ở sát nách nhà ông ấy, tin ấy không sai được. Ông chú tôi còn trông thấy công an xích tay ông ấy giải đi.
– Chà chà, – Thành buồn bã lắc đầu – Chẳng lẽ cụ Hồ còn đấy mà lại để mặc cho người ta muốn làm gì thì làm?
Tôi im lặng một lát rồi nói:
– Biết đâu chả phải chính cụ Hồ muốn thế? Anh thử nghĩ mà xem: Cụ là lãnh tụ tối cao cơ mà, ai dám qua mặt Cụ.
– Anh nghĩ thật như vậy à?
Anh nhìn tôi như nhìn một tên khiêu khích.
– Tôi không biết, – tôi lắc đầu – nhưng trước nay có việc gì quan trọng ở đất nước mà không có sự chỉ đạo của cụ Hồ?
– Ừ nhỉ.
Thành thở dài:
– Tội nghiệp quá!
Ðúng là Thành chẳng biết gì về vụ án chúng tôi. Anh không đóng kịch.
– Anh có nghe nói vì sao các ông ấy bị bắt không?
– Ban Tổ chức Trung ương Ðảng có thông báo gì đó, nhưng chỉ trong phạm vi nội bộ Ðảng. Tôi không được dự, cũng không biết đích xác là thế nào. Nghe nói các ông ấy bị buộc tội có âm mưu phản loạn…
– Bậy. Anh có tin thế không?
– Chuyện quốc gia đại sự ai thèm cho dân đen biết. Thông báo vậy thì biết vậy, biết có thật hay không?
Thành buồn xỉu. Anh bò về phản mình hút hai điếu thuốc liền.
– Không hiểu nổi! Chịu! Không thể tưởng tượng được!
Suốt hôm ấy anh không nói gì nữa. Một nỗi buồn, mà cũng có thể nỗi lo âu, xâm chiếm lòng anh. Trước khi đi ngủ, anh xem xét mọi xó xỉnh trong xà lim, rồi xuống ngồi bên tôi.
– Này, anh đừng có nói gì về chuyện hôm nay nhá! – anh thì thào – Nói chẳng có lợi gì đâu, mà hại cho cả hai. ê trong nhà tù, tốt nhất là câu trả lời: không. Không biết, không nghe, không thấy.
– Tại sao vậy?
– Trong tù nó thế.
Tôi ngạc nhiên:
– Mình có nói chuyện gì ghê gớm đâu.
– Rồi anh sẽ hiểu. Nhà tù, nó phức tạp lắm. Phức tạp vô cùng. Tôi không dọa anh đâu, nhưng có khi chỉ vì chuyện không đâu mà mình đâm ra thêm tội. Tôi đã có một tội kinh tế rồi, thêm một tội chính trị nữa là tàn đời…
(1) Tên gọi An toàn khu của chính phủ kháng chiến tại Tuyên Quang – Thái nguyên (khu Việt Bắc). Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu cũng nằm trong khu vực này.
(2) Garde-corps theo tiếng Pháp.
(3) Ngày 1.2.1942, trong lễ khai giảng trường Ðảng của Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc tại Diên An Mao đã đọc diễn văn về “Chỉnh đốn tác phong của Ðảng”. Ðó lần chỉnh phong đầu tiên ở Trung Quốc nhằm chống chủ nghĩa giáo điều, về thực chất là chống ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản.
(4) Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như trong những người này có Nguyễn Ðức Bình, về sau này là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII.
(5) Hủ hóa ở đây không còn nghĩa gốc là tồi tệ đi, xấu đi, hư hỏng đi. Nó có nghĩa là sự ăn nằm với phụ nữ không phải vợ mình (ngủ với vợ hoặc chồng chưa cưới cũng bị coi là hủ hóa). Trong các cuộc chỉnh huấn người ta thường lục vấn nhau chuyện hủ hóa, dường như nó quan trọng hơn những khuyết điểm khác.
(6) Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, về sau đổi tên thành Ðoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam.
(7) Bỏ vùng kháng chiến về nội thành, do tiếng Pháp entrer.
(8) Nghĩa là không ra cái gì, theo cách nói hồi ấy.
(9) Thực ra Chính Yên cũng không phải con quan tuần. Cha anh chỉ là một ông huyện, nhưng quê ở Hà Nội, nhà cửa khang trang, khiến những cán bộ không biết gì về hệ thống hành chính thời Pháp thuộc đôn ông lên làm ông tuần phủ.
(10) Ông Ðặng Xuân Thiều (1911-1965) tham gia cách mạng rất sớm, bị tù nhiều năm. Tôi tin ông nói có sở cứ. Cha tôi cho rằng trong chuyện này có lẽ chỉ có vấn đề thủ tục kết nạp không được rõ ràng (ngày tháng, người giới thiệu), do một sự ngẫu nhiên nào đó, chẳng hạn những người giới thiệu đã chết và không có ai xác nhận việc kết nạp, chứ cuối năm 1940 các ông Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan cùng dự một lớp huấn luyện ở Hoa Nam do ông Hồ Chí Minh tổ chức, điều này có nghĩa ngay từ hồi ấy ông Ðồng đã hiển nhiên là đảng viên cộng sản.
(11) Muốn ra sao thì ra (tiếng Tây-ban-nha).
(12) Một hình thái quản lý hương thôn cổ, gồm những người có uy tín trong làng, được tập hợp lại theo sự tiến cử của những bậc tiền nhiệm và các bô lão chứ không phải do dân cử, có nguồn gốc từ xã hội bộ lạc.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:48:13 GMT -6
Chương 10
Con người có số mệnh hay không có số mệnh?
Câu hỏi này luẩn quẩn suốt trong óc tôi vào những ngày tù đầu tiên. Tôi ghi lại ở đây câu chuyện về một hiện tượng thoạt nhìn có vẻ chẳng ăn nhập gì với cuốn sách nhưng là cái làm lung lay tận gốc thế giới quan tưởng chừng đã vững chắc trong tôi, ảnh hưởng tới tâm trạng tôi trong những năm sau này.
Trước hết, cần phải nói ngay rằng hồi ấy tôi duy vật từ đầu đến chân. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trong tôi có nguồn gốc tầm thường. Cha mẹ tôi duy vật thì tôi duy vật, như lẽ đương nhiên phải thế. Nghe chuyện mẹ tôi kể thì vào thời con gái của bà chủ nghĩa duy vật đặt chân lên nước ta không phải với tư cách một triết thuyết mà như một cái mốt. Nó như ánh sáng điện bỗng bừng sáng trong ngôi nhà xưa nay leo lét đèn dầu. Phàm người thuộc thế hệ bà mà có chút ít tây học đều trở thành duy vật. Chí ít thì họ cũng khoe mình là như thế. Người có chân trong tổ chức cách mạng lại càng duy vật hơn ai. Duy vật đồng nghĩa với cách mạng. Bạn bè cha mẹ tôi đều duy vật cả, trừ ông Tiến cố. Ông có số phận long đong. Vốn là một nhà duy vật cuồng nhiệt, đảng viên Ðảng cộng sản, không hiểu sao ông nhảy sang Thiên Chúa giáo. Rồi trong một mưu toan đầy thiện chí nhằm làm mai cho hai thứ mà ông yêu, Thiên chúa giáo bác ái và chủ nghĩa cộng sản bạo hành, ông bị các đồng chí tống ra khỏi hàng ngũ(1).
Tôi chưa bao giờ tin cả thần thánh lẫn ma quỷ. Bà ngoại tôi sùng Phật, thích đi lễ chùa và ăn chay, làm việc bố thí. Bên nội hãnh diện về mấy đời theo Thiên Chúa giáo, xưng mình đạo gốc, chăm đọc kinh, chăm xưng tội chịu lễ. Bên ngoại lặng lẽ nhập đạo Phật với đạo thờ cúng tổ tiên, coi hai thứ là một.
Cha tôi bỏ đạo khi thành cộng sản. Việc cha tôi bỗng dưng không đi nhà thờ, không xưng tội chịu lễ không những chỉ làm cho ông bà tôi rụng rời chân tay. Nó làm cho cả họ nhớn nhác. Người làng xì xào cha tôi vào hội kín, vì thế ông bỏ đạo. Cha tôi nói ông bỏ đạo vì cho rằng thực dân Pháp đã dùng Thiên Chúa giáo để thôn tính nước ta. Mẹ tôi giải thích việc cha tôi bỏ đạo bằng sự tiếp xúc của cha tôi với ông Ðinh Chương Dương(2) và phong trào cách mạng. Ông cho rằng người cách mạng phải dứt khoát với mọi cái gắn liền với những mưu mô của thực dân.
Cái còn lại của đạo Chúa trong cha tôi là lời dạy của Ðức chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô “: Hãy thương yêu người ta như mình vậy”. Ông thường căn dặn chúng tôi rằng nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có khuyết điểm, mình cũng vậy, cho nên phải độ lượng với nhau, phải sống khoan dung, nhân ái. Gặp hồi chỉnh huấn, cán bộ luôn miệng nói phải vì nhân dân quên mình, thì cha tôi cười. Ông nói rằng chẳng bao giờ ông tin những người khoe họ yêu nhân dân hơn yêu bản thân. “Yêu người bằng yêu mình là tốt lắm rồi! – ông dạy tôi – Chúa cũng chỉ dám mong người ta yêu người bằng yêu mình mà còn không xong. Hai ngàn năm rồi nhân loại vẫn chưa thực hiện được lời Chúa dạy, mà nay muốn thực hiện điều hơn thế là nói khoác”.
Mẹ tôi thờ ơ với cả hai thứ đạo. Bà không từ chối đi nhà thờ, không chăm chỉ đi chùa, nhưng cũng không phản đối các bà chị chồng đưa các con bà đi rửa tội, chịu Mình Thánh Chúa. Cả bên nội lẫn bên ngoại đều không trách được mẹ tôi, bà chỉ không siêng năng chứ không báng bổ đạo như cha tôi, nhưng cả hai bên đều ngấm ngầm không hài lòng về bà. Bà ngoại tôi không chịu được những lời sàm báng của con gái đối với giới sư sãi, nhưng nhất quyết bắt mẹ tôi phải trung thành với đạo thờ cúng tổ tiên thuần Việt, là thứ đạo mẹ tôi bao giờ cũng tôn trọng.
Vào thời gian xảy ra vụ xét lại chống Ðảng, tôi đang viết tiểu thuyết Pháo Ðài Xanh, cuốn sách được ấp ủ từ nhiều năm. Ðó là cuốn biên niên sử của một làng. Nó sẽ là hình ảnh của sự thay đổi diễn ra trên đất nước. Ngôi làng trong cuốn sách chính là quê nội của tôi. Tôi sống lâu hơn, nhiều hơn với cái quê nhà gạch và đường nhựa, nhưng trong tình cảm tôi gắn bó với cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn.
Quê nội để lại dấu ấn đậm nét trong tuổi thơ của tôi. Nó là miền đất ruột rà của tôi. Nó chiếm hết tình yêu bé bỏng của tôi.
Tôi được mẹ tôi đưa về quê nội năm tôi lên sáu. Cha tôi vừa bị Pháp bắt. Mẹ tôi không thể cùng lúc vừa nuôi mấy anh em tôi, vừa đi làm thuê, vừa hoạt động cách mạng. Bà đưa tôi về quê cho bà chị chồng nuôi đỡ. Ðó là một bà già cô độc, cao lớn, mặt mũi dữ tợn, đuồn đuỗn như một cái phất trần, tên là bà Gái. Cô tôi sống trọn đời đồng trinh trong ngôi nhà ông bà tôi để lại khi đàn em của bà đã tứ tán phương xa. Trong thời gian mấy năm ở với cô Gái, tôi quyến luyến bà, và qua những lời dẫn tích của bà, nhà ái quốc chân chính của làng mình, tôi quyến luyến mảnh đất của cha ông.
Chúng tôi ở trong một ngôi nhà gỗ năm gian, với mấy gian nhà ngang bằng tre nứa mọc ra ở một đầu hồi, kết thúc bằng một gian bếp thấp tè và một chuồng lợn lụp xụp. Nơi đây các bác tôi, các cô tôi (tức là các bà chị của cha tôi) ra đời và lớn lên trong sự ấp ủ của cha mẹ, một ông nhà nho không gặp thời làm nghề bốc thuốc với một bà vợ không biết chữ, nhưng tần tảo và đảm đang, như bất cứ người vợ nào trong những năm xa xưa ấy. Trong ngôi nhà trước kia hẳn rất ồn ào, nay vắng lặng, chỉ còn hai cô cháu tôi, tôi tìm thấy những quyển vở bằng giấy bản với những chữ nho ngòng ngoèo – vở học của cha tôi khi ông bắt đầu ê a Tam tự kinh của một nền học đã chìm nghỉm trong quá khứ.
Tình yêu đối với đất nước ở mỗi con người cũng khó giải thích như tình yêu trai gái. Trong sáu anh chị em của cha tôi chỉ có mình ông đi làm cách mạng. Với đất nước ông có một tình cảm ruột thịt lạ lùng, khó hiểu đối với chính tôi, đứa con ông. Dường như ông không thể sống không có tình yêu dâng hiến đó, như tình yêu Chúa trong lòng tín đồ tử vì đạo. Tôi nhớ ông đã bực bội như thế nào khi đọc trong một cuốn sách giáo khoa của đứa cháu gái lời dạy của một nhà lãnh đạo cho học sinh rằng các cháu phải yêu nước vì “nước ta giàu và đẹp”. Ðó là tình yêu vụ lợi, chứ đâu còn là yêu nước, ông kêu lên, nếu nước ta nghèo và xấu thì sao? không cần yêu nữa à?
Mặc dầu rời bỏ quê hương từ khi còn nhỏ, cha tôi lúc nào cũng quyến luyến nó, và ông truyền tình yêu đối với mảnh đất tuột rà lại cho những đứa con mình.
Trong cuốn sách dự định, khởi đầu bởi tình yêu đó, tôi muốn ghi lại những số phận người trong làng tôi, một làng quê của đồng bằng Bắc bộ, như là hình ảnh thu nhỏ của cách mạng giải phóng dân tộc qua những thời kỳ tiền khởi nghĩa, kháng chiến chống Pháp, Cải cách ruộng đất… Tôi hi vọng qua những sự kiện xảy ra qua những số phận người trong một làng dựng nên một mảng lịch sử với những bước thăng trầm không phải chỉ của một thế hệ nông dân mang trong mình khát vọng truyền nối về một cuộc sống no đủ, thanh bình.
Mấy cuốn sổ tay của tôi kín đặc tên người tên đất, phong tục, tập quán, thổ ngữ, gia phả, thần phả, những phác họa nhân vật, tính cách, tiểu sử của những nhân vật ấy, cả những tư liệu về chức vụ, quân hàm của quân đội lê-dương, quân đội viễn chinh Pháp vv…
Kể chuyện này ra thì buồn cười, nhưng đúng thế: cái mà tôi còn thiếu cho cuốn tiểu thuyết là một ông thầy bói. Ông này, theo tư liệu thu được, phụ trách một cơ sở kháng chiến trong thành phố. Nhà chiêm tinh phương Ðông được viên đại tá tư lệnh xếch-tơ(3), một cựu sinh viên toán-lý ham nghiên cứu phương Ðông thần bí, coi như thầy học. Ông thầy bói cũng yêu mến đệ tử của mình.Trong ông tình yêu cuộc kháng chiến và tình yêu anh học trò đánh nhau chí tử.
Tôi không biết gì về bói toán, nhất là khoa tử vi. Từ ngữ của cái nghề cổ xưa nhất thế giới, tên gọi các vì sao không có thật trên bầu trời thế tục xa lạ đối với tôi. Ðể có được những nhân vật sinh động tôi không ỷ vào trí tưởng tượng vốn không được giàu có, mà thường tìm kiếm trong đời thực những nguyên mẫu cho tới khi có thể, như các nhà văn thường nói, sờ thấy được nhân vật tương lai. Hemingway chia xẻ kinh nghiệm viết văn cho người đi sau “Cái bịa lớn bao giờ cũng giống thật”. Tôi bịa kém. Tôi nghĩ khác: cái thật phong phú hơn cái bịa. Nói cách khác, cuộc đời mới là người bịa chuyện giỏi nhất.
Ðúng vào lúc tôi đang viết mấy chương đầu cho cuốn sách thì cha tôi bị bắt, nhà tôi bị khám, bản thảo bị tịch thu. Vào thời điểm rối ren như thế mà tiếp tục viết thì thật gàn dở, nhưng tôi không muốn công việc bị gián đoạn. Tôi chán nản, tôi hụt hẫng, tôi có cảm giác mình chẳng còn lúc nào để viết nữa. Tôi chạy tới với sáng tác như thể nó là cứu cánh. Mà cũng có thể tôi cần được ngụp lặn trong bận rộn để tách mình khỏi những ý nghĩ đen tối về tai họa đang đến.
Tôi đã gặp kẻ hủy diệt thế giới quan của tôi trong bối cảnh như vậy.
Ðồn rằng gần đền Hàng Trống có một ông thầy bói giỏi. Ông có thể nói ra vanh vách chuyện quá khứ của mình, còn những gì ông nói về tương lai thì sau nghiệm ra thấy đúng cả.
Người khuyên tôi đến xem bói là cô em dâu tôi, rất tin ở bói toán, và vợ tôi, vốn chẳng bao giờ mê tín dị đoan.
Ðược chứng kiến cảnh công an nửa đêm hùng hổ tới nhà bắt cha tôi, vợ tôi lo cho số phận của tôi. Mà số phận tôi cũng tức là số phận cái gia đình bé nhỏ mới được xây dựng gồm vợ chồng tôi và hai đứa con lít nhít, một trai một gái. Nếu tôi cũng bị bắt thì gia đình tôi tan nát. Lương vợ tôi không đủ nuôi thân, nói gì nuôi hai đứa con. Trong hoàn cảnh chúng tôi bất cứ ông thầy bói nào cũng đáng tin nghìn lần hơn một chính quyền dối trá.
Ông thầy bói mù cảm thấy sự có mặt của chúng tôi qua những tiếng dép bước rón rén vào nhà. Ông nói, giọng sẽ sàng:
– Xin các vị chờ cho một lát.
Chúng tôi đến đã sớm nhưng có người còn sớm hơn. Ông thầy bói đang xem cho một bà đứng tuổi mặt mày thiểu não, luôn miệng vâng dạ, thỉnh thoảng lại suỵt soạt khấn khứa.
Nhà chật, ông hành nghề trên cái phản. Người trong nhà đi lại loẹt xoẹt, ra đụng vào chạm ầm ĩ, coi như không có ông. Chúng tôi ngồi ghé vào mép cái phản không mấy sạch sẽ. Tôi thất vọng. Tôi tưởng sẽ gặp một cụ đồ nho thất thế với cặp mắt sáng anh minh, giọng nói sang sảng, chứ không phải ông già mù với đôi tay xương xẩu sờ soạng trên chiếc chiếu bẩn để tìm cái đĩa ông vừa đặt xuống. Giọng ề à ông nói với bà khách những chuyện tương lai tầm phào: tháng này bà có lộc, nhỏ thôi, nhưng cũng là lộc, còn tháng sau thì phải cẩn thận kẻo mất cắp, tháng sau nữa sẽ có người nhà ở xa về mang đến tin vui…
Ông không có chỗ trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Ông sẽ lạc lõng trong đó như một nhân vật quặt quẹo. Ðã định đứng lên ra hiệu cho vợ tôi lẻn về thì quẻ bói của bà khách đến trước cũng vừa xong.
– Mời ông bà ngồi.
Vẫn yên vị, xếp bằng tròn, ông thầy bói quay mặt về phía chúng tôi, hướng rất đúng, như thể đàng sau cặp kính đen là đôi mắt sáng.
Ðành lê chân ngồi vào chỗ bà khách vừa bỏ đi.
– Sáng nay tôi độn, biết ông sẽ đến. – cặp kính đen nhìn tôi – Thánh dạy: có quý nhân đến nhà!
Trời đất quỷ thần ơi, tôi mà là quý nhân của ông ư, ông thầy bói? Quý nhân theo cái nghĩa nào vậy? Ông nhầm rồi. Tôi chẳng có thể là quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, cho bất cứ ai.. Một ngàn lần không, ông thầy bói của tôi ạ, tôi không phải quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, càng không thể là quý nhân của ông. Thậm chí tôi cũng chẳng còn tiền để đặt quẻ cho hậu hĩ.
– Không dám. – tôi lúng túng nói – Chúng tôi đến phiền xin cụ xem cho một quẻ.
– Vâng. Ông muốn xem hung cát? Hay công danh, tài lộc?
– Cụ cứ nói những gì cụ thấy, xin lỗi, những gì Thánh dạy…
Một nụ cười độ lượng thoảng qua mặt ông thầy.
– Xin ông cho biết ngày sinh tháng đẻ.
Tôi nói. Nhìn xéo qua cặp kính đen, tôi thấy một đôi mắt trắng đục – ông già bị lòa thật. Ông già ngẩng đầu lên, trán hơi nhăn lại, lẩm bẩm một hồi rồi sờ soạng tìm cái đĩa. Bằng hai bàn tay thành kính, ông nâng cái đĩa lên ngang trán, suỵt soạt khấn. Rồi hạ cái đĩa xuống, ông trầm ngâm gieo tiền. Ba đồng trinh rơi xuống mặt đĩa kêu rổn rảng. Sau khi rờ rẫm sờ từng đồng một để biết sấp ngửa, và hẳn cũng để kéo dài thời gian suy nghĩ, ông xoa xoa chúng trên mặt đĩa một lát rồi chậm rãi nói với tôi:
– Tôi sẽ nói ba điều. Nếu ông thấy tôi nói đúng thì ta xem tiếp. Nếu sai, tức là Thánh không cho, xin ông lại đây vào bữa khác.
Tôi sẽ không trở lại đây nữa, bất kể Thánh cho hay không cho.
– Xin cụ cứ nói.
– Thứ nhất, ông đã từng xuất ngoại.
Một câu chẳng quan trọng, không có ý nghĩa. Nhưng kể cũng lạ, căn cứ vào đâu mà ông già mù kia đoán được tôi đã ở nước ngoài? Tôi không ở nước ngoài lâu tới mức giọng nói bị thay đổi. Một mùi lạ, xà phòng thơm hoặc nước hoa? Cũng không có chuyện đó. Tôi vừa mới từ những hố bom trở về. Tôi tắm nước ngòi, nước ao tù, không xà phòng, chỉ cốt gột sạch bùn đất. Người mù có khứu giác tinh tường, nhưng ông không thể thấy ở tôi mùi nước ngoài nào.
– Có đúng vậy không?
– Dạ, thưa cụ cứ nói tiếp.
– Thứ hai, mùa thu năm nay nhà ông có hỉ, hỉ qua tiếp đến hạn.
– Dạ?
– Hỉ đây ứng vào anh em ông, hoặc em trai lấy vợ, hoặc em gái lấy chồng. Còn hạn, nó ứng vào cụ thân sinh ra ông.
Ông thầy bói nhẩn nha nói trúng vào những sự kiện vừa xảy ra trong gia đình tôi – mùa thu em trai kế tôi lấy vợ, sau đó đến cha tôi bị bắt. Tôi sững sờ.
– Sao mà lại có người số lận đận thế! – ông già ngẩn người, tư lự – Lạ thật, lạ thật!
– Là sao, thưa cụ?
– Cứ như Thánh dạy thì hiện nay cụ thân sinh ra ông đang mắc hạn tụng đình, tức là có chuyện lôi thôi nơi cửa quan…
Tôi vờ phản bác:
– Sao có chuyện thế được, thưa cụ? Cụ thân sinh tôi đã về hưu, hiện sơ tán ở Tam Ðảo. Cụ đã có tuổi, chẳng làm gì để có thể mắc vào chuyện lôi thôi.
Ông thầy bói nghiêng đầu kiên nhẫn nghe.
– Vậy mà cứ như quẻ này thì cụ nhà bị bắt rồi.
Ông nói sau một lát im lặng, như thể khi tôi nói ông bận lắng nghe ai đó đang nói với ông, chứ ông không nghe tôi.
Tôi lặng đi. Có thể có sự thật như thế không: một ông già xa lạ, và ông ta biết được những việc xảy ra trong nhà người khác?
– Nhưng…
– Lận đận quá! – ông già lắc đầu ái ngại – Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến thời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế! Cương cường quá, thẳng tính quá, nên mới bị tai vạ. Cự môn đắc địa lại gặp Hỏa tinh, Thất sát… Lại còn thêm mấy hung tinh nữa, mới nguy… Cứ như tôi suy thì cụ nhà không vướng vào chuyện kinh tế đâu, mà đây là chuyện chính trị…
Tôi không còn muốn chối nữa. Nhưng tôi chỉ nói:
– Tôi sẽ đi Tam Ðảo thăm cụ tôi ngay.
– Ông đi đi! Tuy chẳng giúp gì được cụ nhà đâu, nhưng đạo làm con ông phải đi. Mà lạ, cụ nhà gặp nạn ít ra cũng gần cả tháng rồi mà sao không ai báo cho ông biết?
– Thưa cụ, tôi vừa đi công tác khu 4 về.
Vợ tôi đưa mắt cho tôi.
– Bây giờ phiền cụ xem cho tôi.
Ông thầy bói cúi đầu xuống. Ngón cái đi những bước chậm chạp trên những ngón tay xương xẩu.
– Tôi nói thẳng ra nhá?
– Vâng, cụ cứ nói thẳng.
– Thế này: chính ông cũng sẽ gặp hạn, ông ấy, nhưng không phải ngay bây giờ. Qua tháng này đã, trong tháng sau…
Tôi liếc vợ tôi. Mặt nàng nhợt đi khi nghe câu nói đó. Tội nghiệp, vợ tôi thương tôi biết bao nhiêu.
– Hạn sẽ xảy ra bất ngờ…- ông ta nói tiếp – Tôi biết, ông không tin đâu, nhưng nó sẽ đến đấy. Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa…
Tôi suy nghĩ. Thế là thêm một người khẳng định tôi sẽ bị bắt. Khác ở chỗ người này không nhìn vào tình hình chính trị mà căn cứ ở những vì sao không có thật.
– Hạn liệu có dài không, thưa cụ? – tôi hỏi.
Ông thầy bói lắc đầu:
– Tôi không nói trước được. Nếu ông cúi mình xuống, không cãi lại, người ta nói gì cũng gật, buộc cho mình cái gì cũng ừ, cứ nhận hết thì xong. Bằng không hạn sẽ kéo dài: hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu… cứ thế mà nhân lên mãi…
Vợ tôi nước mắt đã lưng tròng.
Xong quẻ, tôi đưa cho ông thầy bói nhiều hơn số tiền tôi định đưa. Tôi hỏi ông về chữ quý nhân mà ông dùng cho tôi thì ông nói:
– Quý nhân là người đáng quý, không có nghĩa nào khác. Không phải ông cho tôi tiền hay cho tôi quà mới là quý nhân. Mong còn có dịp gặp lại nhau.
Trước khi ra về tôi đặt câu hỏi cuối cùng:
– Thưa cụ, cụ đã xem cho nhiều người, biết nhiều số phận, tôi muốn hỏi cụ: có phải thời nay người xấu nhiều hơn người tốt không?
Ông già cười khà khà:
– Cuộc đời phải có âm có dương, có đực có cái, có xấu có tốt, mới là cuộc đời chứ. Dĩ nhiên, có hồi âm thắng dương, có hồi dương thắng âm, tựu trung chông chênh là thường tình, cân bằng là hãn hữu. Ông có số nhìn xa trông rộng, ông thừa hiểu sự đời, còn hỏi tôi làm gì?
Trong khi đối thoại với Huỳnh Ngự ở sân Hỏa Lò tôi lại nhớ đến lời tiên tri của ông thầy bói mù: hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa…
Vậy cái kẻ gắp lửa bỏ tay người kia là ai?
Rõ ràng không phải cái anh chàng thư lại đang đứng trước mặt tôi rồi. Y bất quá là một tên công sai nhiệt tình.
Kẻ gắp lửa bỏ tay người là chủ của y kia. Tôi nghĩ tới Lê Ðức Thọ. Nhưng cả khi đó, cả bây giờ tôi vẫn không hiểu: Thọ muốn gì ở tôi?
Tôi không hoạt động chính trị. Tôi làm việc, như bất cứ ai trong bất cứ xã hội nào. Tôi thích chủ nghĩa xã hội bởi nó hứa hẹn một tương lai đẹp – tự do, công bằng xã hội, kinh tế phồn vinh. Nhưng những thứ bán kèm với nó như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, ý thức tổ chức, dân chủ tập trung không được lòng tôi. Cuộc đấu tranh gọi là chống chủ nghĩa xét lại hiện đại mà nhà cầm quyền dấy lên không phải của dân tộc Việt Nam. Càng không phải cuộc đấu tranh của tôi, vì tôi, cho tôi. Tôi chẳng thích chủ nghĩa xét lại nào hết, hiện đại cũng như không hiện đại.
“Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa…”. Tôi không thích chính trị mà nhà cầm quyền cứ lôi tôi vào là đúng với câu việc không có nó bảo là có. Tôi đã xa lánh chính trị mà nhà cầm quyền cứ giữ rịt tôi trong nó là ứng với câu việc xong rồi nó bảo là chưa…
Rất có thể người ta không ưng được tôi vì tôi đã vi phạm không phải một lần những điều cấm kỵ. Lần đầu với truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ (báo Văn Nghệ, 1961), tôi bị Tố Hữu lên án “Vũ Thư Hiên lộ rõ tâm trạng bất mãn với chế độ hiện hành”, trong bài viết:”Giương cao ngọn cờ tính Ðảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ”. Cùng bị vạch mặt chỉ tên như những tên xét lại hiện đại trong văn học còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Tố Hữu coi Nguyên Ngọc nói móc họng Ðảng, ví lòng dân như mạch nước ngầm, không dễ thấy nhưng quật đổ được những công trình lớn. Ngô Ngọc Bội (với truyện ngắn Chị Cả Phây) bị Tố Hữu gọi là freudiste(4). ê Việt Nam mà bị coi như freudiste là nặng lắm.
Lần thứ hai tôi bị đánh là vì kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên, tôi đã kể trong chương trước. Lần thứ ba nhẹ hơn cả, do truyện ngắn Ðêm Mùa Xuân. Nó không bị đánh trên mặt báo, nhưng tập truyện ngắn cùng tên (Nhà xuất bản Lao động, 1963) bị thu hồi một cách lẳng lặng.
Ðòn nặng nhất là bài báo của Tố Hữu. Nó xuất hiện trên báo Nhân dân, sau đó được tất cả các báo nhất tề đăng lại, không trừ cả báo Văn Nghệ đã đăng truyện ngắn này. Giáo sư Hoàng Xuân Nhị còn gán thêm cho tôi một tội mà nhà lãnh đạo văn nghệ bỏ sót: “Vũ Thư Hiên đã phất cao ngọn cờ ấn tượng chủ nghĩa nhằm chống lại đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa của Ðảng”. Trong trận đòn hội chợ, nhà phê bình văn học Phong Lê bồi thêm cho tôi một quả đấm muộn trên tập san Nghiên cứu Văn học, cũng với ý ấy. Tôi giận Phong Lê hơn giận vị giáo sư khả kính. Phong Lê thuộc lớp trẻ chúng tôi, lẽ ra không bảo thủ mới phải. Anh em nói Phong Lê chậm hiểu, nhưng không cơ hội. Hai chục năm sau quả nhiên anh cũng bị đánh vì những ý nghĩ vượt ra ngoài khuôn phép.
Từ sau những sự kiện đó tôi không được in nữa.
Nói chung, nhà văn, nhà thơ nào một lần lỡ bút hoặc lỡ lời đều bị như vậy. Vũ Bão(5), tác giả cuốn Sắp Cưới, một cuốn sách hay về Cải cách ruộng đất vì giọng văn dân dã hiếm có, để cho nhân vật nói Trường Chinh bị mất chức tổng bí thư bằng câu “mất bay cái chức Ðảng trưởng”, mà nhiều năm bị treo bút, còn hơn cả Lev Tolstoi bị Nhà Thờ Chính giáo Nga phạt vạ anaphema(6) vì tội báng bổ.
Cái khác là Nhà Thờ có thông báo hẳn hoi, có cha đạo cao rao trên tòa giảng cho đàn chiên được biết, còn chúng tôi bị rút phép thông công ngầm, bằng chỉ thị ngầm.
Năm 1964, Nghị quyết 9 được phổ biến rộng rãi, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại được phát động người ta liền rầm rộ tổ chức những cuộc rà soát các ấn phẩm để tìm ra những cái có tư tưởng xét lại hoặc bị ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại.
Ai nấy sợ xanh mắt. Bói ra ma quét nhà ra rác, đầu chẳng phải cũng phải tai. Ðến nhà văn Ðỗ Quang Tiến ở báo Văn Nghệ, người chọn đăng truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(7) của tôi, vốn hiền lành, chẳng ai có thể buộc tội ông xét lại, cũng chối phăng tội của ông, đổ ụp nó cho tập thể. Tất nhiên, truyện ngắn được in phải qua mấy người duyệt, Ðỗ Quang Tiến đã ranh mãnh cho nó qua được những con mắt cảnh giác lúc chúng mệt mỏi. Ðỗ Quang Tiến cười hì hì bảo tôi: “Không làm thế truyện ngắn của cậu không thể ra được, ra rồi mình chối phăng, làm gì nhau tốt?”.
Tôi quý Ðỗ Quang Tiến không phải chỉ vì ông đã tìm cách “lăng xê”(8) tôi. Ðối với người mới vào nghề đó là cái ơn lớn. Năm 1956 tôi mới có vài truyện ngắn in trên các tờ Văn Học, Tổ Quốc và Ðộc Lập. Ðỗ Quang Tiến, với tư cách biên tập viên báo Văn Học, đã chọn in Ðường Số 4 và sau đó Ðêm Mất Ngủ, vào năm 1961. Ông nhà văn xuất thân công chức, trước Cách mạng Tháng Tám ở Nha Thương chính hay Ty Kiều lộ tôi không nhớ rõ, đã có sự hy sinh thầm lặng cho việc vun xới các mầm non văn nghệ. Tôi và các bạn văn trẻ thường tới nhà ông. Chúng tôi chen chúc nhau trên chiếc chiếu hẹp, uống trà đặc, nói chuyện văn chương. Ðỗ Quang Tiến có nhiều ý hay, nhiều câu chuyện dí dỏm và những dự định viết không thành. Có người chê Ðỗ Quang Tiến hèn. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi tiếc những tác phẩm không ra đời. Tôi không coi sự hèn chút ít, tức là hèn nhưng không hại ai, được lịch sự gọi bằng không có gan, là thói xấu. Hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút, nếu không nhiều. Ðó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ thì không được lên lương, hoặc mất đứt cơ may ra nước ngoài một chuyến. Nặng, anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác, hoặc bị tống ra ngoài biên chế.
Không kể vụ Nhân văn – Giai phẩm xảy ra đã hơn chục năm, với Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Phan Tại, Hoàng Công Khanh, Phùng Cung(9) bị đi tù, hình thức bắt giam chưa được dùng cho văn nghệ sĩ. Trừ trường hợp Tuân Nguyễn(10), nhà thơ, cán bộ Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, bị bắt mùa hè năm 1965.
Một sáng chủ nhật tôi đến rủ Tuân Nguyễn đi ăn sáng thì thấy cửa nhà anh khóa trái. Tôi ngạc nhiên. Bình thường vào ngày nghỉ nhà thơ lười của chúng tôi chẳng bao giờ dậy sớm. Chủ nhật, mười hai giờ trưa anh vẫn còn trên giường. Tuân Nguyễn có thói quen đọc sách khuya. Uống cà phê một mình thì buồn, tôi dong xe đi tiếp, đến Vũ Huy Cương(11). Cương rầu rầu báo cho tôi tin dữ: Tuân Nguyễn bị bắt rồi. Chuyện thế này: Tuân Nguyễn cả tin hớ hênh đưa cho một ông bạn nào đó cuốn sổ tay trong có mấy bài thơ anh mới làm. Cuốn sổ rơi vào tay công an. Ông bạn của Tuân Nguyễn, hoặc là một nhà mác-xít chân chính, hoặc là một tên chỉ điểm, trong trường hợp này rất có thể chỉ là một. Ðáng tiếc, chẳng bao giờ chúng tôi được biết kẻ làm việc nhơ bẩn đó là ai.
Chúng tôi đoán, và đoán không sai: Tuân Nguyễn bị bắt vì bài thơ Trái Tim Hồng Ngọc. Nó được làm nhân đám tang ông Dương Bạch Mai. Anh rất quý ông, gọi ông bằng thầy, ví trái tim ông như viên hồng ngọc vĩnh viễn ngời sáng: “Một tiếng nói chúng tôi chờ đã mất. Ðau đớn này đau đớn nào hơn. Chân lý không muốn nằm dưới đất…” Tôi tiếc không tìm được bài thơ của anh để giới thiệu ở đây. Nó vĩnh viễn biến mất. Bài thơ gây xúc động sâu sắc trong chúng tôi hồi ấy. Vì bài Trái Tim Hồng Ngọc, và vì một số bài thơ chưa từng đăng báo, anh bị tù tám hoặc chín năm, tôi không nhớ rõ.
Khi bị bắt Tuân Nguyễn ốm yếu lắm. Anh em đồn anh bị lao phổi. Các đồng chí quẳng anh vào tù, ở trong tù anh lại được các bạn tù, phần đông là lưu manh, chăm sóc. Ðêm đầu tiên từ trại tù trở về Hà Nội anh ngủ gục ở ga Trần Quý Cáp. Một cô điếm đi ăn sương gặp anh, thương tình đưa anh về túp lều của cô trong khu ổ chuột sau Khâm Thiên. Cô an ủi anh, cưu mang anh trong những tháng đầu tiên trở về với cuộc sống, khi anh quá chán nản, không muốn gặp mặt bè bạn, thậm chí muốn tự sát. Tuân Nguyễn đứng lên được là nhờ cô. Cảm động trước lòng nhân ái bao la của người con gái không quen biết, anh ngỏ ý muốn gá nghĩa cùng cô, nhưng cô từ chối:”Anh ơi, chúng mình khác nhau nhiều quá, anh làm sao có hạnh phúc với em được. Anh sống sao nổi trong xã hội này nếu vợ anh là em, một con điếm?!”.
Thời kỳ này là thời kỳ phần lớn những cây bút trẻ im tiếng. Họ không chịu gò mình vào nền văn nghệ quan phương khô xác và kênh kiệu.
Trong bầu không khí ngột ngạt đầy những điều cấm kỵ khó có hứng để mà viết. Nguyễn Tuân phân trần về những cái ông viết để trả nợ cho những chuyến đi:” Khi ngồi vào bàn nhà văn phải thấy thoải mái trong lòng thì may ra, may ra thôi, hắn mới viết được một cái gì đó ra hồn. Ngòi bút khi viết mà ngập ngừng, mà run rẩy thì chỉ cho ra những văn phẩm nước ốc, có khi lại còn bốc mùi thum thủm. Khốn nỗi, thời nay im lặng không xong. Im lặng người ta bảo mình không bằng lòng họ, mình có ý chống họ. Cho nên anh đừng lấy làm lạ thấy tôi viết mấy cái ba lăng nhăng. Chẳng qua thỉnh thoảng tôi phải nhảy ra mà hô présent(12) một cái cho phải phép, để cho người ta khỏi bẻ hành bẻ tỏi…”
Ông thầy bói đúng. Có kẻ gắp lửa bỏ tay người…
Sau khi bị bắt tôi tin có thật một Nostradamus(13), cũng như có thật một Trạng Trình.
Nhưng nếu mọi hành động của con người đều nằm trong tiền định thì con người còn là cái gì? Nó chẳng quyết định được gì hết sao, loại sinh vật có trí khôn là chúng ta? Nó chỉ là con rối trong tay định mệnh sao? Nguyễn Du của chúng ta đúng hay sai khi ông nói “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”?
(1) Ông Tiến cố (tên thật là Nguyễn Văn Tiến) có lần bị mật thám bắt tại nhà tôi, khoảng năm 1937, hồi ấy ở phố Huế. Mẹ tôi đề nghị viên thanh tra mật thám người Pháp Lanèque để ông Tiến ăn bữa cơm đã xong trước khi vào tù vì “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Lanèque nhận lời dùng cơm cùng gia đình tôi. Bữa cơm chia tay được chụp ảnh kỷ niệm nhưng bức ảnh này đã bị mất trong vụ công an khám nhà năm 1967. Mẹ tôi nhận xét: “Mật thám Pháp đối với kẻ thù lịch sự và tử tế hơn công an ta đối với dân”. Do quan hệ với các chức sắc Thiên Chúa giáo ông Tiến bị chính quyền bắt đi tập trung cải tạo nhiều năm.
(2) Cụ Ðinh Chương Dương (1885-1972) là một trong những người sáng lập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, người tổ chức và đào tạo rất nhiều nhà cách mạng có xu hướng cộng sản tại Việt Nam. Một số được cụ Ðinh gửi sang Tàu dự các lớp huấn luyện do cụ Hồ tổ chức. Quê ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Bị Pháp cầm tù nhiều lần tại nhiều nhà tù khác nhau với số năm tù tổng cộng là 33 năm. Sau Cách mạng Tháng Tám, cụ Ðinh ít được nói đến, cho dù với tư cách một nhà cách mạng lão thành đã có nhiều cống hiến cho cách mạng.
(3) Tiếng Pháp secteur, tiểu quân khu, thường bao gồm lãnh thổ của một tỉnh (province) thời thuộc Pháp). Không có khái niệm tương đương trong thuật ngữ quân sự Việt Nam.
(4) Sigmund Freud(1856-1939), nhà tâm thần học người ỏo, người xây dựng ngành phân tâm học, chủ trương bản năng dục bị dồn nén vào vùng vô thức chỉ huy cách hành xử của con người. Ông là tác giả của những cuốn Khoa Học Các Giấc Mơ (1901), Ba Khảo Nghiệm Về Lý Thuyết Tính Dục (1905), Tâm Lý Tập Thể Và Sự Phân Tích “Cái Tôi” (1923).
(5) Tên thật là Phạm Thế Hệ (sinh năm 1932), một nhà văn thiên về lối viết trào lộng, vốn không phải là lối viết được các nhà lãnh đạo yêu thích.
(6) (1828-1910), nhà văn lớn của nước Nga, tác giả Chiến Tranh Và Hòa Bình, Anna Karenina. Do những tư tưởng tiến bộ Lev Tolstoi bị Giáo hội Chính thống Nga rút phép thông công.
(7) Ðêm Mất Ngủ – truyện ngắn nói về một thương binh đã chuyển ngành. Vết thương ở đầu gây ra chứng mất ngủ triền miên. Trong một dêm không ngủ được anh đi lang thang trong thành phố. Trên đường anh phát hiện một bóng đen bám sát anh lẵng nhẵng. Anh hiểu đó là một nhân viên công an. Họ chạm trán lúc trời hửng, trò chuyện với nhau và nhận ra nhau là hai người lính ở hai đơn vị quân đội đã từng phối hợp đánh một đồn địch.
(8) Từ tiếng Pháp lancer = ném ra, tung ra, ở đây có nghĩa là giúp đỡ vào văn đàn, để làm quen với độc giả.
(9) Những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ bị đi tù liên quan tới vụ Nhân văn – Giai phẩm, trong đó có những người có án và những người không có án.
(10) Tuân Nguyễn, (1931-1983), nhà thơ. Sau khi được tha, với tư cách cán bộ miền Nam tập kết, anh được hưởng trợ cấp hàng tháng khi trở về thành phố Huế sau năm 1975. Tuân Nguyễn vào Sài Gòn sinh sống, rồi mất vì một tai nạn giao thông. Trong lời điếu một người bạn thân của Tuân Nguyễn nói về anh ” Thời đại như ngã ba sông. Anh như con thuyền giữa dòng nước xoáy. Thuyền anh vượt thẳng mà sông lại cong. Chạm bờ sông nước dìm anh tận đáy…”
(11) Biên tập viên Xưởng phim hoạt họa. Sau bị bắt trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” vào đầu năm 1968.
(12) Présent: tiếng Pháp, có nghĩa là: Có mặt!
(13) Nostradamus (tên thật Michel de Nostredame, 1503-1566) nhà vật lý và thiên văn Pháp, nổi tiếng với cuốn Thế Sấm Ký, gồm những lời tiên tri từ năm 1500 tới ngày tận thế, được coi như sẽ xảy ra vào năm 3797.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:50:13 GMT -6
Chương 11
– Anh ngủ tốt chớ, anh Hiên?
Không ngẩng lên, Huỳnh Ngự vừa lúi húi soạn chồng hồ sơ trên bàn vừa hỏi tôi thay lời chào. Tôi biết thừa: y chẳng bận gì hết, y làm ra vẻ bận bịu để bắt tôi phải chờ, cho những gì sẽ xảy ra sau đó thêm quan trọng.
– Cảm ơn, tôi ngủ được. – tôi nhạt nhẽo đáp.
Ngồi vào vị trí thường ngày, tôi lơ đãng nhìn quanh.
Công việc hỏi cung được Huỳnh Ngự tiến hành theo lối du mục, không cố định một nơi, nay phòng này mai phòng khác, không hiểu tại Hỏa Lò thiếu phòng làm việc hay do nguyên nhân nào khác. Căn phòng hôm nay hẹp nên có vẻ ấm hơn. Cách bài trí bên trong thì phòng nào cũng như phòng nào – bàn chấp pháp đặt sát tường hậu, sau lưng chấp pháp là chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, với vài băng khẩu hiệu bên dưới. Ghế cho phạm(1) được đặt cách chỗ ngồi của chấp pháp hơn một tầm với, đề phòng sự tấn công bất ngờ. Bên phải hoặc bên trái, là cái bàn nhỏ dành cho phạm viết lời khai, phần lớn là bàn mộc, cái nào cái nấy lem nhem mực tím. Ghế cho phạm là ghế đẩu, thấp hơn ghế chấp pháp. Ở vị trí này bao giờ người bị hỏi cung cũng phải ngước mắt lên nhìn kẻ hỏi mình. Một cách tính toán để nâng cao uy thế cho chấp pháp. Cũng có lần tôi được đưa tới một căn phòng khác loại, bài trí theo kiểu phòng khách, được ngồi ghế có tựa, ở khoảng cách gần chấp pháp. Ðó là khi tôi chấp nhận một sự lùi bước.
– Hừm, bữa hổm ta làm tới mô rồi hè? Anh nói anh ngủ được, hả? Vậy mà trong y bạ của anh vừa lấy về tui thấy bác sĩ toàn kê thuốc ngủ với thuốc an thần. – Huỳnh Ngự nói, giọng thân mật cố ý – Dùng nhiều mấy thứ nớ hại lắm đó.
Tôi hiểu ẩn ý câu nói: anh bạn, tụi tui nghiên cứu anh kỹ lắm, anh coi, tài liệu cả đống nè, tụi tui biết về anh không ít đâu.
Huỳnh Ngự sắp xếp xong đống giấy má, đặt chúng gọn gàng vào góc bàn.
– Còn nếu khó ngủ thì tốt nhứt là trước khi đi ngủ anh thở theo khí công. Anh biết luyện khí công chớ?
– Không. Tôi chưa tập khí công bao giờ.
Tôi nói dối. Tôi biết khí công và yoga. Nhưng tôi thích nói dối Huỳnh Ngự, cho dù trong những chuyện chẳng có gì quan trọng, nhằm kiểm tra sự hiểu biết của Huỳnh Ngự về tôi. Cách tốt nhất để đối thủ không hiểu được mình là tạo ra một mê cung lẫn lộn cái thật và cái giả. Vả lại, nói dối để thấy đối thủ bị mắc lừa âu cũng là một thú vui trong tù.
Huỳnh Ngự nghiêng ngó nhìn tôi:
– Tui sẽ bày cho anh cách chữa căn bản. Coi tui thị phạm(2) cho anh nè. Cứ làm theo cách tui bày ít lâu là bịnh mất ngủ hết liền.
Y ngả người trên ghế, nhắm mắt lại, chầm chậm hít vào thở ra nhiều lần. Tôi cười thầm. Cách nói đi ngẩu thay cho đi ngủ làm tôi nhớ tới cách anh bạn tôi nhại vợ mình: “Eng ơi eng téc đèng đi ngẩu(3)”. ê vợ anh cái gì anh cũng ưa, trừ cách phát âm của cô, anh uốn mãi nhưng cô không sửa được. Trong giọng nói, cách nói của Huỳnh Ngự sau hơn chục năm ở đất Bắc đã không còn nguyên chất giọng quê hương, nhưng khi nào tức giận lên y nói một tràng dài mà tôi không hiểu gì.
– Phải hít cho thiệt sâu, hít vô bụng dưới nè, đẩy cái khí nớ xuống, nhịn thở lâu thiệt là lâu, sau đó mới thở ra từ từ, từ từ như rứa cho tới khi hết khí rồi vẫn còn vận nó lên hoành cách mô đặng tống cho bằng hớt ra ngoài. Cứ thở như vậy lối mươi, mười lăm phút là ngủ liền hà. – Huỳnh Ngự cười hì hì – Anh không biết chớ nhiều người ở Hỏa Lò nầy một thời gian ra là hớt sạch mọi bịnh đó.
Thảo nào, để tăng cường sức khỏe cho nhân dân Nhà nước tăng số lượng nhà tù lên vòn vọt trong một thời gian kỷ lục!
Chúng tôi thong thả uống trà, nói chuyện vãn. Huỳnh Ngự có sắc khí của người hài lòng về mình. Y có vẻ vừa vượt qua một chặng đường vất vả. Tôi đồ rằng cái đó có liên quan tới tình hình mới. Từ khi biết Ðảng có quyết định mới về cách xử lý vụ án, có thể anh em trong vụ tôi cũng bớt căng thẳng với y.
Ngoài tôi ra Huỳnh Ngự còn làm việc ít nhất cũng với mấy người nữa. Y ra đầu đề, nói theo cách của y, bảo tôi ngồi viết, rồi tất bật chạy đi đâu đó. Lát sau y chạy về, sắc mặt khi buồn khi vui, bực bội nhiều hơn phấn khởi, thỉnh thoảng còn nổi khùng lên một cách rất vô lý, chắc hẳn vừa trải qua một cuộc cãi cọ.
Hỏi thăm sức khỏe tôi xong, Huỳnh Ngự huyên thuyên đủ mọi chuyện tầm phào. Thậm chí y còn quan tâm tới sắc đẹp của tôi nữa. Y hỏi tôi có muốn cạo râu không, râu tôi mọc dài, trông gớm chết, mất cả đẹp trai. Tôi cảm ơn, nói bữa khác cạo cũng được, trong xà lim bộ râu chẳng làm phiền tôi bao nhiêu, cái mà tôi cần bây giờ là bàn chải và thuốc đánh răng. Y phàn nàn nói đã nhắn vợ tôi gửi mấy thứ đó vào cho tôi rồi mà sao vẫn chưa gửi, chắc bả bận đi công tác địa phương. Y nói dối ráo hoảnh – nhà tôi đông người, không người này đi gửi thì người khác đi, không khi nào để tôi ở đây phải thiếu.
– Trong tù mọi người đều dối trá, cả anh cai ngục lẫn anh tù. Môi trường nhào nặn con người theo mẫu của nó. – Thành nhận xét.
Chẳng cần nhiều thời gian ở tù tôi mới thấy Thành nói đúng.
– Mấy bữa rầy tui bận quá xá! – Huỳnh Ngự cười hì hì, tự mãn – Anh biết không, từ hôm biết tin Vũ Thư Hiên bị bắt, bè bạn anh nườm nượp kéo tới văn phòng xin được báo cáo, tiếp không xuể. Ðành phải lên lịch tiếp từng người một. Bộ anh không tin hả?
Tôi trương lên vẻ mặt hồn nhiên nhất
– Có gì mà không tin. Gặp cơ hội kiếm chác được trong thời buổi khó khăn này khắc có khối kẻ bâu lại. Ðảng rất khuyến khích sự lập công: “thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của mình và hăng hái tố cáo người khác là thước đo lòng trung thành với Ðảng”, họ sẽ được Ðảng chiếu cố. Có điều những người này có thực là bạn tôi hay không? Bạn của cơ quan công an là cái chắc rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
– Nè, bỏ cái lối xóc óc đi nghen. Chẳng có lợi chi cho anh đâu, thiệt đó. May cho anh gặp tui, chớ phải người khác họ quyết không để cho anh yên.
– Tôi cũng nghĩ thế, may thật!
Huỳnh Ngự nguýt tôi một cái dài.
Công bằng mà xét, Huỳnh Ngự không phải người xấu. Y chẳng qua là một công bộc trung thành với nhà nước hoặc với cái ghế y được ngồi, y làm việc như một robot không biết đến hỏng hóc. Y ngầy ngà, y dai hoi, nhưng y cũng không làm gì tồi tệ hơn, đôi lần tôi còn thấy y có vẻ ái ngại cho tôi nữa là khác. Nếu Ðảng mang tôi đi bắn chắc y cũng bùi ngùi một phút, mà cũng có thể là hai.
– Hôm nay ta không làm tiếp việc bữa trước, mà bắt đầu làm việc chính thức. – y bình thản nối điếu thuốc kế tiếp rồi thong thả nhả khói về phía tôi. – Trước tui hỏi anh, anh trả lời, nay anh tự khai báo với Ðảng những tội lỗi của anh cũng như của những kẻ mà anh có liên quan.
-??
– Tức là tui sẽ đề ra câu hỏi. Anh trả lời bằng miệng. Tui gợi ý thêm. Anh khai vô giấy. Ðơn giản vậy thôi hà. Anh hiểu chớ?
Buồn cười thật! Tôi tự khai báo, nhưng y vẫn hỏi cung tôi. Như cũ.
Tôi đáp gọn lỏn:
– Không.
Cặp kính trắng loáng lên:
– Không cái chi?
– Tôi không hiểu.
– Sao lại không? Có chi khó hiểu đâu.
Huỳnh Ngự ngừng hút, điếu thuốc thây lẩy trên môi. Tôi cũng làm ra vẻ ngỡ ngàng.
– Tôi không phải là phạm nhân, sao lại phải khai?
Huỳnh Ngự hiểu ra.
– Bộ anh không thấy anh là người có tội với Ðảng à?
– Tội gì?
– Anh nghĩ đi, nghĩ cho kỹ, anh sẽ thấy anh có tội chi! Nếu không có tội thử hỏi Ðảng bắt anh làm chi?
Cái lô-gích tuyệt vời này chỉ có ở những kẻ ấm đầu! Nhưng tôi không muốn cãi nhau với y. Tôi chỉ muốn cù nhầy một chút để suy nghĩ: thằng cha định lái câu chuyện đi hướng nào?
– Anh không phủ nhận anh có tội với Ðảng chớ?
– Tôi phủ nhận.
Câu trả lời tỉnh bơ làm y sững sờ.
– Anh? Phủ nhận?
– Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi, – tôi lạnh lùng – nhưng rất tiếc, cho đến hôm nay tôi vẫn chưa được nghe Ðảng công bố cho tôi biết tôi phạm tội gì?
Huỳnh Ngự trợn mắt. Y bắt đầu mất bình tĩnh.
– Anh không biết thiệt? Ðến hôm ni vẫn không biết?
– Ðúng thế! Khi bị bắt, tôi nghĩ Ðảng buộc phải đưa tôi vào đây để hỏi vài điều gì đó mà để tôi ở ngoài hỏi thì không tiện. Sau, được nghe trên phổ biến tôi lại càng tin mình hiểu đúng.
– Hứ?
– Thật vậy, một mâu thuẫn đã được coi là mâu thuẫn nội bộ thì không phải là vụ án. Mà đã không có vụ án thì không thể có phạm nhân. Tôi hoan nghênh Ðảng đặt việc này trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ. Nhưng tôi thắc mắc: bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ có những hình thức kỷ luật như phê bình, cảnh cáo, nặng quá thì khai trừ, tuyệt nhiên không có chuyện giam giữ, đúng thế không ạ?
– Hừm.
– Muốn giam giữ một công dân chế độ nào cũng phải thông qua các thủ tục tố tụng thông thường, phải có lệnh khởi tố, lệnh tạm giam, mà tạm giam cũng chỉ được phép trong thời hạn luật định. Tôi không hiểu sao trong vụ này lại không có những cái tôi vừa nói. Như vậy có quá đáng không? Hơn nữa, tôi thấy tôi chẳng có tội gì nếu đối chiếu các việc làm của tôi với Hiến pháp và luật pháp nhà nước…
Huỳnh Ngự lúng túng. Y không chờ đợi ở tôi một thái độ ngang như cua sau khi đã được nghe phổ biến về ân sủng của trên..
– Tui đã biểu anh rồi mà, cứ nghĩ cho kỹ đi khắc hiểu vì sao anh bị bắt.
– Nghĩ kỹ đến mấy cũng thế mà thôi. Tôi thật sự không hiểu, và nếu Ðảng không cho biết thì tôi đành chịu tiếng ngu mà hỏi nữa, hỏi mãi cho tới khi nào hiểu được mới thôi.
– Tui đã biểu đừng vội mà. Chưa nghĩ kỹ đừng trả lời.
Vui thật, thì ra người ta bắt tôi vào đây để ra cho tôi một câu đố: đố đằng ấy biết tại sao đằng ấy bị bắt?
– Một công dân bị bắt có quyền đặt câu hỏi: họ bị bắt vì tội gì, thậm chí có quyền không trả lời khi chưa được gặp luật sư của mình.
Huỳnh Ngự cười ngất. Tiếng cười hé hé căng thẳng, giả tạo của y vang to đơn độc trong căn phòng trống.
– Chà, sao mà hai cha con nhà anh giống nhau quá vậy! Anh còn trẻ hổng nói làm chi chớ ông già anh hoạt động cách mạng từng ấy năm mà vẫn còn mơ hồ mới lạ! Trong đầu cha con nhà anh rặt một thứ khái niệm dân chủ tư sản! Anh phải hiểu: nền dân chủ của ta khác hẳn nền dân chủ tư sản, như ánh sáng và bóng tối, như đêm với ngày, nghĩa là khác về chất, rõ chưa nào? Bởi vì nó là nền dân chủ được xây dựng trên cơ sở chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động chống lại thiểu số bóc lột… Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thiệt là dân chủ, nó dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ của các ngài tư sản, như Lênin đã dạy…
Lại một cách chạy trốn câu hỏi trực diện.
– Tuyên bố với người phạm tội về tội của họ phỏng có mâu thuẫn gì với chuyên chính vô sản? – tôi tấn công tiếp – Chuyên chính vô sản là đường lối công khai, Ðảng tuyên bố thẳng thắn, Ðảng cần gì phải giấu giếm hành động chuyên chính của mình?
Huỳnh Ngự đỏ bừng mặt.
– Anh tưởng Ðảng không biết chi về những hành động của các anh sao? Chẳng qua Ðảng muốn anh tự giác nhận ra tội mình mà thành khẩn khai báo, để qua đó đánh giá mức độ giác ngộ của anh mà thôi.
Tôi vặn lại:
– Nhưng nếu chính tôi không biết mình phạm tội gì thì làm sao tôi có thể trình bày với Ðảng tội của tôi được. Tội lỗi là một khái niệm không đồng nhất. Cái mà người này coi là tội, người kia lại coi là không.
Huỳnh Ngự phát bẳn.
– Nói rứa mà nghe được! Vô đây mà còn lý sự. Trước hết anh phải thấy mình có tội với Ðảng đã! – giọng y bắt đầu the thé – Anh phải khẳng định một ngàn lần rằng Ðảng-bao giờ-cũng-sáng-suốt. Bắt cán bộ của mình lòng Ðảng xót xa lắm chớ. Anh không có tội thì không đời nào Ðảng bắt anh. Anh có biết phương châm Ðảng chỉ ra cho chúng tôi ra răng không? Nếu bắt cũng được mà không bắt cũng được thì kiên quyết không bắt!
Trong các nghị quyết của Ðảng tôi không thấy có phương châm này. Theo tôi biết, nó là một câu nói của Trần Quốc Hoàn trong một huấn thị cho cán bộ công an, rồi được ngành này khoe khoang ầm ĩ như thể đó là mẫu mực của lòng nhân ái vô sản. Tại sao lại có thể bắt cũng được mà không bắt cũng được? Ðáng ngạc nhiên là một chủ trương phô bày sự đần độn như thế lại được tờ Học Tập, tạp chí lý luận của Ðảng tán dương.
– Thế những người bị xử trí oan trong Cải cách ruộng đất thì sao? – mặc cho Huỳnh Ngự giận dữ, tôi lại vặn tiếp – Họ bị quy kết, bị bắt buộc phải nhận tội, rồi sau đó Ðảng phải thừa nhận sai lầm, phải xin lỗi, phải sửa sai…
– Anh đừng có móc máy chuyện Cải cách ruộng đất! – y vỗ bàn, gầm lên – Từ bấy tới chừ cách mạng ta đã tiến bộ rất nhiều, cả về lý luận lẫn thực tiễn. Không phải Ðảng cứ sai một lần thì những lần khác Ðảng cũng sai mô… Rồi coi: lần ni Ðảng có sai không?
Tôi mỉm cười, nhớ tới câu nói dân dã: “Một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến”.
Mặt Huỳnh Ngự tím lại:
– Nè, đừng giỡn mặt tui nghen. Bất cứ khi mô Ðảng cũng có thể thay đổi nhận định hôm ni đối với lũ các anh. Tới lúc đó thì chỗ của các anh không phải xà lim nữa, mà là pháp trường, pháp trường! Các anh là bọn phản Ðảng. Mà phản Ðảng coi bằng phản quốc. Chỉ có đem bắn. Bắn tuốt!
Bàn tay cầm điếu thuốc của y run bần bật.
Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Giống như trong trò chơi trẻ con, bên nào chớp mắt trước bên ấy thua, chúng tôi nhìn nhau trừng trừng, không ai chịu ai.
Tôi quyết thắng. Nếu tôi thua, tôi không chỉ thua trong trò chơi. Tôi thua có nghĩa là tôi sợ Huỳnh Ngự, có nghĩa là tôi có tội, nhưng không có can đảm nhận tội.
Huỳnh Ngự bỏ cuộc. Y quay đi, không chịu nổi cái nhìn lạnh giá của tôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi có địa vị kẻ thắng, ngay cả trong trò chơi này. Vấn đề thua hay không thua chỉ đặt ra trước một mình tôi thôi.
Tôi được đưa trở lại xà lim.
Tôi làm mất thời giờ bạn đọc, kể một câu chuyện nhạt phèo. Nhưng câu chuyện dù có nhạt tới mấy thì cũng không nhạt bằng cái thực tế mà tôi gặp. Nó chẳng những nhạt mà còn phi lý. Phi lý đến mức không tưởng tượng nổi. Như thực tế trong một nhà thương điên.
Tôi mệt rũ. Tôi chán nản. Tôi tuyệt vọng.
Thành đã trải qua cảm xúc đó. Anh khuyên tôi phải luyện cho mình thói quen không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì:
– Ông ngây thơ lắm. Với Nhà nước ta công dân nào mà chẳng có tội. Khác nhau ở chỗ tội nhiều hay tội ít mà thôi. Nghĩ mà xem: nếu mỗi công dân lúc nào cũng nơm nớp thấy mình có tội thì tiện cho Ðảng lắm chứ! Ðảng chỉ còn việc nghĩ xem có nên bắt thằng A hay thằng B không, bắt hôm nay hay để đến mai? Ông cho là tôi nói quá à? Tôi không nói quá đâu. Ông cười? Ðừng cười, bởi vì nó đúng là như thế đấy. Bộ máy chính quyền nào cũng gồm những con người, như ông với tôi đây, nó cũng biết nghĩ đấy, nó có cách suy luận của nó đấy, nó có bản năng tự vệ của nó đấy… Bộ máy chính quyền nào cũng sĩ diện lắm. Nó thích được ca ngợi, nó không thích bị chỉ trích, bao giờ nó cũng tìm cách phô rằng nó sạch sẽ… Ông có biết rằng khi bắt một đảng viên người ta phải khai trừ anh ta trước đã để làm gì không? Ðể đến lúc bị bắt anh ta không còn là người của Ðảng nữa, để Ðảng không phải xấu hổ…
Chuyện khai trừ Ðảng trước khi bị bắt đã không xảy ra với những người trong vụ nhóm xét lại hiện đại(4). Tại sao, tôi không hiểu. Tôi cho rằng trong thời điểm đó những nhà lãnh đạo chưa có thái độ dứt khoát trong sự trấn áp những người cộng sản bất tuân. Việt Nam không phải là Trung Quốc. Những việc mà người Trung Quốc làm phứa không cần suy tính thì ở Việt Nam người ta còn phải dò dẫm, cân nhắc.
Cái ngoại lệ này kể cũng lạ. Tên cục trưởng Cục chấp pháp nói đúng chăng? Hiểu theo lời y thì một hình thức trấn phản chưa có tiền lệ đang được dùng cho chúng tôi: vừa bắt vừa không bắt. Xử lý nội bộ được hiểu như những người bị Ðảng còng tay đưa đi không phải bị giam giữ, mà chỉ bị tập trung lại một chỗ để giáo dục thôi (!).
– Khi bắt một con người, việc trước tiên người ta phải làm là bắt hắn nhận tội cái đã. – Thành giảng giải – Có tội hay không có tội, mặc. Ðã bảo Ðảng không bao giờ sai lầm cơ mà. Thế thì trong tay Ðảng phải có bản nhận tội của thằng bị Ðảng bắt cái đã. Nó có nhận tội thì Ðảng mới không sai. Vụ việc để đó, xem xét sau cũng chẳng muộn…
Huỳnh Ngự đang cố gắng áp dụng bài bản này với tôi. Tôi muốn Thành phát triển đề tài nên giả vờ thích thú:
– Như thế đâu có được.
– Rồi ra ông còn biết ối chuyện lạ hơn nữa kia. – Thành nói – Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh ta cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh ta còn một mực nói Ðảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử là nhờ lượng khoan hồng của Ðảng… Ông có biết vì sao không? Là vì anh ta nhận tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tội nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bắt lại, đừng có đùa! Trong lệnh tạm tha người ta ghi: xét tội trạng chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật…
Tôi kêu lên:
– Như thế là vi phạm nhân quyền!
Thành cười hức hức:
– Ông bạn ngốc nghếch của tôi ơi! Ðể có thể vi phạm một cái quyền thì phải có nó trước đã, ông ạ!
Rồi anh thở dài, giọng yếm thế:
– Trong xã hội chúng ta, ông ạ, mỗi công dân chỉ là một người tù dự khuyết.
Tôi im lặng. Tôi buồn.
Có tiếng gào khóc thảm thiết ở đâu đó vọng đến, không biết từ xà lim nào. Thành lắng tai nghe.
– Cái gì thế, anh Thành?
– Tôi không rõ. Trong xà lim nghe tiếng khóc là chuyện thường. Khi nào nghe người ta cười, ấy là có người đã phát điên.
– Công an ở đây có tra tấn tù không?
Thành lắc đầu:
– Không. Nghe nói thỉnh thoảng người ta cũng đánh bọn lưu manh. Bọn ấy đánh là phải, tôi không thương. Với những can phạm khác thì không, họ không đánh, tôi chưa thấy. Âu cũng còn là cái tốt của chế độ. Tra tấn can phạm bây giờ bị cấm ngặt.
Chuyện bọn lưu manh bị đánh tôi có nghe. Nhưng đó là việc xảy ra ở những trại xa nào chứ ở Hỏa Lò thì tuyệt nhiên không có. Anh bạn tôi tên Quý, biệt hiệu Quý Cao, làm công an trong Hỏa Lò chuyên hỏi cung tù hình sự kể rằng bọn lưu manh đã biết tính anh. Ðứa nào bị anh hỏi cung mà cho một cái tát đuổi về thì đứa ấy mừng rơn, tí tởn khoe với bè bạn: “Bố Quý vừa tát tao một cái!”. Ðó là điềm lành, nó cầm chắc được tha. Chúng sợ nhất khi anh ân cần hỏi thăm gia cảnh, tỏ vẻ thương hại, cho điếu thuốc hút tại chỗ rồi vỗ vai cho về – như thế sẽ còn nằm lâu, có thể đến mùa quít. Không phải mình có ý gì hoặc giở trò nghịch ác đâu, Quý Cao nói, mình thương chúng nó lắm chứ, chúng nó xấp xỉ bằng thằng lớn nhà mình. Từ hôm vào Hỏa Lò tôi có ý nhìn ngó xem có thấy Quý Cao không, nhưng không thấy. Trước khi bị bắt tôi hay chạy lại anh để hỏi thăm tin tức cha tôi, nhưng anh chẳng biết gì. Vụ án được giữ bí mật, ngay cả với công an. Tôi bao giờ cũng cẩn thận cắt đuôi rồi mới tới Quý Cao, nhưng làm sao biết chắc không còn cái đuôi nào vẫn lẵng nhẵng theo được tới nhà anh?
Có lần tôi đang bị hỏi cung thì nghe có tiếng kêu khóc trong một phòng gần đấy, kèm theo là tiếng vật lộn huỳnh huỵch, tiếng quát tháo om xòm. Tôi đoán đây là trò Huỳnh Ngự bày ra nhằm áp đảo tinh thần tôi. Tôi chưa lần nào bị tra tấn, chính mắt tôi cũng chưa thấy người khác bị tra tấn. Khi tôi ra tù có nhiều bạn hỏi, tôi có trả lời nhưng họ không tin. Không phải tôi sợ không dám nói, mà đúng vậy – chuyện tra tấn là không có, tôi không thấy.
Nhục hình khác thì có, chẳng hạn những người không chịu khai, hoặc có hành động chống lại trong khi hỏi cung thì bị cùm chân dài ngày, có khi cả tháng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi nhục hình chưa phải là cái ác lớn nhất. Có cái còn ác hơn.
Do nhu cầu hiểu biết tôi có dịp làm quen với hình pháp học. Những tác phẩm về ngành học này không có nhiều ở nước ta, tôi có được vài cuốn là nhờ người đi nước ngoài mua giùm. Nhưng hồi đó tôi còn nhìn mọi vấn đề qua lăng kính đấu tranh giai cấp, cho nên tôi đọc không công bằng. Chỉ cần thấy Cezare Lombroso(5), Durkheim(6) không phải mác-xít là tôi đã coi nhẹ tác phẩm của hai ông rồi. Trong lĩnh vực này tôi chỉ thừa nhận mỗi một Kudriavsev(7) với những luận điểm siêu hình của ông ta, như sau này tôi hiểu ra. Nhưng cái đáng tiếc nhất là những cuốn sách về khoa học hình sự của cả phe xã hội chủ nghĩa lẫn phe tư bản chủ nghĩa đã chẳng mang lại cho tôi điều gì hữu dụng trong thực tế.
Thành nhận xét trong công tác giam giữ công an Việt Nam về cơ bản du nhập kinh nghiệm Trung Quốc. Gần đây người ta có xu hướng học tập Cộng hòa Dân chủ Ðức, cho rằng trong phe xã hội chủ nghĩa nước này có nhiều thành tựu tiên tiến nhất do phải trực diện đối đầu với đế quốc. Ấy là gần đây thôi, chứ trước kia mọi thứ của Liên Xô đều hay nhất, tốt nhất. Sau Ðại Hội XX người ta coi mọi cái của Liên Xô đều xấu đều dở. Hệ thống trừng phạt vốn đã khắc nghiệt của Liên Xô, theo báo chí phương Tây mô tả, vẫn còn bị phê phán. Người ta nói nó bị ảnh hưởng nặng nề chủ nghĩa xét lại hiện đại, thậm chí trong luật pháp Liên Xô cũng còn đầy rẫy yếu tố tư sản.
Xà lim ở một số trại giam hiện nay được rập khuôn theo hình mẫu Stasi(8), hiện đại hơn của thực dân Pháp nhiều – có nước máy dẫn vào tận nơi, tù cả năm không bước chân ra ngoài trừ khi đi cung, phòng hỏi cung thì lại được đặt ngay trong khu xà lim, tiện lắm. Như vậy khả năng quan sát vị trí nhà tù bị hạn chế tối đa, triệt tiêu ý muốn vượt ngục. Hệ thống nghe trộm điện thoại của Ðức nhập về đã hoàn tất năm 1964.
– Dân có điện thoại đâu mà phải nghe trộm họ nói gì? – tôi ngạc nhiên.
Vào thời kỳ này hầu như chẳng có nhà dân nào có điện thoại. Tôi nói hầu như cho chắc ăn, lỡ có ngoại lệ nào chăng, biết đâu có nhà được mắc điện thoại mà mình không biết. Ðiện thoại chỉ có ở các cơ quan và trong nhà các ông kễnh(9).
Thành cười khục khục trong họng.
– Các vị theo dõi nhau là chính chứ. – anh thì thào – Ông tưởng các ông kễnh tin nhau lắm sao? Còn lâu. Thời nào cũng vậy.
Tôi đồng ý với anh. Ðến ngay hoàng đế Napoléon cũng còn sử dụng mật thám riêng nữa là. Có điều mình quen hình dung xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp, là tình nghĩa, cho nên mình mới ngỡ ngàng, mình mới cho là không có chuyện đó mà thôi.
Vào thời kỳ có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối việc nhiều nhân vật cao cấp bị công an mật theo dõi không còn là chuyện lạ. Thậm chí các công an viên được phân công theo dõi đại tướng Võ Nguyên Giáp còn khoe với bè bạn công việc vinh quang của họ. Ðến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Ðức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Ðức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: “Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: “Mầy có thấy lính kín(10) theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.
Tôi ngày càng mến Thành. Tuy nhiên, tôi vẫn tránh đụng chạm tới chuyện chính trị. Nhưng có chuyện gì ở nước này mà không dính dáng tới chính trị kia chứ? Ðành phải ngậm miệng khi Thành vô tình hỏi đến vụ án chúng tôi. Thành linh cảm được điều đó và anh lảng xa vùng cấm. Tôi chắc Thành cũng biết mong manh về tôi. Anh không có ý moi móc những gì tôi không muốn nói, và là cái công an muốn biết. Rất có thể người ta đã chiêu mộ anh làm chỉ điểm, cái thế của anh buộc anh phải nhận, không nhận không xong với họ, nhưng trong thâm tâm anh không tán thành việc làm vô sỉ đó, vì thế anh nhận đấy nhưng lại hành động ngược lại. Mấy ngày ở gần anh cho tôi cảm giác như vậy. Ðể giúp tôi đối phó với chấp pháp anh kín đáo đưa ra những lời khuyên dưới dạng những câu chuyện kể về đời tù, những chuyện tiếu lâm vô thưởng vô phạt. Nhờ những lời khuyên của anh tôi biết cách ứng xử khéo léo hơn trong những cuộc hỏi cung, và nói chung chúng rất có ích cho tôi trong cuộc sống trong tù những năm sau.
Ngoài sân, con chó béc-giê được thả vào. Nó bắt đầu lồng lộn trong những chồng tôn vứt hỗn độn. Nhưng chúng tôi đã quen rồi.
Phía xà lim xế cửa có tiếng sụt sùi.
Thành nói anh tù vừa được tin mẹ chết. Anh này nằm xà lim đã hơn ba năm. Bình thường là người tù có kỷ luật bỗng dưng anh ta nổi khùng, chửi loạn xạ từ ông quản giáo đến ông Ðảng, ông Nhà nước. Phớt lờ những hình phạt mà người tù xà lim nào cũng sợ, anh ta cứ chõ ra hành lang mà kể lể. Rằng mẹ anh ta ở nhà chết đói mà anh ta chẳng tội tình gì thì cứ phải ở mãi nơi này. Rằng anh ta là đứa con duy nhất, tại Ðảng mà trở thành bất hiếu, không nuôi được mẹ, để mẹ chết thảm. Quản giáo rầm rập chạy vào, đè nghiến anh ta xuống, nhét giẻ vào miệng, cùm lại. Việc xảy ra buổi sáng, lúc tôi đi cung. Nhân sự kiện này Thành kể cho tôi nghe ở một số trại còn có cả dụng cụ chuyên dùng để bịt miệng những người tù kêu la. Nó trông tựa cái hàm thiếc ngựa. Nếu người tù chửi bới, anh ta sẽ bị đóng hàm thiếc vào, cùm chân lại, cho tới khi thôi chửi bới. ê trong khu xà lim chuyện này thường xảy ra. Chẳng phải những người tù có tư tưởng chống Ðảng chống điếc gì hết. Bị giữ trong xà lim quá lâu, thế là vào một ngày nào đó họ nổi cơn điên.
Mác viết trong cuốn Gia Ðình Thiêng Liêng rằng chế độ giam giữ người trong xà lim cá nhân quá lâu là vô nhân đạo. “Con người chỉ có thể chịu đựng một sự giam giữ như thế trong giới hạn năm năm. Vượt quá giới hạn này người bị giam sẽ mất trí”, ông nhận định như vậy trong khi điểm cuốn Những Bí Mật Thành Paris của Eugène Sue.
Những kẻ tự xưng là học trò Mác, là người kế tục sự nghiệp của Người (viết hoa) đang thực hiện điều mà Mác lên án.
Tôi muốn an ủi Mác quá: thôi mặc họ, ông ơi, chấp làm gì ba cái chuyện vặt! Mà ông cũng chẳng phải xấu hổ – đám mao-ít vô học và thất học nọ có bao giờ là học trò ông đâu. Họ chưa bao giờ đọc ông, trừ những cuốn giản lược mà nội dung đã bị vo tròn bóp méo đến mức, nói thật, đến mức chính ông cũng không nhận ra là của ông nữa. Ông không biết đấy thôi, Mác của tôi ơi, chứ sách của ông cũng bị làm mồi cho lửa đấy. Cùng với sách của các đại văn hào được cả loài người kính trọng. Nói cho công bằng, những nhà chuyên chính vô sản ở nước tôi cũng không chủ bụng đốt sách của ông đâu, dù sao ông cũng được họ tôn làm thầy kia mà, cũng xưng là trò của ông kia mà. Khốn nạn là sách của ông, cũng như sách của bất cứ ai, phàm được in bằng tiếng Tây, đều bị đốt tất, không cần phân biệt, trong những đợt truy quét văn hóa độc hại. Cũng có một số sách may mắn không bị đốt mà chỉ bị thu, chúng được chất thành đống trong kho Hỏa Lò. Chính mấy anh bạn công an đã tha về cho tôi một số sách của ông, và của cả ông Engels nữa, từ khi tôi còn chưa biết Hỏa Lò là thế nào.
Ông nên lấy làm mừng đã ra đời ở một thế kỷ khác, ở một nước khác, chứ không phải ở Việt Nam (hay Trung Quốc, hay Bắc Triều Tiên) trong những năm rồ dại này. Với tư tưởng ngạo ngược của ông, tôi đoan chắc ông phải ở đâu đây, bên cạnh tôi, trong một xà lim nào đó.
Xà lim Hỏa Lò làm cho con người mất trí nhanh hơn xà lim thời ông nhiều, Mác ạ.
Với sự giúp đỡ của những con chó.
(1) Mọi người bị bắt đều bị gọi chung là phạm, gọi tắt phạm nhân.
(2) Làm mẫu cho học trò học.
(3) Anh ơi anh, tắt đèn đi ngủ.
(4) Sau khi ra tù tôi mới được biết các ủy viên Trung ương Ðặng Kim Giang, Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm và các cán bộ Trung ương Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Lưu Ðộng… bị khai trừ cùng một lúc vào tháng 5 năm 1968.
(5) Cezare Lombroso (1836-1909) bác sĩ thần kinh, giáo sư pháp y ở Turin (Italia). Cùng với Enricco Ferri (1856-1929), Raffaele Garofalo (1851-1954) sáng lập ra trường phái hình pháp học nhân chủng, chủ trương nguồn gốc tội phạm nằm trong sự cấu thành con người về mặt nhân chủng, nói cách khác, những tên tội phạm sống trong xã hội loài người như một loại hình riêng xét về nhân chủng học.
(6) Emile Durkheim (1858-1917), nhà xã hội học người Pháp, tác giả Le Suicide (Kẻ Tự Sát) và cùng với Adolf Prins, tác giả La Défense Sociale et Les Transformations du Droit Pénal (Sự Phòng Vệ Xã Hội và Những Biến Thể của Luật Hình), được các nhà tội phạm học châu Âu ngưỡng mộ bởi cách lý giải nguồn gốc tội phạm từ những điều kiện xã hội.
(7) Kudriavsev, tác giả cuốn Hình pháp học – Kriminologia), được coi như sách gối đầu giường của công an các nước xã hội chủ nghĩa, giải thích nguồn gốc tội phạm như hậu quả của xã hội có giai cấp, nơi ngự trị những quy luật người bóc lột người. ê Việt Nam tôi không thấy có bản dịch cuốn này, hoặc nó có ở dạng tài liệu nội bộ mà tôi không biết.
(8) Staatssicherheitsdienst, Bộ Mật vụ quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Ðức, tồn tại từ năm 1957 tới năm 1989. Cơ quan này có 85.000 nhân viên và 500.000 chỉ điểm viên. Người lãnh đạo Stasi từ năm 1957 là Erich Mielke, bị tống giam năm 1989.
(9) Ông to, quan lớn.
(10) Mật thám, cách gọi thông thường ở miền Nam hồi trước.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:52:39 GMT -6
Chương 12
Sáng chủ nhật, khác với thường lệ, tôi bỗng bị gọi đi cung.
Khi Hách mở cửa, tôi còn ngái ngủ. Ngày thường tù xà lim phải dậy sớm để lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng đi cung, tuy chuyện đi cung đối với số đông tù xà lim chỉ năm thì mười họa. Cũng theo quy định, khi quản giáo mở cửa cho tù đi đổ bô, rửa ráy và ăn sáng thì tù phải ăn vận nếu không tề chỉnh thì cũng không được lôi thôi. Cái đó chứng tỏ sự tôn trọng chính quyền. Tiếng là ăn sáng, là điểm tâm cho oai, chứ cái suất ăn sáng ở đây chỉ điểm vào cái tâm mình một cái khe khẽ gọi là có. Một khúc sắn ôi, ba củ khoai hà – bữa lót dạ cho tù là thế.
Chủ nhật tù không có tiêu chuẩn ăn sáng, quản giáo vào xà lim chậm, cho nên tha hồ dậy muộn. Cứ tưởng trong xà lim ngày nào cũng như ngày nào, hóa ra không phải. Người tù xà lim cũng như người ở ngoài kia, cũng ngong ngóng mong chủ nhật như thường, không phải vì nó là ngày nghỉ, mà vì nó là cái mốc thời gian. Mỗi chủ nhật qua đi là anh ta tiến gần thêm cái đích trở về ở chân trời xa tít. Còn có một nét tâm lý này nữa: được một ngày khác với ngày thường, dù sao cũng vẫn là ngày không bị dựng dậy đi cung, người tù có thể nằm ườn đến tận trưa, cái đó làm cho anh ta thấy mình giống với người ở bên ngoài.
Trong Hỏa Lò hiếm khi tù đi cung vào chủ nhật. Trường hợp đi cung chủ nhật chỉ xảy ra với những can phạm vừa mới bị bắt, mà phải là can phạm trọng án kia, chấp pháp cần lấy cung gấp kia, chứ can phạm thường thì có thể yên tâm ngủ kỹ. Chủ nhật mọi người đều nghỉ, cả kẻ bắt tù lẫn kẻ ở tù. Không hiểu Huỳnh Ngự giở giói bắt tội tôi phải thức dậy khi chưa đẫy giấc làm gì? Y chưa chán đấu khẩu với tôi sao?
Tính ra đã bốn tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt. Ðúng là thời gian thấm thoắt thoi đưa! Ấy là nhờ Thành thông báo tôi mới biết chứ tôi chẳng nhớ gì hết. Tôi đã nhất định không tính đếm là không tính đếm. Ðếm những ngày ngồi tù làm gì kia chứ? Ðể vận công thức nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại ra mà so mình với ông Bành Tổ chăng? Chao ôi, khi nghĩ tới thời gian thì cái thời gian xà lim nó dài lắm, chẳng có cái thời gian nào dài bằng nó! Tốt nhất là quên đi, quên ngày quên tháng, quên mẹ quên cha, quên con quên vợ, quên nhiều thứ khác nữa, quên tuốt. Như thế mới chịu đựng nổi, mới không phát điên, mới không xé quần áo chăn màn ra mà bện lấy một sợi thừng treo cổ. Chỗ để treo thì bao giờ cũng có, ở đâu cũng có, mặc dầu thoạt nhìn thì cái xà lim trống trơn có vẻ như chẳng có chỗ nào để mà treo. Thành kể có người tù buộc dây ngay vào cái song sắt bé tí tẹo nơi cửa kiểm tra (le judas) mà treo. Thế mà chết đấy! Nhưng phải rất quyết tâm kia, phải rất có gan kia: le judas chỉ cao ngang mặt một người tầm thước.
Tôi hình dung mình treo ở cái song sắt đó, đầu ngoẹo về một bên. Không, mình sẽ không chọn cái chết như thế. Trông chẳng ra làm sao cả!
Thỉnh thoảng, như để động viên tôi, Thành lại ngâm nga hai câu thơ chẳng rõ của anh hay của ai:
Còn trời còn đất còn non nước, Có lẽ ta đâu mãi thế này!
Hách chăm chú quan sát tôi mặc thêm áo bông, đi giày. Tôi cảm thấy cái nhìn của y lướt trên thân mình, như thể cái nhìn của y có sức nặng. Hách có cái nhìn vô tình, nhìn người mà như thể nhìn vào khoảng không hoặc nhìn đồ vật. Dưới cái nhìn như thế người tù thấy mình thuộc về cái phần nhân loại bỏ đi theo cách phân loại nazi(1), không đáng được sống mà đáng quẳng vào lò thiêu. Hách chẳng thương xót cũng chẳng ghét bỏ. Y ở trên cao, dửng dưng ngó xuống.
Cũng có khi tôi tưởng tượng ra điều không có, tôi suy diễn, chứ trong khi đi cùng y ra phòng hỏi cung Hách cư xử với tôi cũng chẳng đến nỗi nào. Ngắm cái đầu bù xù của tôi một lát, y nói bằng giọng khá thân tình:
– Tóc anh tốt rồi đấy! Chiều rỗi, tôi cắt cho.
Huỳnh Ngự đón tôi trong chiếc áo bông khoác ngoài bộ dạ đen kiểu Tôn Trung-sơn thường lệ. Trời lạnh cắt da. Ngồi trong phòng đóng kín cửa mà tôi vẫn còn thấy cái run từ trong ruột.
Trong tù không có gương. Chẳng biết mình già, trẻ? Thành vẫn thường ngâm nga câu ấy. Nhìn cổ tay tôi biết mình gày đi nhiều. Còn già đi bao nhiêu thì không biết. Trong Hỏa Lò tôi chưa bao giờ gặp một cái gương. Tôi mới ba mươi tư tuổi. Nỗi lo sợ cái già chưa làm phiền tôi.
Bên ấm trà, Huỳnh Ngự tào lao với tôi một lúc lâu. Qua câu chuyện lấp lửng, đầy những câu úp mở của y, tưởng chừng lấp ló đâu đây, ngay sau lưng y một tương lai nếu chưa sán lạn thì cũng rất dễ chịu – chẳng còn bao lâu nữa chúng tôi sẽ được trở về với gia đình. Rồi đây Ðảng vô cùng anh minh và rất mực nhân từ(2) sẽ bố trí cho chúng tôi mỗi người một công tác thích hợp và một vị trí xứng đáng.
Tôi im lặng nhấp từng ngụm trà đặc, lơ đãng nghe y ba hoa.
Nghe y tán như khướu tôi lại nhớ tới câu nói “nghe Việt Minh nói kiến trong lỗ cũng phải bò ra” mà bật cười. Thế mà hồi trước nghe ai nói thế tôi giận lắm đấy. Tôi cũng là Việt Minh mà. Về sau này, khoảng 1954 trở đi, dần dà thiên hạ biết sợ, không còn ai dám nói cái giọng châm chọc ấy ra nữa.
Một người đàn ông đứng tuổi bước vào, lẳng lặng ngồi xuống ghế bên cạnh Huỳnh Ngự. Người đàn ông có gương mặt xương xương này dường như tôi đã gặp ở đâu đó nhưng tôi không nhớ ra. Chỉ thấy Huỳnh Ngự có vẻ kính nể anh ta, định ngừng lời để chào hỏi, nhưng anh ta phẩy tay ra hiệu cứ tiếp tục. Về sau mới biết là một nhân vật quan trọng – cục trưởng Cục bảo vệ Ðảng Nguyễn Trung Thành.
Ðang thao thao bất tuyệt, bỗng Huỳnh Ngự sực nhớ ra điều gì, y lục lọi trong các túi rồi rút ra một mảnh giấy:
– Nè, anh nhận ra nét chữ ai đây không?
Y vui vẻ khoắng khoắng mảnh giấy trước mặt tôi.
Tôi nhận ra ngay nét chữ của cha tôi, mặc dầu khoảng cách khá xa. Cha tôi thuộc thế hệ nho học cuối cùng, bỏ chữ nho đi học chữ quốc ngữ. Vào thời ông còn trai trẻ, và rất lâu sau đó, người ta đặc biệt chú trọng chữ viết – học trò phải tập viết nắn nót cho đến khi đạt được cách viết chữ đẹp như chữ mẫu trong sách giáo khoa. Trong học đường giờ viết tập được coi trọng không kém gì các môn học khác. Không hiểu thực dân Pháp cần đào tạo lớp thư lại mẫu mực cho chính quyền thuộc địa hoặc giả nền giáo dục thời trước thích bề ngoài hào nhoáng, nhưng thế hệ cha tôi đã được rèn cặp để viết chữ rất đẹp. Thế hệ tôi viết tồi hơn nhiều. Thế hệ sau tôi còn tồi hơn nữa.
Tôi vờ nheo mắt, chăm chú. Rồi lắc đầu:
– Không, tôi không nhận ra.
Huỳnh Ngự đưa mảnh giấy lại gần thêm chút nữa:
– Nhận ra chưa nào?
Tôi vẫn lắc đầu.
– Mắt anh kém đến thế kia à?
– Cũng không đến nỗi kém lắm.
– Vậy mà anh không nhận ra đó.
Y thú vị với trò trẻ con của y.
– Chừ nhận ra chưa?
Màn kịch hôm ấy về sau hóa ra có lợi. Tưởng tôi cận thị nhẹ không chịu mang kính, Huỳnh Ngự thường hớ hênh để những bản cung trên bàn không che đậy, trong tầm mắt tôi. Nhờ đó tôi biết ai mới bị bắt, ai đã yếu lòng.
– Nè, thư ông già anh gởi cho anh đó! – Huỳnh Ngự đặt mảnh giấy xuống trước mặt tôi, ôn tồn – Ðọc đi. Tui qua bển một lát.
Y đứng lên cùng với cục trưởng Cục bảo vệ Ðảng. Hai người đi ra ngoài.
Thư cha tôi viết:
“Con của bố,
Bố mấy hôm nay trong người yếu lắm. Bố rất lo lắng cho mẹ và các con ở nhà. Mẹ và các con cứ yên tâm về bố, ở đây bố có đủ thuốc men và được chăm sóc chu đáo. Ðảng bắt bố là việc vạn bất dắc dĩ, Ðảng buộc lòng phải làm như vậy vì bố có tội với Ðảng, Là đảng viên hoạt động cách mạng lâu năm, nhưng bố có khuyết điểm chỉ nhìn thấy những điều bất đồng chứ không nhìn thấy cái chung lớn lao, do thiếu ý thức tổ chức mà phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng. Bố mong con nghe lời bố thật thà báo cáo hết với Ðảng những sai lầm khuyết điểm của mình trong bước ngoặt này của cách mạng. Phương châm của Ðảng là trị bệnh cứu người, chứ với cán bộ cách mạng Ðảng không có mục đích trừng trị. Bố”.
Tôi nghiến ngấu đọc bức thư không chờ đợi.
Cảm giác duy nhất của tôi lúc ấy, khi đọc xong, tôi nhớ rất rõ, là xấu hổ, xấu hổ vô cùng. Mặt tôi nóng bừng. Mồ hôi vã ra. Ðúng như người ta thường nói, tôi muốn có một lỗ nẻ để chui xuống đất.
Nguyên nhân nào đã khiến cha tôi viết cho tôi một bức thư như thế? Chao ôi, đó là cái gì nếu không phải là sự đầu hàng nhục nhã. Trong khi chúng tôi vô tội. Trong khi chúng tôi đang cắn răng lại để được ngẩng cao đầu. Trong khi chúng tôi đang đòi bọn độc tài phải trả lời trước công luận.
Bức thư của ông đặt vào tay chúng bằng chứng nhận tội. Một bức thư không có lợi gì cho chúng tôi. Tôi như nhìn thấy bộ mặt Huỳnh Ngự nhăn nhở trong tiếng cười khoái trá.
Những dòng chữ thân thương của cha tôi quay cuồng trước mắt.
Trời hỡi, cha tôi, mà tôi quen nhìn như một anh hùng, lại hèn nhát đến thế ư?
Trong phút ấy, lạy Trời, tôi là đứa con bất hiếu! Tôi chỉ muốn cha tôi chết đi, nhưng hãy chết như một anh hùng! Tôi không muốn ông sống hèn hạ như thế này! Chết đứng còn hơn sống quỳ, chẳng phải chính ông đã dạy tôi như vậy sao?
Chúng tôi, những đứa con của ông, chúng tôi đã yêu ông biết mấy, đã kính trọng ông biết mấy!
í nghĩ đầu tiên đến với tôi là tôi sẽ đứng vững đến cùng. Cha tôi có thể đầu hàng, nhưng tôi thì không(3)!
Trong phút ấy tôi sợ nhất phải gặp Huỳnh Ngự để y nhìn thấy sắc mặt tôi biến đổi. Y có thể quay về bất cứ lúc nào. Cái rét run biến đâu mất. Mồ hôi toát ra. Tôi chưa đầu hàng. Vậy mà cha tôi đã kéo cờ trắng thay cho tôi. Tôi sẽ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt Huỳnh Ngự như trước. Nước mắt tôi trào ra.
Tôi cứ ngồi bất động, đọc đi đọc lại bức thư, trong lòng tê tái. Tôi quên hẳn anh chàng công an phụ tá của Huỳnh Ngự vẫn ngồi lặng lẽ trong một góc, một người thấp bé, trán hói, gương mặt hiền lành, giống một thầy giáo làng.
Cục 2(4), người ta kể, có những tay tổ trong nghề giả mạo chữ viết trong bộ phận chuyên làm giả giấy tờ cho các điệp viên. Chưa từng có điệp viên nào bị lộ vì sử dụng giấy tờ của họ. Sau khi hòa bình lập lại (1954) Nha Công an Việt Nam đổi thành Thứ bộ Công an rồi Bộ Công an, Cục 2 đã chuyển cho Cục Tình báo của bộ này một số chuyên gia của nó.
Bức thư có thể là của giả chăng?
Ðáng buồn cho tôi, càng đọc kỹ, càng xem kỹ, tôi càng tin rằng công an không làm giả bức thư. Chính là nét chữ của cha tôi.
Nhưng tôi cũng không tin cha tôi hèn nhát. Ông không phải người như thế. Cần bình tĩnh tìm bên trong bức thư quá khiêm nhường này những lời nhắn nhủ khác.
Trước ngày bị bắt, công an có chuyển đến cho tôi một bức thư cũng của cha tôi, trong đó ông khuyên tôi đến Ban tổ chức Trung ương để báo cáo về những khuyết điểm của mình. Tôi không tin đó là cha tôi viết. Tôi cũng không đến Ban tổ chức Trung ương. Không dại gì đi nhận những cái tội không có, để Lê Ðức Thọ sử dụng nó vào việc hại người.
Liệu cha tôi có biết tôi bị bắt không? Căn cứ lời lẽ trong thư, tất nhiên không rõ ràng, thì nhiều phần là không, ông chưa biết tôi bị bắt. Thì đây, nếu biết tôi bị bắt ông đã không viết “bố rất lo lắng cho mẹ và các con”. Như vậy là ông viết trong hoàn cảnh muốn bảo vệ vợ con trước sự đe dọa của những kẻ nắm quyền. Cha tôi muốn cứu tôi. Ông sợ nếu tôi cũng bị bắt nốt thì một mình mẹ tôi sẽ khó bề xoay xỏa.
Tại sao bức thư lại bị cắt ngắn ở phía dưới. Phải chăng người ta đã cắt đi dòng đề ngày tháng? Hoặc ở đó có dòng tái bút không vừa ý kẻ kiểm duyệt?
Tại sao ông lại viết: “Bố rất lo lắng cho mẹ và các con”? Cái gì làm ông phải lo lắng? Ông lo ông bị bắt, không có lương của ông thì mẹ tôi không nuôi nổi con cái chăng? Ðành rằng Ðảng đã xích chặt cán bộ với mình bằng đồng lương – cán bộ đã quen sống bao cấp đến nỗi anh ta không thể sống nổi nếu như anh ta bị cắt lìa khỏi cái vú Nhà nước. Mẹ tôi là người tháo vát. Bà có thể ra đường với một gánh hàng rong chứ không chịu vì mình mà chồng phải khuất phục cường quyền. Ông rất hiểu điều đó. Chưa bao giờ tôi thấy ông viết một câu tương tự trong những bức thư gửi cho mẹ tôi. Mẹ tôi đã cho ông thấy không phải một lần rằng bà biết tự mình chèo chống khi vắng ông. Mà ông thường xuyên vắng nhà trong cuộc đời hoạt động cách mạng của hai người.
Ghép những câu đùa bỡn của bạn bè cha mẹ tôi với những câu chuyện mẹ kể về thời trẻ của hai ông bà, tôi mường tượng ra mối tình của hai người. Nó bắt đầu từ cuộc gặp gỡ giữa hai tổ chức yêu nước để bàn việc hợp nhất. Tổ chức của mẹ tôi gồm một nhóm nữ sinh tự động kết hợp với nhau mà thành(5). Trong sách sử người ta ghi lại tình hình này bằng câu: các tổ chức cách mạng mọc lên như nấm. Trong thời kỳ này mẹ tôi, một nữ sinh, đã cùng các bạn học tổ chức cuộc bãi khóa bảo vệ Phạm Tất Ðắc(6), tác giả bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước.
Thành lập năm 1925, Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội hồi bấy giờ đã là một tổ chức vững chắc, có uy tín trong dân chúng. Cha tôi đại diện cho tổ chức này đi chắp nối với các tổ chức yêu nước khác, kêu gọi hợp nhất để tăng thêm sức mạnh. Mối tình của hai người nẩy nở từ những cuộc gặp gỡ đó(7). Ðó là một mối tình lãng mạn, đầy chất thơ cộng với lòng yêu nước của những con người bất bình với thân phận nô lệ.
Chúng tôi lần lượt ra đời. Không thể nào cả hai ông bà cùng đi hoạt động để không còn ai trông nom dạy dỗ con cái. Trong hai người phải có một người ở nhà làm việc đó. Người phải ở nhà tất nhiên là mẹ tôi. Bà vừa trông con, vừa làm các công tác thích hợp được Ðảng giao phó – lo toan kinh tế cho đoàn thể, giữ liên lạc với các đồng chí. Các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Trần Ðình Long, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Lê Quang Ðạo, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Ðăng Ninh, Khuất Duy Tiến, Ðặng Châu Tuệ, Ðặng Kim Giang, Bùi Lâm, Ðặng Việt Châu… đều đã qua lại cơ sở được đảm bảo chắc chắn này của cách mạng.
Vậy thì lần này, lần kế tiếp của những sóng gió xảy ra trong cuộc đời đôi vợ chồng cách mạng, cái gì đã làm cho cha tôi lo lắng đến như thế?
Tôi suy nghĩ rất lung.
Cuối cùng rồi tôi cũng nhận ra những lời đích thực mà cha tôi muốn nhắn nhủ, đặt những dòng viết vào trong văn cảnh thời hiện tại: “bố lo bọn chúng sẽ không từ một thủ đoạn khủng bố nào để đàn áp những người dám cưỡng lại ý chúng..”
Chính mẹ tôi cũng đã căn dặn chúng tôi:
– Xem ra chuyện này không đơn giản đâu, các con ạ. Nó không phải chuyện địch dựng vụ để ta tàn sát lẫn nhau như đã từng xảy ra(8). Có điều chính quyền ngày nay không phải của ta nữa rồi. Bọn lợi dụng thành quả cách mạng chỉ chưa xưng vương được mà thôi. Chúng đã leo được lên đầu lên cổ nhân dân, chúng sẽ không dừng lại. Phải biết giả câm giả điếc mà sống qua giai đoạn này. Nếu chúng nó bắt mẹ thì Hiên trông các em. Nếu Hiên cũng bị bắt thì đến Phương…Cứ thế mà trông nom nhau.
Bà đưa chúng tôi vào Hà Ðông để thăm bác Ðinh Chương Dương.
Bác Ðinh là người đưa cha tôi vào đường cách mạng, cho nên cha tôi coi bác như nghĩa huynh. Hai người gặp nhau khi cha tôi còn là một học sinh 15 tuổi, tại thị xã Tuyên Quang. Ông Vũ Ðình Linh, anh cả của cha tôi, hồi ấy làm công chức cho Pháp trên cái tỉnh mạn ngược này. Những người tù chính trị làm cỏ-vê(9) ở núi Cố đã giác ngộ lòng yêu nước cho cha tôi, trong đó bác Ðinh gần gụi với cha tôi hơn cả. Cha tôi đã nhịn quà sáng, xin thêm tiền chị dâu để sắm quần áo cho cuộc vượt ngục của bác Ðinh và một số đồng chí. Sau đó, mất liên lạc với bác Ðinh, cha tôi tự viết truyền đơn, tự tay đi rải ở thị xã Thái Bình và bị bắt lần đầu.
“Huỳnh ơi! Huỳnh ơi! Huỳnh ơi!”, nghe tin dữ bác Ðinh đang nằm liệt đập tay xuống giường kêu lên ba lần, khóc nức nở. Nhìn người già lăn lộn khóc lóc, lòng tôi đau quặn. Mẹ tôi nói với bác Ðinh: “Em cũng có thể bị chúng nó bắt, bởi vì em cũng biết nhiều điều bí mật chồng em biết. Nếu em bị bắt thì cháu Hiên sẽ thay mặt vợ chồng em vào thăm bác, cháu Hiên bị còn cháu Phương, còn lại một đứa nào trong mười đứa con em thì còn có đứa vào đây thăm bác”. Rồi mẹ tôi nghẹn ngào, nụ cười méo xệch: “Ðẻ nhiều đâm ra những lúc như thế này lại có lợi, bác ạ!”. Bác Ðinh hỏi tôi: “Cháu có nhớ chuyện “giật giải mũ”(10) không?”. Tôi thưa có. Bác nói: “Người xưa còn thế được, người nay mà thế a?!”.
Mẹ tôi ít đọc sách, nhưng trái tim trong sáng luôn mách bảo bà, giúp bà nhìn thấu bản chất sự việc. Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Phải chăng trong góc sâu kín nào của tâm hồn tôi vẫn còn ngờ có những điều cha tôi giấu tôi. Phải chăng vì ông giao du với những người mưu toan cướp chính quyền nên lãnh đạo Ðảng mới bắt ông? Nhiều người ngây thơ cũng đã nghĩ như tôi, sau này ra tù rồi tôi mới được biết. Chúng tôi tin Ðảng, như bây giờ người ta nói, hơi bị nhiều.
Dưới thời Sta-lin không ít người cộng sản vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Ðiều ít ai biết là những người này, sau một thời gian được xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội họ không hề phạm, đã nói những lời ăn năn, hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đình họ nếu họ không chịu nhận tội. Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối những người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất: làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con(11).
Huỳnh Ngự nhắc khéo tôi:
– Hôm rồi vợ anh dắt các cháu tới đây xin cho các cháu gặp ba! Các cháu xinh xắn hỉ? Chị khóc, các cháu khóc, chúng nó nhớ ba, trông mà ái ngại. Anh phải nghĩ tới vợ con anh chớ. Ai cho vợ một tên chống Ðảng ở trong biên chế Nhà nước? Mất việc rồi lấy chi nuôi con? Rồi đây con cái anh sẽ ra sao? Chúng nó sẽ đứng đường một khi anh vẫn ngoan cố, vẫn không chịu hối cải để được Ðảng khoan thứ(12). Ðừng sợ Ðảng trừng trị mà giấu giếm tội lỗi. Hãy lo mình chưa tận trung. Ðảng bao giờ cũng giơ cao đánh sẽ…
Một hôm khác y dụ dỗ:
– Này, anh phải cố gắng lên chứ. Anh Sáu nói ảnh sẽ bố trí thời gian cho anh được gặp đấy. Nhưng anh phải thế nào chứ cứ thế này thì ảnh chẳng cho gặp đâu. Ðược gặp anh Sáu anh cứ xin ảnh, biết đâu ảnh chẳng thương tình mà cho về…
– Tôi không hiểu cố gắng nghĩa là thế nào.
– Còn nghĩa là thế nào nữa! Là phải thành khẩn khai báo, phải nhận mọi tội lỗi với Ðảng, thì Ðảng sẽ khoan hồng.
Cha tôi nói ông “có tội với Ðảng…thiếu ý thức tổ chức, do đó phạm những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng”. Những sai lầm nghiêm trọng nào? Ông nhận tội gì kia chứ? Ông nhận ông thiếu ý thức tổ chức, nhưng ý thức tổ chức là cái gì khi chính cái tổ chức không còn là tổ chức của ông?
Thời gian cuối trước khi hai cha con bị bắt, do thường xuyên công tác xa nhà tôi ít có dịp gần cha tôi. Qua những buổi tâm sự rời rạc tôi hiểu cha tôi cuối cùng đã giác ngộ được điều mà người ngoài Ðảng đã biết từ lâu: Ðảng không còn là đảng trước kia nữa.
Tôi không tin ông chống Ðảng theo quan niệm thông thường. Do tính cố chấp nhà nho, lòng ông bất nhẫn khi phải chống lại tổ chức mà trước kia ông từng là thành viên.
Hay ông bị người khác lôi cuốn vào những việc làm chống Ðảng mà chính ông không biết? Có thể người ta lợi dụng ông, người ta cần đến những nhà cách mạng lão thành như cần một ngọn cờ? Chuyện đó cũng không thể có. Ông không đến nỗi ngây thơ để bị lợi dụng. Ông cũng chưa lú lẫn. Trong ông niềm tin ở Ðảng chưa tắt. Ông vẫn hi vọng Ðảng sẽ thay đổi. Không thể nào một Ðảng đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc như thế lại không hiểu được rằng nền độc lập sẽ không thể là độc lập khi lệ thuộc ngoại bang, rằng tự do không thể là tự do nếu không có tự do tư tưởng.
Vậy thì mâu thuẫn gây ra cuộc trấn áp tàn bạo chỉ nằm trong sự không đồng nhất của những quan điểm về chủ nghĩa cộng sản chăng?
Khi Lê Ðức Thọ xưng “Ðảng là tao!”, khi Lê Duẩn tuyên bố “Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”, thì bất cứ ai nghĩ khác họ trong bất cứ lĩnh vực nào cũng là kẻ chống Ðảng. Và kẻ chống Ðảng phải bị trấn áp.
Nhờ ảnh hưởng văn hóa phương Tây, ảnh hưởng tinh thần tự do của Ðại Cách mạng Pháp, cha tôi không sùng bái cá nhân. Tuy nhiều năm làm việc với ông Hồ, cha tôi chỉ kính trọng ông như kính trọng một nhà cách mạng kiên cường, một nhà lãnh đạo tài ba, nhưng không bao giờ mù quáng sùng phục ông Hồ. Với cha tôi, không có thánh nhân trong các đồng chí. Mỗi người cộng sản lãnh một chức trách để thực hiện mục đích của cách mạng. Vị trí anh ta ở đó, giá trị anh ta cũng ở đó. Ông khinh bỉ thói luồn cúi.
Cũng không phải ông Hồ Chí Minh khó chịu với cha tôi mà cho Lê Ðức Thọ bắt ông. Giữa hai người quả đã có những mâu thuẫn về quan điểm đối với vấn đề ruộng đất, trong thái độ đối xử với trí thức, với những nhà tư sản và địa chủ yêu nước. Lê Ðức Thọ, và rất có thể cả Lê Duẩn, chắc phải xúc xiểm nhiều lắm, bịa đặt nhiều lắm mới làm cho ông Hồ bằng lòng bỏ tù một loạt cán bộ có công với cách mạng.
Cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong Cải cách ruộng đất là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.
Nhưng, lại cũng công bằng mà nói, ông Hồ không hề có ý định làm Cải cách ruộng đất trong kháng chiến chống Pháp. Ông không muốn khuấy động sự ổn định của chính quyền cách mạng trong lúc trước mặt là kẻ thù xâm lược. Ông đã buộc phải làm Cải cách ruộng đất khi bị Mao nhắc nhở. Trong quyết định này khía cạnh tâm lý có tầm quan trọng lớn: ông Hồ không muốn bị vu vạ thêm một lần như ông đã từng bị vu vạ rằng ông là người không có lập trường cách mạng kiên quyết.
Như vậy, Cải cách ruộng đất được quyết định trong hoàn cảnh có sự thúc ép mạnh mẽ từ bên ngoài. Nó bắt đầu vào những năm 1953-1954, khi tình hình các chiến trường, tình hình trong nước và thế giới trở nên đặc biệt thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cho ông Hồ có cảm giác chiến thắng cuối cùng đã gần kề.
Những nhân vật kế cận ông Hồ như Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Văn Hoan(13), Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt… vốn là những mao-ít nòi. Họ vừa thúc bách ông, vừa hùn vào quyết định còn đang lung lay của ông. Tuy nhiên, đối với ông Hồ Chí Minh họ lúc nào cũng giữ tư cách những học trò khiêm tốn. Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí Minh tổng bí thư Trường Chinh không có vai trò lớn như nhiều người lầm tưởng. Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám, và cũng không bao giờ được phép tự mình quyết định những chủ trương lớn.
Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ở vùng tự do Thanh hóa, Nghệ An thuộc Liên khu 4 cán bộ giảm tô giảm tức kích động nông dân hành hạ dã man những địa chủ, nói cho đúng là những nông dân giàu có, cha tôi tức tốc lên Việt Bắc báo cáo tình hình xảy ra với chủ tịch. Ông Hồ hốt hoảng hạ lệnh đình chỉ tức khắc cuộc giảm tô giảm tức cường đạo và gửi thư xin lỗi đồng bào.
Ông đã nghe cha tôi vào thời kỳ ấy, nhưng đến Cải cách ruộng đất thì ông không nghe nữa. Lúc ấy ông đã bị các cố vấn Trung Quốc và những lý thuyết gia mao-ít nội hóa thuyết phục. Ông nghe làm sao được khi trên báo Nhân dân ngày nào cũng tràn ngập tin tức về những thắng lợi rực rỡ của cuộc cách mạng long trời lở đất.
Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì nó mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người muốn bào chữa cho ông là chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không chỉ cứu một bà Nguyễn Thị Năm(14), nó còn cứu hàng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông Hồ đã không cứu bà Năm. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn.
Trong những ngày u ám đó cha tôi được cử làm bí thư Ðoàn ủy một đoàn Cải cách ruộng đất. Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng, ông thấy Cải cách ruộng đất đang mắc sai lầm. Nó đi chệch mục tiêu “người cày có ruộng”, biến thành một cuộc tàn sát chỉ để tàn sát, một dịch cuồng amok(15) của châu ỏ. Trong cuộc đời cách mạng của ông, ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông hiểu đất nước ông, ông hiểu đồng bào ông. Ông không tin kết luận của các thầy Tàu nói phàm nông dân giàu có đều là địa chủ chống cách mạng, chống kháng chiến. Ông tin ở lòng yêu nước của đồng bào. Chính những nông dân giàu có, những địa chủ nhỏ, theo ông, là những người sớm giác ngộ cách mạng do ý thức được phải tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ hơn lớp bần cố nông do quá nghèo đói và mù chữ không có điều kiện tiếp xúc với trí tuệ cách mạng. Những nông dân giàu đã có công lớn trong việc nuôi cán bộ, bộ đội trong những ngày đầu kháng chiến, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước. Không phải sự nghèo khổ làm cho người ta có ý thức cách mạng. Trong chuyện này người ta quên hẳn lời những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác ” í thức cao nhất của công nhân chỉ là ý thức công đoàn”.
Sự tráo trở được dựng thành lý thuyết: những nhà giàu mà người ta gọi bằng các nhà hằng tâm hằng sản khi cần đến sự giúp đỡ của họ chỉ là đồng minh giai đoạn, gọi theo đúng chữ dùng trong các tài liệu học tập cho cán bộ. Giờ đây, khi cách mạng đã qua cái giai đoạn cần họ thì họ bị coi như kẻ thù.
Lại một lần nữa, cha tôi bỏ công việc về Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh. Ðang trong cơn đau gan nặng, ông chống gậy lên Chủ tịch phủ. Ông nói lớn với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào, đồng chí!(16)”
Sau sai lầm Cải cách ruộng đất ông Hồ và những người phụ tá luôn bị ám ảnh rằng mọi người đều lên án họ. Do đó ai nói đụng tới Cải cách ruộng đất cũng đều làm cho họ khó chịu. Trường Chinh ngay trong Cải cách ruộng đất đã phàn nàn rằng cha tôi giờ bất mãn với Ðảng, trở thành cái loa cho bọn tư sản, địa chủ.
Mà cha tôi bất mãn thật. Ông bất mãn về nhiều việc làm của Ðảng mà ông cho là không quân tử, không đạo đức. Ông bất mãn vì nhìn thấy cuộc cách mạng mà ông tham gia cuối cùng đã dựng nên một xã hội không tử tế.
Ông không bằng lòng cách Ðảng giải quyết vụ Nhân văn-Giai phẩm, trấn áp và hạ nhục nhiều trí thức và văn nghệ sĩ, là những người có tâm huyết với đất nước. Ông buồn rầu nói với các bạn: “đối xử với nhân sĩ, trí thức như thế không phản động họ cũng thành phản động”.
Cha tôi thương Nguyễn Hữu Ðang, đồng chí của ông từ thời kỳ hoạt động bí mật. Khi ở Liên Xô về, tôi hỏi ông về vụ Nhân văn – Giai phẩm thì cha tôi nói: “Ðó là một vụ bày đặt. Nguyễn Hữu Ðang đâu có ý định chống Ðảng. Anh ta chỉ muốn cách mạng tốt hơn. Vu oan giá họa cho người ta là không quân tử”. Ông Ðặng Kim Giang có mặt hôm đó nói: ” Ðang cũng có khuyết điểm, lúc Ðảng gặp khó khăn làm tình hình đã rối rắm rồi lại càng rối rắm thêm, thì không nên. Nhưng cách Ðảng giải quyết vụ này cũng rất tồi”. Ông kính trọng sĩ khí của cụ Phan Khôi(17): “Ðó là một nhà nho đúng nghĩa nhà nho, không biết cúi đầu. Có thể tranh luận với ông ấy, nhưng dùng lối bịt miệng, vu cáo người ta thì hèn quá!”
Vào thời kỳ ấy, cả cha tôi, cả ông Ðặng Kim Giang, và nói chung những người cộng sản thuộc thế hệ già, chưa thoát khỏi cách suy nghĩ bị trói trong khuôn phép của cái gọi là ý thức tổ chức. Họ không đồng tình với Ðảng đấy, nhưng họ chỉ biết than thở với nhau. Nếu thấy hậu quả việc làm của Ðảng không đến nỗi quá tai hại, quá nghiêm trọng, theo như họ nghĩ, thì họ buồn rầu cho qua, tôn trọng quyết định của lãnh đạo.
Những chính sách của Ðảng sau khi Lê Duẩn lên ngôi làm cho cha tôi không bằng lòng ngày một nhiều thêm. Mỗi ngày ông xa Ðảng thêm một chút.
Cha tôi không bằng lòng việc đẩy nhân sĩ trí thức ra ngoài bộ máy Nhà nước để thay vào đó những đảng viên bất tài, kém học. Ông cảm thấy ông có lỗi với những người trước kia ông vật nài, lôi kéo họ tham gia chính phủ lâm thời năm 1945-1946, như các ông Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Ðoàn, Phan Kế Toại, Hoàng Minh Giám, Ðặng Phúc Thông, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Ðắc Di, Trần Ðăng Khoa, Vũ Ðình Tụng(18)… Chế độ đảng trị càng vững chắc thì quyền dân chủ của nhân dân càng mỏng manh, càng bị cắt xén.
Cha tôi cũng không đồng tình với đường lối lấy chiến tranh làm phương sách duy nhất để thống nhất đất nước. Ông cho rằng từ giữa thập niên 50 tình hình thế giới đã có những tiền đề thuận lợi cho việc giải quyết các cuộc tranh chấp mà không cần tới bạo lực. Cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt giữa hai miền Nam Bắc đem đến đau khổ cho mọi nhà. Cần phải tích cực tìm kiếm giải pháp hòa bình, chứ không loại trừ nó ngay từ đầu. Không tìm là sai lầm. Tìm mà không được là chuyện khác.
Nhân chuyện thống nhất đất nước, tôi xin nói tới một mẩu lịch sử ít người biết. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Ngô Ðình Diệm(19) bị bắt. Tại Hà Nội ông Diệm bị giam không phải ở Hỏa Lò mà ngay trong Bắc bộ phủ. Theo ông Chu Ðình Xương, nguyên giám đốc Sở Liêm phóng Hà Nội, thì việc Ngô Ðình Diệm bị giam tại Bắc bộ phủ là do ông Hồ Chí Minh quyết định. Tại sao ông Hồ lại có quyết định đó thì ông Chu Ðình Xương không hiểu. Rất có thể do những dây mơ rễ má nào đó giữa gia đình ông Hồ với các quan lại triều Nguyễn trong quá khứ mà ông Hồ Chí Minh lo cho số phận của Ngô Ðình Diệm, không muốn để mặc tính mạng con người nổi tiếng chống Cộng này nằm trong tay những đồng chí nóng tính.
Cha tôi là người giữ chìa khóa phòng giam. Ðến bữa, cảnh vệ lên lấy chìa khóa, cho Ngô Ðình Diệm ăn xong thì nộp lại. Một hôm, ông Hồ bảo cha tôi: “Chú Huỳnh ạ, tôi tính nên thả ông Diệm. Mình làm ân cho người ta tốt hơn là làm oán”. Cha tôi bàn với ông Lê Giản(20). Hai ông cho rằng để ngăn ngừa những hành động chống cách mạng của ông Diệm cách tốt nhất là để cho ông ta được hưởng chế độ câu lưu tại Việt Bắc. Ông ta sẽ sống như dân thường, chỉ bị hạn chế tự do đi lại mà thôi.
Ông Hồ Chí Minh bỏ ngoài tai ý kiến phản bác, ông đã định thả là ông thả: “Các chú không ở Huế không biết, chớ dân Huế có câu “Ðầy vua không Khả, đào mả không Bài(21). “, là nói về cụ thân sinh ông Diệm đấy. Vị người cha thả người con là điều nên làm lắm chứ. Các chú không nên hẹp hòi!”
Nhiều người nhận xét khi ở cương vị tổng thống Việt Nam Cộng hòa ông Ngô Ðình Diệm không bao giờ có những lời khiếm nhã đối với chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những nguyên nhân, theo tôi nghĩ, có thể là do ông Diệm không quên ơn ông Hồ đã tha mạng mình, là điều không phải khó hiểu.
Cho tới khi cuộc đấu tranh giữa hai đường lối nổ ra ráo riết thì Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng khó xử. Ông vốn không mấy quyết đoán trong đấu tranh nội bộ. Ông thích cái sự ăn ở hòa thuận, có gì không nên không phải thì cùng nhau bàn bạc giải quyết, đã là anh em một nhà thì đóng cửa bảo nhau, không nên chửi bới, lại càng không nên thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Chính ông, chứ không phải ai khác trong những nhà lãnh đạo cách mạng, đã viết như sau: “Nghe người ta nói đấu tranh giai cấp mình cũng ra khẩu hiệu đấu tranh giai cấp mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng(22)”. Ông ngán cái cảnh đấu tranh giai cấp mà ông được thấy tận mắt ở nước Nga xô-viết sau khi Lênin qua đời.
Những người gặp ông Hồ Chí Minh kể lại rằng nhìn tình hình loạn lạc bên nước láng giềng, ông tỏ ra rất lo lắng, ông không muốn Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh lý thuyết đã vô bổ mà còn có thể gây ra cảnh nồi da nấu thịt.
– Ông Cụ phiền muộn vì cái vụ Liên Xô Trung Quốc chửi nhau này lắm. – thiếu tướng Lê Liêm kể cho tôi sau một lần gặp Hồ Chí Minh -:Ông Cụ nói với tôi: thế này thì phe xã hội chủ nghĩa còn mặt mũi nào nữa trước các nước nhược tiểu, người ta trông cậy vào mình. Trong nhà còn lục đục, nói ai người ta nghe…
Khi ban lãnh đạo Ðảng ngả theo Bắc Kinh, ông Hồ còn buồn hơn. Ông hiểu Mao Trạch-đông, hiểu tham vọng bá, tính cách bá của ông ta. Với đường lối “tọa sơn quan hổ đấu” (ngồi trên núi xem hổ đánh nhau) đã nhiều năm Mao xúi Liên Xô đụng đầu với Mỹ, nay ông ta lại khuyến khích Việt Nam xông trận. Mao sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống “con hổ giấy(23)”, là điều Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết.
Tôi được đọc nhiều lời buộc tội Hồ Chí Minh chia cắt đất nước. Tôi nghĩ điều này không đúng với thực tế. Khi phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi dự hội nghị Genève về Ðông Dương vấn đề chia đôi Việt Nam không có trong hành trang. Ông Hồ Chí Minh không hề có ý muốn như vậy. Sự chia cắt, như một giải pháp hòa bình cho Ðông Dương, được quyết định bởi các cường quốc, trước hết là Trung Quốc, rồi đến Liên Xô và Mỹ. Trước những sức ép quá mạnh Hồ Chí Minh đành chịu. Dù sao mặc lòng đã đến lúc phải chấm dứt cuộc chiến tranh đã kéo quá dài.
Ðó là nhận định của cha tôi, người gần gụi ông Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử đó. Cũng theo cha tôi, ông Hồ thật sự không chủ trương dùng bạo lực để thống nhất đất nước. Ông thật sự tin rằng sau hai năm đất nước bị chia cắt tạm thời sẽ có tổng tuyển cử và thắng lợi chắc chắn sẽ đến với những người cộng sản. Cha tôi cho rằng trong cách nhìn nhận một con người điều quan trọng hơn cả là phải giữ được lẽ công bằng. Sau vụ bắt bớ, giam cầm những người cộng sản bất đồng chính kiến, nhiều người buộc tội ông Hồ Chí Minh, thậm chí gán cho ông những tính chất mà ông không có, như tính hiếu chiến, hiếu sát. Cha tôi giận ông Hồ, nhưng ông không đồng tình với lời buộc tội đó. Những ngày ở trong rừng Việt Bắc, cha tôi kể, mỗi khi sắp mở một chiến dịch ông Hồ trở nên bẳn gắt và hút thuốc lá luôn miệng, có khi thức trắng đêm. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai rằng gắn liền với mỗi thắng lợi trên chiến trường là máu chiến sĩ, đồng bào phải đổ ra. Có lẽ trong những người cộng sản thế hệ ông Hồ Chí Minh là người ít thích thú chiến tranh nhất.
Lê Duẩn thuộc loại người khác hẳn. Ông ta lớn lên nhờ chiến tranh. Không có chiến tranh Lê Duẩn không còn là Lê Duẩn. Lê Duẩn chẳng ngần ngại chê bai Hồ Chí Minh không dám chủ trương dùng bạo lực giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. “Bác còn do dự, chớ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng”.
Cha tôi cho rằng việc ban lãnh đạo Ðảng mời Giải phóng quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm tệ hại. Trong công tác phóng viên tôi đã đến Khu tự trị Việt Bắc và Khu mỏ nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi trong những khu rừng quê hương, nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, những người thợ mỏ muốn đi tắt qua phần đất đã được giao cho Trung Quốc(24) bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm nước mắt.
Ông lo lắng trước tình hình nước nhà bị lệ thuộc. Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ là các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác trước chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng đã từng đô hộ Việt Nam. Họ nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch thượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến ông.
Ông rất bất bình về việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục đồ bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. “Ðó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác.Sao nó ngu thế! Sao nó bậy thế!”, ông bực bội kêu lên.
Ông còn kêu ca nhiều về những chính sách không được lòng dân, về cách đối xử phân biệt đảng viên với quần chúng ngoài Ðảng trong việc giao công tác. Lãnh đạo Ðảng không nghe ông. Người ta không thích nghe những lời chỉ trích. Ông đành chia sẻ tâm sự mình với những đồng chí cũ đã về hưu thường đến thăm ông. Ông nghĩ rằng nếu mọi người đồng lòng can ngăn Trung ương trong những việc không nên làm thì Trung ương sẽ nghe theo. Ông tin ông trong sáng trong những ý kiến nhằm bảo vệ cách mạng. Ông không coi việc người cộng sản phát biểu ý kiến về các vấn đề của đất nước là có tội.
Trong chuyện này cha tôi đã lẫn lộn thời khắc. Năm 1964 không có gì giống với năm 1946. Ðất nước, chính quyền, đã không còn là của chung mọi người.
Không! Một người như cha tôi không thể hèn. Phải có một nguyên nhân nào đó khiến ông phải hành động khác với bản chất mình.
Thì ra ông nói ông “có tội với Ðảng” là để nhấn mạnh ông không có tội với cái gì khác trừ ra với Ðảng. Ông không có tội với nhân dân, với Tổ quốc. Cần phải giải mã bức thư theo cách đó, tôi nghĩ. Ông nói ông phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng là có ý nói cái hại ấy cũng lại chỉ cho Ðảng mà thôi. Những người nắm quyền lãnh đạo Ðảng bắt ông vì ông có tội với họ.
Cũng có thể bằng những lời thú nhận ông muốn lừa Lê Ðức Thọ, để Thọ đưa ông ra xử. Lúc đó ông sẽ có điều kiện tuyên bố chính kiến, ông sẽ nói với đồng bào những điều ông muốn nói. Than ôi, đó chỉ là hi vọng hão huyền, là ý nghĩ ngây thơ thường có ở người bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Không bao giờ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cho những người cách mạng được phép nói điều gì khác ngoài sự lặp lại những tín điều do họ ban bố.
Ông hiểu trong vụ án được dựng nên này Lê Ðức Thọ nắm vai trò chính, tính cách Thọ thế nào thì ông đã biết từ nhà tù Sơn La. Thọ đã nhiều lần mưu mô hạ uy tín các đồng chí lão thành cách mạng để tôn mình lên. Việc Thọ xúi giục một số đồng chí hăng hái thái quá buộc ông Trần Huy Liệu, cựu đảng viên Quốc dân đảng, phải lên án Ðảng cũ của mình là manh động trong khởi nghĩa Yên Bái là một thí dụ. Ông Trần Huy Liệu đã xử sự như một kẻ sĩ ngoan cường. Ông cao ngạo và thẳng thừng từ chối không đọc một bản báo cáo như thế, ông không chịu đứng trên lập trường kẻ ngoài cuộc lên án những đồng chí của ông đã hy sinh. Ông nói với tôi rằng sự hy sinh của các chiến sĩ Quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa thất bại có giá trị thức tỉnh lòng yêu nước trong nhân dân. Nguyễn Thái Học không phải không đoán trước được kết cục bi thảm của cuộc khởi nghĩa khi ông phát ra câu nói nổi tiếng “Chuyến này không thành công cũng thành nhân”.
Ngoài chuyện tính cách, chắc cha tôi còn có điều nghi ngờ Thọ trong sự liên lạc thậm thụt với công sứ Cousso(25), mà ông biết trong thời gian ông làm thư ký trong nhà tù Sơn La. Vào những năm này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Ðức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ. Tướng Ðặng Kim Giang cũng có chung với cha tôi mối nghi ngờ đó. Trong một câu chuyện giữa hai người tôi nghe tướng Giang nói: “Phải chi Tô Hiệu(26) còn sống. Vía nó (chỉ Thọ) cũng không dám như vậy”. Nhưng cả hai im lặng. Với một Lê Ðức Thọ quyền sinh quyền sát như thế, giữ im lặng là phải. Mặc dầu cùng tù với nhau ở Sơn La, cha tôi không bao giờ coi Thọ là bạn. Ông Ðặng Kim Giang cũng vậy. Dưới con mắt của ông Lê Ðức Thọ là một tên hạ lưu hãnh tiến.
Cha tôi rõ ràng muốn nhắc tôi cảnh giác kẻo sa vào một âm mưu dựng vụ. Ông nhấn mạnh ông chỉ nhận thiếu ý thức tổ chức mà thôi.Về phần tôi, ông khuyên tôi phải thức thời, phải cúi mình xuống mà nhận khuyết điểm. Nhận sai lầm, khuyết điểm chứ không nhận tội, ông muốn nhấn mạnh, khuyên tôi không được cứng nhắc trong bước ngoặt này của cách mạng. Lời lẽ nhún nhường trong bức thư chỉ để pha loãng những ý chính, không cho bọn công an đoán ra những điều cha tôi nhắn nhủ.
Cũng không loại trừ việc Lê Ðức Thọ không bẻ gãy được cha tôi trong việc ép buộc cha tôi phải nhận một tội nào đó, là cái Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cần có để dùng nó triệt hạ những kẻ mà họ coi là đối thủ, đã buộc ông viết thư cho tôi, hòng dùng bức thư áp đảo tôi, hoặc may ra có thể kích thích tôi phản tỉnh mà bằng lòng khai ra một điều gì đó. Nếu tôi chịu khai người ta sẽ dùng chính lời khai của tôi để áp đảo cha tôi, áp đảo tướng Ðặng Kim Giang và những anh em khác.
– Anh khỏi lo đi. Việt-Xô(27) đã chuyển bịnh án của ông già anh qua đây. Việc chăm sóc sức khỏe cho ổng vẫn do Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương cáng đáng. Mà ở nước ta thời nơi mô có đủ thuốc bằng Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương? Nói chi thời nói chớ ông già anh vẫn là bậc lão thành cách mạng, vẫn có tiêu chuẩn đặc biệt, ổng được săn sóc tới nơi tới chốn. Nói chung, mấy bữa đầu ổng nói cho đúng ổng cũng không được khỏe cho lắm, nhưng chừ đã bình thường…
– Tôi có được phép viết thư cho ông cụ tôi không?
– Tui nghĩ được.
– Tui có được giữ bức thư không?
– Không. Anh đọc xong đưa lại cho tui. Có cần đọc lại lần nữa không? Anh ở một mình thì tui cho anh mang về.
Họ vẫn phải giữ kín vụ án. Tại sao lại như vậy?
– Tôi nhắc lại: anh không được phép kể cho người ở cùng phòng về vụ các anh. Vụ này thuộc về bí mật của Ðảng!
Thì ra cái chỗ tôi đang ở gọi là phòng, chứ không phải xà lim.
Tôi cố gắng nhưng không sao hiểu câu nói của Huỳnh Ngự. Bắt người là việc bàn dân thiên hạ đều biết, vậy mà lại là bí mật của Ðảng, buồn cười quá!
– Với cán bộ quản giáo cũng không được nói. Anh biết răng là giữ bí mật chớ?
– Tôi biết.
Ðiếu thuốc lá làm tôi buồn nôn. Mồ hôi lạnh rịn ra trên trán. Anh hương sư hói đầu đã pha xong ấm trà. Về món pha trà anh ta kém hẳn Huỳnh Ngự, loãng toẹt. Tôi uống liền hai chén.
– Các vị cách mạng lâu năm như ông già anh là vậy đó – Huỳnh Ngự phủ dụ – Khi chưa hiểu ra chân lý thì bướng bỉnh lắm, ngoan cố lắm, rứa mà được Ðảng cảnh tỉnh rồi thì lại có tinh thần tự phê bôn-sê-vích rất đáng khâm phục. Hậu sinh chúng mình còn phải học tập các cụ nhiều. Anh tưởng tụi tui hổng biết trước đây ổng bị Pháp tra khảo ròng rã mấy tuần liền, đánh đập, tra điện, đi tàu bay, tàu ngầm(28) đủ kiểu, mà vẫn không khai hả? Tụi tui biết cả đó! Vậy mà vô đây Ðảng hỏi, ông già khai sạch trơn, không hề giấu giếm chút mô…
Cha tôi đã làm gì để phải khai với bọn này sạch trơn? Tôi còn nhớ khi anh Hoàng Minh Chính bị bắt cha tôi còn nói với ông Lê Giản: “Tại sao chúng nó lại bắt thằng Chính? Nó làm gì mà bắt nó?” Ðáp lại, ông Lê Giản chỉ cười buồn. Lúc ra về ông nói với cha tôi: “Bắt đầu một thời kỳ mới rồi: thời kỳ người ta ngồi xổm lên dư luận và ỉa vào luật pháp. Chúng mình rồi chửa chắc đã được yên”.
Tôi lặng thinh.Trước mắt tôi hiện lên cái buổi sáng đã xa, tôi và mẹ tôi tới đây, vào trong chính nhà ngục này. Hồi ấy tôi còn nhỏ đến nỗi mẹ tôi có thể bế bổng tôi lên mà đút tôi qua ghi-sê nhận quà để cha tôi ôm hôn tôi. Những cái hôn cuống quýt của cha tôi lên trán, lên má tôi, bộ râu cứng của ông làm rát mặt tôi, tôi nhớ tới tận bây giờ.
Cha tôi bị bắt tại ga Hàng Cỏ ngay sau khi đưa Trường Chinh lên Phúc Yên chạy trốn cuộc tổng khủng bố. Ðó là thời kỳ Mặt trận Bình dân bên Pháp đi vào thoái trào. Chính quyền thuộc địa nhân cơ hội liền thẳng tay đàn áp các lực lượng cách mạng vừa mới trồi lên trong những hoạt động công khai. Ðó là thời kỳ cam go nhất đối với những người cộng sản. Cha tôi thường xuyên không có mặt ở nhà. Ông chỉ về bất chợt, thoáng lại đi, trong đêm. Trong những giấc mơ tôi nghe tiếng ông thì thào với mẹ tôi.
Về việc cha tôi đưa Trường Chinh đi trốn tôi được biết thêm chi tiết trong câu chuyện hàn huyên giữa cha tôi và ông Xuân Thủy(29) sau khi hòa bình lập lại: “Thằng Thận đoảng vị lắm, mày biết đấy. – cha tôi kể – Nó nhớn nha nhớn nhác, mặt xám ngoét lại, cứ như bị mật thám đuổi sau đít, nằng nặc đòi tao bố trí ngay cho nó một chỗ trốn. Nó nói đi tìm mày không được. Tóm được Hạ Bá Cang ở Phủ Lý, nó bảo Hạ Bá Cang cho nó một chỗ, thằng Cang ừ hữ rồi biến. Thằng Thận chỉ chúi mũi vào sách vở, có bao giờ công tác quần chúng đâu, đến khi lâm sự thì cuống cà kê lên, sợ vãi ra quần. Nghe nó chửi thằng Cang tao chỉ cười. Chính tao đưa thằng Cang đi trốn chứ ai. Cơ sở thằng Cang có, nhưng vỡ rồi. Còn một cái thì lại không an toàn. Tao chỉ dặn thằng Thận cải dạng cho tốt rồi tao đón, mà nhớ đừng tha sách theo đấy nhá, mật thám đầy đường, tao bảo nó thế. Tao đưa nó lên nhà thằng Vần(30), mày nhớ thằng Vần chứ? Hồi ấy nó có cái trại con con gần thị xã Phúc Yên. Ðưa thằng Thận đi xong, tao về đến ga Hà Nội thì bị tóm. Nằm ở Sở Liêm Phóng ăn điện, đi tầu bay, tầu ngầm một tháng thì sang Hỏa Lò…Chúng nó chỉ hỏi tao hai câu: “Ðặng Xuân Khu đâu? Hạ Bá Cang đâu?” Mà sau mày bị ở đâu nhỉ?”
Tôi thích tình bạn thân thiết của các chiến sĩ cộng sản. Tôi yêu chủ nghĩa cộng sản một phần cũng vì lẽ đó. Trong ngôi nhà chật hẹp của gia đình tôi ở số 27 bis rồi số 65 phố Nhà Rượu, những người đồng chí của cha mẹ tôi đến ăn dầm nằm dề hàng tháng. Họ ngủ la liệt trên sàn gạch hoa, gối đầu trên những chồng báo, trên những cái chổi lúa, ngáy ầm ĩ. Khi tỉnh dậy họ lại tiếp tục tranh luận đến khản tiếng, nhưng không bao giờ cãi nhau. Những người này đến rồi đi, thay chân họ là những người khác, tất cả đều giống nhau ở tính tình cởi mở, thân thiết như ruột thịt. Mẹ tôi sung sướng được hầu hạ họ những bữa cơm ngon lành, tuy không sang trọng nhưng nhộn nhạo tiếng cười.
Và họ mới thương nhau làm sao! Tôi nhớ những ngày thực dân Pháp tổng khủng bố năm 1939. Một đêm tôi thức dậy bởi những tiếng thì thào. Tôi mở mắt thì thấy bác Ba Lâm đứng ở đầu giường. Tôi nhảy lên, ôm choàng lấy bác. Ông là người được lũ trẻ chúng tôi yêu nhất. Cao lộc ngộc, vụng về, ông không biết gọt khoai róc mía theo kiểu ta, mà chỉ biết làm theo kiểu tây, nghĩa là gọt ngược. Nhưng ông tham gia mọi trò chơi của chúng tôi như một đứa trẻ con lớn, say sưa. Ðêm đó ông trở về nhà chỉ để mang tiền cho mẹ tôi trả thợ giặt, sợ mẹ tôi không còn tiền. Mẹ tôi thì lo ông bị bắt, giục giã bắt ông đi ngay…
Giờ đây chắc bà đau đớn lắm nhớ về những ngày xa xưa ấy. Bà đi dạy học, bán hàng thuê cho cửa hiệu tơ lụa Palais de Soie ở phố Tràng Tiền, của ông chủ người Ấn Ðộ tên là Kevarah. Ông Kevarah là người chủ tốt. Ông biết cha tôi bị bắt vì sao, ông đoán cha mẹ tôi là những người cách mạng, cho nên đối với mẹ tôi ông có sự trọng thị đặc biệt. Tuy mẹ tôi chỉ là người làm công, nhưng ông chủ Ấn Ðộ không bao giờ gò ép giờ giấc để bà có thể làm thêm những việc riêng của bà: “Tôi biết, tôi biết, bà còn bận nhiều chuyện quan trọng. Bà cứ về sớm đi, không sao cả. Tôi gửi lời chào ông. Chúc bà may mắn!”
Những đồng tiền dành dụm được bà đưa cho cha tôi và các đồng chí. Khi ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về nhà tôi, mẹ tôi tẩm bổ cho ông bằng chim hầm hạt sen, chân giò tần thuốc bắc. Lũ con bà chưa bao giờ được biết đến những thức ăn sang trọng ấy. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu trong những thức ăn thường nhật trong gia đình tôi hồi ấy. Rau muống ăn sống thường được chẻ nhỏ, nhưng chị Tường, người ở trong nhà chúng tôi, quá bận việc, chị chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin. Nó chảy ri rỉ suốt ngày từ những lỗ thải ở tường Nhà máy Rượu làm cho cả phố sực mùi chua nồng. Bên lỗ thải bỗng, những chiếc xe bò quây cót chầu chực để nhận phần mua tháng, rồi chở ra ngoại thành bán cho dân nuôi lợn. Chỉ cần chìa cái bát ra là chủ xe đã múc cho, không tiếc rẻ.
Cách mạng thành công, tôi ít gặp lại các bác các chú ngày trước. Những người sau này vẫn còn lai vãng là các ông Trần Huy Liệu, Lê Giản, Bùi Lâm, Khuất Duy Tiến, Nguyễn Lương Bằng, Ðặng Xuân Thiều, Ðặng Việt Châu… Các bác bận, mẹ tôi giải thích, nhưng dường như bà chẳng mấy tin ở lời mình.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi càng ít gặp các bác các chú cách mạng ngày trước hơn nữa. Trong tôn ti trật tự mới cha tôi ở phẩm trật thấp hơn những người bạn ngày trước và chúng tôi chỉ gặp ảnh họ trên mặt báo, thấy tên của họ trên bìa những cuốn sách chờ được thành kinh điển.
– Anh nghĩ sao về bức thơ của ông già? – Huỳnh Ngự hỏi.
Không nên đầu hàng quá dễ, chúng sinh nghi. Sau một lúc im lặng, tôi hỏi khẽ, giọng mệt mỏi:
– Chúng ta kết thúc buổi làm việc hôm nay ở đây được không?
– Anh mệt hả?
– Không. Lúc này tôi muốn ngồi một mình.
Huỳnh Ngự không hài lòng. Nhưng y chiều tôi.
– Ðược, cho anh về. – y nói, giọng ái ngại – Suy nghĩ kỹ đi rồi ta làm việc. Tui hi vọng anh đã hiểu ra.
Ðưa tôi về, Hách bảo tôi đứng chờ ở khoảnh sân hẹp dẫn vào khu xà lim. Y không vội vã vào phòng trực lấy ra một cái ghế đẩu, bảo tôi ngồi xuống. Lấy đồ nghề ra, không cần choàng khăn, y bắt đầu cắt tóc cho tôi. Sau vụ chụp ảnh, lăn tay, cái sự cắt tóc trong tù làm cho tôi càng thêm tin rằng còn lâu tôi mới ra khỏi nơi này. Hách cắt rất vụng, đúng là tay mơ trong nghề, tông đơ rứt tóc làm tôi đau không chịu được. Râu ria tôi mọc dài, y phải húi chứ không cắt, mũi tông đơ cứ rúc vào nhân trung, hích mạnh vào đầu mũi, làm tôi cứ phải ngửa đầu rồi rướn cả người lên cho y đừng làm mình bị thương. Hách thì lại không biết tôi đau. Y còn phấn khởi huýt sáo miệng nữa chứ. Nếu y dùng kéo mà cắt còn tốt hơn. Sau đó sẽ dùng dao cạo, như trong hiệu cắt tóc người ta thường làm. Nhưng y không có ý định cạo mặt cho tôi.
Tôi ngồi đấy, mặc y muốn làm gì với cái đầu tôi thì làm. Nhìn những túm tóc rơi lả tả xuống đất tôi thấy lẫn vào tóc đen đã có nhiều sợi bạc. Như vậy chuyện Ngũ Tử-tư qua một đêm suy nghĩ đầu bạc trắng là chuyện có thật? Mà tôi thì đã bao nhiêu đêm? Vừa sửa gáy cho tôi Hách vừa thủng thẳng tâm sự:
– Tôi còn chẵn hai năm nữa là hưu, anh ạ. Nhìn lại mới thấy đời người nhanh thật. Trên duyệt cho tôi về rồi.
– Sao? Bác còn trẻ mà.
– Trẻ gì, năm mươi ba rồi.
– Vẫn sớm. Phải bẩy năm nữa kia.
– Tôi khác. Ăn nhau ở cái thành tích đóng góp. Không phải hưu đúng tuổi, cũng không phải hưu non, mà là hưu ương ương, tức là được tính thêm cái thâm niên, cộng với lại thương tật…
– Trước bác ở sư nào?
– Tôi á? Trước ở địa phương quân, sau chuyển sang 320. Anh cũng đã ở bộ đội đấy hử?
– Vâng.
– Mình về hưu rồi cũng phải nghĩ cách kiếm ăn, anh ạ. Lương hưu, anh biết đấy, đủ sao được. Ðảng dạy mình phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, không được ỷ lại vào nhà nước, vào Ðảng, là đúng lắm. Tôi tính chán ra rồi, cầm sổ hưu một cái là tôi mở ngay hiệu cắt tóc, ngay lối vào chợ làng tôi, chỗ ấy thì hết ý. Chỉ sợ từ nay tới đó có thằng nào chõm mất thì toi…
– Hai năm nữa cũng còn lâu.
– Tôi đã dạm rồi. Ðảng ủy, ủy ban nhất trí cả. Nhất định họ dành cho tôi. Ðược cái bí thư lại là ông em họ…
– Thế thì tốt quá rồi.
– Tôi cắt tóc cho anh thế này là để tập thôi, cho nó lên tay, chứ cắt tóc cho phạm không phải việc tôi, đã có người khác…
Thì ra vị lãnh chúa của khu xà lim này lại là một đồng chí của tôi trong quân ngũ. Anh ta đang làm nốt những ngày cách mạng cuối cùng để trở về với cuộc sống dân thường, mà hi vọng lớn nhất là có được một cửa hiệu cắt tóc đông khách.
Lẽ ra tôi cũng nên như anh ta – sống cuộc sống bình dị của người dân thường với một ước mơ nho nhỏ.
(1) Quốc xã.
(2) Hình như bệnh sáo ngữ là nét đặc trưng chung cho các quốc gia cộng sản sau khi chính quyền đã vững chắc. ê Việt Nam những nhà báo biết dùng nhiều từ kêu oang oang được đánh giá là có tài.
(3) Về sau cha tôi chê trách tôi không thức thời. Theo ông, vì tôi không ở trong Ðảng, tôi hoàn toàn không cần phải cứng rắn với bọn Duẩn-Thọ làm gì. Nếu tôi chịu hạ mình một chút thì không bị chúng giam thêm 3 năm, và 3 năm đó tôi có thể sống có ích hơn. Hơn nữa, vì sự cứng rắn vô ích tôi có thể bị chết trong tù. “Con phải sống để có lúc nói lại chuyện này cho đồng bào nghe. – cha tôi nói – Một xác chết, cho dù của người anh hùng, cũng chỉ là xác chết”.
(4) Cục tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam, còn gọi là Cục Quân báo, nay là Tổng cục 2.
(5) Trong nhóm này sau khi cách mạng thành công mẹ tôi chỉ còn gặp lại bà Ðỗ Ðình Thiện. Mẹ tôi kể có lần mật thám lùng bắt bà Thiện đã dùng dây thừng tụt từ trên gác cao xuống trốn thoát, nhưng bàn tay mãi mãi còn mang vết sẹo.
(6) (1910-1935), học sinh trường Bưởi, tham gia truy điệu cụ Phan Chu Trinh rồi viết bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước, được Nxb Thanh Niên in, được chép tay để tán phát, nhiều người thuộc lòng bài thơ này. Vì những lý do trên ông bị chính quyền thuộc địa bắt (1926), mãi tới năm 1930 mới thả ra.
(7) Trong những cuộc gặp gỡ này còn có bạn mẹ tôi, bà Ðỗ Ðình Thiện. Số tiền lớn nhất mà Ðảng có để chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám là của hai gia đình tư sản Ðỗ Ðình Thiện và Trịnh Văn Bô đóng góp.
(8) Mẹ tôi có ý nói tới vụ phản tình báo H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, khi lực lượng kháng chiến bị mắc lừa đã bắt giam rất nhiều cán bộ, nhất là cán bộ quân đội. Vụ này do Hoàng Quốc Việt phụ trách, đã làm chết oan nhiều người.
(9) Lao động khổ sai.
(10) Trang Vương nước Tề đăng quang, mở tiệc đãi quần thần đã cùng nhà vua nằm gai nếm mật. Tiệc đang vui thì có ngọn gió lớn làm tắt hết đèn nến. Nhân lúc nhá nhem, một viên quan đã xàm xỡ sờ vú hoàng hậu. Hoàng hậu giật được cái giải mũ đem mách vua. Nhà vua truyền cho các quan giật đứt hết giải mũ rồi mới được tiếp tục cuộc vui, thành thử không biết ai là người đã làm chuyện quấy. Trang Vương về sau có một tôi trung, những lúc khó khăn gian khổ bao giờ cũng ở bên cạnh ông, chính là viên tiểu quan phạm tội.
(11) Chín năm sau, hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận xà lim dụ hàng. Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt thực đã kéo dài hơn 10 ngày thì chúng sẽ không khủng bố gia đình. Nhưng sau đó Lê Ðức Thọ đã cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.
(12) Trong thời gian xảy ra vụ nhóm xét lại chống Ðảng, con cái những người bị giam giữ trong vụ này không được thi vào đại học, thảng hoặc có trường hợp được thi thì chỉ được vào các trường kém vế như đại học nông lâm, đại học thư viện…Cho mãi tới năm 1981con gái đầu của tôi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ với điểm cao, đủ tiêu chuẩn được đi nước ngoài thực tập nhưng không được đi vì “cha có tiền sự”.
(13) Một nhân vật cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Sinh năm 1905, ông đến Thái Lan năm 1928, cùng với ông Hồ Chí Minh lập ra Ðảng cộng sản Thái Lan, đảng viên chủ yếu là người Tàu và người Việt. Hai ông cùng ra tờ Tiếng Chuông ở tỉnh Nakhuphanom. Sau đó ông Hoàng Văn Hoan đi Trung Quốc, hoạt động ở nước này trong nhiều năm. Ông Hoan là một người khắc kỷ, liêm khiết, từ chối mọi đặc quyền đặc lợi. Mặc dầu khác nhau về quan điểm đối với đường lối của phong trào cộng sản quốc tế, cha tôi rất quý mến và kính trọng ông. Hoàng Văn Hoan bị dưa ra khỏi Bộ Chính trị và Trung ương Ðảng ở Ðại hội IV, sau đó bị xử tử hình vắng mặt khi ông trốn sang Trung Quốc xin cư trú chính trị. Con cả của ông Hoàng Văn Hoan, anh Hoàng Nhật Tân, ngược lại với cha, không tán đồng đường lối Mao Trạch-đông, bị buộc tội có quan điểm xét lại. Khi bắt đầu có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Trường Chinh nói với Hoàng Văn Hoan: “Coi chừng, quý công tử ảnh hưởng xét lại nặng lắm đấy!”, và buộc anh Hoàng Nhật Tân phải đi lao động thực tế tại Thái Nguyên. Hoàng Nhật Tân may mắn không bị bắt trong vụ “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng”.
(14) Bà Nguyễn Thị Năm là địa chủ tích cực ủng hộ kháng chiến. Nhà bà ở huyện Ðồng Hỷ, Thái Nguyên, là nơi các cán bộ cao cấp thường qua lại, trong đó có cả các ông Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Giản…
(15) Những cơn cuồng giết chóc không kiềm chế nổi bất thần xâm chiếm cả một bộ lạc, một vùng ở châu ỏ, khi những con người như bị mụ mẫm đi khi lao vào cuộc chiến hỗn độn, giết nhau không vì cái gì.
(16) Ông Nguyễn Văn Hoan, phó chánh án Tòa Tối cao, kể cho tôi nghe chuyện này. Ông đang báo cáo với chủ tịch nước về tình hình công tác tư pháp thì cha tôi chống ba-toong bước vào (ông đang lên cơn đau gan). Thấy cha tôi quá bực mà to tiếng, ông Hồ bảo: “Ngồi xuống đã, từ từ nói tôi nghe, chi mà nóng như lửa vậy”. Ông Hoan kết luận: “ Ngày xưa triều đình phong kiến còn có chức gián quan chuyên một việc can vua. Bây giờ đâu có thế, người ta không trị bố cháu trước cũng trị sau”. Ông Hoan vào Ðảng cộng sản do chính ông Hồ giới thiệu. Ông Hoan là người giới thiệu Trường Chinh vào Ðảng.
(17) Học giả, nhà báo, nhà ngôn ngữ, sinh năm 1887 (không rõ năm mất), bị đánh trong vụ Nhân văn-Giai phẩm, tên tuổi tới giờ không được nhắc đến mặc dầu ông là tác giả của những tác phẩm và bài báo có giá trị. Cùng bị đánh một lượt với ông, với sự luận tội tương tự, còn có nhà phê bình Trương Tửu.
(18) Những bộ trưởng và nhân sĩ làm việc trong chính phủ hồi đó. Về việc cha tôi đi mời các vị nói trên tham gia chính phủ như thế nào đã được nhà văn Sơn Tùng ghi lại đầy đủ trong một tác phẩm sẽ xuất bản về những ngày trứng nước của chính quyền cách mạng.
(19) Ngô Ðình Diệm (1901-1963), sinh trưởng trong một gia đình quan lại, dưới triều vua Bảo Ðại làm tới chức thượng thư tại triều đình Huế. Bị Việt Minh bắt, được thả, Ngô Ðình Diệm chạy ra nước ngoài (Mỹ, Pháp), sau năm 1954 trở về Việt Nam làm thủ tướng của chính quyền Bảo Ðại. Năm 1955 Ngô Ðình Diệm lật Bảo Ðại, tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước cộng hòa và lên làm tổng thống. Năm 1963 bị phái quân nhân làm đảo chính giết chết.
(20) Tên thật là Tô Dĩ, đảng viên cộng sản, bị thực dân Pháp đầy đi Madgascar. Ðược quân đội Anh giải phóng, giao cho quân đội Mỹ. Theo ông kể cho tôi nghe thì một số tù chính trị Việt Nam trong đó có ông và ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) được OSS (Cục tình báo chiến lược, tiền thân của CIA) huấn luyện rồi thả dù xuống Hà Ðông. Lê Giản mang điện đài, tiền và vũ khí về cho Ðảng. Năm 1945 được ông Hồ Chí Minh cử làm Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Sau, ban lãnh đạo Ðảng nghe theo kinh nghiệm Trung Quốc không để cho người từng có thời gian sống với địch nắm những công tác quan trọng, gạt khỏi ông khỏi chức vụ. Trước khi về hưu Lê Giản là phó chánh án Tòa án tối cao. Ông có uy tín rất lớn trong những người cộng sản thế hệ già.
(21) Cụ thân sinh ra ông Ngô Ðình Diệm là Ngô Ðình Khả, thượng thư bộ Lễ trong triều đình Huế. Khi thực dân Pháp quyết định bắt vua Thành Thái đi đầy cụ Ngô Ðình Khả đã phản đối, không ký tên vào bản án. Một chí sĩ khác, cụ Nguyễn Hữu Bài đã từ chối không ký tên vào văn bản đồng ý cho Khâm sứ Pháp Mahé đào lăng Tự Ðức để lấy vàng bạc châu báu.
(22) “Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa”, Nhà xuất bản Văn hóa,1991, tr.232.
(23) Cách Mao Trạch-đông gọi đế quốc Mỹ, xuất hiện trong thời kỳ cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên (Korea).
(24) Những người lính Trung Quốc hào phóng đã nhiều lần tiếp xăng cho chiếc xe máy Jawa của tôi trên những con đường Việt Bắc heo hút. Tôi đã múc nước với họ ở cùng một giếng tại Yên Sở (ngoại thành Hà Nội). Ông Hoàng Văn Hoan viết về sự kiện Hoa quân nhập Việt như sau: “Từ năm 1965 đến năm 1970…theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Ðảng lao động Việt Nam, Mao chủ tịch và Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc…” vào Việt Nam. (Giọt Nước Trong Biển Cả, tr. 345, Hoàng Văn Hoan). Ta có thể tin con số mà ông Hoàng Văn Hoan đưa ra. Trong giai đoạn quân Trung Quốc vào Việt Nam ông còn là ủy viên Bộ Chính trị, ông không thể không biết những việc lớn như việc này.
(25) Công sứ Sơn La vào cuối thập niên 30, đầu thập niên 40.
(26) Một nhà cách mạng nổi tiếng, chết tại ngục Sơn La về bệnh lao. Tại nền cũ nhà ngục này có một cây đào được đặt tên là cây đào Tô Hiệu, nhưng ông Trần Huy Liệu và cha tôi trong lần trở lại thăm nhà ngục đã xác định nó không phải cây đào do Tô Hiệu trồng.
(27) Bệnh viện dành cho cán bộ cao cấp
(28) Mấy cách tra khảo của mật thám trước đây: treo lên mà đánh (đi tàu bay), dìm vào bể nước (đi tàu ngầm).
(29) Một nhà báo cộng sản trước Cách mạng Tháng Tám, nguyên bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
(30) Ông Trần Văn Vần, một cơ sở tin cậy của Ðảng trong thời kỳ bí mật. Ông đã nuôi và bảo vệ các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Xuân Thủy, Ðặng Việt Châu… trong thời kỳ các ông này phải lẩn trốn mật thám Pháp. Sau khi cách mạng thành công, ông sống nghèo khổ, xin đăng ký kinh doanh một cửa hàng đồng nát cũng không được. Ông gửi thư cho ông Trường Chinh nhắc lại chuyện xưa, xin được giúp đỡ. Ông Trường Chinh đã cho gặp và sai thư ký lo cho ông xin đăng ký kinh doanh. Hiệu chữa xe với tấm biển “Hưởng Honda” do anh Trần Văn Hưởng, con trai ông đứng chủ, ở chợ Mơ là kết quả của sự giúp đỡ mà chủ tịch Quốc Hội Trường Chinh dành cho ông.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:54:28 GMT -6
Chương 13
Một điều bất thường xảy ra phá tan dòng chảy đơn điệu của những ngày tù đáng ngán. Sáng hôm sau, thay vì mấy củ khoai hà lạnh ngắt, Sứ giả Hòa bình mang vào cho chúng tôi hai suất ăn sáng gói trong giấy báo.
Vào giờ này xà lim còn tối. Ðể tiết kiệm điện, ngọn đèn chang chang suốt đêm hành hạ chúng tôi lại tắt ngóm vào đúng lúc chúng tôi cần đến nó hơn cả. Trong ánh sáng mờ mờ rỉ qua cửa thông hơi tôi phát hiện bên trong mảnh giấy báo là hai cái bánh tí hon chỉ nhỉnh hơn quả chuối mắn một ít.
Ðành ăn mò vậy. Ăn mò có cái tốt của nó – mình không bị cảm giác gớm ghiếc khi nhìn thấy trong miếng ăn đang đưa vào miệng những vật đáng sợ – những mẩu rác hoặc những con mọt. Thời gian này mì viện trợ dồi dào để lưu cữu trong các kho ẩm ướt cho nên nếu không mốc thì cũng đầy mọt. Những con mọt đen trũi hiền lành chẳng có gì nguy hiểm cho hệ tiêu hóa, nhưng miếng mì luộc lẫn xác mọt vẫn làm tôi rùng mình.
Cầm chiếc bánh lọt thỏm trong tay tôi ngạc nhiên thấy nó còn ấm. Cắn miếng đầu tiên tôi còn ngạc nhiên hơn nữa: nó không phải là thứ bánh mì chua loét nào đó tôi thường gặp, mà là bánh mì trắng thơm phức, lại kẹp ba-tê hẳn hoi.
Và ngon ơi là ngon!
Tôi ăn ngấu nghiến. Cái bánh mì đáng yêu tan ra trong miệng như một giấc mơ.
Thật vậy, cái bánh mì ngon đến mức không thể tin được. Tôi nói như thế không phải trên quan điểm của người tù xà lim thường xuyên đói, thấy cái gì cũng ngon. Nó ngon thật sự, cho dù tôi có ở bên ngoài Hỏa Lò. Bột mì mềm và thơm, vỏ lại ròn, ba-tê tuyệt vời, đến nỗi tôi có cảm giác trong đời mình tôi chưa từng được thưởng thức một món điểm tâm nào ngon đến thế. Tiếc quá, nó hết quá nhanh.
Vào thời gian này thực phẩm ở Hà Nội “không được dồi dào”, nói theo cách của các nhà chính trị. Tại các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh chỉ có một thứ phở, lại là phở chỉ có bánh không có thịt, tục gọi là “phở không người lái(1)”. Ðể ăn được một bát phở như thế còn phải xếp hàng rồng rắn, có khi cả nửa giờ mới tới lượt. Tất nhiên, ở đâu đó vẫn tồn tại những quán chui có đủ thứ: chim quay, gà tần hạt sen, vịt tần thuốc bắc, ba ba hồng xíu.. hoặc chuyên doanh tiết canh, lòng lợn…. Những quán chui này, dù là chui cũng không phải dành cho đám cán bộ ba cọc ba đồng chúng tôi. Cho nên nếu tôi có khen cái bánh mì ba-tê nọ là cực kỳ ngon thì cũng không phải ngoa ngôn.
Bữa ăn sang trọng giữa Hỏa Lò làm cho Thành ngạc nhiên không kém. Vừa thưởng thức dè xẻn cái bánh còn ấm trong buổi sáng lạnh giá anh vừa hỏi tôi:
– Lạ thật, sao bỗng dưng người ta lại giở chứng chiêu đãi chúng mình sang thế này? Hay hết chiến tranh rồi mà nằm trong xà lim mình không biết?
– Hòa bình thì Hỏa Lò này phải ồn lên chứ. Mới lại, hòa bình đâu có phải tin cần phải giấu.
– Hay là sắp có đoàn kiểm tra đến?
– Người ta sợ cóc gì kiểm tra. Ðoàn nào cũng phải sợ Bộ Nội vụ.
– Ngộ có kiểm tra quốc tế kìa, Hồng Thập Tự chẳng hạn. Họ đến thăm tù binh, nhân tiện ghé qua xem tù mình sống ra sao?
– Cái đó khó xảy ra lắm. – tôi cười cái giả thuyết hỡi ơi của Thành – Cho dù Hồng Thập Tự quốc tế có đề nghị. Người ta sẽ nói: chúng tôi giam tù thế nào là công việc nội bộ của chúng tôi, không khiến các người dây vào.
– Ừ nhỉ.
Chúng tôi đặt ra đủ mọi tình huống. Ðủ mọi dự đoán. Cái nọ phủ định cái kia. Chẳng cái nào có sở cứ.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi: rất có thể cái bánh mì liên quan tới bức thư của cha tôi chăng, tới thái độ ngoan ngoãn của tôi sau khi đọc bức thư chăng?
Khốn nạn, thì ra nó là phần thưởng cho sự đầu hàng! Tôi nghẹn ở cổ họng. Nước mắt tôi ứa ra.
– Cái bánh này ở ngoài kia giờ giá chừng bao nhiêu hở cậu?
Thành hỏi sau khi những dự đoán đã cạn.
– Tôi không rõ. Tôi cũng chẳng biết nó bán ở đâu.
Bánh mì các loại kẹp thịt quay, giăm-bông hoặc ba-tê ngon nhất Hà Nội chỉ có ở hiệu Nguyên Sinh. Tôi đã có lần ăn ở hiệu này, cách đây cũng đã mấy tháng. Khẩu vị của tôi không thể nào thay đổi trong thời gian ngắn ngủi đó, thế mà tôi thấy cái bánh mì này còn ngon hơn bánh mì Nguyên Sinh nhiều. Chỉ có thể nghĩ đây là loại bánh mì đặc biệt, do một cơ sở đặc biệt được ưu tiên cung cấp nguyên liệu làm ra. Tôi là dân thường. Cán bộ như tôi không được hưởng những thứ không phải dành cho dân thường.
Người Hà Nội hồi đó đều biết thành phố có mấy cửa hàng cung cấp đặc biệt với sổ mua hàng đặc biệt. Cán bộ trung cao cấp mua ở cửa hàng Nhà Thờ, cán bộ tương đương thứ trưởng trở lên thì mua ở cửa hàng Tôn Ðản. Cửa hàng Hàng Trống chỉ phục vụ chuyên gia nước ngoài và cán bộ cao cấp, giám đốc cửa hàng này là bà em ruột Lê Ðức Thọ. Hàng hóa ở các cửa hàng cung cấp đặc biệt phần nhiều là đồ ngoại nhập mua bằng tiền viện trợ, không có bán ở ngoài, đã hiếm lại rẻ. Chỉ ở đây mới có sô-cô-la, phó-mát, vải đẹp, nước hoa vv. Do đó ngoài giá trị thực dụng phiếu mua ở các cửa hàng loại này còn có giá trị như niềm tự hào được khẳng định.
Tôi được nghe một đoạn đối thoại như thế này giữa hai bà vợ ông to:
– Chị đi đâu vậy?
– Em đi Nhà Thờ.
– Chết chửa, chị vẫn còn phải đi Nhà Thờ à? Em tưởng nhà chị được Tôn Ðản từ lâu rồi chứ. Nhà em có đã hai năm rồi. Chị phải nói anh xin gặp anh Sáu đi, thêm một bậc chuyên viên nữa có là bao, anh Sáu cho đấy, chị đỡ vất vả, tội nghiệp quá!
Tôn ti đẳng cấp phong kiến bị nguyền rủa từ khi có cách mạng được lập lại với cách giải thích nghe hợp lý nhưng khó lọt tai: để cho cán bộ lãnh đạo có sức khoẻ tốt đặng phục vụ nhân dân.
Người ta kháo nhau rằng ở Bắc Ninh, hay Bắc Giang không rõ, có mấy nông trường cung cấp đặc biệt dành cho Trung ương, chỉ ở đó mới còn lại giống lúa một thời nổi tiếng trong cả nước như tám thơm, tám xoan, nếp râu, nếp cái hoa vàng… nay hầu như đã tuyệt chủng trước cuộc xâm lấn có lãnh đạo của những giống cao sản cho gạo không ngon nhưng chắc dạ. Cũng chỉ ở mấy nông trường này mới có loại bò giống tốt cho sữa tươi ngon, lợn ỉ chính nòi thơm thịt, hoa quả toàn đặc sản. Tiếng là dành riêng cho Trung ương, nhưng cũng chỉ dành cho Bộ Chính trị với các đồng chí Trung ương cổ cánh thôi, chứ không phải ủy viên Trung ương nào cũng được hưởng. Cũng theo lời thiên hạ đồn thì chim bồ câu dành cho các vị được nuôi bằng đậu xanh để ăn cho bổ. Thức ăn cho Bộ Chính trị là các thứ quý hiếm này, do một bộ phận phục vụ riêng lo lắng.
Ăn cái bánh mì ngon tôi lại nhớ tới bữa rượu suông trên gác nhà Nguyễn Tuân ở đường Trần Hưng Ðạo. Ðó là bữa rượu tao ngộ. Nhà văn già túm được tôi lang thang gần Nhà hát Nhân dân bèn lôi tuột về nhà, chứ không có hẹn trước.
Ông đang lên cơn phiền muộn vì sự xuất hiện mới đây trên báo chí một con chữ kỳ cục.
– Anh xem đây, đọc đi rồi cho tôi biết ý kiến.
Ông quăng cho tôi một tờ báo chi chít những dấu sửa lỗi. Bài báo được Nguyễn Tuân chú ý bị ông sửa như sửa mo-rát(2). Cách sửa mo-rát của Nguyễn Tuân rất đặc biệt, không giống ai – từ trong khối chữ chạy ra lề những đường thẳng, đường gẫy, đường ngòng ngoèo, để kết thúc bằng những chữ, những từ, có khi cả một câu. Ðộ lớn của những lỗi phải sửa phụ thuộc ở tâm trạng nhà văn già. Khi ông bực lên thì một dấu phẩy phải thêm vào sẽ to bằng móng chân gà.
Tôi giả vờ chăm chú đọc.
– Tiếng Việt mình không đến nỗi nghèo, phải không nào? – Nguyễn Tuân giận dữ – Ít nhất thì nó cũng không nghèo đối với trình độ mấy thằng cha cầm bút kém chữ thời nay. Trong tiếng Việt có chữ y có chữ thị. Y chỉ anh đàn ông, thị chỉ chị đàn bà, rành rành. Vậy mà mấy thằng phó tóm(3) thất học lại dám nghĩ rằng tiếng Việt ta bần hàn. Mới thương tình đẻ rặn ra cho nó một cái từ kép y thị để chỉ mụ đàn bà phạm tội. Khốn nạn thay cho cái tiếng Việt của ông cha! Bất cứ thằng bỏ mẹ nào cũng đè nó ra mà hiếp được.
Mặt ông khổ sở như chính ông bị xúc phạm.
Tôi cười xòa. Tôi thích ngắm tình yêu chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất nhiên, tôi đồng ý với ông. Nhưng cũng tất nhiên, tôi, và cả lớp trẻ tụi tôi, chẳng bao giờ bị dằn vặt, chẳng bao giờ khổ sở như ông chỉ vì một con chữ. Ư`thì người ta đẻ ra một con chữ quái dị, đã chết ai đâu!
Ðể trêu chọc Nguyễn Tuân một chút cho vui, tôi rụt rè thưa với ông rằng ông không nên vội nổi nóng, biết đâu cái từ kép y thị mà các phó tóm nghĩ ra chửa biết chừng lại hay cũng nên. Nó có thể đắc dụng cho tiếng Việt để chỉ một ái nam ái nữ, hoặc một pédéraste(4) chẳng hạn. Vấn đề là liệu nó có tồn tại được không, có được nhân dân chấp nhận không. Từ ngữ cũng như con người, trước hết nó phải được sinh ra đã, sau đó là chuyện khác: nếu nó không chết yểu thì sống lâu khắc lên lão làng. Nguyễn Tuân trợn mắt, gắt ầm lên. Rằng ông không cần đến mấy thằng phó tóm nhảy vào lãnh địa văn chương chữ nghĩa vốn chẳng phải của chúng, rằng chẳng ai khiến chúng sáng tạo thêm cho tiếng Việt, rằng cái từ để chỉ pédéraste trong tiếng Việt đã có sẵn rồi.
Nói ra được nỗi bực bội rồi, vơi được nỗi phiền muộn rồi, Nguyễn Tuân trở lại tâm trạng vui vẻ thường nhật. Ông lục trong góc bàn lấy ra một chai rượu trong vắt, trịnh trọng rót hai ly. Tôi nhấp một ngụm. Ông chăm chú nhìn vào mặt tôi:
– Ngon không?
– Thưa bác, tuyệt.
Nguyễn Tuân cười khúc khích, ghé vào tai tôi:
– Rượu bộ đấy!
Tôi ngẩn người. Rượu bộ, nó là cái gì?
Tôi không phải con cháu Lưu Linh, nhờ các bậc đàn anh chỉ bảo cũng biết võ vẽ đôi chút về rượu. Nguyễn Tuân thích rượu làng Vân, nhưng phải do một lão nông người làng này cất kia, chứ người khác cất ông chê. Ông khen rượu Trương Xá, khen vừa phải, nói rượu Trương Xá ngon đấy, phải cái hơi gắt. Ông cũng thích rượu Kiên Lao mà cha tôi thường đặt mua để biếu ông. Ông nói rượu Kiên Lao ngọt giọng mà có hương thầm. Bây giờ ông lại khen một thứ rượu lạ hoắc, tôi chưa từng nghe nói.
Nguyễn Tuân khoái trá nhìn tôi:
– Anh không hiểu rượu bộ là gì hử?
– Không ạ.
– Là rượu-do-Bộ-Công-an-nấu! – Nguyễn Tuân nhấn mạnh từng tiếng – Tôi đặt cho nó cái tên rượu bộ để phân biệt với các thứ rượu quốc doanh với không phải quốc doanh khác. Việt Hùng vừa mới xách cho tôi hai chai. Thứ này đúng là hảo hạng, chỉ có loại rượu trên tiền, rượu không phải để bán mới ngon được như thế.
Ông giảng cho tôi một bài về những ngón nghề nấu rượu dân dã, về các loại men với đủ các vị thuốc Bắc thuốc Nam. Nghe Nguyễn Tuân nói thì có thể nghĩ ông là một tay nấu rượu lậu chuyên nghiệp. Mỗi lần đến chơi với Nguyễn Tuân là một lần tôi học thêm được một chút kiến thức ít người biết. Chỉ cần gãi đúng chỗ ngứa của ông. Phải cố mà nhớ nằm lòng, chớ có giở giấy bút ra ghi chép. Thấy anh ghi chép thì thể nào ông cũng sừng sộ: “Ðịnh ghi để báo cáo tôi đấy hử?”
– Việt Hùng chầu này đến tôi luôn. Mình cứ sắp hết rượu là y như rằng nó xách rượu đến, tài thế! – Nguyễn Tuân quay lại câu chuyện nói dở – Lần nào cũng một thứ này thôi. Cán bộ thường như mình tiền đâu mà lúc nào cũng rượu ngon? Mình thì gặp chăng hay chớ, Văn Ðiển cũng ừ, Làng Vân càng tốt, miễn bạn đến nhà có rượu đãi? Cái này không phải rượu bình thường, cái này gọi là “phương tiện công tác” đây, tôi nghĩ thế. Mới bảo nó: “Anh với tôi là bạn vong niên, mình gặp nhau nên nói chuyện văn chương chữ nghĩa, chuyện các thú chơi của các cụ ngày xưa, vui hơn. Ðừng nói chuyện chính trị, tôi nhức đầu”. Nó tào lao một lát rồi về. Rượu thì để lại. Này, thằng ấy kiến thức rộng ra phết!
Từ rượu bộ, do tính chất chật hẹp của nó, chỉ một số ít người biết, mà phải là những người đã từng được Nguyễn Tuân hoặc Văn Cao đãi rượu kia, bởi vì Việt Hùng, theo tôi biết, chỉ biếu có hai ông mà thôi.
Việt Hùng làm việc ở Bộ Nội vụ, ở cơ quan nào trong bộ tôi không rõ, các ông bạn tôi cũng không rõ. Chúng tôi tế nhị không hỏi, Việt Hùng thì không tự nói ra. Là người quảng giao, có kiến thức rộng, Việt Hùng nhanh chóng đánh bạn với các văn nghệ sĩ loại cứng đầu và nửa cứng đầu như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Sáng, Ðặng Ðình Hưng, Tử Phác, Kim Lân vv… Mọi người xì xào rằng Việt Hùng là cá nổi làm nhiệm vụ cá chìm. Mình sợ quái gì, cứ thản nhiên mà chơi, anh em nói, cứ để cho Việt Hùng nó báo cáo. Còn hơn để mấy thằng cá chìm i tờ kiếm chuyện lập thành tích, mình có làm quái gì đâu mà sợ.
Nhưng nói cứng thế thôi, chứ trong quan hệ với Việt Hùng anh em văn nghệ sĩ vẫn cứ rợn rợn. Sau này, chơi với Việt Hùng lâu rồi, hiểu Việt Hùng kỹ hơn, tôi cho rằng cái sự cảnh giác thái quá đối với Việt Hùng của anh em chúng tôi hơi bệnh hoạn. Nỗi sợ hãi này nằm trong nỗi sợ hãi chung của dân chúng đối với cái chế độ hàm chứa rặt tai họa cho mỗi người mỗi nhà. Có lần Nguyễn Tuân rủ rỉ khuyên chúng tôi phải học thuộc cách chia véc-bờ (5)sợ ở mọi ngôi thứ: tôi sợ anh, anh sợ tôi, chúng ta sợ nó, nó sợ anh, chúng tôi sợ các anh, nó sợ chúng ta, chúng ta sợ chúng nó, các anh sợ chúng tôi vân vân…, cứ thế mà chia. Thuộc hết thì sống mới dễ.
Tôi quen Việt Hùng trong một thời gian không đến nỗi ngắn, đủ để hiểu một con người. Tôi nghĩ nếu số trời run rủi cho Việt Hùng làm bộ trưởng Công an thì còn tốt cho nước ta hơn nhiều so với đương kim bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Nhưng anh mãi mãi chỉ là một cán bộ làng nhàng, một chuyên gia sáng tác báo cáo, thỉnh thoảng được mời giảng bài cho một lớp huấn luyện. Anh là người tốt, nhưng trong một xã hội không đề cao lòng nhân ái, mà đề cao đấu tranh giai cấp và cảnh giác cách mạng, anh chỉ dám làm những điều tốt trong điều kiện chúng không làm thiệt hại đến mình. Việt Hùng có thể thành bạn thân của chúng tôi nếu anh không phải là công an. Tôi coi cái đó như một sự thiệt thòi cho cả hai bên, cho anh nhiều hơn cho chúng tôi.
Trước khi bị bắt vài ngày tôi có đến chơi nhà Việt Hùng. Anh tiếp tôi với vẻ mặt ngượng ngùng. Vụ khủng bố trắng đang làm xôn xao dư luận. Anh thấy mình chẳng đẹp đẽ gì khi đứng ở phía chính quyền. Tôi hỏi vỗ mặt:
– Thế nào, nhà chuyên chính vô sản, liệu tớ có bị bắt không đấy?
Việt Hùng làm ra vẻ bận bịu với ấm trà để tránh cái nhìn sỗ sàng của tôi:
– Bộ phận mình không dính tới vụ đó. Ðây là việc của Ban tổ chức Trung ương…
– Nhưng công an thì đi bắt?
Việt Hùng nhún vai.
Hôm ấy tôi quên khuấy không hỏi Nguyễn Tuân cái từ Việt chỉ pédéraste trong bữa rượu và rất ân hận đã không hỏi ông. Nó chắc chắn phải thú vị. Rượu bộ của ông êm quá, làm tôi say lúc nào không biết. Mà đã say thì tôi lười.
Tôi đã đi ra ngoài lề câu chuyện.
Có lẽ cái bánh mì ngon lành kia cũng được chế tạo tại một lò bánh đặc biệt, lò bánh mì bộ, nói theo cách của Nguyễn Tuân. Cả ba-tê cũng thế, nó là ba-tê bộ.
Cái bánh mì đã tiêu hết rồi Thành mới bình luận:
– Thứ này, cậu ạ, không phải thứ dành cho tù. Từ ngày vào đây tôi chưa bao giờ thấy nó.
Tôi im lặng.
– Tiêu chuẩn cao thế này chỉ dành cho tù đặc biệt thôi, đặc biệt thế nào tôi không biết, nhưng không thể có chuyện tù thường được ăn. Ngoài kia cậu chuyên viên mấy?
– Chuyên viên đâu mà chuyên viên. Tôi cán sự ba.
– Sao? Cậu mà có cán sự ba thôi ư?
Tôi cười buồn.
– Thật mà. Giấu anh chuyện lương lậu làm quái gì.
– Thế thì đúng là cậu bị lườm rồi. Trình độ cậu phải chuyên viên chứ đâu có ở mức cán sự. Bướng, phải không? Thế nhưng ở đây cậu được đối xử khác thường đấy. – Thành gật gù – Gì thì gì, người ta cũng coi cậu là tù đặc biệt, hoặc do chiếu cố, hoặc do sự vụ chưa rõ ràng. Hì hì, thế là tôi vớ bở – được ăn theo.
Chúng tôi đã thân mật hơn. Thành hơn tôi chừng dăm tuổi. Không nhớ từ lúc nào anh tự cho phép mình gọi tôi bằng cậu.
Tôi vẫn còn ngây thơ. Trong những dự đoán do cái bánh mì bộ gây ra thấp thoáng cả hi vọng được thả. Tôi nghĩ: nếu không định thả thì họ chiều tôi làm gì? Tôi biết những nhà lãnh đạo của chúng tôi lắm, họ không bao giờ có tinh thần hiệp sĩ đối với kẻ thù. Trong họ không có khái niệm quân tử. Giỏi lắm thì họ cũng chỉ đạt mức đại tiểu nhân mà thôi.
Tất nhiên khả năng thả chúng tôi không thể loại bỏ. Dư luận, như một làn sóng ngầm mạnh mẽ, bị coi khinh đấy, bị đàn áp đấy, nhưng nó vẫn sống, vẫn tồn tại, và không phải nó không có sức làm nhà cầm quyền nao núng.
Nhân dân bị phản bội. Ðó là điều rõ ràng. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã thành công rực rỡ trong sự thay thế những ông chủ da trắng bằng những ông chủ da vàng. Cái khác là cách cai trị của những ông chủ mới tinh tế hơn những ông chủ cũ nhiều. Mọi sự bóc lột, đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất hứa ở tít mù tầm mắt không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.
Tôi đã đi trong đám đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.
Người đầu tiên muốn thức tỉnh tôi là cô ruột tôi lấy chồng ở phủ Xuân Trường. Chồng bà, một ông chưởng bạ42, là một người yêu nước không cộng sản. Ông ủng hộ cách mạng từ hồi bí mật, tham gia tổng khởi nghĩa, trong kháng chiến chống Pháp vừa làm trong ban hội tề2 để giữ thế công khai vừa làm chủ nhiệm Việt Minh xã. Trong Cải cách ruộng đất, ông bị đưa ra đấu, bị vu là phản động, nhà cửa bị tịch thu, gia đình bị khủng bố. Ðến khi Ðảng sửa sai, ông chỉ còn kịp lết về đến nhà để tắt thở trong vòng tay vợ con.
Những việc xảy ra với cô tôi tôi không biết. Tôi đang học ở Liên Xô. Trở về Việt Nam, năm 1957, làm phim Ánh Sáng Tháng Mười nhân dịp kỷ niệm 40 năm cách mạng Nga, tôi mới gặp cô. Cô tôi khuyên tôi:
– Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế, phải biết chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp!
Ðó là bà cô được chúng tôi, những đứa cháu bà, trọng nhất, yêu nhất. Cả họ phục bà tần tảo một mình dựng nên cơ nghiệp. Bà chẳng bóc lột ai, chẳng xin xỏ ai. Một trong những nguyên nhân làm cho bà trở nên giàu có là sự keo kiệt. Một con tôm giảo kho của bà đủ làm thức ăn cho tôi suốt bữa cơm – nó mặn khủng khiếp.
Cha tôi bần thần nghe tôi kể tâm sự của cô. Ông buồn: “Ðành rằng Ðảng có sai lầm, nhưng Ðảng đã thấy sai, đã nhận sai để sửa chữa. Không nên vì một sai lầm mà phủ nhận mọi công lao của Ðảng. Cô nói Ðảng bất nhân là không được. Nếu Ðảng là bất nhân thì sao bố lại ở trong hàng ngũ của Ðảng?”
Tôi tin cha tôi. Tôi không nghe lời cô tôi khuyên. Khi con người bị xúc phạm thái quá thì phản ứng của họ cũng thái quá, tôi nghĩ thế. Chứ cô tôi chẳng có hằn thù gì với cách mạng. Năm cha tôi mười sáu tuổi, ông tự mình viết truyền đơn đi rải ở thị xã Thái Bình rồi bị bắt, chính cô tôi đã đánh đường qua đò Bồng Tiên đội gạo đi nuôi em. Kể chuyện cho tôi nghe, bà cười phô hàm răng đen nhưng nhức: “Bố ông dữ ra quỷ, làm cả nhà bạt vía. Ông bà hãi quá, bắt bác Cả đi lo cho ông em ra. May mà bố ông chưa đến tuổi, chứ không thì Tây nó cho rũ tù…”
Người thứ hai không còn tin ở chủ nghĩa cộng sản là vợ tôi. Vợ tôi theo học ngành kiến trúc Ba Lan vào những năm xảy ra những cuộc biểu tình đầu tiên của công nhân làm lung lay nền móng chế độ cộng sản ở đây. Vợ tôi không sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp trên, cũng không phải trong một gia đình trí thức. Qua những điều mắt thấy tai nghe ở nước này vợ tôi đi đến một kết luận bất ngờ: “Chủ nghĩa cộng sản không có tương lai, anh ạ. Nó không được lòng dân”.
Người thứ ba cảnh tỉnh tôi là tiểu đoàn trưởng Ðích. Anh rơi vào tù trong trường hợp oái oăm: anh cho phép một chiến sĩ mượn com-măng-ca của đơn vị về quê cưới vợ. Người anh em kết nghĩa của chú rể, dân tộc Mường Tây Bắc mừng em nuôi một cục thuốc phiện bằng nắm tay để chú rể bán đi lo đám cưới. Chú rể bị bắt, hai phù rể bị bắt theo, thủ trưởng đơn vị bị coi là tòng phạm, lĩnh án năm năm tù. Từ nhà tù trở về Ðích thay đổi hẳn. Người ta bảo anh khiếu oan để trên xét lại vụ án, anh chẳng buồn viết đơn. Anh nói với tôi: “Tôi không bực vì cái án. Nhầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy một điều: không có tình đồng chí! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu: ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương”.
Tôi an ủi anh, nhưng không đồng ý với nhận xét của anh. Dưới quyền ông Hồ có những con quỷ mà anh gặp, nhưng không phải ông tạo ra chúng. Chúng có trong bất kỳ xã hội nào. Tôi nói, như cha tôi thường nói với tôi, rằng cách mạng là sự nghiệp của cả dân tộc, trong cách mạng không thể không có sai lầm, đó là bệnh sốt vỡ da của đứa trẻ đang lớn, rằng sai lầm sẽ ít dần cùng với sự trưởng thành, mà chẳng phải ai khác, chính chúng ta phải đóng góp để cho nó trưởng thành. Tôi thuyết phục anh dẹp nỗi ấm ức trong lòng để trở lại với công tác cách mạng. Anh phản bác, rồi anh nghe tôi.
Tôi nói với anh Nguyễn Thanh Ðịch, thư ký tòa soạn báo ảnh, nhận anh Ðích vào làm công tác buồng tối. Tờ báo chúng tôi hồi ấy đang cần người có học và tháo vát để giải quyết những khó khăn về kỹ thuật in tráng trong hoàn cảnh thiếu thốn. Anh Ðích là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư hiểu nghề khá sâu, được các phóng viên kính trọng.
– Ông bảo đảm nhá? – thư ký tòa soạn gặng.
– Tôi bảo đảm. – tôi trả lời.
Anh Ðích cần mẫn làm công việc nhà nước cho tới khi tôi bị bắt. Không tuyên bố lý do, người ta thải hồi anh. Sự thải hồi này không chứng tỏ tôi đã bảo đảm không đúng. Nó chỉ chứng tỏ anh bị thải hồi vì người bảo đảm cho anh là tôi.
Sau đó, anh Ðích thề độc không bao giờ đi làm lại cho Nhà nước cộng sản nữa. Anh sản xuất ô mai để bán, là công việc dễ hơn nhiều so với công việc buồng tối. Nghề làm ô mai không bị nhà nước ngăn chặn hóa ra rất có lời, anh nuôi được các con ăn học, tậu được nhà, nói chung gia đình anh sống sung túc.
Tóm lại, từ những điều trông thấy, nghe thấy tôi ngoan cố không chịu rút ra kết luận. Tôi đần và, như bây giờ người ta nói, tôi ngu lâu.
Bữa trưa chúng tôi có thêm món trứng tráng vàng rộm, mỡ nhuếnh nhoáng, bên cạnh tô rau muống tần đại dương tiêu chuẩn chung của tù như thường lệ. Thành thật hóm. Cái tên rau muống tần đại dương là do Thành đặt cho món rau luộc không ra luộc kho không ra kho của nhà tù. Thành nói rằng để sống được trong tù phải dự trữ cho mình đủ tinh thần hài hước.
– Này, lạ chưa, từ sáng đến giờ không nghe còi báo động, nhỉ? – Thành đần mặt, suy nghĩ.
Trong xà lim chúng tôi chẳng biết gì về những việc đang xảy ra bên ngoài. Chiến tranh thế giới lần thứ ba có nổ ra chúng tôi cũng ngủ quên nó. Hòa bình trở lại chúng tôi cũng không biết. Theo quy định của trại giam tù xà lim không được đọc báo. Mảnh giấy gói bánh mì sáng nay là một mẩu báo năm ngoái.
Có thể xảy ra một sự kiện nằm bên ngoài mọi dự đoán sẽ dẫn tới việc tha hàng loạt tù nhân chăng? Không, không thể có cái đó, chẳng bao giờ có được một sự kiện như thế, nó chỉ có trong truyện thần tiên.
Tôi xua đuổi quầy quậy cái hi vọng chực le lói. Bất cứ hi vọng nào trong tù cũng là hão huyền. Nó chỉ đẻ ra thất vọng. Như những bông hoa đực.
Bữa chiều, thay vào đĩa trứng tráng là đĩa thịt kho tàu. Chúng tôi ăn thịt kho tàu với mì luộc. Răng tôi nghiến lạo xạo hàng nghìn xác mọt cùng với câu hỏi khó nhá.
Ðúng vào lúc chúng tôi nghĩ đến hòa bình nhiều nhất thì còi báo động hú lên. Tôi nghe rõ tiếng rít lanh lảnh của những chiếc MIG-19 lao nhanh qua Hỏa Lò.
(1) Thứ phở không có thịt, chỉ có bánh phở chan nước dùng. Trong cuộc chiến tranh với Việt Nam người Mỹ thường dùng loại máy bay trinh sát không người lái. Phở không có nhân (theo nghĩa nhân = người) từ đó được gọi một cách mai mỉa là phở không người lái.
(2) Bản in thử để tác giả hoặc biên tập viên sửa lỗi của nhà in.
(3) Chỉ chung những người làm công an.
(4) Người luyến ái đồng tính, chỉ chung cả nam, nữ.
(5) Verbe, động từ (tiếng Pháp).
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:56:38 GMT -6
Chương 14
Hách mở cửa, lấy tôi đi cung. Những tưởng sau câu chuyện tâm sự với tôi trong buổi cắt tóc, viên quản giáo sẽ hồ hởi gặp tôi, như những người lính cũ của một thời đã xa ngẫu nhiên gặp nhau, cho dù ở trong Hỏa Lò, nhưng không – y nhìn tôi hững hờ, xa lạ.
Trong phòng hỏi cung, lại một phòng khác, Huỳnh Ngự ngồi nghiêm chỉnh sau bàn làm việc. Y lạnh lùng ngước mắt đón tôi, cái nhìn lướt trên cặp kính trắng trễ xuống sống mũi.
– Anh khỏe chớ, anh Hiên?
– Cảm ơn. Tôi bình thường. Bác vẫn khỏe?
– Vẫn khỏe. Thời tiết mấy bữa rầy tốt, ấm lên rồi.
Mở đầu buổi làm việc bao giờ cũng là câu hỏi thăm xã giao. Cứ như thể chúng tôi quan tâm tới sức khỏe của nhau lắm, hoặc đang ra sức tập dượt để dự một cuộc thi lịch sự.
Sau đó mới đến công việc. Lần này y ra câu hỏi bằng giọng rất ôn tồn:
– Anh đã suy nghĩ về lời khuyên của ông già rồi chớ?
Tôi mệt mỏi đáp:
– Tôi đã suy nghĩ.
Huỳnh Ngự quan sát tôi rồi tiến thêm một bước:
– Anh bằng lòng cung khai?
Tôi nhìn y. Chuyện này tôi tưởng đã xong, sao y còn nhắc lại? Thằng cha dai hoi quá. Y vẫn kiên nhẫn nhìn tôi, chờ đợi.
– Không. – tôi đáp, dứt khoát.
Tôi đã ở bước đường cùng rồi, sá gì chúng nó. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất(1), cha tôi vẫn thường dạy. Ðóng kịch không có nghĩa là sẵn sàng chịu chúng trong bất cứ việc gì.
Huỳnh Ngự trừng mắt:
– Tại sao?
– Tôi đã nói rồi. Tôi không phải phạm nhân. Ðã không phải phạm nhân thì lẽ đương nhiên không việc gì phải khai.
Huỳnh Ngự liếm môi. Một thoáng suy nghĩ, y nói:
– Nhưng báo cáo với Ðảng những điều Ðảng cần hỏi anh thì anh đồng ý báo cáo chớ? Hay cũng không?
Tôi gật đầu:
– Tôi sẵn sàng báo cáo với Ðảng những gì tôi biết.
Nhưng tao sẽ không báo cáo với Ðảng của mày những gì Ðảng của mày cần để hại người đâu, tôi rủa thầm. Ðừng có mơ!
Y cảnh giác với câu trả lời của tôi. Sau khi tin chắc tôi nói không có ẩn ý, y thở phào:
– Anh ngồi xuống đi!
Tôi ngồi.
Ðợi cho tôi yên vị, y từ tốn móc trong ngăn kéo bàn viết ra một xấp giấy trắng, trịnh trọng đặt nó xuống trước mặt tôi:
– Anh là chúa hay câu nệ chữ nghĩa. Mất thời giờ nhiều lắm. Thôi được, nói cho anh hay, Ðảng đã ra chỉ thị cho tụi tui tôi để các anh được tự do lựa chọn cách làm việc.
Tôi dò xét nhìn y. Trò gì thế này?
– Bữa ni ta làm việc chính thức, theo kiểu khác. Những chi tui hỏi anh mọi ngày, chỉ là hỏi miệng, để có một cái nhìn chung, bao quát, về những điều anh biết và Ðảng sẽ hỏi anh. Chừ coi như anh đã quen, ta viết ra giấy. Các cụ gọi rứa là cái chi hè? Khai bút!
Y nói với vẻ mặt hiền từ, như cách ông giáo làng nói với học trò trong ngày khai giảng. Nói chung, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ nhanh như làm xiếc. Ðang vui vẻ đấy, y có thể bất thình lình gầm lên như phát điên.
– Tui nói khai bút là trúng chớ, nhà văn?
Không thấy tôi tán thưởng, Huỳnh Ngự giảng giải:
– Khai bút chớ không phải khai cung, như vừa nãy tui dùng chữ có chỗ chưa chuẩn, tui đâu có là nhà văn, phải không? Ta khai cái bút để báo cáo với Ðảng những điều Ðảng cần hỏi ở ta. Việc ni chỉ có một mục đích duy nhứt nhằm xây dựng Ðảng, làm cho Ðảng ngày thêm vững mạnh…
Lại bắt đầu bài hát muôn thuở! Nhưng dù sao cũng đã có một sự lùi bước từ phía y. Y đã thôi không dùng từ khai cung.
– Tui thấy cần phải nói trước để anh hay, chừ là cơ hội cho anh đới công chuộc tội, là cơ hội cuối cùng để anh chứng minh lòng trung thành của anh với Ðảng. Vì vậy tui phải nhấn đi nhấn lại nhiều lần điều ni cho anh nhớ, đó là: trong sự báo cáo với Ðảng cái cơ bản, cái quan trọng nhứt, là phải thành khẩn, thành khẩn hết mình.
Ngừng lại vài giây để bắt tôi phải chú ý hơn nữa, y cúi xuống, ghé sát vào tai tôi mà thì thào bằng giọng tên âm mưu dặn dò đồng bọn.
– Nói để anh yên tâm, Ðảng đã chỉ thị cho tui: báo cáo của các anh là báo cáo mật, tuyệt mật…Ngoài tui ra, là người được anh Sáu giao trách nhiệm hướng dẫn các anh viết, không người mô được biết về những báo cáo này hớt. Từng báo cáo sẽ được dán kín lại rồi trình lên anh Sáu và Bộ Chánh trị…
Tôi ngơ ngẩn nhìn y. Tại sao những lời khai của chúng tôi, những kẻ có tội với Ðảng, lại phải giữ bí mật đến thế? Mà giữ bí mật với ai kia chứ?
– Anh không việc chi mà ngại: cứ mạnh dạn trình bày với Ðảng, trình bày hớt – từ những quan điểm sai trái cho tới những việc làm có hại cho cách mạng. Ðảng sẽ tha thứ cho anh một khi anh đã hối lỗi. Ðối với những người có liên quan, Ðảng yêu cầu anh không e dè, không nể nang. Phải báo cáo cho Ðảng biết về họ, cả tư tưởng, cả hành động, việc lớn việc nhỏ báo cáo tuốt. Cứ thẳng thừng mà báo cáo, cho dù người có liên quan là cha mẹ mình cũng mặc… Dứt khoát đứng về phía Ðảng, vì lợi ích của Ðảng mà chiến đấu là lập trường đúng đắn nhứt, có lợi cho mình nhứt…
Sau đoạn giáo đầu mang tính chất “đả thông”, y lấy bút máy ra, vẩy vẩy mấy cái, lau ngòi bút vào vạt áo cho thông mực rồi mới cần mẫn đánh dấu từng trang.
– Uống nước đi, hút thuốc đi, rồi ta mần. – thấy tôi vẫn ngồi yên, Huỳnh Ngự ân cần nhắc – Trà ngấm rồi đó.
Trà sang. Hôm nay là Ba Ðình chứ không phải Hồng Ðào. Tôi vẫn thích Hồng Ðào hơn. Nó ít chất nhân tạo, đã được nước lại có hậu.
Tôi nhấm nháp từng ngụm nhỏ nước trà đặc, lẳng lặng quan sát Huỳnh Ngự. Cái con người còm cõi kia chắc đã từng làm thư ký cho một ủy ban huyện, hoặc nhân viên đánh máy ở một trung đoàn bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Chao ôi, y từng là đồng chí của tôi đấy, từng là chiến hữu của tôi đấy. Giả thử tình cờ gặp nhau trong một trận càn của địch, tôi dám nhường hầm bí mật của tôi cho y lắm.
“Không e dè, không nể nang…, cho dù có là cha mẹ mình cũng mặc!” Trong đầu tôi câu nói của Huỳnh Ngự ong ong bay lượn.
Nghĩa là anh cứ việc thoải mái mà làm chỉ điểm cho Ðảng. Ðảng là của nhân dân mà, của dân tộc mà. Vì lợi ích của Ðảng, để bảo vệ Ðảng, chỉ điểm cũng là một công tác vinh quang lắm chứ.
Vào thời gian này chỉ điểm nhan nhản khắp nơi, từ thôn xã cho tới các cơ quan đầu não. Khác với các bạn đồng nghiệp thuộc các chế độ khác, thuộc những thời đại khác, tên chỉ điểm xã hội chủ nghĩa có niềm tự hào đặc biệt. Nó tự hào vì được theo dõi không riêng những đối tượng của cách mạng mà cả các đảng viên kỳ cựu của Ðảng, cũng từ cấp cơ sở lên tới tận Trung ương. Ðủ hiểu Ðảng tin nó thế nào! Nó được tưởng thưởng xứng đáng. Chỉ buồn nỗi không được khoe khoang chiến tích mà thôi. So sánh cái được với cái không được thì cái được lớn hơn nhiều.
Dùng phương pháp loại suy tôi phát hiện một số tên chỉ điểm trong giới văn nghệ sĩ qua những cuộc hỏi cung. May mắn cho tôi, và cho văn nghệ sĩ nói chung, không có gương mặt sáng giá nào làm chỉ điểm. Làm cái nghề đốn mạt này chỉ có những tên vô tài bất tướng bước vào văn nghệ qua ngả chính trị, những tên cơ hội đi bằng đầu gối, kiếm ăn bằng những bản văn tán dương chế độ. Có tên đã tập tọng viết lách, nhưng không sáng tác nổi cái gì cho ra hồn, tình nguyện cầm cây roi phê bình gác cửa văn nghệ cho Ðảng. Thậm chí có tên làm chỉ điểm cốt được vào Ðảng sớm một ngày. Tên khác săn tin trong anh em, ton hót với thượng cấp chỉ để kiếm thêm một bậc lương.
Khốn nạn, không làm là một nhẽ, phải ngồi im nghe kẻ chiêu mộ ba hoa về những quyền lợi mà Ðảng ban cho nếu anh ngoan ngoãn làm chó săn chim mồi là một nhẽ khác.
Nhục lắm!
Huỳnh Ngự kể cũng biết điều. Y không nói toạc ra rằng tôi phải đầu hàng và nhận làm chỉ điểm. Nói thế trắng trợn quá.Y muốn tôi bám lấy cái chính nghĩa y quẳng cho: vì lợi ích của Ðảng. Tôi giả vờ nghe theo. Sau đó hẵng hay.
Trong khi chờ đợi y nắn nót những giấy tờ cho cuộc khai bút tôi quan sát căn phòng vừa được đưa tới. Người Pháp không phải là tác giả của những căn phòng manh mún, thiếu tiện nghi được dùng làm nơi hỏi cung trong Hỏa Lò. Căn phòng tôi đang ngồi diện tích chỉ nhỉnh hơn xà lim một chút, lại không có cửa sổ, không có lỗ thông hơi, rất bí. Cách bố trí các phòng hỏi cung hiện nay phản ánh trung thành tính cách chủ nhân nó.
Nhìn căn phòng kín mít trong mê cung những phòng và hành lang của Hỏa Lò bất giác tôi nhớ tới anh Kỳ Vân. Anh có số phận hẩm hiu nhất, cuộc đời đối với anh bạc bẽo nhất. Khoảng một tháng trước khi anh bị bắt, vợ anh đi sơ tán gần Hà Nội bị chết đuối để lại mấy đứa con dại. Thời thuộc Pháp Kỳ Vân đã vượt khỏi nhà ngục này tới hai lần. Lần này dù có muốn anh cũng không vượt được nữa. Anh đã già. Các đồng chí của anh lại rút kinh nghiệm của những lần họ vượt ngục trước kia, kể cả hai lần vượt của anh, giữ Hỏa Lò chắc hơn, nghiêm ngặt hơn nhiều so với thời kỳ thuộc Pháp.
Khi nghe tôi báo tin Kỳ Vân bị bắt cụ Ðinh Chương Dương còn nhớ đủ cả tên họ anh:” Phạm Kỳ Vân chứ, cháu. Cháu nói Kỳ Vân, bác ngỡ là người khác. Chính bác đưa Phạm Kỳ Vân sang Tàu cho bác Hồ huấn luyện cách mệnh chứ ai, lúc bấy giờ Phạm Kỳ Vân còn nhỏ tuổi lắm, nhưng tinh thần cách mệnh thì lại rất lớn. Họ bắt bố cháu, bắt luôn cả Phạm Kỳ Vân hả? Trời đất, đồng chí với nhau cả sao mà tàn tệ thế?!”
Anh Kỳ Vân, theo lời cha tôi kể, và như bác Ðinh nhận xét, là người tuổi nhỏ chí lớn. Anh hoạt động cách mạng từ khi còn là học sinh, 21 tuổi đã là xứ ủy viên Ðảng cộng sản Ðông Dương. Tính theo bề dày cách mạng, hoạt động cùng với cha tôi, Kỳ Vân phải thuộc hàng cha chú tôi mới đúng, nhưng anh chơi với tôi cũng như chơi với Hứa Văn Ðịnh(2) ngang hàng, kiểu bạn bè, cậu cậu tớ tớ. Xem ra anh không có cái tính thích làm kẻ cả.
Anh nói về cha tôi:” Sở dĩ ông cụ cậu không có chức sắc trong Ðảng là vì hồi bí mật Ðảng chủ trương để ông cụ hoạt động công khai, có chân trong Trung ương hay là xứ ủy, bị Tây bắt nó xử dữ lắm, Ðảng không có người tháo vát như ông cụ để chắp nối liên lạc cho các cơ sở Ðảng(3). Ðến lúc có chính quyền rồi thì ông Cả(4) lại bắt ông cụ cậu giúp việc ông Hồ. Trường Chinh không thích ông cụ cậu là vì ông cụ thẳng tính, không chịu xu nịnh. Lê Ðức Thọ thì ghét ông cụ lắm lắm, thằng tiểu nhân ấy khi còn ở Sơn La với tụi mình bị ông cụ sạc cho mấy trận vì cái tính đâm bị thóc chọc bị gậy trong anh em. Chứ nó sao bì với ông nhà cậu được! Khi ông cụ vào Nam ra Bắc làm cách mạng thì nó còn là học trò. Bọn Lê Ðức Thọ viện cớ ông cụ không có chức sắc, không đưa ông ấy lên. Mình biết ông cụ cậu từ hồi bí mật, mình biết cái tình ông ấy, ngay thẳng lắm, mà nóng lắm, không kiêng nể ai đâu, nhưng đối với bạn bè, đồng chí thì tình nghĩa rất mực, cho nên mình quý. ” Tôi hỏi vì sao anh đã từng có chức sắc mà cũng không lên được, thì Kỳ Vân gõ cồng cộc vào đầu:”Tại cái này cứng quá. Ðào Duy Kỳ(5) với mình hồi băm chín lên án Trường Chinh sợ địch, thấy địch vừa tổng khủng bố đã co cẳng chạy, cho nên hắn để bụng, khi cách mạng thành công rồi không bỏ lỡ dịp nào không hành bọn mình”.
Ngồi trong phòng, tôi rét run. Thời gian trôi, ăn uống kém, dự trữ trong người cạn dần, cho nên tôi thấy rét, chứ đám chấp pháp, quản giáo vẫn phây phây đi lại. Mà cũng có lẽ tại cái phòng làm việc lâu không có hơi người. Tôi tiếc căn phòng trông ra mảnh sân hẹp, nơi có cái vòi nước hỏng. Làm việc ở đấy thỉnh thoảng còn được rửa ráy, còn có cơ may ném được mảnh giấy báo tin cho gia đình, nhất là trong tay tôi bây giờ đã có giấy bút.
Sau khi đã đi tới thỏa thuận về chuyện tôi nhận viết báo cáo, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ. Giữa chúng tôi không còn những cuộc cãi vã căng thẳng. Bàn trà được dọn ra, hơi nước bốc trên những cái chén sạch bong, hai bên bàn là hai người điềm đạm thủng thẳng trò chuyện.
Tôi hiểu: Huỳnh Ngự lùi một bước để đòi tôi cái lớn hơn, một món lại quả còn to hơn ăn cưới. Không phải y chỉ đòi ở tôi một bước xuống thang tương ứng mà một sự thối lui thật sự nếu không muốn nói thẳng là đầu hàng.
Về thực chất, báo cáo và cung khai là một. Nhận báo cáo có nghĩa là nhận cung khai. Tuy nhiên, cũng trong buổi làm việc này Huỳnh Ngự tế nhị mhấn mạnh sự phân biệt thực ra rất nhỏ bé giữa chúng tôi và tù thường: với tư cách người được xử lý nội bộ, một thứ phạm nhân nửa dơi nửa chuột, chúng tôi được đặt vào một vị trí khác với phạm nhân thường trong quan hệ với cán bộ chấp pháp.
Ngẫm ra cái máu sĩ diện trong con người ta cũng mạnh gớm! Nếu Huỳnh Ngự cứ khăng khăng một mực bắt tôi cung khai thì vị tất tôi đã chịu. Cho dù sau bức thư của cha tôi tôi đã quyết định thôi không ngang ngạnh với y nữa. Y đoán trước được phản ứng của tôi, linh hoạt thay ngay cái từ cung khai bằng báo cáo, nghe êm tai hẳn.
Ðiều làm tôi ngạc nhiên là khu vực nhân sự mà Huỳnh Ngự quan tâm quá rộng.
– Anh có quen Tôn Thất Tùng(6) không hỉ? – một hôm bỗng dưng Huỳnh Ngự hỏi tôi.
– Không thể nói rằng tôi quen giáo sư Tôn Thất Tùng được. – tôi đáp, thờ ơ – Ông thuộc hàng cha chú tôi, lại chơi với ông cụ tôi…
– Thì tui mới phải hỏi. – Huỳnh Ngự dặn ra một nụ cười hiền lành, nhưng trên mặt y nó chỉ đạt mức không độc ác mà thôi – Hồi trước Nghị quyết 9 Tôn Thất Tùng có viết một lá thơ, nội dung là một kiến nghị gởi Trung ương Ðảng, chắc anh đã đọc…
– Tôi có nghe nói thế.
– Chu cha, sao lạ vậy chớ? Anh mà chỉ nghe nói!? – Huỳnh Ngự ngoẹo đầu, bĩu môi – Khó tin quá hà! Thư đó ông cụ anh có trong tay, còn đưa hết người nầy người nọ đọc, mà anh không được đọc thì lạ quá.
– Tôi không được đọc có lẽ vì thời gian đó tôi không có mặt tại Hà Nội.
Huỳnh Ngự gật gù:
– Cứ cho là như vậy. Nhưng anh là nhà báo kia mà. Nhà báo thì phải biết mọi chuyện mới là nhà báo chớ. Người ta ồn cả lên vì bức thơ mà anh không biết. Hỏng. Tôn Thất Tùng viết bức thơ nầy trong loạt thơ gởi Trung ương nhằm gây áp lực buộc Trung ương phải thay đổi đường lối. Ngây thơ quá! Trung ương cần chi tới ý kiến mấy anh khoa học dở hơi mà thơ với từ. Ông già sau rồi cũng không đưa anh đọc?
– Không.
– Tui dám cá với anh nè, rằng anh có đọc, nhưng anh chối. Mà thôi, bỏ qua chuyện đó đi, anh có đọc hay không đọc không phải chuyện quan trọng.
Tôi cười trừ. Biết nói gì với y bây giờ? Ðôi co với y, tôi biết rồi, là chuyện vô ích.
Một nguyên tắc của công an là không tin cái gì hết, cho dù mình có nói thực. Chỉ khi nào dùng đủ mọi cách rồi mà không khai thác được gì hơn thì người ta đành chấp nhận cái đã thu được,
Huỳnh Ngự chăm chú rót trà vào chén mình. Lẽ ra, trong bầu không khí không căng thẳng hôm nay y phải mời tôi mới đúng, nhưng y quên không mời. Dù đã cố gắng nhiều y vẫn chưa thành người lịch sự.
– Tui lấy làm lạ cho bọn trí thức các anh! – sau khi thỏa mãn với chén trà cắm tăm(7), Huỳnh Ngự ngả người trên ghế, hai tay chắp trước bụng – Ðảng chiều như chiều vong, chẳng động đến các anh thì chớ, có sai sót chi cũng cho qua luôn, không thèm bắt bẻ, lại còn tạo mọi điều kiện thoải mái cho các anh làm việc, cho các anh hưởng mọi tiêu chuẩn hơn người, vậy mà các anh rửng mỡ đòi nhảy vô lãnh vực chánh trị, phát biểu lung tung vô trách nhiệm, đòi đường lối của Ðảng phải thế kia thế khác. Hết khôn thời dồn ra dại. Có người cầm tay dắt đi không muốn, muốn tự mình mò mẫm…
Trong chuyện bức thư tôi không nói dối y. Tôi tiếc không được đọc bức thư ấy. Hình như lúc đó tôi đi viết ở Thái Bình thì phải. Nghe nói bác sĩ Tôn Thất Tùng viết rất cảm động. Nhìn sang nước láng giềng, thấy tình cảnh trí thức bên đó bị đấu tố, bắn giết, tù đầy, ông lo lắng cho số phận trí thức Việt Nam, lo cho tương lai nền khoa học nước nhà. Ông muốn lấy lời tâm huyết khuyên can Ðảng đừng đi theo con đường Trung Quốc, bởi nó đem lại cho dân tộc những tổn thất không lường hết được và sự kéo lùi lịch sử nhiều năm.
– Tôn Thất Tùng có hay tới ông già anh không?
– Tôi không rõ. Cũng có thể giáo sư đến chơi với ông cụ tôi mà tôi không biết. Tôi ở trên gác, ông cụ tôi ở dưới nhà.
– Cái nớ tui rõ. Vậy còn Tạ Quang Bửu. Anh biết chớ?
– Cũng không. Tôi có phỏng vấn giáo sư Tạ Quang Bửu. Cái sự biết như thế không thể gọi là biết. Bài phỏng vấn sau bị xếp lại vì báo thiếu chỗ.
– Hình như tay nầy ăn nói cũng lung tung lắm, phải không?
– Làm sao tôi biết được! – tôi nhún vai – Khi nói chuyện với người không quen biết chẳng ai dại gì nói chệch đường lối của Ðảng, nhất là trong lúc này. Mọi câu trả lời phỏng vấn, theo kinh nghiệm của tôi, thường bao giờ cũng giống xã luận báo Nhân dân.
Huỳnh Ngự nhìn tôi cảnh giác. Y rất sợ bị xỏ lá mà không biết, hoặc về tới nhà mới biết.
Mặc cho Huỳnh Ngự nghĩ gì thì nghĩ, tôi điềm nhiên rót trà cho mình. Trà chát xít ở cổ họng.
-Vậy chớ Nguyễn Tuân, anh biết hay không biết?
– Nguyễn Tuân thì tất nhiên tôi phải biết.
– Phan Kế An?
– Tôi biết anh Phan Kế An.
– Anh sẽ viết một báo cáo về Phan Kế An chớ?
– Tôi không biết Phan Kế An tới mức có thể nói gì về anh ấy.
– Còn Phan Kế Hoành?
– Anh Hoành là bạn tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng thấy tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của y. Y mời tôi, đúng hơn là cho tôi, một điếu Ðiện Biên.
– Kể cũng lạ, lão khâm sai đại thần(8) thì cúc cung theo ta, mà mấy đứa con thì như giặc. – ngả người trên ghế, Huỳnh Ngự nhả khói lên trần – Anh có biết Phan Kế Hoành hắn giải thích bôi đen chế độ ra răng không?
– Không. Khi anh Phan Kế Hoành dạy ở Ðại học Tổng hợp thì tôi ở Liên Xô. Vụ Nhân văn – Giai phẩm tôi chỉ được nghe kể lại. Mà hình như Phan Kế Hoành không liên quan tới Nhân văn – Giai phẩm.
– Hắn là Nhân văn – Giai phẩm một nửa. Hắn với hai thằng Bùi Quang Ðoài, Văn Tâm(9) ở trong nhóm Ðất Mới.
Tôi nói dối. Tôi biết chuyện Huỳnh Ngự vừa nhắc tới. Nó là thế này: sinh viên hỏi thầy Phan Kế Hoành chuyện báo chí nói nhóm Nhân văn – Giai phẩm bôi đen chế độ nghĩa là thế nào. Thầy Hoành bèn sai một nữ sinh xuống nhà bếp mượn cho anh cái chảo. Ðoạn, anh bảo cô sinh viên:”Em xoa bàn tay của em vào trôn chảo đi, xem tay em đen chưa nào, được rồi, bây giờ em xoa tay lên bảng! Xoa đồng nghĩa với bôi. Bôi đen nghĩa là như thế!
Sau vụ này Phan Kế Hoành bị tước quyền dạy học. May, người ta còn nể cụ Phan Kế Toại, nên anh chỉ bị chuyển qua công tác khác.
Cái lối gọi cụ Phan Kế Toại xách mé như thế chỉ có ở những tên cán bộ hãnh tiến. Chúng không biết rằng việc một đại thần triều Nguyễn có mặt trong hàng ngũ cách mạng và kháng chiến là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, là tấm gương cho nhiều người trước kia làm việc trong chính quyền thuộc địa noi theo. Nhờ những nhân sĩ có tên tuổi như cụ Phan Kế Toại đứng bên những người cộng sản mà chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp thêm rạng rỡ, uy tín của Ðảng cộng sản được nâng cao.
– Còn Văn Cao?
– Văn Cao thì tôi biết.
Huỳnh Ngự cười khẩy:
– Phải nói thân mới đúng chớ! Anh với Văn Cao cùng một hội mà. Các anh gọi Văn Cao là cái chi nhỉ? Tui nhớ rồi: ông tiên chỉ.
Thì ra y cũng biết cái biệt hiệu tếu mà chúng tôi đặt cho Văn Cao.
Cái cách hỏi cung của Huỳnh Ngự là thế: y nhảy lan man từ nhân vật này qua nhân vật khác, từ đề tài này qua đề tài kia, luôn giữ chặt người bị hỏi cung trong thế bị động.
Trong khi giữ vẻ mặt bình thản để trả lời những câu hỏi khó hiểu của Huỳnh Ngự, tôi luôn phải căng thẳng suy nghĩ: y muốn gì?
Nghi ngờ Nguyễn Tuân, Văn Cao đã đành, hai ông vốn ngang bướng, không cân nhắc lời ăn tiếng nói. Khốn nỗi, bất cứ cái gì không phải từ Ðảng mà ra đều làm cho Ðảng khó chịu, ngứa ngáy chân tay, muốn đánh. Nhưng tại sao họ lại vơ cả Tôn Thất Tùng với Tạ Quang Bửu vào đấy?
Tôn Thất Tùng là một nhà giải phẫu tài ba. Phương pháp mổ gan khô của ông được đồng nghiệp trên thế giới đánh giá như một sáng tạo độc đáo trong ngành giải phẫu. Tôi gặp Tôn Thất Tùng nhiều lần. Ông để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về một trí thức ngang tàng. Trong một lần phỏng vấn ông, Tôn Thất Tùng tiếp tôi tại phòng làm việc trong bệnh viện Việt-Ðức. Thấy tôi nghiêng ngó ngắm bức tượng bán thân của chính ông đặt ngay sau bàn, sát tường, Tôn Thất Tùng mỉm cười pha chút khiêu khích:”Anh lấy làm lạ hả, nhà báo?”. Tôi đỏ mặt lên, không biết trả lời ông thế nào, cứ như thể tôi bị bắt quả tang đang nghĩ xấu về ông vậy. Thái độ bối rối của tôi làm ông thú vị. ” Người ta có tượng của họ, sao mình lại không thể có tượng của mình? Anh đồng ý thế không?”, ông nói.
Chữ người ta mà ông dùng là để chỉ ông Hồ Chí Minh. Không giấu giếm, cũng không cay cú. Ông ghét cái sự sùng bái, sự tôn vinh quá mức một con người, đưa con người đó lên hàng thánh nhân. Chừng ông thấy khắp ngang cùng ngõ hẻm đều có tượng ông Hồ Chí Minh, ông muốn chơi chướng, bèn thuê nặn tượng mình.
Không rõ nhà điêu khắc nào đã nặn bức tượng đó. Nó được làm giả chất liệu đồng hun và đặt nghiêm trang trên đế gỗ. Ðáng tiếc, trong bức tượng không có được những nét hóm hỉnh rất sinh động đặc trưng của nhà giải phẫu.
Giáo sư Tạ Quang Bửu hồi ấy làm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Tòa soạn giao cho tôi viết một bài giới thiệu về ẹy ban, cái thai nhi hứa hẹn trở thành Viện Hàn lâm sau này. Tại văn phòng đảng ủy, tôi được phó bí thư hay ủy viên thường vụ tiếp, hình như tên là Lê Duy Văn thì phải, nếu tôi nhớ không nhầm. Người của Ðảng gày nhẳng, lộ hầu, áo sơ-mi nhàu nát bỏ ngoài quần, đang ngồi bên cái transistor Xiang Mao. Vào giờ ấy Ðài phát thanh Bắc Kinh đang truyền đi một văn kiện quan trọng. Trong thời kỳ sôi động của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối đài Bắc Kinh đóng vai huấn luyện viên môn võ mồm. Trong những ngày ấy nó phát đi phát lại không mệt mỏi một giáo trình lê thê gồm những bài phê phán Liên Xô, được các nhà mác-xít nội hóa gọi là những quả đấm dành cho Khrusov.
Tôi được Lê Duy Văn tiếp niềm nở. Sau một tuần trà, chúng tôi nói chuyện tâm đắc như hai anh mác-xít chính cống (nghĩa là đặc sệt mao-ít).
– Tôi sẽ bố trí để đồng chí phỏng vấn hắn – anh ta tin cậy thì thầm – Ðồng chí gặp hắn cứ làm ra vẻ thân mật, trí thức cả với nhau ấy mà, hắn mắc câu ngay thôi, thằng cha vậy mà cả tin lắm. Thế rồi trong câu chuyện đồng chí mới đặt cho hắn mấy câu hỏi thế này thế này… Về bài báo giới thiệu ẹy ban xin đồng chí cứ viết theo tài liệu tôi đưa đây, nó được soạn sẵn cho các nhà báo nước ngoài. Cần thêm vào đấy cái gì thì thêm, cứ theo lập trường Ðảng ta là được…Phỏng vấn Tạ Quang Bửu xong, đồng chí ghi được gì xin chuyển cho chúng tôi, càng có nhiều chi tiết càng tốt.
Tôi muốn đập vào cái bản mặt mác-xít lê-nin-nít đểu cáng của anh chàng này một cái quá. Trông người mà nghĩ đến ta, chắc sau lưng tôi cũng chẳng thiếu những ông bạn quý hóa bước ra từ cùng một lò.
Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thực phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihhanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng… Theo gương ông, về sau người ta gọi bất kỳ kẻ thù chính trị nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Ðại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu…Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị.
Ðể phân ranh giới, Huỳnh Ngự gọi những người bị bắt bằng thằng Giang, thằng Chính, thằng Kỳ Vân, thằng Minh Việt vân vân. Với bác sĩ Tôn Thất Tùng, nhà khoa học Tạ Quang Bửu, nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Văn Cao mà Huỳnh Ngự không gọi bằng thằng mà bằng tên trống không, không có tiếng ông đi trước. Theo tôi hiểu thì điều đó có nghĩa những trí thức lớn của đất nước tạm thời chưa bị coi là đối tượng của cách mạng nhưng không còn được nhà cầm quyền tôn trọng.
Tôi cho rằng Ðảng cộng sản Việt Nam đối xử với trí thức rất không công bằng. Trí thức Việt Nam thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm. Quằn quại trong thân phận nô lệ, khi đất nước giành được độc lập, họ tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Trong niềm tin đã được khẳng định qua Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, trí thức sẵn sàng làm bất cứ công việc gì Ðảng cần đến. Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức ngoan như thế. Trí thức ở các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc cứng đầu hơn nhiều.
Ðảng tập hợp họ, bảo họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu học trò nhỏ ngồi nghe cán bộ Ðảng dạy bảo. Ngỡ ngàng trước những tín điều lạ tai, lòng nhủ lòng rằng mình mang nhiều tư tưởng của các giai cấp bóc lột nên không hiểu nổi những điều Ðảng dạy, họ tin cậy đưa tay cho Ðảng dìu dắt, hùng hổ xỉ vả nhau về những khuyết điểm có thật và không có thật đối với cách mạng, cặm cụi viết những bản tự kiểm thảo trước Ðảng, hi vọng được Ðảng tha thứ mọi lỗi lầm, để được đi theo Ðảng tới chân trời cộng sản.
Ðảng bảo phải hạ phóng, ba cùng(10), thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng có…
Ðảng hô hào phóng tay phát động quần chúng làm Cải cách ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy nước đọng “thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi(11)”. Cùng với đội với đoàn họ mẫn cán thực hiện định mức thành phần(12), tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù theo chỉ tiêu của Ðảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra pháp trường. Ðến khi Ðảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Ðảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Ðảng họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Ðảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống một dân tộc hiền hòa.
Nhưng rồi bị Ðảng dẻo mỏ thuyết phục rằng sai lầm là nhất thời, thắng lợi là căn bản, họ lại lẽo đẽo theo Ðảng, dùng uy tín của trí thức lôi kéo nhân dân vào những phong trào lẩm cẩm, thậm chí phản khoa học, như cấy dày để tăng sản lượng lúa, cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng của lợn cho lợn mau lớn, tăng năng suất vận tải bằng một xe kéo nhiều rơ-moóc… Kịp tới khi những cánh đồng cấy dày chỉ cho rơm chứ không cho thóc, những con lợn bị cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng(13) lăn đùng ra chết tốt, những chiếc xe tải kéo nhiều rơ-moóc hỏng hàng loạt thì họ lại ngã ngửa ra lần nữa, chợt thấy Ðảng chẳng hề là trí tuệ và lương tâm thời đại như báo Ðảng quảng cáo, mà chỉ là một mớ tạp pí lù những kiến thức chắp vá học mót ở những thầy mo bên Tàu.
Vị trí của trí thức ở Việt Nam thật thảm hại. Số phận của họ cũng thảm hại không kém.
Vừa sử dụng vừa dè chừng trí thức, không thực lòng đoàn kết với họ, là sách lược của Ðảng. Cứ mỗi khi xuất hiện một biến cố chính trị là mỗi lần Ðảng phải căng mắt theo dõi mọi động thái của trí thức, tay lăm lăm dùi cui và còng số 8. Lần này cũng vậy. Sau vụ “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” ở Trung Quốc, vụ Nhân văn – Giai phẩm ở Việt Nam, sau những biến cố chính trị ở Hungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, người ta còn đề cao cảnh giác hơn nữa đối với đám trí thức bất trị.
Những cuốn sách được viết ra dưới ánh sáng duy nhất của đường lối Ðảng vẫn bị xem đi xét lại nhiều lần trước khi được xuất bản. Hội họa là lĩnh vực các nhà lãnh đạo i tờ nhất, họ vẫn đòi xen vào để dạy bảo. Trường Chinh thân hành duyệt những cuộc triển lãm hội họa. Tôi còn nhớ chuyện bức Ô Quan Chưởng, được coi là một trong những tranh đẹp nhất của Bùi Xuân Phái, bị Trường Chinh nhận xét thế nào. “Hừm, thế này mà là tranh à?! – chắp tay sau lưng, Trường Chinh đứng lâu trước bức tranh, ngắm nghía – Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam đang tiến lên chủ nghĩa xã hội hay là một thành phố chết? Các đồng chí nhìn xem: phố Hà Nội không người, chỉ có nắng chang chang với hoa phượng rụng đầy như máu, có một chiếc xích-lô thì người đạp xích-lô cũng đi đâu mất… Giá mà xa xa, ở hậu cảnh có lấy vài cái cần trục chứng tỏ chúng ta đang xây dựng thì còn tha thứ được, đàng này…!” Bức tranh bị ông Trường Chinh loại khỏi cuộc triển lãm.
Bùi Xuân Phái gọi những bức tranh không bao giờ được triển lãm là tranh quay mặt vào tường. Anh vẽ chúng trên gian gác lửng tối mò ở Phố Hàng Thuốc Bắc. Thứ gác này mới xuất hiện vào cuối những năm 50, chia căn phòng thành hai theo chiều cao, đứng thẳng là đụng trần, đi lại phải lom khom. Dưới cái gác lửng của anh vừa là nhà ở, vừa là phòng ăn, vừa là phòng học của con cái. Tôi uống trà với anh trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn 60 oát trộn lẫn ánh sáng tự nhiên khuếch tán, ngắm những bức tranh quay mặt vào tường được anh lôi ra từng cái một.
Chẳng cứ tranh. Nhiều truyện ngắn cũng chung số phận. Chúng không bao giờ được nhìn thấy ánh sáng mặt trời mà chỉ tồn tại ở dạng kể. Kim Lân gọi chúng là những truyện ngắn xuất bản bằng mồm. Anh có một truyện ngắn kiểu đó, truyện Thằng Câm. Tourgueniev cũng có một truyện ngắn với đề tài tương tự, nhưng xem ra khó vượt nổi Kim Lân. Thằng Câm chẳng bao giờ ra đời. Cho đến lúc có thể viết được thì Kim Lân không còn hứng thú. Gặp anh tại Sài Gòn năm 1990, tôi nhắc anh truyện Thằng Câm thì Kim Lân cười buồn: khốn nạn cái số Thằng Câm nhà tôi nó vất vả, nó chết yểu là do thiên định, thôi thì để cho nó mồ yên mả đẹp, có dựng nó dậy cũng chẳng được, mà cũng chẳng ích gì.
Tôi buồn cho thân phận văn nghệ sĩ nước ta. Nào họ có muốn đấu tranh với ai. Họ chỉ muốn được sống yên để làm công việc mình yêu thích. Mà không được!
Lần này, vào thời điểm trào lưu dân chủ ào ào dâng lên tại các nước xã hội chủ nghĩa, trí thức Việt Nam lẳng lặng đứng về phía những người anh em của mình. Ðó là làn sóng ngầm bên dưới mặt nước phẳng lặng.
Ai cũng biết trí thức được đào tạo tại phương Tây hay tại các nước xã hội chủ nghĩa chẳng có gì đáng gọi là lực lượng, nhưng lại có tình yêu và lòng ngưỡng mộ của quần chúng. Trong mọi biến động lịch sử trí thức bao giờ cũng đi tiên phong. Mao thừa nhận tác dụng ngòi nổ của tầng lớp này trong cách mạng, nhưng khi cách mạng thành công, Mao nói, trí thức sẽ là vật cản bởi tính chất lừng chừng, dao động của nó. Trong những vụ nổi dậy ở Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, trí thức, nhất là trí thức trẻ – sinh viên và học sinh – ào ào xuống đường, kéo theo các tầng lớp khác. Tấm gương tầy liếp đó làm cho những nhà lãnh đạo Việt Nam luôn dè chừng trí thức.
Khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào – đào tận gốc, trốc tận rễ” trong cuộc nổi dậy Xô-viết Nghệ Tĩnh bộc lộ tâm trạng hằn thù trí thức của những kẻ dốt nát. Tâm trạng này có chiều sâu lịch sử, từ những cuộc trấn áp tàn bạo cho tới những vụ đốt sách chôn học trò.
Ðòn đánh không trực diện nhằm vào trí thức lần này giáng xuống những người cộng sản thân trí thức. Ðó là những người cách mạng ý thức được nhược điểm của mình. Họ thừa nhận mình dốt, và họ tìm được sự bổ sung cho lỗ hổng kiến thức bằng sự liên kết chặt chẽ với trí thức.
Những người cộng sản thiếu học không hiểu rằng mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản, theo Mác, không phải chỉ nhằm giải phóng thân phận nô lệ của người vô sản
mà là giải phóng con người nói chung, nhằm “đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do”. Mác không tưởng trong hình dung xã hội tương lai, nhưng mục đích của ông đầy tính nhân đạo.
Ðánh vào những người cộng sản chủ trương dân chủ hóa xã hội, xóa bỏ chế độ toàn trị, là thủ tiêu chỗ dựa tinh thần của trí thức, thủ tiêu ý chí đấu tranh của trí thức, đặt trí thức vào đúng vị trí Ðảng muốn: vị trí của thằng hầu.
Duẩn-Thọ là những nhà chính trị không đần độn. Không cần ai dạy bảo họ cũng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra cho vị trí kẻ cầm quyền dựa trên sức mạnh bạo lực. Họ biết quần chúng sớm muộn cũng sẽ biết bộ mặt thật của họ. Tương lai làm họ sợ hãi. Trong cơn sợ hãi họ tung đòn đánh trước.
Ông Bùi Công Trừng(14) nói với tôi:”Cháu nhớ lấy, ở đời dốt nát với hiểu biết như nước với lửa. Họ dốt (tức các nhà lãnh đạo), đã thế lại không chịu học, thánh nhân phải học sao còn là thánh nhân, thành ra đã dốt lại càng dốt thêm. Dốt ghét giỏi là lẽ thường tình. Trí thức nước mình còn khổ, chừng nào thằng dốt còn đè đầu thằng giỏi. Cái đó là bi kịch không phải của một mình nước ta mà của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Bác già rồi, số tận rồi, nghĩ mà thương các cháu”.
Ông Bùi Công Trừng nằm trên giường bệnh thở oxy vẫn đọc sách. Tôi nhớ rõ ông là người gióng hồi chuông báo động sớm nhất về nạn phá rừng. Ngay từ cuối thập niên 50, khi vấn đề môi sinh chưa trở thành vấn đề gay gắt toàn cầu, ông đã viết những bài về việc phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. ÔNg phàn nàn với tôi: “Cháu ơi, tội ác của chúng nó lớn lắm – đất đai mình rừng vàng biển bạc thiệt, nhưng đâu phải vô tận. Giờ chúng hô hào tăng gia sản xuất tràn lan, dân được thể phá rừng quá xá. Mấy năm trước, cháu còn nhớ không, lên tới Ðoan Hùng đã là rừng rồi. Bây giờ đến tận Tuyên Quang còn là trung du! Bọn chúng chỉ có phá là giỏi!”. Ông để lại một tập sách dày gồm những suy nghĩ của ông về phát triển kinh tế địa phương, kết quả của những nghiên cứu sâu sắc và khoa học, đến tận thời kỳ “bung ra” (1979-1980) vẫn còn đắc dụng cho các tỉnh ủy.
Cuộc trấn phản đang diễn ra ở miền Bắc Việt Nam là bản sao của cuộc trấn phản trong và sau Ðại cách mạng văn hóa vô sản ở Trung Quốc. Trong tình hình đất nước đang có chiến tranh người ta giới hạn mục tiêu trong sự vô hiệu hóa một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung ương có khả năng thế chỗ ban lãnh đạo đương thời một khi xảy ra biến động. Ðòn mạnh hơn được giáng xuống những người cộng sản ở cấp thấp hơn.
Charles Fourniau, nhà sử học Pháp có nhiều công trình nghiên cứu về Ðông Nam Á, đã từng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1946-1954, trong một hội thảo bàn tròn vào cuối thập niên 70 đã huỵch toẹt ra rằng:”Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Kampuchea là những xã hội cùng chung một mô hình, chỉ khác nhau ở cấp độ mà thôi”.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ không phải Mao Trạch-đông. Họ không có và chẳng bao giờ có được cái vĩ đại mà Mao có. May cho Việt Nam, trong chuyện hành hạ trí thức Duẩn-Thọ hành động còn rụt rè. Trí thức dưới thời Duẩn-Thọ chỉ bị hành hạ cho tới thui chột đi mà thôi. Lại một lần nữa Nguyễn Tuân có dịp để chơi chữ. Ông nói: ” ê Cam-pu-chia Pôn-Pốt diệt chủng, ở ta êm nhiều, người ta chỉ tuyệt chủng thôi!”.
Một đặc điểm của thời kỳ này là đường lối đánh đu giữa hai cọc. Trên những trang báo Nhân dân, và các báo khác cũng thế, cứ mỗi bài nói tới Liên Xô thì lại có một bài nói về Trung Quốc, với số dòng tương đương, với cỡ chữ tương đương, không bên nào được lớn hơn bên nào. Ðưấng lối này được giữ trong một thời gian dài trong cuộc xung đột ý thức hệ chủ yếu là nhờ ông Hồ Chí Minh. Vai trò “tôi là người giữa tôi chữa đôi bên” của ông, đáng tiếc, đã tỏ ra không bền. Vị thế trung dung sở dĩ tồn tại được một thời gian còn nhờ ở tâm trạng do dự của Lê Duẩn. Một mặt, Lê Duẩn sợ Mao Trạch-đông nổi nóng thấy Việt Nam không nồng nhiệt hưởng ứng cuộc chiến tranh tư tưởng do ông ta tiến hành chống Liên Xô. Mặt khác, Lê Duẩn sợ những người chủ mới của điện Kremli lạnh lùng thắt hầu bao lại. Những ý kiến đối nghịch ở trong nước không được Lê Duẩn tính đến, hoặc không được tính đến một cách nghiêm túc. Chuyện nội bộ Duẩn để cho Thọ toàn quyền. Cho nên mới có chuyện cùng một lúc Lê Duẩn thề thốt trung thành với Liên Xô, Lê Ðức Thọ bắt bọn xét lại hiện đại.
Có vẻ số dê tế thần của nước chư hầu chưa đủ làm vừa lòng Mao. Anh bạn nhà báo Hoa kiều tên là Lâm Âm cùng công tác với tôi tại báo ảnh, một Hồng vệ binh chính cống ở xa tổ quốc, đã bật ra điều này trong cơn tức giận. “Mao chủ tịch dạy rằng: đánh giá cán bộ phải căn cứ ở việc làm chứ không ở lời nói. – anh ta nói – Ðảng cộng sản Trung Quốc coi những kẻ ngoài miệng chống xét lại mà không làm việc gì chống xét lại cũng là một thứ xét lại! Hết thảy bọn chúng đều là cỏ dại!”(15).
Tôi không làm chính trị. Tôi cũng chẳng có mưu toan làm lung lay ngai vàng của Duẩn-Thọ. Mộng lớn nhất của tôi là được sống yên lành để được làm công việc mà tôi yêu thích. Ngoài cái đó ra tôi chỉ vỏn vẹn là một anh tiểu trí thức Việt Nam đặc thù: một nhúm kiến thức tây học trộn với nắm tro tàn của tinh thần nho sĩ xưa mà thành.
Thôi được, đành phải nhu vậy. Cái thế không thể khác. Nhưng nhu là nhu tới mức nào đây? Nhu quá là đầu hàng vô điều kiện.
Tôi biết mình chẳng bao giờ học được thói luồn cúi. Riêng sự phải lặng thinh nuốt nhục vào lòng đối với tôi cũng đã khó lắm rồi. Khó hơn chết. Cái chết chẳng có gì đáng sợ. Nó là cái tặc lưỡi, cái nháy mắt, sau đó là hết, là cõi hư vô.
Sống mới thực là khó.
(1) “Ðắc chí, dữ dân do chi, bất đắc chí, độc hành kỳ đạo, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử vị chi đại trượng phu”, nghĩa là “lúc đắc chí thì cùng với dân mà hành đạo, không đắc chí thì hành đạo một mình, khi giàu sang không ham mê tửu sắc, lúc nghèo hèn không dời đổi tiết tháo, trước uy vũ không khuất phục” (Sách Mạnh tử, Ðằng Vân công Hạ)
(2) Nhà văn (1933-1995), nhà biên kịch.
(3) Theo các đồng chí cũ của cha tôi kể lại thì công tác chính của cha tôi trong thời kỳ bí mật là chắp nối các cơ sở Ðảng, vận động trí thức.
(4) Một trong những bí danh của Nguyễn Lương Bằng.
(5) Nguyên bí thư xứ ủy Bắc kỳ.
(6) Tôn Thất Tùng, được Nhà nước Việt Nam tặng danh hiệu anh hùng lao động, một nhà giải phẫu tài năng, nổi tiếng trong giới phẫu thuật gia trong nước và thế giới.
(7) Trà pha thật đặc, nói thậm xưng là cắm que tăm vào mà que tăm vẫn đứng chứ không đổ.
(8) Cụ Phan Kế Toại năm 1945 là Khâm sai đại thần của chính phủ Nam triều. Ði với cách mạng, cụ giữ chức bộ trưởng Bộ Nội vụ (công việc khác với Bộ Nội vụ bây giờ). Họa sĩ Phan Kế An là con trưởng cụ Phan Kế Toại, nhà nghiên cứu sân khấu Phan Kế Hoành là con thứ.
(9) Khi có vụ Nhân văn – Giai phẩm Bùi Quang Ðoài và Văn Tâm (nhà nghiên cứu văn học, nhà thơ) ở trong nhóm Ðất Mới của sinh viên, lập trường gần với nhóm Nhân văn – Giai phẩm.
(10) Hạ phóng, từ ngữ đặc Trung Quốc, có nghĩa đi xuống dưới, xuống cơ sở, xuống với dân. Ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng lao động.
(11) Vận động bần cố nông đấu tranh với địa chủ bằng cách từ một nông dân bị bóc lột nhiều nhất, nặng nề nhất lôi kéo các nông dân khác.
(12) Trong Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, người ta không xuất phát từ tình hình cụ thể của địa phương mà định mức thành phần, bất kể có phù hợp hay không, chẳng hạn người ta đề ra là 5% địa chủ thì đội cải cách cứ phải tìm ra cho đủ số.
(13) Những người tò mò có thể tìm thấy trong thư viện những bài báo cổ động cho những phong trào lẩm cẩm này trong chính báo Nhân dân những thập niên 50-60.
(14) Bùi Công Trừng(1902-1977) là một nhà cách mạng cộng sản thuộc lớp kỳ cựu, tốt nghiệp Ðại học Phương Ðông Moskva, ủy viên Trung ương Ðảng, cựu tù nhân Côn Ðảo, phó chủ nhiệm ỷy ban Khoa học Nhà nước đầu thập niên 60.
(15) Lâm Âm về sau cũng bị bắt (không có án) khi Trung Quốc tấn công Việt Nam. Nghe nói rồi anh được thả, hiện sống tại Sài Gòn.
|
|