|
Post by sheen on Nov 18, 2023 7:58:31 GMT -6
Chương 15
Trên nền cuộc đấu tranh giữa hai đường lối với rất nhiều vấn đề của phong trào cộng sản quốc tế trong hai thập niên 50 và 60 nổi bật lên sự lựa chọn, hoặc nói cho đúng hơn, cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng tổ chức xã hội: dân chủ và độc tài.
Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô đặt trước các đảng cộng sản sự lựa chọn không thể thoái thác: hoặc là chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin, hoặc là chủ nghĩa xã hội cách tân đi về phía dân chủ?
Lê Duẩn, nhà lãnh đạo toàn quyền vào những năm đó, không cần suy nghĩ nhiều, chọn tư tưởng Mao và mô hình Trung Quốc làm nền tảng cho cách cai trị. Ðó là sự lựa chọn duy nhất có thể có đối với Lê Duẩn, sự lựa chọn bẩm sinh, thích hợp nhất. Có anh nhà quê ra tỉnh nào mà lại thích thú những sự phiền toái, những cái đòi hỏi phải động não trong đời sống thành thị. Vốn là một nhân viên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tàu quốc gia chạy theo hướng mình muốn.
Nhưng hoàn cảnh Việt Nam lúc ấy buộc ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam, bất kể xu hướng của nó thế nào, phải khôn khéo giữ bề ngoài trung dung, không dám ngang nhiên chửi bới Liên Xô, chửi bới trào lưu dân chủ đang dâng cao trong thế giới cộng sản.
Thế là vào cuối năm 1963(1) xuất hiện Nghị quyết 9, một nghị quyết nửa dơi nửa chuột, không có lập trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Ðảng Việt Nam vừa nói chống chủ nghĩa xét lại hiện đại vừa nói chống chủ nghĩa giáo điều(2), với câu chữ kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm độc đáo, khó mà hiểu được người viết nghị quyết muốn gì. Liên Xô đọc cũng không thể bực mình, Trung Quốc đọc cũng không thể tức giận. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết nước đôi này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh, đã nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch “em chã, em chã” với cả hai bên tranh chấp.
ấy thế mà cái Nghị quyết 9 lươn lẹo, được nhào nặn bởi chủ gánh xiếc ngôn ngữ Trường Chinh, lại ra đời không được thông đồng bén giọt như các nghị quyết khác, theo thông lệ bao giờ cũng được “nhất trí” thông qua bằng những cánh tay giơ cao. Khốn thay, trong giai đoạn này đã xuất hiện làn sóng ngầm của xu hướng dân chủ trong Ðảng, được cả một số ủy viên Trung ương tán thành. Nghị quyết 9 là cái Lê Ðức Thọ và đàn anh Lê Duẩn cần có để trấn áp trào lưu dân chủ nọ. Nó phải được ra đời, bằng bất cứ giá nào. Và, về đại thể, Duẩn-Thọ đã thành công.
Trong Nghị quyết này, mặc dầu lời lẽ mù mờ, lập trường mao-ít của liên minh Duẩn-Thọ, là rõ ràng đối với bất cứ ai không mù.
Sợ các đảng viên hiểu lầm, Trường Chinh giải thích thêm trong một cuộc họp phổ biến Nghị quyết 9 cho các cán bộ cao cấp vào tháng giêng năm 1964 rằng “Cần lưu ý các đồng chí một điều là Nghị quyết 9, do tình hình phức tạp trong phong trào cộng sản quốc tế không thể viết hết ra những điều cần nói. Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của Nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là: đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc”. Cách phổ biến bằng miệng, sợ hãi sự ghi ra rõ ràng trong văn bản chứng tỏ tính nội kín của ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ ấy. Làm ra vẻ có sự phân công quốc tế trong việc đánh xét lại, Lê Ðức Thọ nói cho rõ hơn nữa trong một cuộc họp khác: “Chống chủ nghĩa xét lại hiện đại về mặt lý luận ta để cho Ðảng cộng sản Trung Quốc làm, còn về mặt tổ chức thì ta tự làm lấy”.
Cuộc đánh xét lại bằng nước bọt bắt đầu. Khắp nơi người ta chửi bới thằng trọc(3), chửi Liên Xô hèn, Liên Xô sợ Mỹ, Liên Xô phản bội. Một việc mua bán bột mì thông thường của Liên Xô trong khi nước này thiếu hụt lương thực được coi như một thất bại thảm hại trên mặt trận nông nghiệp. Những cổ động viên bóng đá quên bẵng tinh thần thể thao, gào khản giọng trên sân cỏ trong một trận đấu giao hữu:”Oánh bỏ mẹ bọn xét lại đi!”. Những người không đồng tình, lỡ miệng nói câu nào không giống lập trường của Ðảng lập tức bị chụp cho cái mũ xét lại hiện đại.
Với Nghị quyết 9 Ðảng cộng sản Việt Nam phân hóa thành hai cực – một bên là những người chủ trương chủ nghĩa xã hội dân chủ pháp trị, đòi kiến tạo một xã hội công dân có nhân quyền, bên kia là Ðảng cầm quyền kiên trì một chủ nghĩa xã hội chuyên chế.
Ðó là những ngày không thể nào quên.
Dương Bạch Mai, con hổ dữ chống lại đường lối thân Trung Quốc đột tử khi ông đang dự cuộc họp Quốc Hội tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Vào lúc giải lao, các đại biểu kéo nhau đi uống bia ở bar, ông Mai thết trước các bạn một chầu bia mừng sinh nhật ông hôm sau. Ông ngã xuống. ly bia chưa cạn. Khi xe cấp cứu đến, bác sĩ Tôn Thất Tùng định nhảy lên cùng đi tới bệnh viện thì hai thanh niên lực lưỡng áp sát ông:”Mời bác sĩ quay lại tiếp tục cuộc họp Quốc Hội, việc nước quan trọng hơn”. Chiếc xe cấp cứu phóng đi trước khi Tôn Thất Tùng hiểu chuyện gì xảy ra với ông, hai thanh niên kia là ai và tại sao họ lại ngăn cản ông đi cùng xe để săn sóc bạn ông?
Cái chết của Dương Bạch Mai gợi nên một nghi vấn. Ông ngã xuống đúng vào lúc ông sắp sửa đọc một diễn văn nảy lửa chống lại đường lối xây dựng xã hội trại lính kiểu Mao Trạch-đông, đòi Ðảng phải cải thiện đời sống cho dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ Ðảng, trong xã hội, và hàng loạt vấn đề khác. Bài diễn văn ông đút trong túi áo để đọc trước Quốc Hội biến mất. Nhà báo Thái Hồng, rất thân với Dương Bạch Mai, được đọc bản thảo diễn văn mấy hôm trước đó nói rằng đó là một tuyên ngôn cháy bỏng, hùng hồn và cực hay. Ðược tin ông Mai mất đột ngột, bà Mai từ giã các cháu học sinh miền Nam ở Thủy Nguyên về Hà Nội để làm ma cho chồng. Ngôi nhà của ông bà bị công an gác. Bà phải làm dữ mới vào được nhà mình. Trong nhà đồ đạc bị lục soát tung tóe.
Dương Bạch Mai là một trong những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam(4). Ông cũng là một trí thức yêu nước của đất Nam bộ. Ông từng du học Pháp, gia nhập Ðảng cộng sản Pháp năm 1926. Trong cuộc nổi dậy mang tên Nam kỳ Khởi nghĩa ông được ủy ban khởi nghĩa dự kiến làm thủ tướng chính phủ cách mạng. Năm 1935 Dương Bạch Mai trúng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn trước sự bực bội của chính quyền thuộc địa. Dương Bạch Mai cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tờ La Lutte, tờ báo cách mạng đầu tiên có sự bắt tay giữa những người cộng sản và những người tờ-rốt-kít thuộc nhóm các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch(5).
Tính cương trực, nóng nảy, chịu ảnh hưởng nặng những tư tưởng dân chủ của Ðại cách mạng Pháp, đã quen với cách xử thế bình đẳng kiểu phương Tây, ông không được lòng những nhà lãnh đạo gốc Bắc. Chính Dương Bạch Mai chứ không phải ai khác đã vực dậy cả Ban chấp hành Trung ương bạc nhược sau thất bại Cải cách ruộng đất.Hội nghị cán bộ Trung ương kiểm điểm công tác Cải cách ruộng đất diễn ra trong bầu không khí ảm đạm trước viễn cảnh một miền Bắc tiêu điều, thù hận. Dương Bạch Mai đã đứng lên, cao giọng hát bản Internationale(6), mọi người hát theo ông, và Hội nghị lấy lại được tinh thần.
Ông Phạm Ngọc Thạch(7), trong một câu chuyện vui tại nhà tôi hồi đầu thập niên 60, nói với ông Dương Bạch Mai:
– Mấy chả không ưa mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi cái vụ mầy hợp tác với đám tờ-rốt-kít ra mà rêu rao.
– Thì mầy cũng bị mấy chả rêu rao là có thời thân Nhật đó thôi. Chơi với tờ-rốt-kít thì mầy cũng chơi chớ bộ. – ông Dương Bạch Mai cười ngất – Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ có ghi thêm vô chớ không có xóa đi đâu nghen”,
Theo cha tôi, thái độ của những người lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam đối với những người tờ-rốt-kít là không thể hiểu được. Họ có thể đoàn kết với bất cứ ai khác, trừ những người tờ-rốt-kít, thậm chí cả trong những hành động cụ thể chống lại nhà cầm quyền thuộc địa. Ðể giải thích thái độ bất cộng đới thiên này, người ta dẫn ông Hồ Chí Minh: “Ðối với bọn tờ-rốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát-xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị” (trích báo cáo của ông gửi Quốc tế Cộng sản cuối năm 1939). Quả ông Hồ có viết như vậy. Lập trường cứng rắn này của ông được những người nghiên cứu tiểu sử ông giải thích bằng sự cần thiết phải thanh minh trước một Quốc tế đa nghi dưới sự chỉ đạo của Stalin sắt thép. Hồi ấy Quốc tế nghi ngờ lập trường cách mạng vô sản của ông Hồ, cho rằng nó không vững chãi. Ông cần sự ủng hộ của Quốc tế cho mục đích giải phóng dân tộc hay ông cần tiền để sống qua ngày trong khi còn lang bạt nơi đất khách quê người, mà Quốc tế là nguồn cấp đỡ? Ðó là điều không ai biết.
Ông Dương Bạch Mai nói với tôi rằng ông không được lòng ông Hồ Chí Minh. Dương Bạch Mai có cái tật sống quá thẳng. Ông ngang tàng, không chịu gò mình vào tôn ti trật tự phong kiến, ông bạt mạng trong lời ăn tiếng nói. Ðã quen với những lời tâng bốc, xưng tụng, ông Hồ Chí Minh có không ưa ông cũng phải.
Trường Chinh cũng không ưa Dương Bạch Mai. Ðiều này không khá hiểu. Trong Trường Chinh có mặc cảm của kẻ ngã ngựa. Sau sai lầm Cải cách ruộng đất ông đinh ninh ai cũng coi thường mình. Dương Bạch Mai phản đối Nghị quyết 9 thì Trường Chinh lại coi là ông phản đối mình.
Lê Duẩn đặc biệt không ưa Dương Bạch Mai. Theo nhận định của những người từ Nam bộ ra Bắc tập kết thì sự không ưa này không phải vì nguyên do chính trị. Cái chính là Lê Duẩn biết mình chẳng bao giờ có được cái mà Dương Bạch Mai có – sự nổi tiếng với tư cách một thủ lĩnh có trí tuệ. Dương Bạch Mai nói về Lê Duẩn: “Cháu để ý tới cái thằng cha ấy làm chi! Tâm trí bậc nam nhi là để cho sự nghiệp, thằng này thời chỉ lo kiếm chác vinh quang và quyền lực, lúc nào cũng nơm nớp sợ người khác hơn mình. Sự nghiệp và vinh quang là hai thứ khác nhau, như ngôi nhà với nước vôi phủ bên ngoài nó, cháu à!”
Dương Bạch Mai, nếu còn sống chắc sẽ chịu chung số phận với chúng tôi. Không phải chắc, mà chắc chắn.
Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, ông chống lại việc đưa nước Việt Nam vào quỹ đạo chủ nghĩa Mao. Ông gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù(8) của thổ phỉ. Giữa lúc ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch-đông lên hàng thánh sống thì ông ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc. Ông giải thích tình hình loạn lạc hiện tại ở nước láng giềng bằng lập luận rằng vào đầu thập niên 30 giai cấp công nhân Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các thành phố duyên hải, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng những đại biểu ưu tú của giai cấp này đã chết dần chết mòn trong Vạn lý trường chinh, và thay vào chỗ của họ là bọn cường đạo thảo khấu thu nạp ở dọc đường. Cho nên khi biên khu Thẩm-Cam-Ninh, Tân-Ký-Sát hình thành thì về thực chất Ðảng cộng sản Trung Quốc đã là một đảng thổ phỉ, đứng đầu là thành phần vô sản lưu manh. Những người cộng sản bị Mao Trạch-đông và Khang Sinh thủ tiêu dần. Người còn sống sót thì bị ám hại trong những “cuộc vận động cách mạng” thường trực. Chính cái đó dẫn tới tình trạng bất ổn liên miên trong nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định ngược đời của Dương Bạch Mai làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hết hồn. Sở dĩ ông chưa bị đụng tới là vì ông có danh tiếng, có uy tín lớn trong quần chúng.
Dương Bạch Mai qua đời khi đang là ủy viên Ban Thường vụ Quốc Hội, phó chủ tịch Hội Việt-Xô hữu nghị. Sau này, nhân vụ tướng Hoàng Văn Thái rồi tướng Lê Trọng Tấn thay nhau đột tử đúng lúc chuẩn bị nhậm chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng dư luận lại nhắc tới cái chết đáng ngờ của Dương Bạch Mai nhiều năm về trước.
Ngày đưa tang ông, văn nghệ sĩ và trí thức nghèo của Hà Nội chung nhau một vòng hoa để bày tỏ lòng thương tiếc ông, Người của mọi người. Vũ Huy Cương và Dương Tường(9) đứng ra thu tiền phúng.
Tôi thay mặt anh em văn nghệ sĩ có xu hướng dân chủ mang vòng hoa tới trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở ngã tư Tràng Thi – Quán Sứ. Anh em cử tôi làm việc đó vì tôi là loại vua biết mặt chúa biết tên rồi, có muốn giấu cũng không được, còn người khác thì không nên lộ mặt làm gì. Khi tôi ngồi xe xích lô chở vòng hoa đến đấy thì đã có cả một đám đông cá chìm lăng xăng ở ngoài đường và trong sân. Thấy vòng hoa lớn quá, lớn hơn nhiều so với vòng hoa của chính phủ viếng ông, với dải băng chạy ngang “Kính viếng hương hồn đồng chí Dương Bạch Mai, người cộng sản suốt đời trung thành với lý tưởng” bọn cá chìm ập tới. Hai tên lực lưỡng xăng xái xông tới khiêng giúp tôi, không phải để đặt vòng hoa trước linh cữu mà để đưa thật nhanh vào một chỗ khuất nẻo. Tôi còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao thì Bửu Tiến(10) xuất hiện. Anh cùng tôi đưa vòng hoa ngược trở lại, đặt nó bên những vòng hoa khác. Trước linh cữu Dương Bạch Mai anh nghẹn ngào đọc bài thơ chia tay:”Hoa mai mừng sinh nhật. Hôm nay đành viếng anh….” Trở ra, Bửu Tiến mắt đẫm lệ: “Chúng nó trắng trợn quá! Tởm quá!”.
Khi xe tang chuyển bánh, tôi đi ngay sát linh cữu, lòng tràn ngập niềm thương tiếc bác Mai của tôi, mà tôi được biết từ những ngày Tháng Tám sôi nổi(11). Ði sau tôi là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, hai cái mặt nạ đóng cứng nét vĩ đại tự tạo. Quần chúng tràn ngập ngã tư Quán sứ, lặng lẽ tiễn chân ông, làm thành một dòng người kéo dài cả cây số(12)
Bửu Tiến những ngày sau đó trầm lặng hẳn. “Cái chết bi thảm của ông Mai là dịp cho tôi rà soát lại mình, anh nói. Mình có nên cứ hèn mãi để mà sống dai không?”.
Tôi với Bửu Tiến gần nhau nhiều trong những ngày chỉnh huấn chuẩn bị đi học nước ngoài, đầu năm 1954. Mọi người nằm trong danh sách cán bộ của Tuyên giáo Trung ương lựa chọn cho đi học vẫn phải trải qua sự sàng lọc. Bửu Tiến đã không qua được cửa ải thành phần – anh là người trong hoàng tộc.
Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân, Lê Ðăng Thực, Nguyễn Quang Tuấn, Trường Nhiên(13) và tôi vượt qua được cửa ải đó. Chúng tôi tiếc thay cho Bửu Tiến. Anh là một nhà biên kịch tài hoa, một diễn viên xuất sắc. Trong bữa sôi sắn đạm bạc thay cho tiệc chia tay tại Khu học xá (nay là khu tập thể sinh viên trường Ðại học Bách khoa) Bửu Tiến dặn tôi:”Cố mà học. Chúng mình có mắt mà sờ soạng như sẩm, hiểu biết thì bằng cái óc chim sẻ, không có học không làm nghệ thuật được đâu”. Anh là người rất hồn nhiên, rất cả tin. Năm 1956 anh cũng hăng hái theo Ðảng đánh các bạn đồng nghiệp trong vụ Nhân văn – Giai phẩm, nhưng vào những năm 60 anh sám hối: “Mình ngu như bò. Lẽ ra phải nghĩ bằng cái đầu của mình, thì lại tin rằng đã có sẵn những cái đầu sáng suốt của các vị ấy, chẳng cần phải suy nghĩ nữa. Còn hơn bò”. Tôi ra tù, Bửu Tiến lo lắng tìm mọi cách giúp đỡ tôi trong những ngày đầu tiên trở lại với cuộc sống bình thường.
Huỳnh Ngự không quên nhắc lại tội của tôi trong đám tang Dương Bạch Mai, nhưng với giọng độ lượng:
– Thằng Mai chết rồi, thôi để cho hắn mồ yên mả đẹp, không nói tới nữa. Nhưng tội khiêu khích của anh trong đám tang hắn thì không thể bỏ qua. Thằng chống Ðảng mà các anh làm như là anh hùng, rõ không biết dơ. Mà anh có biết hắn bị khai trừ khỏi Ðảng ngay cả khi hắn đã chết rồi không?
Tôi biết. Cả Hà Nội đều biết. Tôi còn nhớ ngày ấy đã có bao nhiêu lời dè bỉu dành cho hành động đê mạt của Ðảng cộng sản đối với một đảng viên đã khuất. Bọn Duẩn-Thọ khai trừ ông khi nắp áo quan chưa đóng lại. Vì sợ ông. Và vì căm thù ông.
Trong những ngày học tập Nghị quyết 9, tôi không rời mẩu băng đen được gắn trong đám tang Dương Bạch Mai trên ngực. Những tên cơ hội không bỏ lỡ dịp hỏi kháy:
– Anh để tang ai vậy?
– Một người thân. – tôi nhìn thẳng vào mặt họ.
Nhưng có những người đến nắm tay tôi, nói khẽ:
– Xin chia buồn cùng anh. Ðó là cái tang chung cho tất cả chúng ta.
Trong phòng vệ sinh, một người mà trước đó tôi không hề chú ý tới giả vờ đi tiểu để được đứng gần tôi.
– Tôi xấu hổ. – anh thì thầm – Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm cho tôi – tôi có bốn đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật…Nếu không tôi đã không xử sự như vậy.
Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “mác-xít – lê-nin-nít” chính cống.
Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, đầu ngẩng cao. Lời thú nhận của người bạn tự nhận là hèn nhát cho tôi thấy chúng tôi không đơn độc. Nhà cầm quyền có thể làm cho người ta sợ, nhưng không thể làm cho người ta vì sợ hãi mà yêu họ.
Không hề có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở nước ta, tôi nghĩ. Về thực chất nó là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa cái Ðẹp và cái Xấu, giữa ý muốn đề cao Con Người và mưu toan hạ thấp Con Người, đẩy con người xuống hàng trâu ngựa, hàng robot, hàng “cái đinh ốc không rỉ của cách mạng”.
Lớp học Nghị quyết 9 dành cho chúng tôi là lớp cho cán bộ ngoài Ðảng, phần lớn là trí thức trong các cơ quan văn hóa. Lác đác có một số đảng viên do bận công tác còn rớt lại từ những đợt học trước và một số nữa tuy đã học rồi cũng vẫn đến không hiểu để làm gì. Chúng tôi được phát mỗi người một cuốn nghị quyết có đánh số, được đọc tại chỗ, không được ghi chép, không được mang ra khỏi phòng.
Lưu Quý Kỳ, hướng dẫn viên, vui vẻ bắt tay tôi:
– Có định phát biểu gì không?
– Mọi sự đã quyết định rồi, còn gì mà phát biểu?- tôi nói.
– Còn thắc mắc thì cứ nói. – Lưu Quý Kỳ cười hề hề – Các anh ấy cho bảo lưu mà.
Bảo lưu tức là được phép giữ lại ý kiến mà không bị trừng phạt, là sự chiếu cố của Ðảng. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng dù sao mặc lòng sự xuất hiện danh từ bảo lưu cũng đã là một cái mới trong sinh hoạt xã hội dưới sự lãnh đạo của Ðảng, một dấu hiệu dân chủ. Có điều sau đó những người bảo lưu nếu không bị bắt thì cũng bị trù dập, trừ những ai vội vã xin rút lại ý kiến và lập công chuộc tội.
Tôi giơ tay xin phát biểu. Từ trên bục giảng Lưu Quý Kỳ hấp háy một con mắt nhìn xuống. Anh có cố tật nháy một mắt, nó thường gây ra hiểu nhầm, làm cho người ta nghĩ rằng anh tán thưởng hoặc khuyến khích.
– Tôi có thắc mắc, đề nghị hướng dẫn viên giải thích…
Lưu Quý Kỳ lại nháy mắt với tôi. Hình như anh còn mỉm cười. Nhưng hội trường im phăng phắc. Những nhà mác-xít chân chính vênh váo nhìn tôi.
Tôi nhũn nhặn trình bày rằng trong nghị quyết có ghi: ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít lê-nin-nít, coi như đó là một luận điểm sáng tạo của Ðảng. Ðiều này tôi không hiểu.
Lưu Quý Kỳ giang hai tay, nhún vai. Anh ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như thế. Tôi đề nghị được lên bục trình bày – ở đó có cái bảng đen, tôi nói tôi viết ra thì anh sẽ hiểu vì sao tôi thắc mắc.
Tôi viết lên bảng bằng chữ to câu định nghĩa của Lênin về đảng cộng sản: “Ðảng cộng sản là chính đảng của giai cấp vô sản”, và hỏi Lưu Quý Kỳ:
– Tôi nhớ câu này của Lênin có đúng không, anh Kỳ?
Lưu Quý Kỳ gật đầu. Anh lại nháy mắt liên hồi nhưng tôi cảm thấy mặt anh căng thẳng.
– Anh không phản đối Lênin trong định nghĩa này chứ?
Lưu Quý Kỳ ngúc ngắc cái đầu rồi đáp:
– Tất nhiên là không.
Tôi quay xuống lớp học:
– Có ai phản đối Lênin không?
Mọi người ngơ ngác. Phản đối Lênin? Có mà điên.
Tôi nói tiếp:
– Ðồng chí Lênin có nói: trong mọi cách chứng minh, chứng minh bằng toán học là con đường ngắn nhất. Tôi xin phép được dùng cách hoán vị trong toán học để các đồng chí thấy vì sao tôi thắc mắc. Như vậy, khi giai cấp vô sản không có, tức là nó không hiện hữu, tôi hoàn toàn có thể hoán vị nó bằng một ký hiệu toán học biểu thị sự không có là số không.
Khi con số không được thay vào cụm từ giai cấp vô sản thì định nghĩa của Lênin trở thành rất quái dị: Ðảng cộng sản là chính đảng của 0 (con số không)”.
Một tràng cười rộ lên. Nhưng nó cũng tắt ngay, rất nhanh. Lưu Quý Kỳ tái mặt. Những tên xét lại nháy mắt với tôi, rạng rỡ. Lưu Quý Kỳ cho nghỉ giải lao. Về sau có người cho tôi biết Lưu Quý Kỳ lật đật đi gọi dây nói cho ai đó, có lẽ cho Tố Hữu.
Hôm sau, Lưu Quý Kỳ gọi tôi ra một chỗ khuất:
– Cậu dại quá! Những cái như thế không nên nói ra chỗ đông người. Mình không kịp ngăn cậu lại…
Anh nói chân tình. Với tôi, Lưu Quý Kỳ bao giờ cũng chân tình, kể cả trong lúc gay gắt nhất của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối. Tại sao lại như thế, tôi không hiểu. Cảm tình cá nhân là cái không phải trong trường hợp nào cũng giải thích được.
– Thì anh bảo được bảo lưu mà. – tôi phân trần – Huống hồ tôi có dám nói ý kiến ngược nào đâu, tôi chỉ nêu một thắc mắc.
Anh nhìn tôi, một bên mắt lại nháy liên hồi.
– Thắc mắc chết người thế thà đừng thắc mắc.
Lưu Quý Kỳ là người không dễ hiểu. Những anh em tập kết kể trong miền Nam Lưu Quý Kỳ là đệ tử ruột của cả Ba Duẩn lẫn Sáu Búa. Khi Ba Duẩn lên án cải lương ủy mị, đã không có tác dụng động viên bộ đội chiến đấu thì chớ, còn làm họ yếu lòng, Lưu Quý Kỳ nhanh nhảu lập tức ra lệnh nghiêm cấm không cho hát cải lương nữa. Chuyện những nhà mác-xít nay cấm cái này mai cấm cái kia không phải là chuyện lạ. Các nhà lãnh đạo miền Bắc cấm tranh hội họa siêu thực, đa đa, lập thể, cấm nhạc trữ tình, nhạc buồn, gộp chung vào thành “nhạc vàng”, cấm viết văn có “biểu tượng hai mặt(14)” thì ở miền Nam các bậc thế thiên hành đạo cấm có một thứ nhạc cải lương thôi còn ít. Khốn nỗi, ai cũng biết nhân dân Nam bộ yêu mến cải lương như thế nào, và lệnh cấm cải lương gây ra một phản tác dụng dữ dội. Nhiều người bỏ kháng chiến trở về thành chỉ vì ở vùng kháng chiến không có cải lương. Người ta còn kể khi nhận được các tài liệu lý luận văn nghệ nào từ miền Bắc gửi vào Lưu Quý Kỳ đọc xong, ghi chép xong là đốt ngay, không cho ai được đọc nữa. Thế là anh độc quyền những lý luận văn nghệ xã hội chủ nghĩa để dạy dỗ các văn nghệ sĩ không bao giờ được tiếp cận những tài liệu nọ. Ai cũng nghĩ rằng với quan điểm mao-ít cực đoan, Lưu Quý Kỳ phải trù tôi lắm, phải ghét tôi lắm, nhưng hoàn toàn không phải thế, trước sau Lưu Quý Kỳ vẫn dành cho tôi những tình cảm tốt.
Chính Lưu Quý Kỳ có lần rủ tôi ra một tờ báo châm biếm kiểu như tờ Crocodile (Cá Sấu) của Liên Xô:
– Mình đã trình bày dự kiến với các cụ rồi. Về cơ bản các cụ tán thành, nhưng chỉ cho phép đánh tới cấp tỉnh thôi, không được phép đánh lung tung. Trung ương thì chừa ra, các cụ bảo thế, đánh cả Trung ương có mà loạn. Có một tờ báo như vậy ở nước mình thì những tên cơ hội, những tên lạm quyền mới sợ, không dám mặc sức tung hoành. Mình nhắm cậu làm thư ký tòa soạn…
Giám đốc Sở Báo chí Trần Minh Tước (nhà báo Xích Ðiểu) tán thành sáng kiến của Lưu Quý Kỳ, nhưng không mặn mà cho lắm. Làm một tờ báo châm biếm có nghĩa là đặt mình vào một hiểm họa – bất cứ kẻ có tật nào cũng sẵn sàng giật mình. Mà những kẻ có tật thì lại quá sẵn. Chẳng may tờ báo có câu nào nhằm trúng, hoặc không nhằm mà trúng, một vị lãnh đạo thì chết. Bên cạnh Trần Minh Tước khôn ngoan, tôi thấy Lưu Quý Kỳ thật thà và ngây thơ trong chính trị (hiểu theo nghĩa mưu mô). Tôi không nhận lời. Một tờ báo như thế ra đời là hay lắm, sẽ được hoan nghênh lắm. Nhưng tôi không nhận vì tôi không chịu được sự nửa vời.
Tôi cảm ơn Lưu Quý Kỳ đã nhắc nhở tôi về cái dại của tôi. Tôi nói tôi lấy làm tiếc đã nêu ra một thắc mắc dở hơi, chẳng để làm gì, chẳng có ích cho ai. Nhưng đã trót rồi, có muốn cũng chẳng vớt vát lại được. Lưu Quý Kỳ an ủi tôi, anh nói anh sẽ tìm cách ỉm nó đi, hoặc trình bày nó theo cách khác, sao cho đỡ gai góc.
Trong cách nói của Lưu Quý Kỳ tôi hiểu anh muốn cho tôi biết tôi phải cẩn thận, phải biết giữ mồm giữ miệng. Bắt bẻ Trung ương là tội khi quân, tội tầy đình, và tôi sẽ khốn đốn vì nó.
(1) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, họp vào 11.12.1963.
(2) Vào thời gian đó thông thường nói chống chủ nghĩa xét lại được hiểu là chống Liên Xô (theo cách nói Trung Quốc), chống chủ nghĩa giáo điều được hiểu là chống Trung Quốc (theo cách nói Liên Xô).
(3) Chỉ bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrusov.
(4) Dương Bạch Mai (1904-1964), nhà cách mạng nổi tiếng của Nam kỳ. Thời thực dân Pháp cai trị Ðông Dương Nam kỳ được đặt dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp, Trung kỳ được mẫu quốc cho tự trị, Bắc kỳ thuộc chế độ bảo hộ (protectorat). Những điều kiện của cuộc vận động cách mạng trong từng kỳ có khác nhau.
(5) Cả ba ông này đều bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945. Nói chung, chủ nghĩa Trotsky (theo tên của Lev Trotsky, tên thật là Lev Davidovich Bronstein, một nhà mác-xít, bạn chiến đấu của Lênin) không có ảnh hưởng trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Trên thực tế không ai hiểu chủ nghĩa Trotsky là gì, kể cả những người cộng sản. Họ chống chủ nghĩa Trotsky hùa theo Quốc tế 3 chứ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Stalin với chủ nghĩa Trotsky nằm bên ngoài và quá xa mục tiêu giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
(6) Quốc tế ca, bài ca của phong trào cộng sản quốc tế, mở đầu bằng câu:”Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian!”
(7) Trong Cách mạng Tháng Tám ông Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu phong trào Thanh niên Tiền phong ở Nam bộ. Sau khi ra Bắc họp Quốc Hội nước Việt Nam thống nhất năm 1946 ông ở lại làm công tác y tế. Ông giữ chức bộ trưởng bộ Y tế trong một thời gian dài. Một bộ trưởng giản dị, làm việc hết mình, được phong Anh hùng lao động. Người ta thường gặp ông trong các quán phở bình dân vào những giờ khuya, một mình, không có bảo vệ, lái xe (ông tự lái), cần vụ…như các bộ trưởng khác.
(8) Món hổ lốn, gồm nhiều thứ linh tinh, không theo một kiểu cách nào.
(9) Dương Tường, nhà thơ cách tân, bạn thơ của Trần Dần. Trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” anh bị nghi ngờ có liên quan với những người bị bắt, nhưng người ta chỉ thẩm vấn anh vài lần rồi tha.
(10) (1918-1992) Nhà viết kịch, nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng, bắt đầu từ Ðoàn kịch kháng chiến Liên khu 4. Trong thời kỳ có vụ Nhân văn – Giai phẩm anh đứng về phía chính quyền phê phán các văn nghệ sĩ bị dính vào vụ này, sau đó anh tỉnh ngộ, thẳng thắn xin lỗi anh em.
(11) Ngay sau cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám dẫn tới sự thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một phái đoàn các nhà lãnh đạo Nam Bộ đã ra Hà Nội. Hầu hết những người trong phái đoàn đều ở nhà tôi, ở ngã tư Trần Hưng Ðạo (Gambetta) và Phan Chu Trinh (Rialand).trong đó có các ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Công Tường, Cao Hồng Lãnh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tây…Năm 1946 gia đình tôi
(12) Trong một buổi giỗ ông Dương Bạch Mai tại Sài Gòn, thiếu tướng Tô Ký nói:”Thành phố này phải có một con đường mang tên Dương Bạch Mai. Trong khi người ta lấy tên những kẻ không xứng đáng với một ngọn cỏ để đặt tên cho một phố thì người ta lại lờ đi những con người đã kéo theo mình cả khối quần chúng đông đảo đấu tranh cho độc lập dân tộc”. Những người có mặt hôm ấy hiểu ông muốn nói kẻ không xứng đáng với ngọn cỏ là Nguyễn Chí Thanh, mà tên được đặt cho một con đường lớn tại thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Những văn nghệ sĩ đầu tiên được cử đi học nước ngoài. Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Trường Nhiên học nghệ thuật sân khấu (Trung Quốc), Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân học hội họa (Liên Xô). Ngô Y Linh về sau trở thành một nghệ sĩ lớn của ngành sân khấu Việt Nam với tên hiệu Nguyễn Vũ.
(14) Cách nói bóng gió, không rõ ràng.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:01:06 GMT -6
Chương 16
Theo dõi đường đi của một cuốn sách xem nó hình thành như thế nào từ những dòng đầu tiên đôi khi cũng thú vị chẳng kém gì đọc một cuốn sách.
Tôi bắt đầu viết cuốn sách này từ mùa hè năm 1985, tại Sài Gòn.
Sau khi được ra tù tôi háo hức muốn vào ngay thành phố mà địa danh của nó lôi cuốn tôi từ tuổi thơ bởi những câu chuyện của người lớn, bởi cuốn Cô Gái Bình Xuyên của Hồ Dzếnh, nhưng vào năm 1976, một năm sau khi đất nước thống nhất dân hai miền vẫn chưa được tự do đi lại. Nhiều người miền Bắc muốn vào Nam phải mua giấy phép, thường là giấy giả, để đi. Tôi không thể đi theo cách ấy được. Người bình thường có bị bắt vì dùng giấy tờ giả thì cũng không đến nỗi bị giam lâu, chứ tôi mà rơi vào tay nhà cầm quyền với tội ấy thì rầy rà lắm, tôi có thể bị bắt lại. Những người tù được tha trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” vẫn bị quản thúc theo lệnh miệng của Lê Ðức Thọ, của Trần Quốc Hoàn và của những cấp trên nào khác không biết. Công an địa phương nói, không giải thích, với ngón tay trỏ chỉ lên trời: “Trên lệnh như vậy! Các anh có muốn đi đâu phải xin phép”.
Nhờ sự giúp đỡ của anh Mai Lộc(1), trước công tác cùng tôi ở Việt Bắc, tôi được Cục Ðiện ảnh cấp cho một công lệnh đi vào Nam công tác. Lúc ấy đã là tháng 12 năm 1979.
Ðó là chuyến đi nhớ đời, rất vất vả từ việc xin cấp Thông hành thay cho Chứng minh nhân dân mà tôi chưa có, tới việc mua vé máy bay. Vào tới tận Chợ Bến Thành rồi tôi mới tin là mình không bị cản lại.
Cuộc sống ở Sài Gòn khác xa cuộc sống ở miền Bắc, mặc dầu Sài Gòn 1979 đã không còn giống thời nó là “hòn ngọc minh châu trong ỏ Ðông”. Chế độ tem phiếu đã được áp dụng. Bữa cơm của dân chúng đã phải độn bo bo, chẳng khác gì ở Hà Nội. Nhưng Sài Gòn vẫn sầm uất, vẫn nhộn nhịp, vẫn cố gắng để có cuộc sống riêng, chứ không sống theo chỉ thị. Thành thử nếu gọi cảnh Sài Gòn 1979 là tiêu điều thì không biết phải gọi cảnh Hà Nội bằng gì cho đúng.
Người Hà Nội tiếp tục vào Sài Gòn kìn kìn khuân ra tivi, tủ lạnh và trăm thứ bà dằn khác. Những người lính chiến thắng leo lên xe tải trở về miền Bắc với cái ba lô lép kẹp, bên ngoài lủng lẳng một con búp bê xấu như ma lem. Cán bộ Sài Gòn nhận xét rằng thị trưởng Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt(2), rất muốn đưa Sài Gòn lên, nhưng Trung ương kìm lại, không muốn Sài Gòn vượt Hà Nội xa quá. Dù vậy, chính sách Nhà nước khi vào tới miền Nam cũng bớt khắc nghiệt và Sài Gòn vẫn cứ là một thành phố dễ chịu.
Vì lẽ đó năm 1983, được bạn bè ở Sài Gòn khuyến khích tôi chuyển cả gia đình vào đây, nơi chính quyền địa phương đối xử với dân chúng ít khe khắt hơn so với Hà Nội gần mặt trời. Tôi biết đưa gia đình vào Sài Gòn là liều, vì chúng tôi không có và không thể có hộ khẩu. Nhiều người can tôi đừng phiêu lưu, đi như thế tôi tự đặt mình vào thế kẹt, người ta bắt nạt thế nào cũng phải chịu. Nhưng tôi đã quyết đi là đi.
May cho tôi, do ý thức được thân phận mình mà thận trọng lời ăn tiếng nói, cho nên không xảy ra chuyện gì. Trong các văn nghệ sĩ Sài Gòn cũ tôi chỉ gặp gỡ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Vũ Hạnh, nhà báo Nguyễn Nguyên, mấy anh đạo diễn sống dưới chế độ cũ nay đang làm cho Xưởng phim Giải phóng: Lê Hoàng Hoa, Bùi Sơn Duân, Lê Trác, Ngô Anh Giang…Họ là những người có học, có tay nghề, nhưng lúng túng không biết dùng tài năng của mình thế nào trong hệ thống khái niệm hoàn toàn khác.
Mấy năm nay nghe nói chuyện hộ khẩu không còn khe khắt như trước, chỉ trong trường hợp đặc biệt, khi cần áp dụng với ai đó người ta mới lại giở nó ra, coi như nó vẫn tồn tại. Trong những năm 80 hộ khẩu là vấn đề rất gay go. Nghĩ lại cái thân không hộ khẩu hồi ấy phải chịu lụy thế nào mà ớn.
Nhân tiện cũng phải nói rằng cách quản lý dân bằng hộ khẩu không phải sáng kiến của những người phát-xít và những người cộng sản. Nó do Thương quân Vệ Ưởng, tướng quốc thời Tần Hiếu-công nghĩ ra(3). Tần Hiếu-công mất, thái tử lên ngôi, sai người bắt Thương quân Vệ Ưởng. Thương quân bỏ trốn. Tới một thành nọ, muốn vào nhà trọ, người nhà trọ không biết đó là Thương quân, nói: “Theo phép của Thương quân, cho người không có giấy chứng nhận (giấy chứng minh) trú ngụ thì bị liên lụy”. Thương quân thở dài mà rằng: “Than ôi! Cái tệ hại của kẻ làm pháp lệnh đến như thế ư! (Sử ký, Tư Mã Thiên). Có sách viết Thương quân bị bắt, đem xử trảm. Dân chúng căm giận Thương quân đến nỗi hồi trống hành quyết chưa dứt thì trên pháp trường chỉ còn lại một vũng máu – bách tính mỗi người một dao ào ào xông vào xẻo thịt ông mang về ăn cho hả giận.
Theo “luật” hộ khẩu của Việt Nam (mà ở mọi nước xã hội chủ nghĩa khác cũng thế), mỗi người dân phải đăng ký cư trú tại một địa phương. Tên anh ta được ghi vào một cuốn sổ gọi là sổ hộ khẩu. Con anh ta ra đời sẽ được ghi vào đó, gọi là nhập hộ khẩu. Nhà có người chết phải khai ngay với chính quyền để xin cắt hộ khẩu. Muốn thay đổi chỗ ở phải xin cắt quyền cư trú ở nơi cũ rồi xin quyền cư trú ở nơi mới, gọi là chuyển hộ khẩu. Xin đi, cắt hộ khẩu, thì dễ. Xin đến, gọi là nhập hộ khẩu, mới khó, nhất là nhập vào những thành phố lớn. Cán bộ vào ở hẳn Sài Gòn công tác dăm bảy năm rồi chưa được nhập hộ khẩu là chuyện thường. Vợ tôi là một trường hợp như thế. Làm việc tại Sài Gòn từ 1983 cho tới 1991, về hưu rồi vẫn chưa được nhập hộ khẩu. Mà đây không phải rắc rối do ngành công an. Còn một cơ quan khó hiểu nữa, chắc hẳn bắt chước mô hình Trung Quốc, tên là Ban tổ chức chính quyền. Nó cũng làm cái việc duyệt hộ khẩu cho cán bộ.
May mắn làm sao, ngay trong lần đầu tới Sài Gòn tôi lại làm quen được với một anh công an trẻ có máu văn chương và hơn thế, có quan hệ thân tình với các vị lãnh đạo Công an thành phố. Biết hoàn cảnh tôi khó khăn, anh bạn nhường cho tôi một căn hộ hai phòng. Anh có vài chỗ như thế trong thành phố.
Ðó là chuyện sau. Hồi mới đưa vợ con vào tôi ở nhờ lầu hai nhà biên kịch Thái Hồng tại số nhà 65 đường Nghĩa Thục, quận 5.
Thái Hồng trước cùng làm báo ảnh Việt Nam với tôi. Chúng tôi có một tình bạn kỳ cục, cãi nhau một trận rất dữ rồi mới thân nhau. Là cán bộ miền Nam tập kết, đến năm 1965 Thái Hồng được chọn đi B. Khi cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối nổ ra, Thái Hồng cũng có ý kiến ngược như tôi, cũng được chụp một cái mũ xét lại. May cho anh, nó không phải loại mũ lớn, cho nên việc xét cho đi B tuy có chật vật, rồi cũng qua. Hồi ấy phàm ai là cán bộ tập kết đều nhao lên đòi về Nam. Không khí ngột ngạt và cuộc sống khó khăn ở miền Bắc làm người ta ngấy đến tận cổ. Trong hoàn cảnh chiến trường, chuyện xét đi xét lại không phải chuyện quan trọng, nhưng anh cũng vẫn cảm thấy bị chú ý. Ban tổ chức Trung ương đã dặn, người ta phải cảnh giác với anh, (bọn xét lại là dễ theo địch lắm). Nhờ được “bảo vệ”, không có dịp cọ xát với địch ở cự ly gần để có thể bị bắt, Thái Hồng về tới Sài Gòn hoàn toàn lành lặn, không một vết xây xát.
Tin tôi bị bắt đến với Thái Hồng khi anh đang ở trong sình lầy Ðồng Tháp Mười. Anh hiểu tôi, không tin tôi làm điều gì quấy, anh cũng hiểu đám lãnh đạo Trung ương, anh xót xa cho tôi. Chính anh cũng sợ sẽ bị một viên đạn từ phía sau lưng. May cho anh, chuyện đó đã không xảy ra. Gặp lại nhau giữa Sài Gòn giải phóng chúng tôi mừng hết lớn, như người sống sót qua trận dịch.
Nơi ở mới của tôi nằm trên lầu 6 một cao ốc gần chợ Bến Thành có tên là cư xá Nguyễn Thái Bình. Cư xá đầy ắp dân, ồn ào như tổ ong bò vẽ. Nó vốn là một khách sạn vừa mới xây xong chưa kịp khai trương thì chủ đã bỏ chạy ra nước ngoài, tháng 4 năm 1975.
Anh công an nhà báo giới thiệu tôi với anh công an hộ khẩu, còn gọi là công an khu vực, một người Nghệ An hiền lành, vui tính, dáng thấp tè, tròn như hạt mít. Dưới quyền cai quản của anh công an này là cái cư xá nói trên. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi người chút ít để nhận quà nhiều nhiều. Những người ở chui hồ hởi biếu xén anh những món quà, theo ngôn ngữ pháp lý Việt Nam là trên mức tình cảm. Vợ tôi, với tư cách bộ trưởng Bộ Ngoại giao gia đình, rất biết cách thu xếp để giữ một quan hệ tốt đẹp với anh công an khu vực, nhờ đó mà anh quên đi cho chúng tôi sự ở chui. Vả lại, chẳng riêng gia đình tôi, trong cư xá còn khối người ở chui khác.
Lòng tốt có cái giá của nó. Nhờ lòng biết ơn của dân chúng ở chui chẳng mấy chốc anh công an khu vực đã làm chủ một ngôi nhà nho nhỏ giữa trung tâm thành phố. Anh đưa được cả nhà vào Sài Gòn, mở một tiệm chơi bi-da cho cả người lớn lẫn trẻ con, thu nhập nghe nói cũng khá.
Ðể tỏ lòng cảm ơn anh công an nhà báo đã vì duyên nợ văn chương mà cho tôi một chỗ trú ngụ, tôi trần lực giúp anh viết vài kịch bản điện ảnh, mấy truyện ngắn hình sự, tất cả đều tầm phào trừ một tiểu thuyết về tên tướng cướp nổi tiếng một thời được xuất bản với số lượng lớn và bán chạy. Anh được vào Hội Nhà văn, được ông bộ trưởng mời cơm và vỗ vai.
Thế là cuối cùng trong cuộc sống tha hương tôi đã có điều kiện tạo ra một góc riêng cho cái gia đình tội nghiệp của tôi. Vợ tôi mừng chảy nước mắt. Lầu 6 tuy cao thật, bù lại nó rất mát. Tôi chui vào phòng trong, đóng cửa lại, cặm cụi mổ cò trên cái máy chữ Olympia mới tinh mà vợ tôi mua cho sau nhiều ngày chống cự kịch liệt với nỗi tiếc rẻ những đồng tiền đầu tiên dành dụm được.
Vợ tôi rụt rè khuyến khích tôi thực hiện ý định. Rụt rè vì vợ tôi vẫn chưa hết sợ tôi sẽ bị bắt đi lần nữa. Bài học mà chúng tôi thu được qua vụ bắt bớ năm 1967 là ở Việt Nam con người không có quyền gì hết.
Tháng 10 năm 1981 Hoàng Minh Chính bị các đồng chí của anh bắt lần thứ hai. Anh bị bắt vì cả gan đòi “khởi tố công dân Lê Ðức Thọ phạm tội lạm dụng chức quyền hãm hại người vô tội, chà đạp những quyền tự do dân chủ của nhân dân”.
Theo lệnh của Lê Ðức Thọ, ỷy ban nhân dân tỉnh Hải Hưng ra quyết định số 272 tập trung cải tạo đối với Hoàng Minh Chính. Quyết định này ra sau khi Hoàng Minh Chính đã bị bắt rồi, với ngày tháng đặt ngược.
Ai cũng biết Hoàng Minh Chính mang hộ khẩu Hà Nội, như vậy người ký quyết định phải là chủ tịch Hà Nội mới đúng. Lê Ðức Thọ lo bác sĩ Trần Duy Hưng cứng đầu không chịu ký một lệnh bắt lăng nhăng chăng? Hay Thọ nghĩ ở Việt Nam không có việc gì không thể làm được? Thì đấy, Thọ có ở trong quân ngũ ngày nào đâu, cứ khơi khơi ứng cử và khơi khơi trúng cử đại biểu đảng trong quân đội mỗi lần Ðại hội Ðảng đấy thôi.
Thanh gươm Damocles vẫn treo lơ lửng trên đầu những tên tù”xử lý nội bộ”.
Tôi biết con mắt đa nghi của nhà cầm quyền chưa rời khỏi tôi chừng nào tôi chưa làm cho họ tin được rằng tôi đã sợ, tôi xa lánh chính trị. Họ đã được thấy tôi đúng như họ muốn. Tôi chỉ đến với những tổ hợp sản xuất, những nhà buôn, tôi lao vào kiếm tiền. Chế tạo cái mặt nạ không khó. Chỉ cần phải giữ mình, không để cho màn kịch thành sự thật.
Cha tôi cũng được phép vào chơi với con cháu trong Nam. Trước chỉ có mình mẹ tôi được phép thôi. Xin nhắc lại thêm một lần rằng lệnh cấm tự do đi lại đối với những người dính dáng tới vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” chỉ là lệnh miệng, chúng tôi chỉ được nghe phổ biến chứ không được đọc. Có nghĩa là bây giờ có nói ra chuyện này, nhà cầm quyền vẫn có thể chối bay chối biến, có khi còn vu cho tôi dựng chuyện cũng nên. Anh Trần Ðĩnh, biên tập viên báo Nhân dân, tuy không bị bắt, nhưng bị buộc về hưu non vì có quan điểm xét lại, thậm chí không được phép bay vào Sài Gòn để đưa tang cha.
Chúng tôi chỉ bắt đầu thấy dễ thở khi ở Liên Xô dâng lên làn sóng glasnost (công khai) cùng với chủ trương perestroika (xây dựng lại) do tổng bí thư Mikhail Gorbachov(4) khởi xướng. Nó trùng hợp với thời kỳ hậu Lê Duẩn, thời kỳ cuộc tranh chấp ngôi vị tổng bí thư giữa ủy viên Bộ Chính trị Lê Ðức Thọ và quyền tổng bí thư Trường Chinh diễn ra quyết liệt trước Ðại hội VI (12/1986).
Lê Ðức Thọ, người thiết kế kiêm đạo diễn chính của Ðại hội VI, hay Ðại Hội của Ông Sáu, như người ta giễu cợt, tin tưởng ở chiến thắng lắm. Lúc có mặt ở tỉnh này, lúc đi thăm huyện kia, con người kém mười lăm phút đầy tổng bí thư ân cần thăm hỏi đồng bào, đồng chí, quan tâm tới mọi mặt đời sống của họ, không có gì giống cái ông Sáu Búa đầu ngành chuyên chính vô sản cả.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Ðại hội đã thấp thoáng những dấu hiệu báo trước một sự cứng đầu đối với mưu toan của Thọ. Những cuộc bầu đại biểu đi dự Ðại hội diễn ra trong không khí căng thẳng.
Sự kiện lớn nhất trong thời kỳ này là Ðại hội Ðảng toàn quân (9.1986), trong đó đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại tướng Lê Trọng Tấn được số phiếu cao nhất, còn người nắm thực quyền trong quân đội là đại tướng Văn Tiến Dũng lại không đủ số phiếu để trở thành đại biểu chính thức trong đoàn đại biểu đông tới 72 người. Các tướng khác mà ai cũng biết thuộc cánh Duẩn-Thọ như Chu Huy Mân, Ðặng Vũ Hiệp, Lê Ngọc Hiền cũng chung số phận.
Thất bại của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Thọ đã hết thời. Vũ khí vô địch trước đây của Thọ là Ban tổ chức Trung ương không còn khống chế được Ðảng, kể cả với quỷ kế “kiểm tra tư cách đại biểu”, để loại ra ngoài tất cả những ai ngang bướng, để chỉ cho người cùng phe lọt vào Ðại hội.
Giận dữ và hổ thẹn thấy mưu đồ chiếm ngôi vị cao nhất không thành, theo cách không ăn thì đạp đổ, Lê Ðức Thọ nằng nặc đòi quyền tổng bí thư Trường Chinh phải từ bỏ ý định tranh cử, viện cớ cả hai đã cao tuổi, không nên tham gia triều chính nữa. Nếu Trường Chinh ứng cử, thất bại của Thọ sẽ không chỉ đáng buồn mà là bi kịch. Nó sẽ là mối nhục không sao gột sạch của con người uy phong lẫm lẫm một thời.
Tuân lệnh Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng năm lần bẩy lượt đến tận nhà Trường Chinh, có hôm từ tinh mơ, thuyết phục ông thôi không tranh cử nữa. “Nếu anh cứ tranh cử thì sẽ nổ ra xung đột nội bộ, Ðảng ta tan nát mất”, nước mắt nước mũi giàn giụa Phạm Văn Ðồng vật nài. Cuối cùng Trường Chinh đồng ý. Ông hiểu câu nói của Phạm Văn Ðồng là lời nhắn gửi nghiêm túc của Lê Ðức Thọ. Không phải vì lo Ðảng tan nát mà Trường Chinh đồng ý, ông lo nếu không nghe lời Thọ thì chính ông sẽ tan nát. Con người như Lê Ðức Thọ sẵn sàng làm tất cả khi cay cú.
Ðại hội VI kết thúc bằng sự lên ngôi của một nhân vật không mấy tiếng tăm là Nguyễn Văn Linh, bí danh Mười Cúc. Câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về hai anh nông dân và con sò được thiên hạ nhắc tới nhiều trong thời kỳ này.
Cả Lê Ðức Thọ lẫn Trường Chinh hậm hực lui vào hậu trường, với chức danh cố vấn. Vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới Phạm Văn Ðồng cũng rút khỏi chính trường, nhưng không hậm hực. Ông là người biết điều, ông không bao giờ dám tơ tưởng vị trí cây vĩ cầm thứ nhất trong dàn nhạc.
Phạm Văn Ðồng vốn lành, người ta đưa ông vào chính trường thì ông vào, người ta đưa ông ra thì ông ra. Trong cương vị thủ tướng, ông làm theo lời chỉ bảo của Bộ Chính trị, dù đứng đầu Bộ Chính trị là Trường Chinh hay Lê Duẩn, rồi phân bua với mọi người: “Tôi là thủ tướng lâu nhất thế giới, cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng có quyền gì hết. Bộ trưởng hay thứ trưởng có phải do tôi chọn đâu, họ làm không tốt thì không phải lỗi ở tôi”. Ông Ung Văn Khiêm(5) bình luận: “Anh chàng nầy có một cái tội, mà tội rất lớn: đó là biết mình không có quyền làm bất cứ cái chi không có phép Ba Duẩn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức.” Ông Trần Văn Giàu(6) hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế”.
Tôi được nghe Phạm Văn Ðồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người hiểu nhiều biết rộng, nhưng tôi ít thấy ai nói chuyện vô duyên như ông. Trong những diễn văn lòng thòng nhai đi nhai lại những cụm từ nhàu nát bao giờ cũng rộ lên những tràng cười tự hưởng ứng không đúng lúc và đúng chỗ, những tràng pháo tay tự vỗ, kêu gọi mọi người vỗ theo. Sau khi trở thành cố vấn, Phạm Văn Ðồng vẫn còn mắc bệnh thích đăng đàn diễn thuyết, với những “huấn thị” chẳng cái gì ăn nhập với cái gì. Sau khi nghe một bài “huấn thị” như thế trong cuộc họp trí thức thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1986 hay 1987, Mai Lộc vốn rất sùng kính Phạm Văn Ðồng buồn rầu nói với tôi “Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không ai mời, ông ta cứ đòi đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ nói”.
Sau những năm ở tù, tôi càng chán ngán những nhà lãnh đạo đất nước. Tôi cho rằng họ không còn khả năng hiểu nhân dân muốn gì.
Tôi cũng không hiểu Hoàng Minh Chính. Một năm trước Ðại hội V (1982), anh vẫn còn kiên trì thuyết phục tôi viết kiến nghị gửi Ðại hội: “Bây giờ là lúc cậu cần đem sức mạnh của ngòi bút vào việc đấu tranh cho dân chủ.Viết thư cho Ðại hội, đánh máy thành nhiều bản gửi tới tận từng khối đại biểu, đánh thức họ, đòi họ phải đứng lên tranh đấu”. Tôi không nghe anh: “Những gì anh và tôi muốn nói đồng bào biết cả rồi, có điều trong hoàn cảnh hiện nay người ta hoặc sợ không dám nói, hoặc chán không muốn nói mà thôi. Ðánh đuốc lên giữa trưa nắng, anh muốn soi giúp người ta cái gì?”
Từ khi ra tù Hoàng Minh Chính liên tục viết hết kiến nghị này đến kiến nghị khác đòi Ðảng xem xét lại vụ án. Ban lãnh đạo Ðảng căm ghét anh, quên mất rằng bằng những kiến nghị ấy Hoàng Minh Chính thể hiện một niềm tin lỗi thời ở Ðảng. Ðể anh khỏi quấy rầy, Lê Ðức Thọ ký một nhát, cho Hoàng Minh Chính đi nằm nhà đá.
Ý định viết một cuốn sách về vụ án và những năm tháng trong tù được tôi ấp ủ từ lâu – ngay từ những ngày đầu tiên trong xà lim Hỏa Lò. Bản thân vụ án, theo tôi nhận định lúc ấy, và càng về sau càng tin chắc mình đúng, là một mưu mô bẩn thỉu của Lê Ðức Thọ. Thời gian cho tôi sự bình tĩnh, cho tôi khoảng cách cần thiết để quan sát, để tầm nhìn được bao quát hơn. Trong những ngày khốn khó của đời mình tôi cố gắng bình thản tách khỏi cái tôi nạn nhân để quan sát môi trường trong đó tôi bị đặt vào, suy ngẫm về những sự kiện. Không ai có thể nói thay chúng tôi về những năm đen tối. Mà cần phải nói về chúng.
Tôi phải bắt đầu cuốn sách kẻo quá muộn. Trí nhớ có thể phản bội nếu không đánh động nó, bắt nó phải tỉnh thức. Vả lại sự theo dõi chúng tôi đã lỏng lẻo hơn trước. Cái sự tôi ngồi nhà cặm cụi dịch thuê, viết thuê không còn gây ra chú ý. Thậm chí người ta còn cho phép tôi viết với điều kiện ký tên khác.
Nhớ lại cuối thập niên 70, khi tôi vừa được trả tự do, đi đâu một bước cũng phải thận trọng, nói một câu là phải ngó trước ngó sau và không chỉ uốn lưỡi bảy lần – không khí nghi kỵ, mối đe dọa thường trực đè nặng lên tôi. Mi Lan, con gái đầu của tôi, mặc dầu đỗ thủ khoa trong kỳ thi tốt nghiệp cũng không được đi nước ngoài tu nghiệp theo chính sách, là chuyện đương nhiên đối với các sinh viên khác, chỉ vì tội cha có tiền án tiền sự.
Cái tốt nhất mà Ðảng làm được trong giai đoạn hậu Duẩn – Thọ là thả Hoàng Minh Chính ra khỏi nhà tù. Nhưng đó đã là thời kỳ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nắm quyền. Nếu không có sự quyết đoán của ông thì không biết đến bao giờ các vị thực hành chuyên chính vô sản mới chịu thả Hoàng Minh Chính. Vào thời kỳ đó Nguyễn Văn Linh nổi bật như một ngôi sao sáng. Người ta tin rằng sau khi bị Lê Ðức Thọ gạt khỏi Bộ Chính trị năm 1982, ông thấm đòn, và trên cương vị tổng bí thư, ông sẽ đổi mới thật.
Nguyễn Văn Linh, theo cha tôi nhận xét, là người hiền lành, chân thật. Ông cũng đã trải qua nhà tù đế quốc, có tinh thần cách mạng kiên định, là người thực hiện chứ không phải người sáng tạo.
Dưới thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm dám nói lên sự thật, tuy không nhiều. Tiếc rằng sự thèm khát được nói lên sự thật bị đè nén lâu ngày đã át đi nỗ lực tìm tòi bút pháp mới, phong cách mới. Những phóng sự, bút ký đại loại như Cái Ðêm Hôm ấy Ðêm Gì của Phùng Gia Lộc vừa ra đời lập tức được ca ngợi như một tác phẩm văn học có giá trị trong thời đổi mới.
Chính là nhờ có Nguyễn Văn Linh mà các văn nghệ sĩ bị buộc tội oan trong vụ Nhân văn – Giai phẩm mới được phép xuất hiện trở lại với người đọc. Không có Nguyễn Văn Linh thì Dương Thu Hương(7) không thể xuất bản được Bên Kia Bờ ọo Vọng, Thiên Ðường Mù, cho dù sau đó chị có bị trấn áp, bị bỏ tù rồi được thả ra, được xin lỗi, sau này còn được cầm hộ chiếu đi Paris. Vào thời Duẩn – Thọ chắc chắn Dương Thu Hương còn nằm xà lim dài dài trước khi người đọc được cầm trong tay những cuốn sách của chị.
Tiếc thay, sau khi phấn khởi thổi bùng lên làn gió đổi mới, chính Nguyễn Văn Linh lại bị cảm lạnh bởi chính làn gió ấy, ông ân hận đã kêu gọi văn nghệ sĩ tự cởi trói, dũng cảm nói lên sự thật. Sau sự cởi trói do ông khởi xướng đã ra đời hàng loạt bài báo, cuốn sách nói về những nỗi bất công kéo dài năm này qua năm khác, tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Ðảng, mặc dầu người viết không nói thẳng ra.
Ði vào lối mòn của các đời tổng bí thư trước, Nguyễn Văn Linh đồng nhất mình với Ðảng, cho nên khi Ðảng bị người ta vạch xấu là ông chạnh lòng. Ðã thế ông lại còn bị các đồng chí bảo thủ sợ hãi trước sự sụp đổ của Ðông Âu cộng sản kiên quyết chống lại đường lối đổi mới của ông. Họ trách móc ông, họ phê phán ông hữu khuynh. Nguyễn Văn Linh đùng đùng quyết định: thôi, không đổi mới nữa.
Dù sao mặc lòng, so với thời kỳ Duẩn-Thọ, hoặc thời kỳ Trường Chinh quyền tổng bí thư, mức độ tự do tinh thần mà nhân dân được hưởng trong thời đổi mới có thể nói một trời một vực. Quần chúng thất vọng, nhưng họ sẽ ghi nhớ những gì Nguyễn Văn Linh đã làm cho họ trong cơn bốc đồng. Chính trong cơn bốc đồng ông đã trở thành người của dân chúng, một hạnh phúc không dễ gì ông được hưởng.
Chúng tôi được hưởng status quo(8) trong đời sống chính trị, nghĩa là chúng tôi có tội, chúng tôi được Ðảng khoan hồng cho được ở nhà với vợ con, nhưng chúng tôi không được làm gì hết.
Một số ít người trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” thậm chí còn được trên giải quyết cho hưởng lương hưu trí. Bằng cách bố thí cho một chút quyền lợi vật chất, ban lãnhđạo mới muốn chấm dứt những khiếu nại liên tục nhiều năm làm họ nhức đầu. Trước khi tôi đi Nga, lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm không bước chân ra nước ngoài, một anh cán bộ Ban tổ chức Trung ương đã vào Sài Gòn gặp bác sĩ Phan Thế Vấn và tôi để phổ biến cho chúng tôi quyết định của Ðảng. Anh Vấn thay mặt hai chúng tôi nói: “Quỹ lương hưu là trích từ lương của những người làm việc mà thành, mà chúng tôi thì đã bị tước quyền được làm việc từ nhiều năm. Không làm việc mà hưởng lương lấy từ túi những người làm việc là bất lương, người tự trọng không thể nhận một đồng lương như thế”. Việc chúng tôi từ chối ân huệ của Ðảng làm cho chị Vấn và vợ tôi lo lắng. Nhưng sau đó không có chuyện gì xảy ra. Thời này đã khác thời trước.
Mọi người quan tâm tới vận mệnh đất nước đều biết rằng triều đại Lê Duẩn – Lê Ðức Thọ là triều đại thiết lập và khẳng định chuyên chính vô sản, hay nói cho đúng hơn, chuyên chính vô sản lưu manh(9), theo định nghĩa của chính Mác về giai cấp. Ðó là triều đại của sự áp đặt trắng trợn ý muốn ngông cuồng của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ lên mọi mặt đời sống đất nước, từ việc bắt bớ công dân không cần xét xử, việc chia lại các tỉnh một cách xuẩn ngốc, lấy huyện làm đơn vị kinh tế cơ sở, cho tới việc đưa quân đi chiếm đóng nước láng giềng Kampuchea. Áp đặt là phép trị dân mang tính chiến lược. Không áp đặt được thì khủng bố.
Việc nhà nước đối xử với công dân không cần có luật pháp, hoặc dùng luật pháp lờ mờ để giải thích nó theo ngụy biện là đặc điểm chung của các nước xã hội chủ nghĩa. ê Việt Nam tình hình không có gì tốt hơn.
Trước những hành động tùy tiện của chính quyền nhiều nhà tư pháp đã đề đạt với Ðảng xây dựng một nền tư pháp đàng hoàng. Lãnh đạo Ðảng thẳng tay gạt bỏ những đề nghị đúng đắn của họ. Ðảng không cần đến thứ pháp lý tư sản. Luật gia Trần Công Tường, mà tôi được biết từ năm 1946, nói với tôi: “Không hiểu sao mấy chả sợ pháp luật đến thế? Pháp luật làm ra là để bảo vệ chính mấy chả mà.” Tôi nghĩ ông thừa hiểu tại sao. Pháp luật, nếu nó được tôn trọng, sẽ tước bỏ sự tùy tiện, sẽ bó tay bọn độc tài. Pháp luật không thể là cái gì hơn một vật trang sức. Với một Ðảng đặt mình cao hơn nhân dân, thì mọi việc làm của các lãnh tụ Ðảng phải được coi là hiển nhiên đúng.
Trong thực hành tư pháp những nhà lãnh đạo i tờ chủ trương không cần có chứng cứ. Chỉ cần lời khai là đủ. Nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung trong công tác xét xử mặc nhiên bị coi là nguyên tắc tư sản. Bị phản bác, họ lui bước, bắt các nhà tư pháp phải coi chứng hay cung cũng là chứng cả. Ông Vũ Văn Mục, biện lý thời thuộc Pháp, khi kể cho tôi nghe một số vụ án oan cũng như cách xử án của các quan tòa cách mạng chưa hề qua trường lớp chuyên môn, đã kêu lên: “Xử án mà cung với chứng coi ngang nhau thì người dân thấp cổ bé họng sống làm sao nổi hở trời? Quan trên bảo tôi: “không có chứng thì dựa vào cung mà xử, nghĩ ngợi lôi thôi làm gì!” Khinh mạng dân đến thế là cùng. Tôi đem chuyện này than phiền với một ông rất to thì ông ta còn dạy tôi: “Các anh học luật thời trước là lôi thôi lắm! Phải nhớ rằng tòa án của ta là tòa án chuyên chính vô sản, vì lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động mà làm. Với bọn phản cách mạng các anh cứ theo đường lối chính sách của đảng mà xử”. ê Hỏa Lò, nghe chuyện vụ án của Thành và những vụ án khác mà anh kể cho tôi nghe, tôi càng hiểu thêm cái chuyện chứng và cung này.
Trong những năm bị giam tôi đã nhiều phen rà soát lại những việc làm của mình xem mình có lỡ phạm tội gì mà do ngu dốt không biết là tội không, nhưng vô ích – tôi chẳng tìm ra một cái tội nào hết, tôi muốn nói một cái tội mà Lê Ðức Thọ có thể đưa ra chứng cứ. Cho dù một chứng cứ nhỏ. Thành ra họ cứ một mực ép tôi nhận một cái gì đó, xét cho cùng là muốn nặn ra một cái cung để mà buộc tội.
Sự khăng khăng khẳng định việc làm sai trái của những triều đại trước là đúng, là hợp lý, không chứng tỏ ý muốn đổi mới, mà chứng tỏ ý muốn duy trì trật tự cũ. Một sự kế thừa hủ lậu và vị kỷ. Mà sự sai trái cho tới ngày đó đã rành rành. Trong sự ngoan cố này không khó khăn gì để nhận ra bóng dáng những tay chân trung thành từng chịu ơn mưa móc của triều đình(10).
Thời gian trôi. Ðã qua đi nhiều cơ hội để giải quyết vụ án không tiền khoáng hậu và không lối thoát ra, nhưng những nhà lãnh đạo mới cứ một mực phớt lờ.
Nhưng lịch sử có trí nhớ. Nếu lịch sử đánh mất trí nhớ, nó không còn là lịch sử. Một chế độ muốn coi là mới, hoặc đổi mới, nghĩa là khác trước, thì nó phải thanh toán sòng phẳng với quá khứ để bước vào tương lai. Nhân dân đòi chính quyền đổi mới phải giải quyết những án oan tồn đọng, không phải nhằm thanh toán món nợ cũ, mà để khẳng định thêm một lần rằng từ nay những sự việc tương tự sẽ không bao giờ được lặp lại.
Chúng tôi hi vọng tình hình mới sẽ buộc chính quyền phải tự đổi mới, tự nâng mình lên ngang tầm những nhiệm vụ lớn lao đang đòi được giải quyết, trước hết là nhiệm vụ phục hồi nền kinh tế tan hoang trong chiến tranh. Sau khi đất nước đã thống nhất, đây chính là lúc tốt nhất để thủ tiêu nền chuyên chế, xây dựng một Nhà nước công dân, một xã hội dân chủ pháp trị.
Tiếc thay, người ta đã chẳng làm gì theo hướng đó.
Bạn bè trong nước viết thư cho tôi biết ông Ðỗ Mười(11), đương kim tổng bí thư, cũng như ông tổng bí thư tiền nhiệm, tuyên bố Ðảng không thay đổi nhận định đối với vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”.
Mà đó không phải là ai khác cái ông Ðỗ Mười năm xưa, khi xảy ra vụ nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng đã sửng sốt kêu lên: “Tại sao lại bắt anh Huỳnh, anh Giang? Những người cách mạng như thế sao có thể đổ cho người ta chống Ðảng được? Bậy quá! Bậy quá!” Người cháu ruột của ông kể cho tôi nghe như vậy ít ngày trước khi tôi bị bắt. Anh là người thật thà, không thích chuyện làm quà. Mà anh đơm đặt làm gì? Ông Ðỗ Mười hồi ấy chẳng là cái gì hết. Mọi người đều biết ông đang dưỡng bệnh. Mà bệnh của ông là bệnh tâm thần, nói nôm là điên, không ai dám nói chắc ông sẽ khỏi. May, ông không la hét om xòm, không đánh trẻ con hay chọc ghẹo đàn bà, không hoa chân múa tay lảm nhảm, chỉ trèo tường leo cây, lúc tỉnh lúc mê, tha thẩn trước cửa nhà. Ông không lạ gì cha tôi và ông Ðặng Kim Giang. Họ cùng hoạt động với nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ trong thời bí mật. Trong câu chuyện với những đồng chí cũ, khi nhắc tới Ðỗ Mười, cha tôi bao giờ cũng tỏ ra quý mến ông, khen ông kiên định cách mạng, không sợ gian khổ, tính nết lại thực thà, tiếc cho ông không được học hành nhiều, do đó không cáng đáng nổi những nhiệm vụ cần đến kiến thức.
Tôi không được biết ông, chỉ nghe tiếng ông. Trong hàng ngũ những nhà cách mạng hoạt động trước 1945, ông là người hiền lành, ít nói, chịu nghe lời bề trên. Ông cũng nổi tiếng kiên quyết, đã nói là làm. Với Ðảng, ông có công trạng. Chính ông đã kiên quyết đập tan sự “trỗi dậy” của giai cấp tư sản miền Bắc trong cuộc cải tạo công thương nghiệp những năm 1959-1960. Cũng ông đã phá tan nền công nghiệp nhẹ miền Nam trong cuộc cải tạo tư sản sau chiến thắng 1975.
Chỉ có thể giải thích sự thay đổi thái độ của Ðỗ Mười đối với vụ”nhóm xét lại chống Ðảng bằng cách lập luận rằng hồi ấy ông nói thế vì ông không tỉnh trí, còn bây giờ ông khỏi rồi, ông đã sáng suốt, cho nên ông nghĩ khác.
Những người gần ông nói rằng do ít học nên ông thường làm theo những gì cấp dưới soạn sẵn. Ðám đàn em ông lại không có thiện chí muốn lập lại lẽ công bằng cho các đồng chí bị oan. Những Ðào Duy Tùng, Nguyễn Ðức Bình, Trần Trọng Tân mà Ðỗ Mười dựa vào trước kia đã mao-ít, nay còn mao-ít hơn nữa trong sự sáng tạo ra một chủ nghĩa Mác kỳ cục, đầy tính chất ngụy biện, chẳng có gì giống chủ nghĩa Mác kinh viện. Mọi việc làm của họ chỉ nhằm bảo vệ vị trí lãnh đạo độc tôn của Ðảng, hay là của họ thì cũng thế. Cái gọi là đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế thị trường có điều tiết, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời chính là trong thời kỳ này.
Cha tôi đã nhận định sai về con người Ðỗ Mười. Ông chỉ không sai khi nói rằng trước Cách mạng Tháng Tám Ðỗ Mười làm nghề hoạn lợn chứ không phải phu hồ, thợ sơn gì sất như được ghi trong tiểu sử chính thức: “Nói mọi nghề đều quý thì làm hoạn lợn cũng quý chứ sao, xưng công nhân làm quái gì! Người không biết thì thôi, người biết họ cười cho mất mặt. Thế không phải khôn, mà dại”. Các nhà cách mạng biết Ðỗ Mười cũng xác nhận nghề hoạn lợn của ông, chỉ nói thêm rằng ông hoạn vụng, có lần hoạn chết lợn của người ta, bị đuổi chạy chí chết. Kể ra ông dại thật. Nói dối chỉ làm ông mất giá trị. Lịch sử Việt Nam không thiếu những nhân vật xuất thân từ những thành phần không danh giá. Một triều đại vẻ vang như nhà Trần khởi nghiệp từ những người dân chài, có sao đâu.
Nhưng thôi, tôi lại đi lan man khỏi điều muốn nói mất rồi.
Cũng dưới thời Ðỗ Mười tên xét lại hiện đại Hoàng Minh Chính được thả ra sau lần giam giữ cuối cùng vẫn bị tiếp tục hành hạ về tinh thần trong cuộc sống quản thúc. Không hề có một thiện ý lật lại trang sử để xem xét vụ án, cũng không có một biệt đãi nào, dù là biệt đãi chui, dành cho những người bị giam giữ trái phép nhiều năm, để đền bù phần nào những đau khổ và thiệt thòi mà họ và thân nhân đã phải chịu đựng trong những năm đó(12).
Thời gian là thầy thuốc tốt. Nó giúp tôi quên và đôi lúc tôi cũng quên được những ngày đen tối. Chỉ có trí nhớ vô thức là bướng bỉnh. Ðêm đêm thỉnh thoảng tôi lại nằm mơ thấy mình ở trong trại giam. Tỉnh dậy, tôi bàng hoàng, toát mồ hôi lạnh. Mà đã quá nhiều năm trôi qua kể từ ngày tôi rời khỏi địa ngục. Tôi đã tưởng những giấc mơ khủng khiếp sẽ phải mất hẳn vào một lúc nào đó, nhưng nhà tù Việt Nam vẫn dai dẳng bám lấy tôi cho tới tận bây giờ, ngay khi tôi đang ở giữa Paris, Moskva hay Varsava.
Cha tôi hài lòng với ý định của tôi viết cuốn hồi ký. Trên cái gác vợ chồng tôi mới kiếm được trong Sài Gòn, cha tôi cởi trần trùng trục, cái quạt nan trong tay, ngồi bệt trên sàn gạch men lần giở những trang bản thảo đầu tiên.
Năm 1985, sức khỏe cha tôi đã sút kém lắm. Những năm biệt giam và lưu đầy cộng với nỗi đau tinh thần làm ông kiệt sức. Mắt ông mờ hẳn, đọc rất chóng mỏi. Những trang bản thảo lem nhem, đầy những đoạn sửa chồng chéo nhau, làm ông mệt. Nhưng cha tôi đọc chăm chú, thỉnh thoảng còn vẫy tôi đến bên để nói vài nhận xét về chữ nghĩa, nhắc tôi sửa một đoạn mà theo ông là thiếu khách quan, không công bằng hoặc chưa được chính xác. Tối tối cha tôi thủ thỉ kể cho tôi nghe một số sự kiện trong lịch sử cách mạng mà ít người biết, thuộc loại cơ mật của Ðảng. Một số sự kiện đã được dùng trong cuốn này.
Với Ðảng của ông, cha tôi đoạn tuyệt hoàn toàn. Sở dĩ ông có được thái độ như vậy là vì trước nay ông không bao giờ coi Ðảng là vật tổ, là totem. Ông coi Ðảng chỉ là công cụ, là phương tiện để những người cách mạng thực hiện sứ mạng của mình. Ông không kêu than, hờn giận, không ngoái nhìn quá khứ để tiếc nuối cuộc đời phí phạm. Ông không chửi Ðảng vì ông hiểu trong Ðảng có nhiều người yêu nước chân chính mà trong thâm tâm ông vẫn coi họ là đồng chí.
Trước Ðại hội VI (1986), trước bữa cơm chiều, cả nhà chưa ngồi vào mâm, chỉ có hai cha con với cút rượu và đĩa lạc rang thường lệ, cha tôi đang uống bỗng thừ người ra một lát rồi nói:
– Con ạ, những ngày gần đây bố suy nghĩ nhiều về tương lai đất nước mình. Con có biết bố đi đến kết luận gì không? Kết luận của bố là thế này: muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của Ðảng cộng sản. Ðảng đến nay đã hết là đội quân tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc rồi. Bây giờ nó trở thành chướng ngại vật trên đường phát triển của dân tộc. Kẻ nào trong lúc này đặt quyền lợi của Ðảng lên trên quyền lợi của Tổ quốc là kẻ phản bội Tổ quốc.
Tôi sửng sốt. Tôi có thể chờ đợi ở cha tôi bất cứ ý nghĩ nào khác, nhưng không phải ý nghĩ ấy. Cần phải có dũng khí vượt qua nỗi đau mới đoạn tuyệt được với quá khứ dứt khoát đến như vậy.
– Con có hiểu vì sao lâu rồi bố không về quê không? – một hôm khác, cha tôi buồn rầu nói – Bố nhớ làng xóm lắm. Nhưng bố xấu hổ. Sau này con về, nhớ nói bố xin lỗi bà con. Bố đi làm cách mạng không phải để mọi người phải sống cuộc sống như thế này. Là con người, ai cũng vậy, không khổ vì thiếu thốn bằng khổ vì nhục. Một chế độ hạ nhục con người không phải là chế độ nhân dân ta lựa chọn.
Cha tôi là một người cổ. Tuy không giỏi Hán học, ngược lại, còn chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, nhưng nhìn vào thần thái của ông, cách ứng xử của ông, bạn bè mặc nhiên xếp ông vào lớp nho sĩ cuối cùng từ lâu đã nhạt nhòa trong quên lãng. Mẹ tôi thuộc một số thơ ông làm khi còn trẻ, hai người mới quen nhau, mới yêu nhau, bà thường đọc lại cho chúng tôi nghe. Tôi đặc biệt nhớ bài dưới đây bởi khẩu khí hào hùng của nó:
Nghĩ cho tôi lại ngán cho tôi. Ðời có bao nhiêu sắp nửa rồi. Nước mất, nhà tan còn sống mãi, Sông mòn núi lở cứ ngồi thôi. Giang sơn chan chứa hai hàng lệ, Nòi giống lau nhau mấy hạng người. Chẳng biết rồi ra sao thế nữa… Kiếp mình há phải kiếp trò chơi.
Cho dù nhà cầm quyền hiện nay có đối xử với tôi rộng rãi đến mấy thì tôi cũng vẫn phải viết về những ngày đen tối nọ. Tôi không coi việc viết về những năm tháng trong nhà tù xã hội chủ nghĩa là sự phản bội lòng tốt của họ đã khoan dung không giết tôi khi tôi còn nằm trong chuồng của họ. Tôi dùng từ lòng tốt ở đây theo khái niệm Việt Nam, nơi ngày xưa gia đình tử tù còn phải mang lễ vật đến tạ ơn đao phủ đã mài đao cho sắc để nhát chém được ngọt.
Tôi viết vì tôi không thể quên lời cha tôi dặn trong lần tôi ra Hà Nội thăm ông năm 1988 khi ông còn tỉnh táo:
– Con viết đến đâu rồi? – cha tôi hỏi.
– Con viết chậm lắm.
– Không cần nhanh. Nhưng không được bỏ dở. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào con cũng phải hoàn thành cuốn sách.
– Con sẽ không bỏ dở.
– Bố thấy trong người yếu lắm rồi. – cha tôi thở dài – Chà, nếu bố còn khỏe! Có nhiều điều bố cần phải viết ra cho đồng bào biết. Nhưng không còn sức nữa. Bố kỳ vọng ở con. Ðó là trách nhiệm, con ạ, là trách nhiệm.
Ông gắng gượng ngồi dậy, đặt tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi:
– Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn: qua vụ án này con phải để nói lên điều khác, điều rất quan trọng đối với dân tộc ta. Nhân dân ta cần phải hiểu để tránh xa vết xe đổ. Nước mà không có dân chủ, không có luật pháp, hoặc luật pháp chỉ là xảo ngôn, là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài, cho sự lộng hành tùy tiện của những tên độc tài…
Tôi hiểu tâm trạng cha tôi. Ông đã khoan thứ cho kẻ thù. Nhưng ông không ngơi lo lắng cho đất nước trước viễn cảnh xám xịt của một nền chuyên chế.
Rạng sáng ngày 3 tháng 5 năm 1990 cha tôi lặng lẽ qua đời.
Ôm xác cha đang nguội dần trong tay, tôi cay đắng nghĩ về tính không vĩnh hằng của đời người, về ý nghĩa cuộc sống và cái chết. Cha tôi đã bỏ cả đời ông vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đau đớn thấy kết quả những hy sinh của ông và các đồng chí đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bị bọn cơ hội trắng trợn tước đoạt – thay vào ách nô lệ cũ nhân dân phải sống dưới một ách nô lệ khác. Ông đau đớn nhìn thấy mình trong thân phận kẻ chiến bại. Hơn thế, ông chết đi mang theo mặc cảm có tội với dân, với nước. Ðó là nỗi khổ tâm không sao giải tỏa được trong ông.
Thế là sau Phạm Viết, Kỳ Vân,Trần Minh Việt Ðặng Kim Giang, cha tôi đã không chờ được tới ngày lịch sử sang trang, tới ngày lẽ công bằng được trả lại.
Còn nhớ ngày ông Ðặng Kim Giang hấp hối trong căn nhà lá ọp ẹp nằm trong khuôn viên chùa Liên Phái.
– Bác đừng chết bây giờ! – tôi ghé sát vào tai ông, thì thầm kêu lên – Cố lên bác, chết bây giờ là thua keo nữa đấy, bác. Bác đừng cho thằng Duẩn thằng Thọ sướng. Bác chết đi, chúng nó sướng lắm đấy. Cố mà sống, bác ơi!
– Bác đang cố đây!
Ông gượng cười với tôi. Giọng ông đã yếu lắm, nghe không còn rõ, nhưng nụ cười của ông vẫn là nụ cười trước kia, chất phác và hồn nhiên làm sao!
Tôi ngồi bên ông, nắm chặt tay ông, tôi muốn truyền sức sống của tôi cho ông.
– Cháu ơi! – lát sau ông thều thào gọi tôi.
– Dạ!
– Sinh hữu hạn, tử bất kỳ, cháu ạ! – ông kéo tay tôi lên ngực ông, dưới bàn tay tôi trái tim người lính của ông đập chậm chạp và mỏi mệt trong lồng ngực trơ xương – Con người không chống nổi mệnh trời. Bác sẽ cố, nhưng nếu không cố được…
Tôi cúi xuống sát mặt ông để nghe cho rõ. Có thể đó là những lời cuối cùng ông nói với tôi:
-… đến lượt các cháu…phải gắng sức… vì đất nước…
Tôi hiểu ông muốn nói gì.
– Vâng, thưa bác. Cháu xin hứa với bác.
Tôi hôn lên trán ông, để rơi xuống đó một giọt nước mắt xúc động.
Ông mất ít ngày sau, khi tôi đã trở lại Sài Gòn.
Ông là người được nhân dân yêu mến. Ðồng bào các vùng ông hoạt động thời bí mật vẫn nhớ ông. Hồi ông mới được thả có người dân Ðình Bảng lén lút đạp xe về Hà Nội thăm ông. “Dân chúng cháu nhớ bác, sai cháu mang về biếu bác mấy con vịt để bác bồi dưỡng”. Bước vào nhà anh ta vui vẻ khoe với ông. Nói rồi te tái chạy ra ngoài tháo cái bọc trên đèo hàng xuống. Vừa mở cái bọc ra, anh ta bưng mặt khóc òa: “ Vịt chết hết cả rồi, bác ơi! Cháu phải mang giấu cho bác, mới bỏ chúng nó vào bao tải cho người ta khỏi thấy, khốn trời nóng quá chúng nó chết ngộp hết rồi!”. Tướng Giang cũng nước mắt dòng dòng.
Tôi vẫn phải rất cẩn thận khi viết. Mỗi khi có khách tới tôi phải dọn dẹp thật nhanh chồng bản thảo rồi mới bước ra phòng ngoài. Sợ nhất là những ông bạn thân tình. Vừa bước qua cửa là họ đã xộc thẳng vào phòng trong với tôi để được cởi bỏ áo quần mà nằm xuống sàn cho mát. Tôi lấy làm buồn không dám tin một ai. Kinh nghiệm nhà tù cho tôi biết những điều bí mật bị lộ ra bao giờ cũng từ những người thân chứ không phải những người qua đường.
Những trang vừa viết xong lập tức được mang đi cất giấu ở nhà những bạn tin cẩn, là những nơi tôi ít lui tới, do đó nằm ngoài sự chú ý của công an. Cái sự viết từng mẩu một, trong tâm trạng căng thẳng, làm tôi mệt. Lại còn phải kiếm sống nữa. Hồi đó tôi làm thuê cho các tổ hợp, khi thì giải quyết giùm họ một vấn đề kỹ thuật, khi thì đi kiếm nguyên liệu cho sản xuất. Thời gian còn lại cho cuốn sách rất ít. Tôi thấy trước nó sẽ có một khuyết tật mà các nhà văn rất kỵ là không có một mạch văn nhất quán. Ban đêm tiếng lách cách của máy chữ vang xa làm vợ tôi lo ngại.
– Anh gõ khe khẽ chứ.
Tôi thở dài, nhớ tới lời nhắc nhở thường xuyên của anh bạn tù xà lim. Tôi cố gõ khẽ hơn, nhưng cái máy chữ của tôi không bao giờ học được cách thì thào.
(1) Một trong những con chim đầu đàn của nền điện ảnh của Việt Nam độc lập, nguyên cục trưởng Cục điện ảnh của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
(2) Sinh năm 1922, có bằng thành chung thời thuộc Pháp, được bầu vào Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam năm 1958, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng từ 1982 đến 1991, chủ nhiệm ỷy ban Kế hoạch Nhà nước từ 1982 đến 1988. Thủ tướng chính phủ từ năm 1991.
(3) “Ưởng sai chia dân thành từng nhóm, năm hộ, mười hộ, bắt họ củ soát nhau và bị ràng buộc vào nhau. Ai không tố giác kẻ gian thì bị chém ngang lưng…” (Thương quân liệt truyện, Sử ký).
(4) Sinh năm 1931. Nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên bang Xô-viết.
(5) Ung Văn Khiêm (1907-1991), nguyên bí thư xứ ủy Nam kỳ, nguyên bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
(6) Nhà sử học. Một trong những nhà cách mạng cựu trào của Nam Bộ.
(7) Nhà văn nữ, nổi tiếng với những tác phẩm mang cái nhìn mới đối với xã hội. Bị trấn áp, bắt tù, rồi được thả.
(8) Nguyên trạng.
(9) Lumpenproletariat, từ của Mác.
(10) Sự tùy tiện của những người làm án thật rõ ràng. Ta hãy xem lại trình tự công việc của họ:
– Tháng 7 năm 1967, vụ án bắt đầu với việc bắt giam Hoàng Minh Chính, Phạm Viết.
– Tháng 11 năm 1968 (ngày 14) Ban chỉ đạo chuyên án mới được thành lập, tức là hơn một năm sau.
– Tháng 3 năm 1971 Bộ Chính trị nghe Lê Ðức Thọ báo cáo, tức là gần bốn năm sau.
– Tháng 2 năm 1972 Ban Chấp hành Trung ương mới được nghe Lê Ðức Thọ báo cáo, tức là gần năm năm sau.
– Ngày 27.1.1972 Trung ương Ðảng khóa III đã ra quyết định về việc ” Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (khóa III, hội nghị 20) nhất trí phải thi hành kỷ luật về Ðảng và kỷ luật hành chính (những người bị bắt trong vụ án) tùy theo trường hợp nặng nhẹ một cách nghiêm minh theo đúng chính sách xử trí của Ðảng, không đưa ra truy tố trước pháp luật”. (theo sự giải thích trong công văn của Trung ương Ðảng khóa VII số 260-CV/TW, ngày 30.6.1995, có nghĩa là Trung ương Ðảng khóa III đã ra quyết định… trước khi nghe báo cáo về vụ án.
(11) Ðỗ Mười (tên thật là Nguyễn Cống) – đương kim tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp là bí thư khu ủy kiêm chính ủy quân khu tả ngạn. Là người ít học, nhưng nổi tiếng kiên định trong đấu tranh chống thực dân, giỏi dân vận, tác phong giản dị.
(12) Tôi viết những dòng này khi Hoàng Minh Chính chưa bị bắt thêm một lần nữa (lần thứ ba) và bị xử án một năm tù giam vì tội “lạm dụng những quyền tự do dân chủ”, thời tổng bí thư Ðỗ Mười.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:03:09 GMT -6
Chương 17
Huỳnh Ngự không vội vã mở đầu công việc hàng ngày.
– Nào, bây chừ anh viết cho tui một cái báo cáo, ngắn thôi, một hai trang là đủ. – y nói, giọng ngọt sớt.
Tôi nhìn y, chờ đợi.
– Về Nguyễn Lương Bằng.
Tôi ngẩn người, tưởng mình nghe không rõ.
-???
– Phải. Về Sao Ðỏ.
Trời hỡi, đây là Trại giam Hà Nội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Hỏa Lò của Chính phủ Bảo hộ?
Ðó là sự thật. Y nói với tôi bằng giọng nghiêm túc. Tôi không nghe nhầm. Ðúng là người ta đang ra lệnh cho tôi viết một bản khai về Nguyễn Lương Bằng, như về một tên đồng vụ.
Chuyện gì đang xảy ra bên ngoài những bức tường đá Hỏa Lò? Chẳng lẽ người như Nguyễn Lương Bằng cũng đã bị bắt? Không, không thể thế được. Nếu Nguyễn Lương Bằng đã bị bắt Huỳnh Ngự sẽ nói bằng giọng khác, với những từ khác. Y sẽ nói đại loại: “Nè, bây chừ anh viết cho tôi một báo cáo về thằng Nguyễn Lương Bằng. Anh biết hắn quá mà!”.
Hay là… Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã làm đảo chính?
Khi còn ở ngoài tôi đã nghe người ta thì thào với nhau về khả năng Lê Ðức Thọ truất quyền Lê Duẩn một ngày nào đó. Bề ngoài quan hệ Duẩn – Thọ có vẻ khăng khít đấy, thân thiết đấy, nhưng quan sát sự lộng hành của Thọ những người tinh ý cho rằng chẳng chóng thì chầy liên minh này sẽ tan vỡ. Dấu hiệu rạn nứt đầu tiên mà tôi thấy là thái độ coi thường Lê Ðức Thọ của anh con rể Lê Duẩn, trước cùng học với tôi ở Moskva. Ai cũng biết mật thám riêng của Thọ đầy rẫy khắp nơi, Thọ không thể không biết thái độ của người nhà Lê Duẩn đối với mình.
Khôi hài thật, nếu như Lê Duẩn cũng bị đưa vào đây, ở xà lim bên cạnh.
Tôi suy nghĩ rất lung. Tại sao Huỳnh Ngự, một tên nhãi nhép tính về thâm niên cách mạng so với Nguyễn Lương Bằng lại dám bắt tôi làm bản khai về bậc tiền bối mà y xách mé gọi bằng tên trống không? Phải có một cái lý nào chứ? Chẳng gì hiện tại Nguyễn Lương Bằng vẫn đường đường là Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, về mặt chính quyền còn là chủ nhiệm ỷy ban Thanh tra của chính phủ.
Ðầu thập niên 60 cha tôi đang làm vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ Ngoại giao thì bỗng có quyết định của Trung ương cử đi học trường Ðảng cao cấp Nguyễn ỏi Quốc.
Việc cha tôi phải rời Bộ Ngoại giao liên quan tới bộ trưởng Ung Văn Khiêm. Ông là người có học, như phần đông những nhà mác-xít đầu tiên của Nam Bộ. Uy tín của ông trong hàng ngũ cách mạng cao hơn Lê Duẩn nhiều. Ðiều này trở nên bất lợi cho ông khi Lê Duẩn thành tổng bí thư. Lê Duẩn không ưa Ung Văn Khiêm, luôn thọc gậy bánh xe, tìm cách tống Ung Văn Khiêm về hưu. Vụ bản Tuyên bố chung Hồ Chí Minh ký với lãnh tụ đảng cộng sản Tiệp Khắc Novotny(1) do Ung Văn Khiêm thảo, Hồ Chí Minh duyệt rồi ký, sau bị Lê Ðức Thọ đổ riệt trách nhiệm cho một mình Ung Văn Khiêm để đưa ông ra khỏi Bộ Ngoại giao. Trong việc này bàn tay Lê Duẩn rất rõ.
Nhưng đó là chuyện về sau. Hồi đó ông Ung Văn Khiêm thấy cha tôi cứ phải giữ chức vụ trưởng mãi là không hợp lý, mới đề xuất cha tôi làm thứ trưởng. Bộ Chính trị không hài lòng về việc này. Tại sao Bộ Chính trị không hài lòng thì không ai biết. Có người cho rằng Lê Duẩn không ưa lời nói ngược, mà cha tôi lại thẳng tính. Có thể ông vô tình nói ra một lời chỉ trích đối với Lê Duẩn. Hoặc giả, đó là do Lê Duẩn không ưa Ung Văn Khiêm, điều này có vẻ có lý hơn. Người ta nhận xét mọi việc Ung Văn Khiêm làm đều không được Lê Duẩn ủng hộ. Cả hai giả thuyết, theo tôi biết, đều có căn cứ.
Ðưa đi học Nguyễn Ái Quốc là cách nhẹ nhàng buộc cán bộ rời chức vụ. Cha tôi cũng biết như vậy. Học xong khóa Nguyễn Ái Quốc, cha tôi chuyển sang công tác tại ỷy ban thanh tra của chính phủ. Ông Nguyễn Lương Bằng kéo ông về làm với mình.
Trong công tác thanh tra cha tôi tìm ra bằng chứng về sự lộng hành vi phạm các chế độ tài chính của Nhà nước ở một số nhân vật lãnh đạo. Ông đề nghị đưa việc này ra ánh sáng. Ông Nguyễn Lương Bằng vội gạt đi:
– Việc tế nhị, ta phải xin ý kiến Bác đã.
Cha tôi nói:
– Ðây là việc có chứng cứ rành rành, anh việc gì mà ngại. Ðảng đã phân công chức trách cho ta thì ta làm, hà tất lúc nào cũng phải xin ý kiến Bác. Anh lành quá, anh Cả ạ. Ðảng giao cho anh thanh kiếm để anh bảo vệ sự trong sạch của Ðảng mà anh không dám dùng nó thì nó thành thanh kiếm rỉ mất thôi!
Tôi tình cờ được nghe mẩu đối thoại trên khi đưa nước sôi lên cho cha tôi pha trà tiếp ông Cả.
– Thấy việc bất bình mà ngoảnh mặt đi đã là tồi. Ðược giao chức trách bảo vệ dân mà thấy kẻ xâm phạm quyền lợi của dân thì bó tay ngồi đấy, sợ đụng phải chúng nó quan to chức lớn còn tồi hơn. – cha tôi than thở với ông Ðặng Kim Giang – Tình cảnh như thế thì mày tính, tao còn ngồi đấy làm gì? Tao nói thẳng với Sao Ðỏ: “Không dám làm việc theo lương tâm là làm trái lương tâm. Người quân tử không hành đạo là trái đạo! Anh để tôi về hưu”.
Tôi biết Nguyễn Lương Bằng từ năm tôi lên mười. Một hôm cha tôi trở về khuya, mặt đăm chiêu. Ông nói nhỏ với mẹ tôi: “Anh Sao Ðỏ vượt ngục rồi!”
– Anh ấy hiện ở đâu? – mẹ tôi lo lắng.
– Ðang đợi xem sao. Tụi nó lùng dữ lắm. Treo giải thưởng một vạn đồng Ðông Dương cho cái đầu Sao Ðỏ.
– Ðã có chỗ trốn cho anh ấy chưa?
– Mình phải lo cho anh ấy thôi!
Mẹ tôi nói rằng không thể để Sao Ðỏ ở nơi nào khác, mọi chỗ đều không an toàn, đều nguy hiểm. Phải đưa ông về nhà mình. Ðó chính là chỗ mật thám ít ngờ nhất – chúng không nghĩ Nguyễn Lương Bằng lại về nhà người bạn tù vừa được tha.
Hôm sau cha tôi mang về tờ Tin Mới với dòng nhắn tin trong mục Rao Vặt: “Ông Cả Hà Ðông hiện ở đâu, về nhà ngay, cả nhà đang đợi ông”.
Một người đàn ông gày gò, đen đủi tới nhà tôi vào ban đêm rồi ở lại hẳn. Căn phòng nhỏ, nơi ở của chị Tường(2), người trông chúng tôi, được dọn dẹp lại dành riêng cho ông, lũ trẻ chúng tôi không được phép ra vào. Chúng tôi được bố mẹ dặn đi dặn lại rằng người ở trong nhà chúng tôi tên là Bác Cả Hà Ðông và cấm chỉ không được nói với ai bác đang ở đây. Chị Tường ngoan đạo đã được cha mẹ tôi huấn luyện để biết cách bảo vệ cán bộ.
Tên gọi Bác Cả Hà Ðông còn lại rất lâu trong trí nhớ của chúng tôi. Bí danh Ông Cả, Anh Cả của ông Nguyễn Lương Bằng có từ ngày đó. Nếu nó có trước chắc cha tôi đã không dám dùng nó trong mục Rao Vặt để tìm ông.
Cha tôi đem về nhà một cái máy thu thanh Phillips, để nó trong phòng bác Cả. Ðêm đêm cái mắt thần của nó ánh lên màu xanh lục trong vắt rất đẹp. Chính quyền thuộc địa bắt dân phải mang máy thu thanh đến Nha Bưu chính để kẹp chì không cho nghe đài ngoại quốc, chỉ được nghe đài Hà Nội và Sài Gòn. Cái máy Phillips không đăng ký, không bị kẹp chì, vẫn bắt được mọi đài trên thế giới. Ðêm đêm bố mẹ tôi và bác Cả Hà đông ngồi rất khuya, áp tai vào bên loa nghe tiếng thì thào của nó. Bác Cả ở nhà tôi mấy tháng liền, cho tới khi vụ vượt ngục nhạt dần mới bỏ đi. Mẹ tôi sắm cho ông đủ lệ bộ để thành một ông chánh tổng hoặc lý trưởng ra tỉnh: ô Lục Soạn, áo the thâm, giày Gia Ðịnh…
Khi Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La ông được một thanh niên người Thái trắng dẫn đường. Ðưa ông đi khỏi địa phận Sơn La xong, trở về nhà anh bị Pháp bắt đem chặt đầu. Tôi đã tới bản Giảng, cách nhà tù Sơn La vài cây số, vào mùa thu năm 1965, để thăm gia đình anh thanh niên nọ. Trong ngôi nhà sàn xiêu vẹo chỉ còn lại bà mẹ anh, một bà lão lẩm cẩm, điếc lác, hỏi năm câu mới trả lời được một, câu trả lời lại chẳng ăn nhập gì với câu hỏi. Bác Cả Hà Ðông của tôi chưa một lần trở lại bản Giảng để thăm hỏi bà lão tội nghiệp.
– Tôi biết rất ít về ông Nguyễn Lương Bằng. – tôi nói với Huỳnh Ngự – Từ ngày hòa bình lập lại ông ít đến nhà tôi.
– Anh nói sai rồi. Nguyễn Lương Bằng đến nhà anh nhiều nhất đấy.
Tôi nhún vai:
– Tôi làm sao biết được ông ấy đến nhà ai nhiều nhà ai ít.
– Nhưng anh sẽ viết chớ?
– Tôi biết viết gì về ông ấy. Chuyện quan điểm(3) không phải chuyện để ông Nguyễn Lương Bằng nói với tôi.
Huỳnh Ngự tủm tỉm cười. Y ngả người trên ghế, đôi mắt lim dim.
– Tui có bảo anh viết dài đâu. Viết ít cũng được. Chỉ vài dòng cũng là báo cáo, miễn là báo cáo cho xác thực. Không cứ điều chi mình trực tiếp biết mới báo cáo. Anh cứ viết tuốt tuột những chi anh nghe được ở người khác, ông già kể lại chẳng hạn. Hoặc những chi ông già nói chuyện với người nào về Nguyễn Lương Bằng mà anh nghe thấy…
– Tôi nghe người ta nói nhiều về ông Nguyễn Lương Bằng. – tôi nói, làm ra vẻ thiện chí.
– Họ nói những chi?
– Chẳng hạn, ông là người rất liêm khiết, tuy hơi lẩm cẩm. Thời bí mật ông giữ quỹ Ðảng, buồn cười lắm, ăn một hào ông cũng ghi sổ, qua đò mất một xu cũng ghi, mật thám mà bắt được cuốn sổ ấy thì chúng biết hết ông đi những đâu, ăn cơm đầu ghế hay ăn ở cơ sở không mất tiền…
– Cái nớ khỏi cần đưa vô báo cáo. – Huỳnh Ngự nhăn mặt – Anh nghe ông già nói chi về quan điểm của Nguyễn Lương Bằng?
Cha tôi rất quý Nguyễn Lương Bằng. Kỷ niệm về tình bạn của hai người tại nhà tù Sơn La còn lại một tấm ảnh cỡ 6×9, cả hai còn trẻ trong bộ quần áo cánh trắng với hàng số tù trên ngực. Tấm ảnh, nếu nó may mắn, chắc còn được giữ lại trong Viện bảo tàng cách mạng. Tôi nói nếu nó may mắn vì sau khi cha tôi bị bắt mọi hiện vật có dính dáng tới ông trong bảo tàng đều bị bỏ đi. Những hình ảnh của cuộc Cách mạng Tháng Tám có ông trong đó không thể bỏ được thì bị sửa lại, sao cho không nhận được người trong ảnh là ai. Kể cả những thước phim hiếm hoi mà kiều bào ta ở Pháp ghi lại về chuyến đi của phái đoàn Việt Nam sang dự Hội nghị Fontainebleau cũng bị sửa lại, mặc dầu sửa phim xi-nê khó hơn sửa ảnh nhiều. Tấm ảnh ông Võ Nguyên Giáp và cha tôi di duyệt đội quân Giải phóng từ chiến khu Tân Trào về Hà Nội cũng bị sửa, cha tôi biến thành người khác.
Tại nhà tù Sơn La ông Nguyễn Lương Bằng làm y sĩ, gọi bằng phe-mì(4). Bề ngoài công việc của ông là trông nom tù ốm, bề trong ông là người lãnh đạo tù nhân chính trị. Ban lãnh đạo tù nhân chạy cho cha tôi chân thư ký bàn giấy để việc liên lạc giữa các banh(5) được thuận tiện. Nội vụ trong tù đều do Ban đại diện tù nhân sắp xếp. Cùng tù với cha tôi có nhà cách mạng Tô Hiệu nổi tiếng, các ông Ðặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính, Lưu Ðộng, Kỳ Vân – những người sau này bị bắt giam trong vụ nhóm xét lại chống Ðảng – và cả hai hung thần của họ là Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn.
– Chuyện nhà tù Sơn La thì tôi có nghe. – tôi nói với Huỳnh Ngự – Chuyện quan điểm của ông Nguyễn Lương Bằng thế nào thì không nghe ai nói gì.
– Hoàn toàn không? Nè, anh Hiên, tui nghe anh cũng muốn tin mà thấy khó tin quá. Tui muốn anh nói tui nghe nhận xét của riêng anh thôi về thái độ chánh trị của Nguyễn Lương Bằng, nói đại thể thôi, không cần đi sâu vào chi tiết. Trúng cũng được, mà trật cũng không sao. Chẳng lẽ khi Nguyễn Lương Bằng đến nhà anh chơi mà anh lại không ngồi tiếp khách cùng ông già, không nghe ổng nói chi về quan điểm, đường lối?
– Ðâu có chuyện vô lễ như vậy được! Khách của cha là khách của cha, con cái không được phép hóng chuyện, không được phép nói leo. Gia giáo ở miền Bắc là thế!
– Mỗi gia đình có phép tắc của nó. Ðối với cha tôi, tôi mãi mãi là đứa trẻ. Nghe người trong nhà kể lại thì bác cả tôi khi đã đi làm rồi, có con cái rồi vẫn bị ông nội tôi đánh đòn bằng phất trần khi có lỗi.
Tôi nói dối. Tôi là đứa trẻ hư. Tôi bị cha tôi mắng nhiều về cái tật hóng chuyện người lớn. Chính nhờ thói xấu này mà trong trí nhớ của tôi còn giữ lại được những chuyện nên nhớ.
– Anh cứ viết ra những gì anh biết. Tui sẽ gợi ý thêm.
Tôi thở dài, chán ngán.
Thôi được, tôi sẽ viết về Sao Ðỏ, người anh hùng thời thơ ấu của tôi. Viết những kỷ niệm không bao giờ phai nhòa về ông trong trí nhớ. Vào phút đó trước mắt tôi hiện lên hình ảnh ông Cả Hà Ðông quần ống thấp ống cao đi khỏi nhà tôi, xách theo mấy viên ngói trong mảnh vải thay tay nải. Ðó là ông đóng vai một người nhà giàu ở quê ra, được ai mách bảo tới nhà tôi mua đống ngói xếp ở lối cổng, ngoài đường nhìn vào ai cũng thấy. Vai kịch không chắc chắn lắm, vì đống ngói không phải của nhà tôi mà của nhà ông Trần Trọng Kim(6) ở sát nách, chung sân. Chẳng may mật thám hỏi thì phiền, may, chúng để ông đi qua không nghi ngờ.
Tôi trở về xà lim, ngồi yên lặng. Thành ngạc nhiên:
– Cậu sao buồn vậy?
– Tôi mệt. – tôi trả lời cho qua chuyện.
Còn trời, còn đất, còn non nước,
Có dễ ta đâu mãi thế này!
Thành lại ngâm thơ. Anh biết tôi đau, và anh không muốn chạm vào vết thương của tôi. Tôi nằm xuống, gối đầu trên đôi tay. Tôi nghe trong tiếng ngâm thơ buồn bã của Thành có âm hưởng của giọng hát ru con quen thuộc của vùng đồng bằng quê hương. Tôi cảm thấy được vỗ về, an ủi.
Tôi đắm chìm trong những suy nghĩ miên man. Không, tất nhiên tôi sẽ không nói điều gì làm hại bác Cả Hà Ðông. Rõ ràng ông đang bị mưu hại. Người ta muốn những lời khai của tôi, với tư cách con của bạn ông, trở thành bằng chứng buộc tội ông trong quan hệ với cha tôi. Quan niệm về tội trong chủ nghĩa xã hội lạ lắm – nếu Nguyễn Lương Bằng biết quan điểm chính trị của cha tôi mà không báo cáo với Ðảng là ông có tội.
Cuộc hỏi cung dẫn tôi về quá khứ gian khổ của những chiến sĩ cách mạng thời kỳ bí mật. Hình ảnh những cuộc vây bắt, những tiếng thì thào trong đêm của những người đang bị truy lùng, những người tù bị xích tay từng cặp xuống bến Phương Lâm qua thị xã Hòa Bình trong buổi sáng có sương mù trên sông Ðà, cha tôi bên kia tấm lưới sắt Hỏa Lò…lướt qua trước mắt tôi. Những người cách mạng năm xưa đã xây dựng nên cái gì vậy?
Theo cái que chỉ của thợ cả, những người thợ rèn ngày đêm quai búa, hình dung mình đang làm nên bông hoa hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng khi ngẩng đầu lên để lau mồ hôi đầm đìa trên mặt họ chợt nhận ra rằng trước mặt mình không phải bông hoa, mà là cái cùm kiên cố.
Cho đồng bào. Và cho chính họ.
(1) Tổng bí thư Ðảng cộng sản Tiệp Khắc (Tchekhoslovakia, trước khi chia thành Cộng hòa Tchek và Cộng hòa Slovenia) từ năm 1953. Vì đường lối Sta-lin-nít, Novotny bị thay bằng Dubchek vào năm 1968. Bản tuyên bố chung nói trên được viết theo tinh thần Hội nghị 81 Ðảng cộng sản và công nhân năm 1960.
(2) Về sau này do được ông Nguyễn Lương Bằng báo cáo ghi công, chị Tường được nhận danh hiệu “có công với cách mạng”, còn mẹ tôi thì không. Mẹ tôi cũng chẳng suy nghĩ nhiều về chuyện này. Bà cho vậy cũng được, cũng phải, cần ghi công những người đã giúp đỡ cách mạng, còn mình đã là người cách mạng rồi, không phải ghi công làm gì. Thành thử trong những dịp đại lễ chị Tường được đứng trên lễ đài xem duyệt binh, còn mẹ tôi thì đứng ngoài đường Phan Chu Trinh xem đoàn quân duyệt binh về qua.
(3) Hồi ấy nói tắt quan điểm là hàm nghĩa quan điểm đối với hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế.
(4) Do tiếng Pháp infirmier.
(5) Khu giam giữ, bagne theo tiếng Pháp.
(6) Thủ tướng chính phủ Việt Nam năm 1945 do vua Bảo Ðại lựa chọn và trao trách nhiệm lập chính phủ. Nhà tôi hồi ấy ở số 65 phố Sergent Larrivé (phố Nhà Rượu, tức Nguyễn Công Trứ bây giờ), nhà ông Trần Trọng Kim ở số 67.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:04:58 GMT -6
Chương 18
Cái làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn cả trong những ngày tù đầu tiên là: lý do gì đã làm cho Lê Duẩn cấu kết với Lê Ðức Thọ trong việc làm bất minh, thậm chí không hợp với tính cách anh chị của Lê Duẩn là vu vạ để trấn áp những người chưa từng chống lại họ? Không phải lúc nào khác, mà lúc này?
Tôi biết quá ít về tổng bí thư Lê Duẩn. Tôi không có dịp gần gụi nhà lãnh đạo nổi tiếng quyết đoán để có nhận định riêng. Những nhận xét của người khác về nhân vật lịch sử này không làm tôi hài lòng. Con người trong đời thường bao giờ cũng thật hơn, đúng hơn, giống họ hơn nhìn họ trong trạng thái trưng diễn.
Tôi chỉ là nhà báo ở cấp bậc cuối cùng trong nấc thang đánh giá cán bộ theo mức độ tin tưởng của Ðảng. Trong số rất ít phóng viên được thoải mái ra vào cung đình chỉ có Thép Mới(1) là người gần Lê Duẩn hơn cả. Trong kháng chiến chống Pháp anh cũng được Trường Chinh sủng ái. Các nhà lãnh đạo có thói quen không dùng đệ tử của người tiền nhiệm, thế mà Lê Duẩn vẫn tiếp tục sử dụng Thép Mới, đủ hiểu Lê Duẩn tín nhiệm anh thế nào. Một mình anh được Lê Duẩn dành cho cái vinh dự không ai có được là chấp bút cuốn Thời Thắng Mỹ. Ðó là bản anh hùng ca xưng tụng vị tổng bí thư anh minh một mình một ngựa lãnh đạo cuộc kháng chiến tới ngày toàn thắng. Hình ảnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh trong cuốn sách nhập nhòa như mấy cọng tầm gửi.
Cuốn sách gây ra nhiều tranh cãi. Người ta nói nó bóp méo lịch sử.
Những người gần Lê Duẩn nói rằng bệnh “kiêu ngạo cộng sản” trong con người Lê Duẩn đã có ngay từ khi Lê Duẩn nắm quyền lãnh đạo tại miền Nam. Cộng với bệnh “kiêu ngạo cộng sản” là bệnh độc tài, độc đoán, coi thường quần chúng.
Song song với Thời Thắng Mỹ. trong những năm sau chiến tranh có cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân của đại tướng Văn Tiến Dũng do Hồng Hà, em ruột Thép Mới, sau làm tổng biên tập báo Nhân dân chấp bút. Cuốn này bị các nhà lãnh đạo phê phán mạnh mẽ tuy nó cũng giống Thời Thắng Mỹ ở chỗ ca ngợi chính tác giả trong chiến thắng. Cái Lê Duẩn làm được thì Văn Tiến Dũng không được phép. Một cuốn khác của đại tướng Hoàng Văn Thái, hồi ký Những Năm Tháng Quyết Ðịnh, được cả chính giới và người đọc bình thường đánh giá là nghiêm túc. Vai trò nhân dân được nhắc đến nhiều hơn cả trong cuốn Kết Thúc 30 Năm Chiến Tranh của Trần Văn Trà. Những sĩ quan có mặt trong suốt cuộc chiến cho nó là cuốn sách chân thực nhất, trong đó tác giả muốn nhìn lại và khách quan đánh giá các sự kiện chứ không phải muốn khoe mẽ. Cuốn sách vừa in ra đã bị Lê Ðức Thọ cấm lưu hành.
Tôi có lần gặp thượng tướng Trà tại nhà riêng của ông, khi viên tư lệnh trận đánh chiếm Sài Gòn đang cùng các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng dùng Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ đấu tranh cho đổi mới, đòi mở rộng tự do dân chủ. Cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của ông ở đường Pasteur để lại trong tôi ấn tượng dễ chịu – Trần Văn Trà chính là nhà lãnh đạo mà những người cộng sản cấp tiến muốn có. Ông biết nghe, biết tranh luận bình đẳng, biết rút lui ý kiến trước lẽ phải. Tiếc thay, như đối với những người bình thường bỗng nổi bật lên một cách không ngờ tới trong những tình huống không dự kiến, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không ưa Trần Văn Trà. Họ bèn cho ông ngồi chơi xơi nước.
Tướng Trà đã được giới thiệu trước tôi là ai, ông nói ông không hề biết gì về vụ trấn áp “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng” ở miền Bắc, khi xảy ra vụ án ông đang bận tổ chức đường dây trên biển để chuyển vũ khí vào Nam. Ông đòi tôi kể cho ông nghe về vụ án, tôi chỉ kể qua, tôi đã ngán kể về nó. Ông nói hồi ấy ông cũng nghe có một thông báo vắn tắt của Trung ương, ông không ngờ sự việc lại trầm trọng như vậy. Ông rủ tôi tham gia tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Tôi nói tôi không tin những tiếng nói trung thực sẽ được lắng nghe. Ðiều tôi tin chắc là tờ báo sẽ bị đóng cửa, không nay thì mai, và những người làm báo không thể tránh khỏi bị khủng bố, là điều ông cần tiên liệu, không nên để xảy ra. Tướng Trà không đồng ý với tôi. Ông cho rằng bây giờ tình hình đã khác trước, bây giờ Ðảng đã thấy cần thiết phải có sự góp ý với Ðảng của nhiều người nhằm mau chóng xây dựng lại đất nước.
Những chuyện xảy ra sau đó chứng tỏ cái nhìn không lạc quan của tôi là đúng. Tờ Truyền Thống Kháng Chiến bị cấm, những người chủ trương tờ báo bị làm khó dễ, thậm chí bị bắt. Về sau không hiểu tại sao chính tướng Trà lại ra tuyên bố lên án tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Việc này, dù ông làm trong tình thế bị ép buộc, đã làm vấy bẩn danh tiếng của ông.
Tôi có gặp lại Thép Mới vài lần sau khi anh rời miền Bắc vào sống hẳn trong Sài Gòn, khoảng cuối những năm 80. Nghe nhiều người chê Thời Thắng Mỹ về sự không trung thực, tôi hỏi anh nghĩ gì về dư luận đó. Ðang vui chuyện, Thép Mới quay ra nhìn tôi như nhìn một thằng bới móc. Sau khi tin rằng tôi không có ý xấu, Thép Mới vui vẻ trở lại, anh mỉm cười tội nghiệp: “Cậu chưa viết theo com-măng(2) bao giờ à?”. Rõ ràng anh không muốn thừa nhận đứa con tinh thần đã trót dại đẻ ra.
Thép Mới từng là một nhà báo tài ba. Tôi đọc bản dịch tuyệt hay cuốn Thời Gian ỷng Hộ Chúng Ta của Ilya Erenburg do Thép Mới dịch trong kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi, những người lính trẻ, coi Thép Mới như thần tượng. Tôi quen Thép Mới từ ngày đó. Năm 1956 chúng tôi gặp lại nhau tại Moskva. To béo hơn trước, không còn vẻ ngượng ngùng khi hỏi người khác về văn phong của mình, Thép Mới hỏi tôi có đọc mấy bài báo anh mới viết hay không. Tôi không tiện nói với anh về cảm giác của tôi – những bài báo của Thép Mới mỗi ngày một oang oang, với những câu chữ sáo rỗng. Thép trong anh rỉ rồi. Thép Mới cho tôi biết anh vừa cưới vợ. Vợ anh hóa ra là một bạn gái thời học trò của tôi. Chúng tôi uống rượu mừng ngay trong phòng anh tại khách sạn Belgrad. Ba mươi năm sau, anh già xọm, mắt mờ, má chảy xệ, đã bỏ vợ, đã lấy vợ mới, nhưng chẳng có gì để khoe.
Kể cũng nên nói vài dòng ở đây về cái sự phỏng vấn lãnh tụ. Thường thì chẳng có báo nào tự dưng phỏng vấn các vị. Nếu có nhu cầu quảng bá ý kiến của nhà lãnh đạo Ðảng thì văn phòng lãnh tụ tự sáng tác ra một cuộc phỏng vấn rồi gửi nó cho báo Ðảng. Các báo khác sẽ đăng lại bài này. Còn khi có phóng viên nước ngoài xin phỏng vấn thì anh ta sẽ được mời tới gặp lãnh tụ, hai bên nói chuyện tầm phào một lát, chụp ảnh chung, những câu phỏng vấn được để lại, những câu trả lời anh ta sẽ nhận sau. Những bài phỏng vấn của Winfred Burchet(3) gửi đi từ Hà Nội những năm chiến tranh được chế tạo đúng như thế. Trong khi chờ đợi, Burchet tối tối đi uống rượu mời ở Métropole hoặc Splendid (Hòa bình), hoặc đi ăn chim quay với Nguyễn Tuân ở phố Tạ Hiền. Bài phỏng vấn rồi được gửi đi bằng télex của Việt Nam Thông tấn xã, không mất tiền.
Người ta phải làm như vậy vì các vị lãnh tụ sợ nói ngẫu hứng dễ bị hớ. Ðem so bài nói chuyện của Lê Duẩn với cũng bài ấy được đăng trên tờ Nhân dân thì thấy chúng khác nhau một trời một vực. Tôi được nghe Lê Duẩn vài lần, cảm giác của tôi là chán. Bài nói cương giọng bình dân, đôi khi lăng nhăng, lẩm cẩm đến nỗi người nghe không hiểu ông tổng định nói gì, thế nhưng bài đăng báo thì đặc giọng hàn lâm, với rất nhiều trích dẫn các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác. Sau mới biết những viên thư ký của lãnh tụ là tác giả.
Theo lời kể của những người biết gốc gác đương kim tổng bí thư thì Lê Duẩn quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, con một gia đình khá giả. Lê Duẩn đã học qua bậc tiểu học, có hồi làm đường sắt, giữ chân bẻ ghi, những người tâng bốc gọi là thư ký hỏa xa. Cũng theo họ, từ nhỏ ông tỏ ra có tư chất thông minh. Thông minh như thế nào thì họ dẫn ra nhiều chuyện làm bằng, tiếc thay, những bằng chứng ấy lại không chứng tỏ một hệ số thông minh cao đáng kể. Ðành phải mở một cái ngoặc đơn để nói rằng người Việt ta thường hay lầm lẫn hai khái niệm thông minh và láu cá. Chúng có ranh giới khá nhòe nhoẹt. Người thông minh thường không làm nổi cái mà kẻ láu cá làm được. Ngược lại, tên láu cá có gắng mấy cũng không nghĩ ra cái mà bộ óc thông minh có.
Ðược trực tiếp gặp gỡ các nhà cách mạng Việt Nam, được quan sát họ ở khoảng cách gần, tôi hiểu họ là ai. Phần nhiều họ là những người yêu nước, xuất thân từ những tầng lớp dưới, do ý thức được thân phận nô lệ mà theo chân các nghĩa sĩ Cần vương, Ðông kinh Nghĩa thục và những người cách mạng lớp đàn em có xu hướng cộng sản. Trước khi vào Ðảng cộng sản họ là thành viên của các tổ chức Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng, Ðông Dương Cộng sản Liên đoàn. Kiến thức học đường của họ gồm có một chút chữ Hán, một chút quốc ngữ, cả hai chút này không đủ dùng cho sự tiếp cận triết học phương Tây, mà chủ nghĩa Mác lại bắt nguồn từ đó, với phép biện chứng Hégel làm cơ sở. Những tác phẩm chính bản của Mác và Engels chưa từng tới Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp. Những người có học nhất trong những nhà mác-xít Việt Nam chỉ được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác qua những cuốn giáo trình nhập môn. Lác đác có vài người được đọc dăm ba cuốn khảo cứu nghiêm túc chủ nghĩa Mác bằng tiếng Pháp. Trường Chinh là một trong những người hiếm hoi đó.
Chủ nghĩa Mác thường được nói tới ở Việt Nam thực chất là chủ nghĩa Lênin, hay là chủ nghĩa Mác theo cách diễn dịch của Lênin, tước bỏ phần khoa học (nghiên cứu về hàng hóa trong chủ nghĩa tư bản, về giá trị và giá trị thặng dư), nhấn mạnh khía cạnh cách mạng bạo lực, đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Những khía cạnh này cũng không được Ðảng nói tới trong thời kỳ bí mật. Thời kỳ đó Ðảng chỉ nói nhiều tới đấu tranh phản đế, giành độc lập. Cướp được chính quyền rồi, thiết lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ rồi, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp rồi người ta cũng chưa nói tới. Chỉ sau khi đã ăn sống nuốt tươi chủ nghĩa Mao người ta mới nhấn mạnh mấy thứ đó.
Chủ nghĩa Lênin là do Stalin đặt ra, từ léninisme là do Stalin dùng đầu tiên, để trình bày không phải tư tưởng của Mác về thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản, mà là quan điểm của Sta-lin về những vấn đề này, cho nên gọi là chủ nghĩa Stalin mới đúng. Những nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Việt Nam chỉ được tiếp xúc với những ấn phẩm do Liên Xô cung cấp. Những trước tác thời Mác trẻ ít được biết đến. Nguyên do là chúng không được giới học giả Liên Xô quan tâm, hoặc giả họ biết đấy nhưng không dám nêu lên những luận điểm yêu tự do ngỗ ngược của Mác, là những cái không hợp ý Stalin. Hậu quả là những nhà nghiên cứu đàn em không có sách để đọc. Trong Mác có hai con người, Mác trẻ và Mác già. Mác trẻ là người dân chủ và thực tiễn, Mác già thiên về tư biện, mà là tư biện khiên cưỡng, ý muốn thuyết phục đi trước sự lý giải cần có.
Cả hai cái đó – chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin hiểu đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. ê Việt Nam có một chủ nghĩa cộng sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lênin hết. Nó là chủ nghĩa cộng sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có người bóc lột người, một cuộc sống tự do, công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không biên giới. Ðó chính là chủ nghĩa cộng sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà muốn trao lại cho chúng tôi. Chủ nghĩa cộng sản này còn giữ tên gọi cũ hay mang tên mới trong tương lai, theo tôi nghĩ, sẽ mãi mãi còn với loài người với tư cách một ước mơ. Chính chủ nghĩa Mác dung tục và thô thiển, chứ không phải chủ nghĩa Mác hàn lâm hoặc chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế? Vào thời cha mẹ tôi phần lớn những người cách mạng đều tự hào nhận mình là cộng sản. Chính sự lầm lẫn này về sau đã sinh ra một nghịch lý: những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại sa vào hết sai lầm này tới sai lầm khác.
Giữa hai cha con tôi đôi khi cũng có những cuộc trò chuyện về lý thuyết cách mạng. Cha tôi nói rằng trong công tác bí mật bề bộn, vừa phải lẩn trốn địch vừa vận động quần chúng, tổ chức và chắp nối các cơ sở cách mạng (là công việc chính trong hoạt động của ông), ông không có thời giờ đọc hết một tác phẩm nào của Mác hoặc Engels. Ông chỉ bắt đầu đọc Mác sau khi hòa bình lập lại. Ðọc một cách vất vả. “Những cuốn sách quá khó hiểu đối với bố, ông nói. Bố ít học, lại không có năng khiếu về triết. Xét cho cùng, bố chỉ có thể là con kiến thợ của cách mạng mà thôi. Cho nên thế hệ các con có điều kiện để nghiên cứu thì ráng nghiên cứu cho kỹ các lý thuyết xã hội học. Lý thuyết là lý thuyết, nó không thay thế được thực tiễn, nhưng không thể bỏ qua không nghiên cứu những gì các thế hệ đi trước nếu không muốn sa vào những sai lầm lẽ ra có thể tránh được”. Người thường giảng cho cha tôi nghe về triết học là ông Trần Ðức Thảo(4). Ông đến ăn cơm với cha tôi, bộ quần áo nhàu nát nhiều ngày không giặt và bốc mùi, say sưa nói về những vấn đề thuộc những tầng trời xa lắc. Xong bữa, ông chiếu cố bước xuống trần thế, giải thích cho cha tôi những khái niệm của Mác, thỉnh thoảng lại chêm vào những lời bình chướng tai đối với tư tưởng chính thống đang ngự trị trong Ðảng cộng sản. Cha tôi chăm chú nghe, chỗ nào chưa hiểu, ông hỏi lại. Cha tôi kém hiểu biết, nhưng ông không giáo điều. Ông thường lấy hình ảnh con ngựa nhà đòn, với hai miếng da che mắt, chỉ nhìn thấy một đường để khuyên chúng tôi không được nhìn một chiều, nghe một tiếng.
Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều là những người yêu nước trước khi thành cộng sản. Họ nhập vào hàng ngũ cộng sản mà không hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ. Trong đám đồng chí của mình cha tôi thuộc số ít những người tương đối có học, vậy mà ông còn phải thú nhận sự dốt nát của ông về học thuyết cộng sản. Ðủ thấy những người kia cũng chẳng hiểu biết hơn ông bao nhiêu, nếu như trời không phú cho cho họ trí thông minh lớn hơn. Bi kịch xảy ra cho cha tôi bắt nguồn từ đây – do ý thức được sự dốt nát của mình, ông chịu khó đọc, chịu khó học, để rồi kiến thức mà ông thu lượm được cuối cùng lại tách ông khỏi những đồng chí tự thị.
Lê Duẩn sớm tham gia các hoạt động chống Pháp, được các bậc cách mạng đàn anh dìu dắt vào đường cộng sản, có thời đã làm bí thư xứ ủy Trung kỳ, tham gia khởi nghĩa Nam kỳ, từng bị đi đầy Côn đảo. Theo nhận xét của các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính cách, phóng túng trong hành xử. Ngay tại Côn Ðảo, nơi những người tù không phân biệt xu hướng phải nương tựa nhau để chống lại kẻ thù chung, Lê Duẩn không chịu hòa hợp với những người yêu nước không cộng sản khác – những người tờ-rốt-kít, những đảng viên Quốc dân đảng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Duẩn còn lâu mới được coi là ngang hàng với những nhân vật nổi tiếng trong phong trào cách mạng miền Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai…Những nhà cách mạng trí thức khi ra Hà Nội họp Quốc Hội và tham gia chính phủ đoàn kết dân tộc với tư cách đại diện miền Nam thành đồng bị kẹt lại ở miền Bắc vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Vắng mặt họ Lê Duẩn mới dần dần từ những chức vụ khiêm tốn bước lên địa vị người lãnh đạo kháng chiến Nam bộ.
Cần phải thừa nhận rằng Lê Duẩn là người lãnh đạo giỏi. Những người bạn miền Nam tập kết của tôi nói về “anh Ba Duẩn” với giọng kính trọng và tự hào. Niềm tự hào này kéo dài không lâu. Sau khi “anh Ba” trở thành tổng bí thư, ông không làm gì được cho họ hơn là đẩy họ tới những miền hoang vu để khai hoang, lập ra các nông trường, khuyến dụ họ họp thành những tập đoàn sản xuất nhỏ nhoi để tự nuôi thân. Ðến lúc ấy thì họ giận dữ. Khi con người nổi giận thì lẽ công bằng không còn nữa. Thay vì ca ngợi họ nguyền rủa ông. Tôi tin niềm tự hào trước kia của họ hơn những lời nguyền rủa sau này. Lê Duẩn hay bất kỳ ai khác ở địa vị ông đều không thể làm gì hơn cho những người từ miền Nam màu mỡ ra miền Bắc nghèo khổ vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài chín năm.
Bằng vào những câu chuyện kể của họ khi họ còn ngưỡng mộ “anh Ba” thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa Trung ương, những chủ trương chủ trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của Trung ương trong mọi mặt. Người ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.
Thật vậy, trong một số lĩnh vực Lê Duẩn không sao chép những chủ trương của Trung ương Ðảng đóng trong rừng già Việt Bắc mà làm theo cách của mình. Trong khi miền Bắc được sự chỉ đạo trực tiếp của các cố vấn Trung Quốc ầm ầm bước vào Cải cách ruộng đất theo hình mẫu Cải cách thổ địa của Trung Quốc thì ở miền Nam Lê Duẩn kiên quyết không cho tiến hành Cải cách ruộng đất, tránh cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam những tổn thất chắc chắn là rất lớn. Một sự cưỡng lại cấp trên như thế không thể làm cho tổng bí thư Trường Chinh hài lòng.
Hiệp nghị Genève 1954 chia nước Việt Nam thành hai miền Nam Bắc. Tại Ðại hội Ðảng lao động Việt Nam lần thứ III năm 1960, trước sự sa sút trầm trọng uy tín của Ðảng vì những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, và cũng để xoa dịu nỗi bất bình trong quần chúng, chức vụ tổng bí thư do chủ tịch Ðảng Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm một thời gian nay được chính thức trao cho Lê Duẩn(5).
Mọi người đều ngạc nhiên trước kết quả của Ðại hội. Trong kháng chiến chống Pháp Võ Nguyên Giáp là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ ba, chỉ sau có Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Trường Chinh ra đi, chức tổng bí thư mặc nhiên phải thuộc về Võ Nguyên Giáp, ai chả nghĩ thế. Nhưng sự đời lại diễn ra theo cách khác. Theo nhận xét của những người cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại ông tướng đã có quá nhiều vinh quang sẽ trở nên không dễ bảo sau cuộc đảo lộn ngôi thứ. Mà cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều muốn giữ lại vị trí trước kia của họ về thực chất, cho dù danh nghĩa không còn. Cần phải chọn một người có vị trí và uy tín kém hơn Võ Nguyên Giáp. Do biết ơn người cất nhắc mình, người đó sẽ vừa ngoan ngoãn vừa trung thành. Lê Duẩn thích hợp hơn cả với vai trò đó. Trong điều kiện đất nước chia hai, mà trước mắt là mục tiêu thống nhất đất nước thì đưa một người từng lãnh đạo miền Nam lên làm tổng bí thư cũng là lý do dễ thuyết phục. Tôi tin cách lý giải này hơn là cách lý giải của những người cho rằng Lê Duẩn được chọn vì có thâm niên ở tù cao hơn tướng Giáp.
Ðó là may mắn trời cho đối với Lê Duẩn. Theo truyền thống lãnh tụ suốt đời Trường Chinh sẽ chẳng bao giờ rời khỏi ghế tổng bí thư nếu như không xảy ra những tổn thất rùng rợn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Không phải những đồng chí nghiêm khắc trong Ðảng mà những oan hồn Cải cách ruộng đất đã quật ngã không thương tiếc vị lãnh tụ đứng ở vị trí thứ hai trong Ðảng, người mà chân dung đã được treo ở khắp các công sở, trong mọi nhà, được tung hô vạn tuế không kém Hồ Chí Minh là mấy(6).
Nhưng cũng từ đây Lê Duẩn bắt đầu những sai lầm làm mất đi uy tín đã có trong quần chúng, dù mới chỉ trên một phần đất nước.
Quyền lực là một thứ ma túy cực mạnh. Nó đã thấm vào máu thì con người mất hết tỉnh táo.
Miền Bắc cho đến khi ấy hoàn toàn nằm trong tay lớp cán bộ do Trường Chinh đào tạo. Tình hình này không thể không làm cho tân tổng bí thư lo ngại. Như một kỵ sĩ bất ngờ phải nhảy lên lưng con ngựa của người khác, Lê Duẩn lúng túng, lo con ngựa sẽ không phục tùng tay cương của chủ mới. Cần phải tìm người tháo gỡ tình hình. Sự lựa chọn rơi vào Sáu Búa Lê Ðức Thọ.
Là người miền Bắc, được Trường Chinh cử vào Nam năm 1947 với tư cách ủy viên thường vụ Trung ương Ðảng để nắm Trung ương cục miền Nam, nhưng Lê Ðức Thọ đã không một lần tranh được chức bí thư miền. Cũng có lúc hục hặc với Lê Duẩn, nhưng sau đó ý thức được thân phận mình trên đất lạ, Lê Ðức Thọ lại tìm sự liên minh với Ba Duẩn để trở thành Sáu Búa. Ðược bầu vào Bộ Chính trị trong Ðại hội III, Lê Ðức Thọ chính thức giữ chức Trưởng ban Ban tổ chức Trung ương (mặc dầu trước đó đã tạm nắm vài năm) thay cho Lê Văn Lương phải ra đi do những sai lầm Chỉnh đốn tổ chức. Cái chuồng ngựa của Lê Văn Lương được phá đi. Thay vào đó là một hệ thống tổ chức hoàn toàn mới.
Hệ thống này không biết do chính Thọ nghĩ ra hay do quân sư nào mách nước, là đứa con lai mang hai dòng máu Gestapo-Stasi và Khang Sinh (Kang Sheng)(7). Theo nguyên tắc mới của Thọ mọi việc tổ chức và nhân sự nhất nhất phải qua sự kiểm tra của Ban tổ chức Trung ương. Mỗi đảng viên phải làm lại lý lịch, căn cứ vào thành phần xuất thân và quá trình công tác mà được ngành tổ chức đặt vào vị trí này hay vị trí khác. Thậm chí các đại biểu được các cấp bộ đảng bầu ra để đi dự Ðại hội Ðảng cũng phải trải qua một kỳ kiểm tra ngặt nghèo tư cách đại biểu. Với một quy chế như thế nền dân chủ trong Ðảng chỉ là một nền dân chủ bị thiến. Nhưng về mặt khác thì đây thật là một tổ chức hoàn hảo mà bất cứ tên độc tài nào cũng muốn có.
Sự lựa chọn của Lê Duẩn là sáng suốt. Không ai có thể bằng Lê Ðức Thọ trong số những người miền Bắc đã nhiều năm làm việc ở miền Nam dưới quyền Duẩn. Thêm nữa, được Lê Duẩn cất nhắc Thọ chắc chắn phải mang ơn Duẩn. Thọ chính là người duy nhất cần có để tạo dựng một bộ máy cai trị vững chắc, loại trừ ảnh hưởng của Trường Chinh.
Thọ không phụ lòng tin cậy của đàn anh. Một mặt, dưới sự chỉ đạo của Thọ đội ngũ cán bộ mau chóng được sắp xếp lại theo ý muốn của Lê Duẩn. Những người tỏ ra quá trung thành với Trường Chinh dần dần bị thuyên chuyển khỏi những chức vụ quan trọng, thay chân họ là những đệ tử ruột của Thọ, tức của Duẩn.
Sự cải cách bộ máy quyền lực vô hình trung đã đem lại cho Thọ ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, tạo ra một quyền lực nhị trùng trong thực tế. Mặt này là mặt Lê Duẩn không lường trước.
Người ta ví triều đại Lê Duẩn như thời Vua Lê – Chúa Trịnh. Vào những ngày lễ, ngày tết cứ trông số xe cộ đậu trước cung Vua và phủ Chúa mà biết quyền lực thực sự nằm trong tay ai. Mọi quan chức trong Ðảng cũng như trong chính quyền (mà hai cái chỉ là một) đều lệ thuộc ngành tổ chức có hệ thống dọc từ Trung ương xuống đến cơ sở. Việc thuyên chuyển, bổ nhiệm, cách chức nhất nhất đều liên quan trực tiếp tới Ban tổ chức Trung ương, mà người quyết định tối hậu là Sáu Búa. Cho nên nếu số xe cộ đến chầu chực trước phủ Chúa có nhiều hơn trước cung Vua cũng là chuyện thường tình.
Lê Duẩn hiểu ra cơ sự khá muộn màng. Vua Lê mới không biết rằng Ban tổ chức Trung ương, hay phủ Chúa, quyền lực còn lớn hơn cả Vua. Ban tổ chức Trung ương nhúng
tay vào mọi việc lớn nhỏ, sai phái mọi quan chức, chỉ đạo các địa phương(8). Vì cơ quan tổ chức quan trọng như vậy cho nên các vụ trưởng trong Ban tổ chức Trung ương được Thọ cho ăn lương (của Nhà nước) theo cấp chuyên viên 9, nghĩa là ngang lương bộ trưởng các bộ quan trọng (bộ trưởng các bộ làng nhàng chỉ ăn lương chuyên viên 7, chuyên viên 8).
Bên dưới Ban tổ chức Trung ương là Bộ Nội Vụ. Nó là bộ máy thực hành trấn phản, được Thọ trao cho đệ tử ruột là Trần Quốc Hoàn. Tôi sẽ nói tới mối quan hệ chủ tớ Thọ-Hoàn vào lúc khác. Nó là một chuyện thú vị, không phải chuyện thọc mạch đời tư, nhờ đó ta thấy cơ cấu băng đảng trong một nhà nước chuyên chế hình thành như thế nào.
Một hôm Hoàng Minh Chính đến chơi nhà Lê Ðức Thọ gặp lúc Thọ đang nổi nóng vì một bà vụ trưởng. Bà ta đang vật nài thư ký riêng của Thọ xin gặp Thọ.
– Con mẹ ngu hết chỗ nói! – Thọ bực bội lớn tiếng trong khi tiếp Hoàng Minh Chính – Nó lải nhải suốt, một xin Ðảng xét, hai xin Ðảng xét. Mẹ kiếp, tao chưa có thời giờ xem lại nhân sự các Bộ, nó đã đâm đơn hết cửa này đến cửa khác. Tao chưa duyệt thì đừng có hòng. Nó phải hiểu Ðảng là tao, là tao đây này! Còn đi xin ở chỗ nào nữa?
Bà này, tất nhiên, đã tính sai. Rồi bà ta cũng được làm thứ trưởng “Ba đảm đang”(9), Hoàng Minh Chính cho biết, sau một cuộc tạ tội đầy nước mắt với “Anh Sáu”.
Những đảng viên kỳ cựu biết bản chất của Thọ, thấy Thọ nắm quá nhiều quyền lực, lại được Lê Duẩn ưu ái, lấy làm lo cho Ðảng, đặt mọi hi vọng vào Trường Chinh, hi vọng cựu tổng bí thư sẽ tìm cách ngăn cản sự lộng hành của Thọ.
Nhưng Trường Chinh hoặc không biết âm mưu sâu xa của Thọ, hoặc ý thức được thế yếu của mình, luôn tỏ ra khiêm tốn và nhường nhịn, khép nép đứng ké vào liên minh Duẩn-Thọ như một kẻ thua cuộc biết điều. Chí ít thì người ta cũng không bao giờ thấy ông có thái độ khó chịu với kẻ đang chễm chệ ngồi trên ngôi vị vốn dĩ thuộc về ông.
Cho đến lúc xảy ra vụ xung đột giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế vị thế của Lê Duẩn đã vững lắm. Cũng vào thời điểm này Lê Duẩn bắt đầu cảm thấy e ngại những ý kiến bất bình của các đảng viên kỳ cựu đối với cách lãnh đạo tự quyền, phớt lờ những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ tối thiểu, của ông ta. Việc Lê Duẩn chống những nghị quyết của Ðại Hội XX về thực chất là sự bảo vệ quyền lực độc tôn.
Cần phải chặn đứng trào lưu đòi tự do dân chủ âm ỉ đã được Thọ phát hiện. Khẩu hiệu bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin là lá bài tốt. Nó cho phép Ba Duẩn bóp chết mọi mưu toan phá hủy chế độ độc tài. Nó gìn giữ sự an toàn của ngai vàng.
Nhưng không thể trắng trợn theo Bắc Kinh. Ðể chủ soái vui lòng, các lý thuyết gia nội hóa múa bút tạo nên hệ lý thuyết riêng của Lê Duẩn, gồm mấy điểm chủ chốt: một là xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần làm chủ tập thể, hai là tinh thần cách mạng tiến công – tiến công không ngừng, tiến công liên tục, lấn tới từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc dựa trên sức mạnh kết hợp của ba dòng thác cách mạng. Với tư cách lý thuyết gia hàng đầu của cách mạng Việt Nam, thái thượng hoàng hụt cũng ra công giúp rập Lê Duẩn trong mưu toan trở thành một trong những nhà kinh điển mác-xít cấp châu lục trong giai đoạn mới, để chứng minh Lê Duẩn không phải mao-ít. Trường Chinh tự lột xác hay bị lép vế, là điều đến nay còn là bí mật.
Hoàng Minh Chính kể khi Nikita Khrusov nổ phát súng đầu tiên vào chế độ toàn trị và cá nhân Stalin, vào đầu năm 1956, Trường Chinh còn tỏ ra rất hăng hái ủng hộ cuộc cách tân chủ nghĩa xã hội. “Chủ nghĩa xã hội không thể cùng tồn tại với tệ sùng bái cá nhân. – Trường Chinh nói – Chủ nghĩa xã hội là dân chủ, sùng bái cá nhân là phản dân chủ, hai cái như nước với lửa, chỉ có thể là cái này hoặc cái kia, không thể hai cái cùng một lúc. Ðồng chí Khrusov làm thế là phải lắm, mà dũng cảm lắm”. Quan điểm này Trường Chinh không phải chỉ nói với một Hoàng Minh Chính.
Cũng theo Hoàng Minh Chính thì trong thâm tâm Trường Chinh không hài lòng với sự sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh, mà ông ta nhận định là có, tuy ở mức độ không đến nỗi trầm trọng. Còn theo một số người biết Trường Chinh nhiều hơn thì Trường Chinh là người háo danh ghê gớm, nhưng háo danh một cách kín đáo. Ông ta cần chống sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh để kiến tạo sùng bái cá nhân mình. Vì lẽ đó ông ta đã tán thành Khrushov.
Nhà báo Trần Ðĩnh có thời gian giúp việc Trường Chinh cho rằng đặc điểm nổi bật trong con người Trường Chinh là chủ nghĩa giáo điều, kinh viện. Chủ nghĩa xét lại (hiện đại hay không hiện đại là chuyện tầm phào, chuyện ngôn từ khẩu chiến lăng nhăng của đám mao-ít) chưa đủ vững chắc để trở thành giáo điều mới, cho nên Trường Chinh dễ dàng bỏ nó để chạy theo chủ nghĩa thực dụng. Tôi nghĩ rằng nhận xét của anh gần với sự thật.
Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp kiến thức về chủ nghĩa Mác của tôi, cũng như của nhiều anh em khác, chỉ gói tròn trong một mớ chắp vá từ những cuốn triết học nhập môn của Politzer, Trần Văn Giàu, Ðào Duy Anh (Hình nhi thượng học và Hình nhi hạ học). Ngoài ra, có hai trước tác cũng được kể như sách gối đầu giường là cuốn Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam và cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi(10) của Trường Chinh.
Vào thời kỳ này sách rất hiếm, dùng sách phải rất cẩn thận – chỉ cần sơ ý một chút là những trang giấy bản mủn ngay ra trên tay. Nếu chẳng may nhà in đóng thiếu vài trang thì chúng tôi, những kẻ ham đọc, phải cần mẫn chép tay những trang thiếu để dán bù vào cho đủ. Tôi đã chép không biết bao nhiêu trang sách trong thời kỳ đó.
Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp(11) của Roger Garaudy(12). Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville. Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay. Tôi vẫn chịu ơn ông Trường Chinh về những gì tôi đã học được trong hai cuốn sách của ông, đặc biệt về văn chính luận. Cách hành văn của Trường Chinh không những đẹp mà còn trong sáng, dễ hiểu. Còn chuyện như thế có phải đạo văn hay không lại là chuyện khác. Nguyễn Du lấy cốt Ðoạn Trường Tân Thanh mà làm ra Kiều, nhưng không phải vì thế mà người ta coi Kiều là tác phẩm đạo văn.
Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc của ông Hồ Chí Minh cũng là đạo văn nốt. Nó là bản diễn nôm cuốn Chỉnh Ðốn Văn Phong của Mao Trạch-đông cộng một chút Sự Tu Dưỡng Của Người Ðảng Viên Cộng Sản của Lưu Thiếu Kỳ.
Hình như khi mình chưa đủ sức tự làm lấy thì bắt chước người không phải là xấu. Học giả Nguyễn Văn Ngọc(13) khi viết bài: “Tính hay bắt chước của người mình” cũng chỉ mới phàn nàn thôi, chứ cũng không có ý lên án. Tệ nhất là cái khác, như danh họa Picasso nói: “Bắt chước không xấu, tự bắt chước mới xấu”.
Ðáng buồn là sau này, khi Ðảng cộng sản Việt Nam bớt bắt chước người ngoài thì lại sa vào thói quen tự bắt chước, mà lại tự bắt chước rặt những cái xấu.
Tôi đã đi lan man khỏi chủ đề.
Một câu hỏi khác được đặt ra là: vậy thì, trong tình hình vị thế của Lê Duẩn đã vững vàng như thế, ông ta cần gì phải trấn áp những người có ý kiến ngược?
Anh Phùng Mỹ, cán bộ Viện Triết học, trong khi bị giam chung cùng với tôi tại trại Tân Lập, cho rằng chúng tôi chẳng qua là vật hiến tế của Lê Duẩn dâng lên ban thờ Mao Trạch-đông. Ðường lối đánh đu giữa hai cọc, chính chuyên với hai chồng cùng một lúc đã hết thời của nó, chẳng còn lừa được ai. Ban lãnh đạo Ðảng quyết định bắt chúng tôi để chứng tỏ Việt Nam có đường lối đối ngoại độc lập, vừa có tác dụng xoa dịu Mao, vừa làm mình làm mẩy trước Liên Xô.
Trong chuyện đường lối của Ðảng cộng sản Việt Nam thời kỳ ấy, với tất cả sự rối rắm làm nhiều người hiểu theo nhiều cách khác nhau, tôi nhớ tới nhận xét của nhà báo Liên Xô Evguéni Kobélev nói với tôi vào giữa thập niên 60: “Lê Duẩn tỏ ra thân Liên Xô nhiều quá là không có lợi cho Việt Nam đang chống Mỹ”. Tôi cười, không tranh luận. Tôi biết, trong thời kỳ này Kobélev đã đánh mất tính độc lập suy nghĩ của người làm báo. Ông đang viết cuốn Bông Sen Việt Nam ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, ông được các nhà lãnh đạo Việt Nam ưu ái. Cũng có cái nhìn tương tự Kobélev, khi nhân viên KGB ở Việt Nam báo cáo về cho ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Liên Xô biết dường như có một âm mưu đảo chính bất thành vừa xảy ra tại Hà Nội, tức là nhân viên này chẳng biết quái gì về những việc xảy ra. Báo cáo của KGB chỉ chứng tỏ Liên Xô không hề nhúng tay vào chuyện âm mưu đảo chính, như Lê Ðức Thọ vu cáo. Về bản báo cáo của KGB tôi chỉ được biết vào năm 1993, do chị Inna Malkhanova, một nhà Việt Nam học người Nga kể lại. Chị được nghe nội dung bản báo cáo nói trên vào năm 1968, được đọc nguyên bản năm 1991, khi có điều kiện tiếp cận những kho tư liệu mật và tối mật của Ðảng và Nhà nước xô-viết.
Trong thực tế, theo tôi, cuộc đấu tranh về quan điểm, đường lối mang tính chất dung tục, tính chất đời thường hơn người ta nghĩ. Trong nỗi lo lắng về quyền lực của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lồ lộ như một hiểm họa. Chính vì thế mà Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ bao giờ cũng nhất quán trong mục tiêu hạ uy thế tướng Giáp. Cả hai hiểu rất rõ rằng vị trí cao nhất trong Ðảng lẽ ra phải thuộc tướng Giáp, chứ không thuộc về họ và tướng Giáp là người bất cứ lúc nào cũng có thể thay thế họ một khi họ trượt chân.
Trong cách tính toán của Duẩn – Thọ có sự đánh giá quá cao đối thủ!
Họ quá lo sợ trước uy tín của tướng Giáp trong quân đội. Họ quá lo sợ trước vầng hào quang người chiến thắng Ðiện Biên trong dân chúng. Tội thay, trên thực tế tướng Giáp không phải là đối thủ của cả Lê Duẩn võ biền lẫn Lê Ðức Thọ mưu lược. Chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận của Lê Duẩn chưa kịp đem ra dùng cho tướng Giáp thì tướng Giáp đã cài số lùi rồi.
Tôi đã nói tới chuyện nhà cầm quyền e dè trí thức như thế nào. Ðúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật. Người ta tin tướng Giáp, bởi vì ông đã từng là “giáo sư trường Thăng Long”, chẳng gì cũng là trí thức, là người có học, chứ không phải loại dùi đục chấm mắm cáy.
Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ. Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, những chiến hữu của ông, ông đã không dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né qua một bên, mặc cho Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ muốn làm gì thì làm. Như một kẻ vô can, ông hiền lành khoanh tay nhìn cuộc khủng bố trắng diễn ra trước mắt.
Bây giờ thì ai cũng biết những người bị bắt trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” không hề có liên quan gì với tướng Giáp trong bất cứ mưu mô nào. Việc Lê Ðức Thọ đính họ vào tướng Giáp là sự ngụy tạo hoàn toàn. Âm mưu đảo chính không hề có. Thọ làm những việc đó chỉ để vu vạ cho tướng Giáp, để hạ bệ tướng Giáp, kẻ thù tiềm tàng, kẻ thù khả dĩ của Duẩn-Thọ mà thôi.
Những người bị Ðảng coi là xét lại biết rõ Võ Nguyên Giáp chẳng đại diện cho ai. Ông chưa từng và không hề là đối cực của liên minh Duẩn-Thọ. Chưa bao giờ ông dám chống lại những chủ trương của liên minh này. Ông có những bực mình nho nhỏ với Lê Duẩn, là chuyện có thật, nhưng không hơn. Ông có đưa ra một số vấn đề hiện đại hóa quân đội, tức là có đi ngược tí chút với đường lối lấy chiến tranh du kích chống chiến tranh hiện đại của đương kim tổng bí thư và tướng Nguyễn Chí Thanh, nhưng ông không dám hé răng nói lấy một lời về dân chủ và tự do là những vấn đề cốt lõi của mọi phong trào phản kháng.
Ðiều làm tôi phải suy nghĩ là: nếu Duẩn-Thọ muốn dùng chúng tôi làm dê tế thần trong đền thờ Mao thì thời điểm 1967 đâu có phải là thời điểm đẹp nhất để dâng hương. Ðáng lẽ phải làm việc này sớm hơn nhiều, từ đầu năm 1964 kia, bởi vì đó mới là thời điểm Mao và ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Trung Quốc cần Việt Nam có thái độ dứt khoát trong cuộc xung đột quan điểm giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa.
Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã không bắt chúng tôi vào cuối năm 1963, hoặc 1964, hoặc chậm hơn nữa – 1965. Họ đã không làm gì hết. Họ tử tế, nhân đạo với các đồng chí chăng? Họ tôn trọng luật pháp, chỉ bắt khi đã hội thật đầy đủ những cái theo họ là chứng cứ chăng? Ðó là điều không ai biết. Có vẻ như họ cắn răng chịu đựng bọn xét lại ngang tàng dám cãi bướng bề trên thêm mấy năm nữa, tới tận 1967 mới xuống tay.
Hóa ra không phải thế.
Duyên do là giữa canh bạc quốc tế mà hai tay chơi khát nước Duẩn-Thọ lao vào với vận mệnh Tổ quốc giắt lưng, cả hai bỗng giật mình thấy xì thẩu láng giềng đang sa vào bĩ cực. Bắc Triều Tiên bắt đầu đánh trống lảng. Anbani đột nhiên lừng chừng, lập trường chẳng ra ngô cũng chẳng ra khoai. Mặc dầu quan hệ Cuba-Liên Xô lủng củng, nhưng Cuba không ngả về phía Trung Quốc. Ông luật sư Fidel Castro thừa hiểu rằng ở Trung Quốc không có gì của chủ nghĩa Mác, rằng dưới sự lãnh đạo của ông giáo làng ở Hồ Nam cả một đại lục mênh mông đang biến thành một chảo tạp pí lù lổn nhổn thịt xương đồng chí. Các đảng cộng sản mất dần uy tín trong quần chúng, đảng viên ra đảng ngày một nhiều. Trong Ðảng Lao động Việt Nam cũng xuất hiện sự phân hóa về quan điểm quốc tế, sự hoài nghi đường lối thân Trung Quốc của ban lãnh đạo Ðảng.
Nhưng Duẩn-Thọ là người cẩn thận. Họ không dại gì tỏ ra cứng đầu với ông đồng chí nông dân vùng Ukraina vốn nóng tính. Ngộ nhỡ ông ta nổi cơn giận lôi đình cắt giảm những khoản viện trợ khổng lồ cho cuộc chiến tranh ngày một tốn kém thì sao?
Chỉ từ đầu năm 1967 trở đi, sau khi biết chắc chắn rằng Leonid Brezhnev không phải là Khrusov, rằng đồng chí Brezhnev ưa các cuộc liên hoan trao huân chương hữu nghị và sưu tầm xe ô tô du lịch hơn là những cuộc cãi vã đã kiên quyết đưa Liên Xô trở về lối cũ, họ mới dám xuống tay diệt trừ hậu họa(14).
Ðến đây kẻ đánh lên tiếng kẻng báo động về một đường lối sai lầm mới bị hạ ngục.
(1) Tên thật là Hà Văn Lộc, một nhà báo tên tuổi trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
(2) Ðơn đặt hàng (commande, tiếng Pháp)
(3) Phóng viên làm việc cho nhiều tờ báo Úc, thân Mao.
(4) Nhà triết học, từng ở Pháp nhiều năm, xu hướng mác-xít, tác giả Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng), Paris 1951. Từng làm chủ nhiệm bộ môn triết ở Ðại học tổng hợp Hà Nội, đề xướng hạt nhân duy lý, bị cấm giảng dạy, nhưng được phép sống vất vưởng trong sự đe nẹt và o ép.
(5) Từ năm 1956 Trường Chinh đã không còn là tổng bí thư Ðảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức – chủ tịch Ðảng và tổng bí thư. Tân tổng bí thư chỉ được bầu chính thức trong Ðại hội III (1960).
(6) Hồi ấy đã có một bài hát khá phổ biến, tôi không nhớ tên tác giả, với những lời lẽ như sau: “Sông núi này bừng lên xanh tươi vui đón Ngày mai. Ta đón chào Tương lai ta vẫy tay chào đồng chí. Ta hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh. Bao năm lo cho đất Việt tự do…”
(7) Ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Trung Quốc phụ trách tổ chức và an ninh.
(8) Theo điều lệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương là cơ quan trông nom công việc tổ chức và nhân sự của Ðảng. Ðáng chú ý là Ðảng Công nhân Dân tộc Xã hội chủ nghĩa Ðức (mà ta quen gọi là Ðảng Quốc Xã) cũng lập ra một cơ quan tương tự là Gestapo (Geheime Staatspolizei) để bảo vệ Ðảng Quốc Xã và nhà nước phát-xít. Lúc đầu (1933) Gestapo chỉ là bộ phận chính trị của nước Cộng hòa Weimar, sau phình to ra với quyền lực vô biên. Mục đích của Gestapo (cũng như của các thứ Ban tổ chức Trung ương nói trên) là tiêu diệt mọi lực lượng chính trị chống đối nhà nước phát-xít. ê Liên Xô cơ quan có chức năng tương tự là KGB (Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti) với một chút khác biệt: về danh nghĩa nó trực thuộc Hội đồng bộ trưởng, trong thực tế nó thực hiện những mệnh lệnh trực tiếp từ Bộ Chính trị của Ðảng, phối hợp chặt chẽ với MVD (Bộ Nội Vụ). Sự tương đổng này cho ta thấy cơ cấu nhà nước phát-xít và nhà nước xã hội chủ nghĩa có giống nhau.
(9) Ba đảm đang – phong trào do Ðảng cộng sản đề xướng, nhằm động viên lực lượng phụ nữ phục vụ chiến tranh.
(10) Tháng 7 năm 1948 tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II, Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng: Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam. Cuốn Trường Kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi ra đời vào giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
(11) Le Marxisme et la Renaissance de la culture Francaise, Edit. Sociale 1946 (?).
(12) Nguyên ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Pháp, trong thập niên 60 tuyên bố tự do sáng tác, không cần đến Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa Hiện Thực Không Kiềm Tỏa (Réalisme Sans Rivage), bị các giới chức văn hóa Việt Nam lên án dữ dội, coi như một thứ hoa độc trong văn học.
(13) (1890-1942), tác giả nhiều sách giáo khoa, sách giới thiệu văn học dân gian và văn học cổ Việt Nam.
(14) Tháng 10 năm 1964 Nikita Krusov bị hạ bệ, nhưng ở Liên Xô về đường lối đối nội và 61 ngoại dường như không có gì thay đổi. Trung Quốc vẫn gọi bộ ba Leonid Brezhnev, Aleksei Kosyghin, Nikolai Podgorny là “cỗ xe tam mã của tên xà ích giấu mặt” (chữ dùng của tờ Pekin Information). Do đó ban lãnh đạo Ðảng Việt Nam vẫn còn e ngại, chưa dám thẳng tay đàn áp những người cộng sản đòi mở rộng dân chủ.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:06:44 GMT -6
Chương 19
Cứ như sự giải thích của Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương Ðảng khóa VI (1986-1991) vào tháng 11.1991 thì từ đầu những năm 60 Ðảng đã phát hiện một nhóm chống Ðảng mà hạt nhân gồm ba người: Ðặng Kim Giang, Vũ Ðình Huỳnh, Hoàng Minh Chính; rằng nhóm này từ tháng 9 năm 1963 đã chủ trương phá hoại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, âm mưu truất bỏ Trung ương nhằm lập ra một Trung ương mới…
Ðể tăng thêm tính thuyết phục người ta dẫn đoạn trích lời khai của Hoàng Minh Chính: “Ngay từ khi mới thành lập, tổ này (tổ lãnh đạo 3 người) đã mang đầy đủ tính chất và nhiệm vụ của Ban chấp hành Trung ương tương lai” mà mục tiêu là “truất bỏ Trung ương đi, quyết định ra đường lối mới và bầu ra Trung ương mới để điều hành”.
Ai cũng biết rằng cái Ban Tư tưởng – Văn hóa chẳng có nghĩa gì, bản thân nó. Nhưng nó là cái mà ta phải lắng nghe, bởi vì nó phát cái ngôn chính thức của ban lãnh đạo Ðảng.
Khốn nạn, những người đứng đầu một đất nước có bốn ngàn năm lịch sử mà nghĩ như thế đấy, mà tuyên bố bằng giấy trắng mực đen như thế đấy! Cứ như thể họ đang hoa chân múa tay ở Châu Quỳ(1) chứ không phải đang ngự trong những dinh thự đủ tiện nghi hiện đại giữa đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Ôi chao, mấy ngài là cái gì mà ghê gớm vậy? Mà thiêng liêng vậy? Ðến mức không phải dân đen con đỏ mà chính những đảng viên bầu ra mấy ngài cũng không có quyền, không được phép nghĩ đến sự thay thế các ngài bằng người khác? Trong khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa quyền bầu thì có, quyền bãi miễn thì không, biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Nhưng không có quyền là một chuyện. Ðây lại là có tội kia. Thế nào là phá hoại Hội nghị Trung ương? Bắn đại bác vào nơi Trung ương đang họp chăng? Hay đặt mìn?
Hoàn toàn không có chuyện như vậy. Thậm chí nếu đa số ủy viên Trung ương đề nghị một Ðại Hội bất thường để bầu ra một Trung ương mới, là việc không lạ ở các đảng phái khác, thì ở đây người ta đã tri hô lên rằng có âm mưu lật đổ.
Cứ cho rằng Hoàng Minh Chính đã có những ý nghĩ phản loạn đi, thậm chí đã có một kế hoạch lật đổ được tìm thấy trong chuồng xí nhà ông ta đi. Thử hỏi ở nơi nào trên trái đất này, trong thời đại này, những người tự xưng là văn minh lại dám ngang nhiên xử tội con người dựa trên những ý nghĩ của họ, nhất là khi họ đang nằm trong tay cơ quan công an, hoặc dựa trên lời khai của người khác về họ, mà người khác này cũng đang ở trong trại giam nốt?
Cách luận tội như vậy chỉ có được trong một xã hội mông muội mà thôi.
Tôi, với tư cách tù nhân trong cái gọi là vụ án “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng”, thế tất tôi phải là người thuộc nhóm đó, là điều rõ ràng như hai với hai là bốn. Vậy mà tôi phải ở tù chín năm và chờ thêm mười tám năm nữa mới được Ðảng cho biết nhóm đó chủ trương cái gì (!). Vui thật!
Buồn cười nữa là cả hai vị tổng bí thư kế tiếp nhau – Nguyễn Văn Linh và Ðỗ Mười – không ai bảo ai đều cùng khăng khăng một mực khẳng định rằng Ðảng vô cùng sáng suốt của các vị không sai một li ông cụ nào trong việc giải quyết vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”.
Có lẽ trí nhớ của người già không được tốt cho lắm, cho nên cả hai vị đều quên những gì xảy ra tiếp theo, khi những người tù được thả, khi vụ án coi như được khép lại.
Tôi kể lại cho các vị nghe nhá? Rồi sau đó các vị cứ cho quân đi thẩm tra xem có đúng vậy không, tôi bịa chuyện hay sự thật đúng là như thế?
Khoảng đầu thập niên 80 Lê Ðức Thọ, bậc tiền bối của hai vị, đã lặng lẽ cho quân đến gặp từng người trong vụ án. Hoàng Minh Chính, Lưu Ðộng, Lê Trọng Nghĩa, Trần Thư, Hoàng Thế Dũng…đều được Ðảng của Thọ (chứ không phải Nhà nước) quyết định cho lĩnh một thứ lương không ra lương, trợ cấp không ra trợ cấp, gần giống như lương hưu, trừ anh Phan Thế Vấn và tôi đã từ chối không nhận như đã nói ở trên.
Cha tôi cũng được Thọ mời đến nhà. Không hiểu hai người trò chuyện những gì trong bữa cơm tối chắc chắn không ngon lành, trở về cha tôi nói: “Thằng Thọ nói thối lắm, không ngửi được. Nhưng thôi, nó đã biết lỗi, thì mình cũng không nên chấp nhặt”. Thọ lại mời mẹ tôi tới. Thọ nói muốn khôi phục mọi quyền lợi cho cha tôi. Mẹ tôi không nhận: “Anh làm thế tôi còn mặt mũi nào nhìn những anh em bị oan ức khác. Không, nếu anh thực lòng muốn giải quyết thì phải giải quyết cho tất cả mọi người.”
Năm 1985 Thọ tới gặp ông Ung Văn Khiêm tại Sài Gòn. Ông Khiêm kể: “Nó tới, tao đang tắm cho heo. Bác gái báo tin, tao biểu cứ để cho nó đợi, con heo quan trọng hơn. Tắm heo xong, tao lên nhà, nó vẫn ngồi đó. Anh Ba, nó nói, Bộ Chính trị muốn mời anh trở lại gánh vác việc nước”. Tao biểu nó: “Nếu đất nước lại lâm nguy, chẳng cần ai kêu Ba Khiêm nầy cũng chống gậy tới xin Nhà nước một việc vừa sức mình cùng bà con đánh giặc. Còn bây giờ đất nước thanh bình, mình già rồi, nghỉ đi cho con cháu làm, kẻo chúng nó chửi mấy thằng già mắc dịch, già hổng trót đời, còn tham quyền cố vị”. Thọ đỏ mặt cáo từ.
Ông Ba Khiêm bằng lòng trở lại Ðảng. Theo thủ tục, ông phải làm lại lý lịch. Ông đọc cho cô thư ký được người ta cử tới ghi: “Chiến đấu liên tục vì sự nghiệp giải phóng dân tộc từ 1930 với tư cách người cộng sản. Bị Ðảng khai trừ năm 1968…” Mấy tay cán bộ tổ chức Ðảng đọc bản lý lịch, tá hỏa đòi ông bỏ đoạn đó đi cho thì ông đáp: “Thằng Ba Khiêm nầy trước nay sống quang minh chánh đại, chưa dối Ðảng một lần, đây là việc Ðảng làm, là việc có thiệt hẳn hoi, mà lại biểu Ba Khiêm nói hổng có, là cớ làm sao?”.
Thời thế đã khác. Kể từ ngày Hồng quân Trung Hoa theo lệnh Ðặng Tiểu Bình vượt biên giới sang đất ta để dạy “cho Việt Nam một bài học” ngành truyền thông Việt Nam quay ngoắt 180o chửi bới chủ nghĩa Mao và những nhà lãnh đạo Trung Quốc sau Mao hết lời. Tôi còn nhớ cảm giác khi được đọc cuốn Chủ Nghĩa Mao Không Có Mao của Nhà xuất bản Thông tin Lý Luận năm 1982. Tôi rùng mình trước sự tráo trở. Cứ như trước đây họ chưa từng nuốt chửng từng lời của Bác Mao vĩ đại!
Lê Ðức Thọ ân hận với việc làm tàn nhẫn lúc trước, hoặc hiểu rằng mình đã đi quá xa trong sự vi phạm luật pháp mà có biện pháp giải quyết như trên, cũng là điều không ai biết. Chỉ biết rằng ở Việt Nam chẳng có cơ sở pháp lý nào để trả lương hưu cho những tội phạm đã nhiều năm không làm việc. Chính quyền làm cách nào để hợp pháp hóa khoản tiền ấy cũng không ai biết, là chuyện tù mù.
Nhưng thôi, ta hãy quay lại với những ngày cuối năm 1967.
Viết xong bản báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, tôi mệt thừ.
Tôi phải cố gắng vượt qua mình, vượt qua cảm giác nhục nhã. Sau, tôi xót xa thương nhà cách mạng Sao Ðỏ, bác Cả Hà Ðông của tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng ra mặt. Nếu tôi đã chịu viết báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, có nghĩa tôi sẽ chịu viết về những người khác.
Một điều nữa làm tôi thắc mắc là không hiểu sao ông Nguyễn Lương Bằng hiền lành là thế mà cũng bị chúng để ý? Chắc chắn ông không phải là người chống lại chúng, kể cả khi chúng lộng hành, vượt qua phép nước. Phải có một lý do nào chứ?
Tôi nhớ rất lâu câu chuyện ông kể cho chúng tôi, những đứa cháu bé bỏng của ông, về lần đầu ông qua Thượng Hải: “Bác mới từ trong nhà vệ sinh công cộng ở ngoài phố bước ra thì thấy có một cô lật đật chạy đến tươi cười chìa cho bác cái khăn tay thơm phức. Bụng bảo dạ: sao mà ở đây người ta lịch sự thế không biết! Hóa ra không phải. Bác vừa cảm ơn, định bỏ đi thì cô ta níu chặt lại, nói líu lô một tràng. Bác không biết tiếng Tàu, không hiểu cô ta nói gì, cô ta xí xộ hồi nữa rồi lấy tay chỉ vào túi bác. Thì ra người ta chực ở chuồng xí đưa khăn cho mình lau tay là để kiếm tiền, các cháu ạ. Bác lúng túng, chẳng biết đưa bao nhiêu cho phải, thôi thì đưa tuốt cho cô ta số tiền bác dành ăn bữa trưa. Tiếc đứt ruột!”. “Thế rồi bác nhịn bữa trưa à?”, chúng tôi hỏi. “Thì nhịn vậy chứ sao?! Bác chưa tìm thấy người của mình, lúc ấy phải dè xẻn từng xèng(2), các cháu ạ”.
Thời gian ở lại nhà tôi sau cuộc vượt ngục Sơn La, ông cư xử với lũ trẻ chúng tôi như một ông bác thật sự. Lúc mới về đến Hà Nội, gày rộc và xanh lướt, ông còn chịu ăn những món riêng mẹ tôi nấu cho để bồi bổ sức khỏe, sau đó ông nhất định không ăn nữa, “để cho các cháu, tôi khỏe chán”, ông nói. Trong bữa ăn ông ý tứ nhường cho chúng tôi món chúng tôi thích, mẹ tôi giục ông ăn ông chỉ cười xòa, chứ không đụng đũa. Lúc nào rỗi rãi ông lại bày trò cho chúng tôi chơi, kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe. Trò của ông không hay và đơn điệu, chuyện của ông phần lớn chúng tôi đã được nghe, nhưng chúng tôi thích quanh quẩn bên ông bởi vì chúng tôi cảm được tình yêu của ông dành cho chúng tôi. Ngược lại, ông cũng được chúng tôi yêu mến. Hồi đó, tuy nhiều tuổi hơn cha tôi, ông vẫn độc thân.
Nguyễn Lương Bằng là người khiêm nhường. Ông không nổi bật trong đám đông, không phải chỉ hồi đó mà cả sau này, khi ông đã giữ những chức vụ quan trọng trong Nhà nước. Tính ông thế. Trong những cuộc họp Ðảng tại nhà tôi Nguyễn Lương Bằng ngồi nép trong một góc với nụ cười rất hiền, như thể ông bẽn lẽn, trong khi các đồng chí của ông nói nhiều và hùng hồn, nhất là ông Hạ Bá Cang. Vì tôi là đứa trẻ cho nên người lớn không ngó ngàng gì đến tôi, tôi học bài bên cạnh họ khi họ họp và tha hồ quan sát. Hạ Bá Cang là đối cực của Nguyễn Lương Bằng. Lùn tịt, hói đầu, ông không ngồi mà đứng tựa vào lò sưởi, chân nọ vắt qua chân kia, thỉnh thoảng mới phát biểu, đã nói thì nói dài, nói dai, không cho ai xen vào. Hạ Bá Cang khôn lắm, ông thường chờ cho mọi người nói xong mới nói, gay gắt sửa lại ý kiến của họ. Hạ Bá Cang thích vượt lên trên người khác, không cho phép ai cãi lại. Ông muốn mình phải là con công trong đàn gà. Nguyễn Lương Bằng không thế, ông sẵn sàng làm gà, miễn không phải tham gia tranh luận. Ông không thích lý thuyết. Nó không hợp với tạng ông. Nó quá sức ông. Nhưng đó là điều sau này tôi mới hiểu.
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp Nguyễn Lương Bằng làm giám đốc Công ty Bắc Thắng ở Tuyên Quang. Ông làm công tác kinh tài cho Ðảng từ hồi bí mật. Cha mẹ tôi là hai người cộng sự.
Bề ngoài Công ty Bắc Thắng chuyên sản xuất lương khô cho bộ đội. Những cái bánh nướng hình khối chữ nhật nhỏ hơn bìa đậu phụ một chút bằng bột đậu xanh trộn bột gạo có pha đường ăn rất ngon. Bề trong, công ty lo toan mọi khoản chi tiêu cho chính phủ kháng chiến. Công ty mua gom thuốc phiện ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, rồi bán qua Thái Lan lấy tiền mua súng đạn cho bộ đội. Chính phủ vừa mới tuyên bố xá mọi thứ thuế, lại không có nguồn thu này khác cho nên việc buôn ma túy trở thành nguồn thu nhập chính. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi chẳng thấy một ai nói tới hoạt động này trong những hồi ký cách mạng và kháng chiến.
Lao vào hoạt động kinh tế, Nguyễn Lương Bằng chìm đắm trong đó, chẳng được biết đến, không có tên tuổi trong nhân dân xứng với vị trí và uy tín của ông với tư cách một nhà lãnh đạo.
Nhưng người Pháp không quên ông. Mùa hè năm 1947 địch lần ra dấu vết những hoạt động của Nguyễn Lương Bằng. Bốn máy bay Spitfire quần đảo bên trên kho thuốc phiện của ông ở cây số 7 đường Tuyên-Hà, bắn “đui-xết” (12,7 ly) không ngừng cho tới khi cái kho cháy trụi. Vụ thiệt hại rất lớn – hơn bốn tấn thuốc phiện biến thành khói. Ông gày rộc đi sau trận oanh kích bất ngờ. Hôm đó tôi ở gần cái kho bị cháy. Mùi thuốc phiện cháy gây gây, ngầy ngậy lan đi rất xa. Ông Nguyễn Lương Bằng đi chân đất bụi phủ bạc phớ lủi thủi trên con đường hàng tỉnh, mặt bệch như xác chết.
Sau năm 1947 tôi không gặp ông trong một thời gian dài.
Gặp lại ông vào tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, chính phủ kháng chiến trở về thủ đô giải phóng, tôi ngỡ ngàng. Trông ông khác hẳn ông Nguyễn Lương Bằng ngày trước. Trong bộ đồ Tôn Trung Sơn bằng kaki Mỹ, chễm chệ trong chiếc Pobeda sang trọng, ông đến thăm mẹ tôi và lũ cháu của ông. Mặt phương phi, tiếng sang sảng, ông vui vẻ hàn huyên với mẹ tôi về những ngày gian khổ đã qua.
Tôi còn gặp ông nhiều lần khi ông làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô. Thỉnh thoảng, khi nào được nghỉ học tôi lại ghé thăm ông. Là người quen hoạt động, vai đại sứ ngồi một chỗ với những bữa tiệc khoản đãi liên miên làm ông chán ngán. Trong bộ pi-gia-ma nhàu nát ông ngồi ủ rũ trong phòng ngủ, bên chồng bản tin tiếng Việt, không bước chân ra ngoài. Một hôm ông giữ tôi lại ăn cơm. Bữa ăn chỉ có hai bác cháu. Nguyễn Lương Bằng uể oải nhai từng miếng. Ðột nhiên, ông đăm chiêu bảo tôi: “Cháu nhớ lấy điều này để sau biết cách mà sống: đàn bà, cháu ạ, một người thì đoàn kết, hai người thì chia rẽ. Ðừng bao giờ tin có hai người đàn bà ở chung mà lại thương yêu nhau”. Tôi ngạc nhiên. Ông nói với tôi chuyện ấy để làm gì. Hóa ra trong đại sứ quán vừa có vụ cãi lộn – một bên là bà đại sứ, một bên là cô văn thư hay quản lý chi đó.
Mặc dầu đã về hưu cha tôi thỉnh thoảng vẫn đến chơi với ông. Những cuộc gặp gỡ càng về sau càng thưa dần. Từ nhà ông về, cha tôi buồn thiu. Tôi đoán hai người không có sự nhất trí trong nhiều vấn đề, đặc biệt là những vấn đề thời sự về đường lối trong phong trào cộng sản. Khi các bạn hỏi ông về quan điểm của Sao Ðỏ thì ông chỉ cười xòa rồi lảng qua chuyện khác.
Cha tôi không hiểu Nguyễn Lương Bằng. Ông vốn yêu bạn. Do yêu bạn, ông kỳ vọng ở bạn quá nhiều. Lẽ ra cha tôi phải biết Nguyễn Lương Bằng là người thế nào. Ông Bằng chưa bao giờ quan tâm tới lý thuyết, cho dù là lý thuyết cách mạng. Tính tình quá lành, ông không thích hợp với bất kỳ cuộc đấu tranh nội bộ nào. Việc ông lúng túng trong cuộc xung đột giữa hai người đàn bà là một thí dụ.
Huỳnh Ngự vắt chân chữ ngũ đọc báo cáo của tôi về Nguyễn Lương Bằng, thỉnh thoảng gật gù cái đầu. Tôi biết, nội dung bản báo cáo không thể làm y hài lòng, y chỉ mới hài lòng về sự thuần phục của tôi thôi.
– Anh uống trà đi kẻo nguội.
Y mời tôi. Chúng tôi cùng uống. Trà nóng hổi, ngát hương.
Nhưng tôi chẳng có tâm địa nào để thưởng trà. Tôi nhìn Huỳnh Ngự đọc bản báo cáo tôi vừa hoàn thành, cố đoán thái độ của y. Nhưng mặt y là cuốn sách viết bằng thứ ngoại ngữ tôi không biết. Có lúc tôi đã nghĩ y muốn thử gân tôi, xem tôi chịu y tới mức nào.
Nhưng xem ra không phải. Y hỏi nghiêm túc. Ðúng là Nguyễn Lương Bằng bị nghi ngờ thật. Hẳn bề trên Huỳnh Ngự hẳn cho rằng cha tôi và Nguyễn Lương Bằng thân nhau, thì có thể moi ở tôi những điều bí mật giữa hai người. Cha tôi không nói, nhưng do khờ dại tôi sẽ nói.
Trong báo cáo tôi miêu tả một Nguyễn Lương Bằng tận tụy với dân với nước, rất mực liêm khiết. Ðó là sự thật. Tôi không nói tới một Nguyễn Lương Bằng ngày càng hồng hào và đẫy đà, quay mặt đi trước cuộc sống. Có lần tôi kể cho ông nghe về đời sống lầm than của dân chúng ở những vùng tôi đi qua, ông tỏ vẻ không tin. Tôi rủ ông: “Bác cải trang rồi vi hành đi cùng cháu, như ngày trước bác cháu mình vẫn đi cùng nhau ấy, cháu sẽ chở bác đi bằng xe máy, cháu đi xe máy thạo, cháu không làm ngã bác đâu, bác sẽ xem xét cuộc sống của đồng bào bây giờ ra sao rồi tự rút ra kết luận”. Ông nghe, cười trừ.
Tôi cũng không nói tới nhận xét của các đồng chí cách mạng cao niên về tính dao động, lưỡng lự giữa các quan điểm đối lập, không dám quyết đoán khi cấp trên chưa ra lệnh ở ông. Nói nhược điểm của ông ra cho công an biết để chúng lợi dụng hay sao?
Một bản báo cáo như thế chẳng có giá trị gì. Nó như vị hoài sơn trong thang thuốc bắc, tính lành, không công cũng không phạt.
Nhờ những cuộc hỏi cung tôi hiểu ra rằng trong cái tranh tối tranh sáng của tình hình từ lâu vốn không rõ ràng giữa lợi ích của cách mạng và quyền sống của con người, giữa cái buộc phải tạm thời hy sinh cho thắng lợi cuối cùng với cái bị chà đạp đã có những cái vòi bạch tuộc nhầy nhụa mò mẫm kiếm chác.
Mặc dầu đã nắm trọn quyền hành trong tay, liên minh Duẩn-Thọ trong giai đoạn này chưa đủ tự tin để muốn làm gì thì làm. Riêng đối với Nguyễn Lương Bằng, họ vẫn còn chút e dè. Dù sao ông cũng là người nổi tiếng chính trực, liêm khiết, lại đang cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sạch của Ðảng. Tôi đoán họ sợ ông sẽ nhân danh chức trách của mình mà xông vào đòi thanh tra vụ án, đòi đưa vụ án ra trước Ban chấp hành Trung ương và chuyện sẽ thành rùm beng. Phải chăng việc bắt tôi phải khai về Nguyễn Lương Bằng để lộ ra nỗi lo ngại ấy?
Nếu nghĩ như vậy thì họ lầm to.
Họ không hiểu Nguyễn Lương Bằng. Như một nghịch lý, nhà cách mạng kiên cường Sao Ðỏ lại không phải là người đáng ngại đối với bất kỳ ai. Tại sao lại như vậy, tôi không hiểu, nhiều người không hiểu. Ông sợ đấu tranh sẽ dẫn tới mất đoàn kết? Hay ông sợ cái gì khác? Chỉ biết rằng trong Cải cách ruộng đất, khi những người từng có liên hệ với ông để ủng hộ cách mạng bị đấu tố, bị bắn giết, bị bức tử, bị cầm tù, ông biết cả đấy, ông nhìn thấy cả đấy, ông linh cảm thấy Ðảng sai đấy, nhưng ông chỉ dám thổ lộ với cha tôi, thế thôi, chứ không hơn. Lẽ ra phải lớn tiếng phản đối, chí ít thì cũng phải can ngăn những kẻ lộng hành thì ông lại im lặng, không dám động ngón tay út để cứu người vô tội. Mà ông sợ cái gì kia chứ? Trường Chinh tuy không trọng ông về học thức nhưng rất nể ông vì quá trình hoạt động và uy tín cách mạng.
Tâm sự với ông Lê Giản, cha tôi nhận xét người tù Nguyễn Lương Bằng có thừa dũng khí đấu tranh với Coussot, nhưng lúc cần đứng về phía lẽ phải để bảo vệ nhân dân thì ông quan lớn Nguyễn Lương Bằng lại trùm chăn, chẳng dám hé răng. Mà tiếng nói của Nguyễn Lương Bằng là tiếng nói có trọng lượng, được những người lãnh đạo lắng nghe. Nghe cha tôi than phiền, Lê Giản cười buồn bã. Từ lâu, Lê Giản nói, ông đã biết Nguyễn Lương Bằng là người thế nào. Nguyễn Lương Bằng đọa ra thế, theo ông, là do trình độ hiểu biết kém, đã lười suy nghĩ lại quá ỷ lại vào Hồ Chí Minh. Trong khi Hồ Chí Minh chưa có ý kiến, Nguyễn Lương Bằng chui vào cái vỏ ốc ý thức tổ chức để trốn tránh trách nhiệm cá nhân, trốn tránh lương tâm.
Tôi cũng không trông đợi nhiều ở Nguyễn Lương Bằng. Tôi nghĩ ông không phải là người vì tình bạn thân thiết với cha tôi, với các bạn tù Sơn La cũ, vì những kỷ niệm đã trôi tít mù xa vào quá khứ mà dám đối mặt với Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Tôi biết, trong thâm tâm, ông tin chắc các đồng chí của ông không phản bội cách mạng. Nhưng bị Lê Ðức Thọ xuyên tạc, ông nghĩ họ sai về quan điểm đối với cuộc đấu tranh giữa hai đường lối mà Ðảng đã có nghị quyết, cho nên mới bị coi là phản cách mạng. Bây giờ không cứ theo Tây mới là phản cách mạng. Bây giờ cứ không đồng ý với Trung ương đã là phản cách mạng rồi. Nếu không phải là phản cách mạng thì sao Bác lại đồng ý để cho bắt? Có nghĩa các đồng chí ấy bị bắt là phải. Lập luận ấy tiện lợi cho ông. Nó bẻ hết răng cái lương tâm vốn đã móm mém.
Ông cũng không có tham vọng làm Bao Công. Ðể làm Bao Công phải có cả khí phách lẫn uyên bác. Nguyễn Lương Bằng không có cả hai. Chao ôi, trải qua bao nhiêu gian truân khổ ải làm cách mạng để rồi phải sống run rẩy trước những đồng chí hôm qua, để bị những đồng chí hỉ mũi chưa sạch khinh rẻ – thân phận nhà cách mạng Sao Ðỏ mới thảm hại làm sao, mới đáng thương làm sao!
Tiếp theo báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, Huỳnh Ngự mới bắt tôi viết tiếp những báo cáo khác về Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, Trần Minh Việt…mà theo tôi, lẽ ra y phải bắt tôi viết từ lâu trước đó. Tôi viết lăng nhăng những báo cáo nhạt nhẽo, chỉ để chứng tỏ tôi không bướng, bảo tôi viết thì tôi viết. Hơn thế, tôi còn tỏ ra sốt sắng hoàn thành những yêu cầu do Huỳnh Ngự đề ra. Nhưng hiểu biết của tôi có hạn, tôi không thể viết gì hơn những điều tôi biết. Huỳnh Ngự đành chịu.
Tôi không ngạc nhiên nghe Huỳnh Ngự hỏi về Võ Nguyên Giáp:
– Anh Hiên nè, lâu nay anh có gặp đại tướng lần nào không nhỉ?
– Ðại tướng nào?
– Còn giả cách! Ðại tướng của các anh ấy! Tôi muốn được nghe ít chuyện về đại tướng của các anh.
Y hỏi tôi bằng giọng nhẹ nhàng, như thể chẳng có gì quan trọng, nhân tiện thì hỏi.
Tôi cho rằng Huỳnh Ngự thấy tôi bướng, y hiểu với tôi phải hỏi cung theo cách khác, mềm dẻo, nhẹ nhàng muốn tốt, bởi vì tôi mà khùng lên thì tôi sẽ không nói gì hết, dục tốc bất đạt. Tôi biết trước sau gì y cũng đặt câu hỏi đó ra. Tôi có ý chờ. Biết tôi có quan hệ gần gụi với tướng Ðặng Kim Giang, Huỳnh Ngự không thể không khai thác mối quan hệ đó, chửa biết chừng tôi lại cho họ một cái gì dẫn tới tướng Giáp cũng nên.
Câu hỏi của Huỳnh Ngự đánh động trí tưởng tượng, bắt tôi tìm kiếm, nhớ lại, sắp xếp những sự kiện, phân tích chúng, dựng nên những giả thuyết để cuối cùng có được bức tranh toàn cục hữu lý, với tư cách câu trả lời lô-gích cho những thắc mắc.
Cần phải ngược dòng thời gian về với cuộc kháng chiến chống Pháp để hình dung toàn bộ bối cảnh lịch sử.
Ðêm 19 tháng 12 năm 1946 nước Việt Nam vừa mới tuyên bố độc lập buộc phải bước vào một cuộc chiến đấu không cân sức. Nước Pháp được Ðồng Minh giải phóng chưa kịp hồi sức đã hối hả trở lại với Ðông Dương màu mỡ. Cái gọi là quân đội Ðồng Minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật bại trận đã không ủng hộ chính quyền non trẻ của Việt Nam thì chớ, ngược lại, còn tận tâm giúp đỡ các lực lượng muốn thủ tiêu nó. Quân đội Tưởng Giới-thạch trên miền Bắc giúp Việt Nam Quốc dân đảng. Quân đội Anh-Ấn vào miền Nam Việt Nam mang theo quân Pháp.
Trong hoàn cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã đi một nước cờ táo bạo – ký Hiệp định 6.3.1946, thỏa thuận cho các lực lượng viễn chinh Pháp vào thay thế các lực lượng Ðồng Minh. Cần phải thoát khỏi ngay lập tức đám ma đói từ bên Tàu, lực lượng thổ phỉ này bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành một trận hồng thủy từ phương Bắc tràn xuống. Lấy bọn xâm lược rành rành đẩy bọn xâm lược giấu mặt ra ngoài, tranh thủ thời gian để bước vào cuộc kháng chiến không thể tránh né.
Những lực lượng chống Việt Minh la ó: “Hồ Chí Minh bán nước! Hồ Chí Minh là tay sai cho ngoại bang!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thề trước đồng bào rằng ông không bán nước. Bài toán Hồ Chí Minh giải không phải mọi người đều hiểu. Nước Pháp vừa thoát khỏi cuộc chiếm đóng của Ðức trong Thế chiến còn yếu, còn nghèo, lại ở xa, sẽ là kẻ thù dễ chịu hơn nhiều so với kẻ thù đông đúc ở sát nách.
Bắt đầu những năm gian khổ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do tuổi trẻ tiến hành. Lớp người làm ra cuộc Cách mạng Tháng Tám lúc bấy giờ chỉ ở độ tuổi trung bình 20-30. Người lãnh đạo cao niên nhất của Cách mạng khi bước vào kháng chiến chống Pháp mới có 56 tuổi, đã được tôn vinh là Cha già Dân tộc.
Ðó là thời gian tràn đầy chất lãng mạn tuyệt vời chỉ có được trong những cuộc cách mạng đúng nghĩa cách mạng. Người ta sẵn sàng bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi cứu nước.
Trong những năm gian khổ của cuộc vật lộn sống chết với kẻ thù không hề xảy ra chuyện sát phạt lẫn nhau trong hàng ngũ những người lãnh đạo. Của đáng tội, có hồi người ta cũng xì xào về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình. Ông bị bắn chết trên đường ra Việt Bắc họp, trong một trận phục kích của quân đội Pháp, vào năm 1951. Ðồn rằng những người không ưa ông (trong đó có bí thư miền Lê Duẩn) buộc ông ra Việt Bắc để dự một cuộc họp thực ra không cần tới ông, rồi kín đáo mách bảo lộ trình của ông cho địch. Không một cứ liệu, không một nhân chứng nào khẳng định vụ này(3). Tại căn cứ địa Việt Bắc, trong các cơ quan đầu não của kháng chiến ngự trị một không khí đoàn kết và thân tình, nhân tố không thể thiếu được để chiến thắng.
Sau khi Hà Nội được giải phóng, các cơ quan Ðảng và nhà nước từ rừng thẳm Việt Bắc đã trở về đóng tại thủ đô tràn ngập ánh điện thì bóng đen của những mưu mô cung đình mới bắt đầu chập chờn trên những dinh thự kín cổng cao tường.
Mọi sự bắt đầu kể từ khi cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh bị mất uy tín trước con mắt ngưỡng mộ của quần chúng cách mạng. Thất bại của Cải cách ruộng đất, như một đòn số mệnh, bất thình lình giáng xuống đầu hai lãnh tụ của cuộc kháng chiến vừa thắng lợi.
Vào thời kỳ này, có tin đồn rằng đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ giữ chức tổng bí thư thay cho Trường Chinh, rằng nay mai ông sẽ được phong nguyên soái.
Trong hàng ngũ lãnh đạo Võ Nguyên Giáp nổi bật lên như một nhân vật tài ba và sạch sẽ, chưa từng vướng vào những khuyết điểm có mùi máu. Vì những đặc điểm đó mà chính ông chứ không phải ai khác được Trung ương Ðảng cử ra tạ tội trước đồng bào ở sân vận động Hàng Ðẫy sau sai lầm trong Cải cách ruộng đất.
Võ Nguyên Giáp gặp may. Không rõ có phải Hồ Chí Minh và Trường Chinh tính trước không cho quân đội được hưởng thêm một vinh quang nữa sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ hay không, nhưng sau khi hòa bình lập lại (năm 1954) nó không được tham gia vào cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất, hứa hẹn đem lại một Ðiện Biên phủ dưới ruộng(4). Nhờ đó mà quân đội không phải chịu chung với Ðảng những lời nguyền rủa.
Tin đồn lịm dần, sau đó tắt ngấm. Ðùng một cái, không phải Võ Nguyên Giáp mà Lê Duẩn, một tên tuổi gần như không được nhân dân biết đến trên miền Bắc, được bầu vào chức vụ tổng bí thư thay Trường Chinh. Võ Nguyên Giáp cũng chẳng được phong hàm nguyên soái. Ðại tướng ngày càng ít xuất hiện trước công chúng. Còn hơn thế, thay vào sự hiện diện của Võ Nguyên Giáp là một đại tướng mới toanh, chưa hề được quân đội tôn trọng là đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Võ Nguyên Giáp bị thất sủng.
Tin đồn lan nhanh trong quân đội và nhân dân. Nguyên nhân thất sủng là cái gì thì trong một thời gian dài chẳng ai biết. Mãi về sau, cũng theo những nguồn tin không chính thức, người ta mới biết rằng ông bị mất tín nhiệm vì cơ quan tổ chức của Ðảng lục được trong thư khố của Pháp một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan toàn quyền Ðông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng. Ban tổ chức Trung ương không cần phân biệt cậu học trò Võ Nguyên Giáp với nhà cách mạng Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp rõ ràng tình nguyện làm tay sai cho thực dân. Ðồn rằng nếu không chiếu cố tới công lao hãn mã của đại tướng từ thời kỳ bí mật, và đặc biệt trong chiến thắng Ðiện Biên Phủ thì tướng Giáp đã bị lột lon và đuổi ngay khỏi Ðảng.
Những người thạo chuyện cung đình nói rằng trong vụ này đã nhìn thấy móng vuốt một nhân vật mới xuất hiện nhưng đã tỏ ra có bản lĩnh cao cường là Lê Ðức Thọ.
Lúc ấy chưa ai nhìn thấy Duẩn và Thọ liên kết với nhau thành cặp bài trùng. Mọi việc Thọ làm đều có sự chỉ đạo của Duẩn.
Dư luận không đồng tình với cách Ðảng đối xử với đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chẳng qua chỉ tại đại tướng Võ Nguyên Giáp quá nổi tiếng, người ta nói thế. Nổi tiếng quá sinh ra ghen ghét. Sau chiến thắng Ðiện Biên và Hiệp định Genècve về Ðông Dương, các phương tiện truyền thông ngày đêm ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của Ðảng, Bác và tổng bí thư Trường Chinh. Khốn nỗi để khuếch trương chiến quả không thể không trích báo chí phương Tây, mà báo chí phương Tây thì lại quen trình bày cuộc chiến ở Ðông Dương như một cuộc đấu tay đôi giữa hai ông tướng. Thành thử hình ảnh tướng Giáp cứ lồng lộng trên nền cờ chiến thắng, che lấp cả Ðảng lẫn Bác, lẫn Anh Cả Trường Chinh. Có thể nói rằng các đài phát thanh phương Tây đã góp phần làm cho cuộc đời tướng Giáp thêm cay đắng.
Vào khoảng năm 1964, giữa lúc cuộc đấu tranh giữa hai đường lối đang diễn ra quyết liệt thì bỗng ồn lên tin tướng Giáp lén lút liên lạc với Nikita Khrusov, bị Ðảng phát hiện. Tin đồn nói rằng Ban tổ chức Trung ương đã có trong tay bằng chứng: một bức thư của Khrusov gửi tướng Giáp. Cũng theo tin đồn thì hồi ấy Duẩn và Thọ đã định làm to chuyện, đưa vấn đề ra trước Trung ương, nhưng ông Hồ gạt đi, nói tướng Giáp báo cáo với ông chuyện Khrusov gửi thư rồi. Việc mới yên. Rồi lại có tin tướng Giáp vẫn bí mật liên lạc với đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó chính ủy sư đoàn thép 308, người được coi là cánh tay phải của ông, đã xin cư trú chính trị tại Liên Xô(5).
Cái chính là ban lãnh đạo mới không ưa Võ Nguyên Giáp. Không ưa thì dưa có ròi.
Như mọi người lính trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, cảm tình của tôi ở về phía vị tướng gắn bó với quân đội từ ngày nó được thành lập trong rừng già Việt Bắc.
Dường như có liên quan với tướng Giáp, một loạt cán bộ cao cấp trong quân đội cũng bị bắt. Anh Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục tình báo quân đội) kể rằng họ mời anh đi họp rồi đưa thẳng đến trại giam. Trung tá Trần Thư bị bắt ngay tại tòa soạn báo Quân đội Nhân dân. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, trưởng Ban Thống nhất Trung ương, tuy không bị bắt, nhưng vì có quan điểm xét lại, cũng bị treo giò, ngồi chơi xơi nước. Nhiều cán bộ khác bị buộc nghỉ việc để hàng ngày tới nơi thẩm vấn. Tất cả, như sau này tôi mới biết, đều phải trả lời những câu hỏi về tướng Giáp. Nổi bật lên như một người hùng trong chiến dịch chống xét lại là đại tá Kinh Chi, được cán bộ quân đội mệnh danh là con béc-giê nòi của Thọ.
Cần phải chặn đứng làn sóng đòi tự do dân chủ trước khi quá muộn.
Ngòi nổ của biến cố, nếu không vững tay để nó xảy ra, nằm trong tầng lớp trí thức. Ðảng biết rằng đánh thẳng vào trí thức là khó. Khốn nỗi, không đánh không được. Không đánh thì chiều hướng dân chủ sẽ lấn tới. Vấn đề đặt ra là đánh như thế nào mà thôi.
Trong bối cảnh những sự việc như thế câu hỏi về tướng Giáp là điều dễ hiểu.
Tôi bình thản đáp:
– Ông Giáp không tới nhà tôi lần nào kể từ khi hòa bình lập lại. Không cần hỏi cơ quan an ninh cũng thừa biết ông Giáp có tới hay không.
Hỏi tôi về tướng Giáp là thậm vô lý. Tôi có thể trả lời được gì khi gặp ông lần đầu tôi còn là đứa trẻ, còn mấy lần sau là người lính ở cấp bậc gần cuối cùng?
Khốn nỗi, số phận oái oăm lại cứ thích bắt tôi phải làm nhân chứng cho những sự kiện kia, và câu hỏi của Huỳnh Ngự cho tôi biết mặt sau cuộc trấn áp những người cộng sản là cái gì.
– Chuyện thời kháng chiến ta bỏ qua. – Huỳnh Ngự nói – Mấy năm gần đây chẳng có lẽ anh không gặp Võ Nguyên Giáp lần nào? Bữa đại tướng của các anh rẽ vào thăm Lê Liêm hình như anh cũng ở đó mà?
Huỳnh Ngự còn chưa gọi Võ Nguyên Giáp hoặc Lê Liêm bằng thằng, tôi nhận xét.
Cái vòng nghi ngờ lan rộng hơn tôi tưởng. Không biết còn bao nhiêu người bị nó thâu tóm vào trong?
Tôi lắc đầu, chán ngán:
– Tôi nhắc lại: tôi không gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp lần nào kể từ khi về Hà Nội.
– Tui có khẳng định mô, tui chỉ hỏi thôi. Có anh bảo có, không anh bảo không. Miềng làm việc với nhau phải hiểu nhau, thường khi chuyện vãn như vầy mà ra vấn đề đó. Chẳng hạn, về đại tướng của các anh, trên cũng không có ý hỏi anh về ổng, anh thì biết gì về ổng, mà muốn anh báo cáo những chuyện chung quanh ổng, thậm chí những chuyện không liên quan trực tiếp tới ổng, chuyện người khác kìa, chỉ cần có dính dáng tới ổng là được…
Tôi im lặng.
– Chẳng hạn, anh nghe thấy người ta nói chi về ổng, ở nhà anh, khách tới thăm ông già nói chuyện… Chuyện đại tướng là chuyện thời sự mà.
Tôi thì có thể báo cáo gì về đại tướng Võ Nguyên Giáp?
Từ khi có sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế, Võ Nguyên Giáp bị liên minh Duẩn-Thọ lặng lẽ liệt vào loại pro-soviétique(6). Tại nhiều cuộc nói chuyện với cán bộ Lê Duẩn không bỏ lỡ dịp tốt nào không công kích “quan điểm xét lại của một số đồng chí sa sút lập trường, sợ đụng đầu với bọn đế quốc quốc tế, làm nô lệ cho vũ khí luận, quên mất rằng yếu tố quyết định chiến tranh là sức mạnh chính nghĩa, là sức mạnh nhân dân”.
Ðó là sự vu khống. Mà là vu khống trắng trợn. Hơn ai hết, tướng Giáp hiểu tác dụng của du kích chiến mà ông là người trực tiếp chỉ huy trên một địa bàn rộng lớn. Cũng hơn ai hết ông biết đánh giá vai trò người lính trong chiến tranh. Nhìn quang cảnh chiến trường, tướng Giáp nói với tướng Giang vào ngày De Castries đầu hàng: ” Xem kìa, bộ đội ta mới anh dũng làm sao! Họ đã chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ để có chiến thắng này. Kẻ chiến thắng trên chiến trường, anh Giang ơi, bao giờ cũng là người lính”.
Cái gọi là quan điểm xét lại là nhãn hiệu thông dụng. Nó được gán cho bất kỳ ai có ý kiến ngược với ban lãnh đạo Ðảng. Sau nó còn được mở rộng ra tới những người bướng bỉnh, dám cãi lại cấp trên. Con người được gọt hết gai góc, được sửa lại cho tròn như một hòn bi, giống hệt những hòn bi khác.
Nguyễn Chí Thanh cũng gay gắt lên án những quan điểm sai lầm về chiến tranh của bọn xét lại. Mặc dầu không chỉ đích danh, người nghe hiểu ông tướng muốn chỉ ai. Nguyễn Chí Thanh chưa hài lòng với vị trí người lãnh đạo tối cao của quân đội do tướng Giáp xây dựng. Trong khi tướng Giáp chỉ còn là một đại tướng làm vì, ngồi chơi xơi nước. Nguyễn Chí Thanh ghen tức với uy tín mà tướng Giáp có trong lòng mỗi người lính, là cái chẳng bao giờ ông ta có được.
Tôi gặp Nguyễn Chí Thanh lần đầu, giữa một cử tọa khép nép, tại nhà riêng ông Ngô Ðức Mậu, chủ nhiệm báo ảnh Việt Nam. Tôi ngồi trong một góc nhìn viên đại tướng ngồi dãi thải trong ghế bành mây, mắt vè vè nhìn mọi người, như thể trước mặt ông là một lũ vô loài. Nguyễn Chí Thanh viết. Nghe thiên hạ đồn nhiều về tài hùng biện của Nguyễn Chí Thanh, tôi chăm chú nghe ông ta nói. Nguyễn Chí Thanh không nói mà giảng. Ông thường đưa ra một định đề chắc nịch, sau đó mới triển khai nó, chứng minh tính đúng đắn của nó, bằng lời lẽ bình dân pha những tiếng đệm còn bình dân hơn. Thời gian này các cơ quan đang phải học tài liệu “Chống chủ nghĩa cá nhân” do Nguyễn Chí Thanh viết. Trong tài liệu này Nguyễn Chí Thanh phán bảo mọi người phải xóa bằng sạch cá nhân mình trong tập thể, rằng con người cá nhân là đáng ghét, nó không là cái gì trước tập thể lớn lao. Những cuộc gặp gỡ tiếp theo với Nguyễn Chí Thanh để lại trong tôi ấn tượng ngược lại những lời răn dậy của ông ta – chính Nguyễn Chí Thanh mới là kẻ cá nhân chủ nghĩa cao nhất.
May cho dân tộc ta, viên tướng hãnh tiến qua đời trước khi trở thành một lãnh tụ độc đoán. Trong ông ta, ngoài tham vọng trở thành vĩ nhân còn có những nét tàn bạo của tên quân phiệt. Tuy nhiên, phải nhận rằng Nguyễn Chí Thanh có hấp lực mạnh mẽ đối với bầy nô lệ tự nguyện. Khi Nguyễn Chí Thanh nói, nhiều người nghe đờ đẫn nhìn ông ta như những con chuột bị rắn hổ thôi miên.
Một hôm ông Ngô Ðức Mậu bảo tôi:
– Này, anh Thanh bảo anh đọc đi rồi viết một bài phê phán thằng cha này. Hắn viết bố láo lắm.
Ông đưa cho tôi một cuốn sách mỏng. Ðó là cuốn Vào Ðời của Hà Minh Tuân(7). Tôi mang về nhà, đọc một mạch cuốn tiểu thuyết vừa mới ra lò nhưng đã có nhiều tiếng xì xào trong giới phê bình. Tôi ngạc nhiên. Cuốn sách không lôi cuốn tôi bởi văn chương. Về bút pháp nó kém xa Hai Trận Tuyến và là bước lùi về tay nghề của Hà Minh Tuân. Quả là cuốn Vào Ðời có chạm tới một vài chuyện được gọi là những mặt tiêu cực của xã hội, là cái mà nền văn học quan phương không cho phép nói tới. Sự đụng chạm này cũng chỉ sơ sơ thôi chưa có gì nặng nề so với thực tế mà tôi biết. Chính chỗ yếu này đã làm cho tác phẩm không xứng đáng bị công kích.
Tôi từ chối gợi ý của Nguyễn Chí Thanh viết bài phê bình Hà Minh Tuân.
Tôi quen Hà Minh Tuân, hiểu anh chẳng có ý gì khác ngoài mong muốn viết một cái gì đó cho thực thà, không dối trá. Nhưng anh lại không biết nói bóng gió, anh cứ thẳng ruột ngựa tương ra, cứ bê nguyên xi sự thật vào tác phẩm, thành thử người ta dễ chạm nọc.
Sau thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm là thời kỳ của những cuốn sách xuôi chiều, được viết theo cái mà những môn sinh của A. Jdanov gọi là “đơn đặt hàng của cách mạng”. Cuộc khủng bố văn nghệ sĩ năm 1956 đẻ ra sự sợ hãi được nhuộm màu trung thành. Mọi người đều nghiêm khắc và kỹ lưỡng kiểm duyệt tác phẩm của mình trước cả người kiểm duyệt chuyên trách của Ðảng.
Tôi trả Ngô Ðức Mậu cuốn sách, nói rằng nó không phải là cuốn sách hay để phải viết bài phê bình, còn nếu có những điểm không tốt về chính trị thì đó là lỗi của nhà xuất bản, và ông Nguyễn Chí Thanh có thể khiển trách người đã cho nó ra đời. Bệnh sính văn chương là bệnh phổ biến trong các nhà lãnh đạo Việt Nam.
Trong cuộc “đánh” Nhân văn – Giai phẩm, khởi đầu từ việc tống nhà thơ quân đội Trần Dần vào cải hối thất, Nguyễn Chí Thanh, lúc ấy là chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, là người rất hăng hái. Phụ tá cho Nguyễn Chí Thanh là nhà văn Vũ Tú Nam.
Vào hồi ông ta xui tôi đánh cuốn Vào Ðời của Hà Minh Tuân, Nguyễn Chí Thanh không còn làm công tác chính trị trong quân đội, nhưng máu kiểm duyệt vẫn chảy trong huyết quản và ông ta ngứa nghề. Ít lâu sau Nguyễn Chí Thanh tự tay đánh tôi bằng việc phê phán tính người chung chung, chủ nghĩa nhân đạo chung chung, phi giai cấp, cào bằng ranh giới địch ta trong kịch bản phim Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên, tại một hội nghị cán bộ trung cao quân đội.
Nguyên trưởng ty văn hóa Hà Tĩnh, họa sĩ Hoàng Nguyên Kỳ cho tôi biết ông Ngô Ðức Mậu, chủ nhiệm báo ảnh Việt Nam, trước là thầy học của Nguyễn Chí Thanh. Chính Nguyễn Chí Thanh cứu ông Ngô Ðức Mậu khi ông nằm trong trại giam trong Chỉnh đốn tổ chức. Ông kêu ầm lên khi trông thấy Nguyễn Chí Thanh đi ngang: “Anh Thanh ơi, anh Thanh! Cứu thầy với!”
Chuyện Hoàng Nguyên Kỳ kể thật khó tin. Nó khó tin ở chỗ ông thầy học cũ rất khúm núm trước tên học trò nay là đại tướng. Tôi tin Hoàng Nguyên Kỳ không bịa. Ông thầy khúm núm trước học trò làm quan to không lạ, nhưng ông quan học trò tự nhiên như không trước thái độ quỵ lụy của ông thầy ở một nước có truyền thống tôn sư trọng đạo hàng nghìn năm thì lạ lắm.Viên tướng nông dân, theo lời truyền tụng của những người ngợi ca Ðảng, xuất thân tá điền, trưởng thành trong nhà tù, là xứ ủy viên Trung kỳ vào thời kỳ bí mật, chủ nhiệm Việt Minh Trung bộ những năm tiền khởi nghĩa, đến năm 1948 đã là Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo lời người khác, đáng tin hơn, thì Nguyễn Chí Thanh chẳng hề làm tá điền, cũng không phải thành phần cố nông, mà là một “tay chơi” vùng Phong Ðiền, Thừa Thiên. “Tay chơi” theo cách nói dân dã thời trước Cách mạng Tháng Tám là ăn cướp, nhưng là dạng ăn cướp nghiệp dư, thỉnh thoảng mới họp nhau lại đi kiếm chác rồi giải tán, ai về nhà nấy. Nguyễn Chí Thanh chắc chắn có được học hành chút đỉnh, nếu không sao lại có thầy học? Là cố nông, lại hoạt động cách mạng liên tục, làm sao Nguyễn Chí Thanh có thời gian để học, dù là tự học, để biết khá rõ về Tôn Tử, Clauzevitz, Napoléon, Lâm Bưu, Jukov…, như lời một chứng nhân có thời gian ở gần ông xác nhận. Trung tá Trần Thư, người cùng vụ với tôi còn kể rằng trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Chí Thanh không đến nỗi tồi, ông ta thậm chí còn biết chơi chữ bằng tiếng Pháp.
Sau khi Nguyễn Chí Thanh chết, tên ông ta được đặt cho đường phố, chân dung ông ta được in trên những con tem. Thế rồi bỗng nhiên người ta im lặng hẳn về viên đại tướng lừng danh quá cố và tên tuổi Nguyễn Chí Thanh chìm vào quên lãng.
Chuyện này có nguyên nhân. Số là hai năm trước cái chết của Nguyễn Chí Thanh (1967), ông Ðặng Xuân Thiều trong lúc hấp hối đã cho mời một số đồng chí ở Trung ương đến để trối trăng về vụ Nguyễn Chí Thanh phản bội xưng khai, làm vỡ một số cơ sở Ðảng. Ông chỉ ra những nhân chứng: “ Trước đây chúng tôi không nói vì thấy Nguyễn Chí Thanh vẫn tích cực tham gia công tác cách mạng, thôi thì việc quá khứ rồi, bỏ qua đi cho hắn, cho hắn có cơ hội đới công chuộc tội. Sau đó thì không nói được nữa – Bác và Bộ Chính trị quá tín nhiệm hắn, cho hắn phụ trách toàn việc lớn, nói ra lại vạ vào thân. Nay tôi sắp chết, phải nói lại việc này kẻo tủi cho vong linh các đồng chí đã hy sinh không được ai nhắc nhở, tên phản bội thì lại được ca ngợi như anh hùng”.Trung Ương kiểm tra lại thấy đúng mới lẳng lặng dẹp cái sự xưng tụng kia đi. Chỉ còn một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh là còn giữ tên Nguyễn Chí Thanh. Người ta chưa thay vì ngượng, chẳng lẽ lại cho “bọn ngụy” biết tại sao phải thay lại tên đường.
Xin quay lại chuyện tướng Giáp.
Lẽ ra, cha tôi làm công tác quân sự cùng với tướng Giáp, nếu như không có một quyết định mới của Trung ương. Quyết định này liên quan tới cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa cha tôi với ông Hồ tại hội nghị Tân Trào (cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1945). Cha tôi kể ông rất ngạc nhiên trước sự thiếu hiểu biết về tình hình trong nước của ông Hồ. Chẳng hạn, ông hỏi cha tôi: “Có phải cụ Huỳnh Thúc Kháng đầu Tây rồi phải không?”. Cha tôi nói không phải, ông vừa mới gặp cụ Huỳnh hai tháng trước, cụ rất kiên định cách mạng. Ông Hồ Chí Minh hỏi chuyện cha tôi cả một buổi và hài lòng thấy cha tôi biết nhiều về nhân sĩ trí thức. Trong cuộc họp Trung ương cuối tháng 8.1945 ông Nguyễn Lương Bằng đề nghị cha tôi rời công tác quân sự để giúp việc ông Hồ thì Trung ương nhất trí. Cha tôi có ghi lại nội dung cuộc họp đó, hình như vào ngày 28 tháng 8 thì phải, trong hồi ký “Tháng Tám cờ bay”.
Nói đến Võ Nguyên Giáp, cha tôi nhận xét ông Giáp có nhược điểm hay tránh né khi xảy ra bất đồng ý kiến. Với vẻ ngoài bình thản, pha chút cao ngạo, nhiều người tưởng ông kiêu ngạo đặt mình trên những cuộc tranh luận. Thực ra, ông bao giờ cũng sẵn sàng chịu lép vế trước người đối thoại hùng hổ. Tất nhiên, ở cương vị của ông số người dám áp đảo và áp đảo được ông không nhiều.
Cha tôi kể: năm 1949, khi Trung ương ra nghị quyết “Tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công” do Trường Chinh thảo, Võ Nguyên Giáp không thông, nhưng cũng không cãi lại. Theo nguyên tắc Võ Nguyên Giáp phải triệu tập một hội nghị cán bộ quân sự trung cao cấp để phổ biến nó dưới dạng một báo cáo của Bộ Tổng tư lệnh. Cha tôi không có mặt trong buổi báo cáo đó. Nghị quyết ông đọc rồi, nghe lần nữa ông không muốn. Theo cha tôi, nghị quyết này phản ánh ý muốn đốt cháy giai đoạn của Trường Chinh. Ông Hồ biết cha tôi không thông, giải thích: “Thì mình có nói cụ thể thời hạn tổng phản công là bao giờ đâu mà lo. Kháng chiến cực nhọc nhiều rồi, cũng phải động viên quần chúng phấn khởi nhìn về tương lai chứ”.
Trong nhiều vấn đề kháng chiến quan điểm cha tôi gần với Võ Nguyên Giáp. Hai ông không đồng tình với khẩu hiệu tiêu thổ kháng chiến của Trường Chinh, cho rằng chỉ vườn không nhà trống là đủ. Nếu cần thì trên một bãi hoang địch cũng lập nên đồn bốt, thậm chí cả một tập đoàn cứ điểm, không cần thì một thành phố nguyên vẹn chúng cũng chẳng màng. Sau mới thấy vườn không nhà trống là đúng. Vinh, Thanh Hóa, Tuyên quang, Thái Nguyên chỉ còn là đống gạch vụn, nơi thì Pháp không tới, nơi chúng tới rồi lại rút đi.
Trong hội nghị cán bộ quân sự họp ở Phú Thọ nói trên, sau khi báo cáo ở hội trường trở về Võ Nguyên Giáp ngồi phịch xuống bên cha tôi, lúc ấy đang nằm ở lán:
Thấy Võ Nguyên Giáp buồn thiu, cha tôi hỏi:
– Có chuyện gì thế?
– Mình rõ to đầu mà dại. – Võ Nguyên Giáp thở dài – Thằng Thận đúng là xúi chó vào bụi rậm. Mình biết trước sẽ khổ vì cái nghị quyết của nó. Y như rằng, vừa mới đọc xong báo cáo, chưa kịp ngồi xuống đã bị Nguyễn Sơn nó đập cho một trận tơi bời, vuốt mặt không kịp.
Ông thuật lại cho cha tôi nghe Nguyễn Sơn(8) đập ông như thế nào. Cha tôi cười rũ.
– Nhưng nó đập đúng chứ? – cha tôi hỏi.
– Ðúng! – Võ Nguyên Giáp hồn nhiên thừa nhận – Mới cay.
Thiếu tướng Nguyễn Sơn nổi tiếng ngang tàng, không kiêng nể một ai, khi nóng lên lại hay văng tục. Trên hội trường Nguyễn Sơn nói thẳng vào mặt tổng tư lệnh: “Nói tổng phản công vào lúc này là chẳng biết cái đếch gì về quân sự… Thử điểm lại mình coi, có cái cóc khô gì trong tay mà đòi tổng phản công! Tổng phản công cái cục c…!!”
Tôi được nghe cha tôi kể chuyện này vào thời kỳ đang diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 9. Tiếng nói của tướng Giáp là tiếng nói có trọng lượng. Nếu ông kiên quyết, vị tất Bộ Chính trị đã lái được Trung ương vào con đường mao-ít.
Ông Hồ, theo mọi người nhận xét, không thân Trung Quốc. Phạm Văn Ðồng sẽ ngả theo đa số. Trường Chinh sau khi chịu thảo nghị quyết theo ý Lê Duẩn hiển nhiên sẽ đứng về phía Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ.
– Rồi xem Văn(9) nó có dám chống lại thằng Duẩn với thằng Thọ không? – cha tôi nói – Tính nó vậy đấy, đứa nào to mồm là nó im. Chán lắm!
Sự việc diễn ra như cha tôi tiên đoán. Võ Nguyên Giáp im lặng ngay từ đầu, trong cuộc họp Bộ Chính trị đi trước hội nghị Trung ương.
Ðầu tháng 12 năm 1963 tướng Lê Liêm xin gặp chủ tịch nước để trình bày với ông mối lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh này hoàn toàn không cần thiết đối với nước Việt Nam đang có chiến tranh. Ông phàn nàn chuyện những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của khối tuyên giáo như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Lưu Quý Kỳ… đi khắp nơi chửi bới Liên Xô, mà Liên Xô là nước đang giúp Việt Nam chống Mỹ.
Ông Hồ trầm ngâm nghe tướng Lê Liêm trình bày rồi nói:
– Vừa nhận người ta là anh em, xin viện trợ của người ta năm này qua năm khác, lại vừa chửi người ta thì xấu quá.
– Nhưng bản dự thảo nghị quyết lại là thế.
– Ra hội nghị chú cứ nói. Tôi ủng hộ.
Ngày hội nghị họp, Lê Liêm đơn độc đọc tham luận chống lại đường lối thân Trung Quốc trước một cử tọa lạnh lùng. Võ Nguyên Giáp ngồi im, đầu cúi, thỉnh thoảng lại cựa quậy trên ghế. Lê Duẩn bĩu môi. Lê Ðức Thọ hầm hầm. Khi Lê Liêm kết thúc bản tham luận, bầu không khí đã nặng nề còn nặng nề hơn nữa. Ông nhìn ông Hồ Chí Minh, chờ đợi một lời ủng hộ, nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của ông, quay đi nơi khác(10).
– Ðiều tôi không ngờ là Bác đã hứa, nhưng lại không giữ lời. – Lê Liêm kết luận – Tôi không hiểu được, vì lẽ gì? Hôm tôi gặp Ông Cụ nghe tôi chăm chú, suy nghĩ một lát rồi mới trả lời, chứ không phải Ông Cụ trả lời bộp chộp, hứa đãi bôi… Có một cái gì đó không hiểu được.
Chúng tôi ngồi lặng lẽ trước cái bàn rộng trong phòng khách, trong ánh sáng chập choạng của chiều tàn. Căn phòng tối dần, nhưng Lê Liêm không bật điện.
Ðó là lần gặp cuối cùng. Chẳng bao giờ tôi còn gặp ông nữa.
Tôi nhớ lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, mùa thu năm 1952, trên đỉnh dốc Cun. Sau dốc Cun từ Hòa Bình đi Vụ Bản có một quãng trống dài bốn cây số, nơi máy bay địch hay xuất kỳ bất ý sà thấp bắn vào người đi đường, bất kể đi một mình hay đông người, đi bộ hay bằng xe đạp. Nhiều người bị chết ở quãng này, vì vậy nó được đặt tên là Cửa Tử. Từ khu 3 đi Việt Bắc tôi vượt qua Cửa Tử lúc sẩm tối, rồi dừng lại nghỉ qua đêm trên đỉnh dốc để đổ dốc lúc mờ sáng. Trong số khách dừng chân trong cái quán nhỏ cùng chúng tôi, có một người đàn ông trẻ, trắng trẻo, với gương mặt sáng sủa. Thấy tôi mê mải đọc sách bên bếp lửa, ông ngồi ghé bên cạnh:
– Ðồng chí có cuốn gì đấy?
Tôi lật bìa cho ông xem. Ðó là cuốn Mùa Xuân ở Sakenne bằng tiếng Pháp. Mắt ông ta sáng lên.
– Cho tôi ngó qua một chút nhé, được không? – mắt sáng lên, ông ta rụt rè đề nghị.
Có bảo vệ đi cùng, ông này ít nhất cũng trung đoàn trưởng hoặc trung đoàn phó, loại kễnh đây, tôi nghĩ.
– Tôi có cuốn này cũng hay lắm, hay là ta đổi cho nhau? – trả lại tôi cuốn sách ông ta gạ.
Ông mang tới cuốn La Jeune Garde (Ðội Thanh Niên Cận Vệ) của Fadéev(11). Nó là cuốn sách rất quý hồi ấy. Nếu đổi, tôi là người có lợi. Nhưng bỏ dở cuốn Mùa Xuân ở Sakenne đang đọc dở tôi không muốn. Tôi nói nếu tới sáng tôi đọc xong tôi sẽ đổi cho ông. Ông sai bảo vệ mang cho tôi cái đèn bão được bọc kín trong giấy đen được chọc thủng một lỗ cho ánh sáng lọt ra vừa đủ để đọc sách.
Chúng tôi chia tay vào rạng sáng. Ðến lúc ấy tôi mới biết ông là cục trưởng Cục Dân quân Lê Liêm. Hồi ấy lớp thanh niên chúng tôi háo hức đọc tác phẩm văn học xô-viết lắm. Nhưng sách Liên Xô lúc bấy giờ hiếm. Lác đác có mấy cuốn: Ðội Thanh niên Cận vệ của Fadeev, Người Mẹ của Gorky, Tinh Cầu của Kazakevich, Con đường Ðau khổ của Alexis Tolstoi… Sau này, khi Lê Liêm từ quân đội chuyển sang công tác dân sự, làm thứ trưởng Bộ Văn hóa phụ trách điện ảnh, chúng tôi mới gặp lại nhau. Nhắc lại cuộc gặp gỡ trên dốc Cun ông kêu ông thiệt – cuốn Le Printemps à Sakenne nhạt phèo.
Ðể lãnh đạo ngành điện ảnh cần phải có kiến thức rộng, nhất là kiến thức chuyên môn, mà Lê Liêm lại không có. Không giống một số cán bộ cờ đến tay là phất bừa, không biết cũng lãnh đạo tạt, Lê Liêm yêu cầu tôi soạn bài giảng theo cách tóm tắt, giới thiệu cho ông đặc trưng của nghệ thuật thứ bảy, lịch sử điện ảnh thế giới và nói chung mọi vấn đề văn hóa nghệ thuật. Ông nghe chăm chú, ghi chép cẩn thận như một cậu học trò.
Ðể hiểu âm nhạc ông tự học nhạc lý, nhờ một nhạc công dạy dương cầm và trở thành một nhạc sĩ nghiệp dư không tồi. Tôi chưa gặp cán bộ cấp cao nào chịu học hỏi như ông. Lê Liêm là gương mặt tiêu biểu cho những người cộng sản tôn trọng trí thức. Họ ý thức được rằng nếu không dựa vào trí thức thì chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ là một ảo ảnh sán lạn trong đầu đám đông bần cố. Nhờ ham học, Lê Liêm luôn tiếp cận cái mới, cái tiến bộ, không bao giờ bảo thủ. Ông không có thái độ kỳ thị đối với những văn nghệ sĩ bị Ðảng trù dập.
– Thiên hạ mỗi người mỗi ý, chưa biết ý nào hơn ý nào. Chân lý phát ra từ miệng quân vương hay từ miệng con điếm đều có giá trị ngang nhau. – Lê Liêm nói – Một khi nó đã là chân lý.
Báo cáo của tôi về đại tướng Võ Nguyên Giáp bị Huỳnh Ngự chê ỏng chê eo. Tôi nói rằng tôi không thể bịa.
– Ai biểu anh phải bịa? Nhưng anh không thành khẩn. Tui biết, có nhiều điều đúng là anh không biết thiệt, nhưng có những điều chắc chắn anh phải nghe người khác nói mà anh không chịu báo cáo. Cái nớ, xét cho cùng, chỉ thiệt cho anh thôi!
Không hiểu nếu tôi khai thật với y rằng những người mà y gọi là xét lại hiện đại không hề có ảo tưởng về tướng Giáp thì thái độ của y sẽ ra sao? Tôi chắc y không tin. Nhưng sự thật là như vậy. Chẳng ai đặt hi vọng vào tướng Giáp cả.
Huỳnh Ngự đọc xong, bắt tôi ký vào từng trang như thường lệ.
– Tui đã nói với anh không biết bao nhiêu lần rằng anh phải viết vô đây cả những tin đồn, vậy mà cả lần này nữa anh cũng không viết. – y lầu bầu – Anh quên thật, anh không hiểu hay anh không muốn hiểu?
Còn một điều nữa y không biết, mà tôi cũng không muốn nói cho y biết, là tướng Giáp rất đơn độc. Trong quan hệ cá nhân ông không được coi là bạn tốt. Không thể chỉ ra được ai là bạn thân của ông trong đời sống riêng cũng như trong đời hoạt động cách mạng. ê cương vị đại tướng ông bị cấp dưới chê là hách dịch. Người ta nhận xét tướng Văn Tiến Dũng đối xử với những người giúp việc có tình người, hơn hẳn tướng Giáp.
– Trong nầy anh không viết một dòng nào tới chuyện bọn Ðặng Kim Giang, Lê Giản, Lê Liêm, Bùi Công Trừng… đừng nói chi tới Võ Nguyên Giáp. Ðám ấy thể nào mà chả động tới ông tướng của họ, đúng không?
Huỳnh Ngự ngày một lấn tới. Y muốn tôi phải phụng sự ngành công an như một tên chỉ điểm chính cống kia.
– Nhưng khách tới nhà thời anh cũng phải điếu đóm cho ông già chớ? Nhứt định anh phải nghe được, không chuyện nầy cũng chuyện khác, không thể không có cái đó.
Khi nào giở trò bắt nọn là y như rằng y phải nhìn chằm chằm vào tận mặt tôi, đôi mắt gián nhấm hấp háy qua cặp tròng xây xát. Tôi phải nhịn thở để tránh hơi hôi thối phả ra từ miệng y.
– Tôi nói nhiều lần rồi: gia giáo miền Bắc không cho phép con cái hóng chuyện người lớn. – tôi nói – Vả lại, tôi cũng không có ý định nghe lỏm để nói lại với ai.
“Có biết tao cũng chẳng nói với mày!”, đó là câu tôi muốn nói với y hơn cả.
– Thôi được, tui nói thẳng ra với anh: có lúc mô, ở nơi mô anh nghe thấy mấy kẻ tôi vừa nhắc tên – y dằn từng tiếng, thở phì phò – đả động tới hai chữ ni không?
Tôi nhìn chằm chằm vào bộ mặt căng thẳng của y.
– Hai chữ gì?
– Ðảo chính!
1) Trại điều dưỡng bệnh tâm thần gần Hà Nội.
(2) Tiền trinh, đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, bằng 1/10 xu.
(3) Cha tôi và bè bạn ông, những người biết Nguyễn Bình, nói rằng Nguyễn Bình có mâu thuẫn với những người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam (Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ). Do đó ông bị điều ra Bắc và hy sinh dọc đường trong tình trạng không được bảo vệ đầy đủ và lộ trình của đoàn bị lộ. Vấn đề được đặt ra là kẻ nào đã báo cho Pháp biết lộ trình của đoàn? Nhiều người nói bàn tay Lê Duẩn trong vụ này là rõ ràng, nhưng lại không chỉ được ra chứng cứ. Cho tới nay cái chết của Nguyễn Bình vẫn là một dấu hỏi chưa có giải đáp.
(4) Ðáng chú ý là tuy Trường Chinh tiến hành Cải cách ruộng đất theo bài bản Cải cách thổ địa của Trung Quốc, nhưng ông ta đã bỏ đi lực lượng quân đội là lực lượng nòng cốt.
(5) Hồi đó cùng xin cư trú chính trị một lúc với đại tá Lê Vinh Quốc còn có một số cán bộ Ðảng được cử đi học tại Trường đảng cao cấp Liên Xô, học viện quân sự Frunze như thượng tá Văn Doãn (biệt hiệu Doãn Bụt), tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội kiêm phó bí thư thành ủy Hà Nội Nguyễn Minh Cần.
(6) Thân Liên Xô.
(7) Trong kháng chiến chống Pháp Hà Minh Tuân là một chính ủy sư đoàn trong đại đoàn 312. Sau khi hòa bình lập lại anh chuyển sang làm công việc xuất bản, giữ chức phó giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa.
(8) Nguyễn Sơn (1908-1956) tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê Gia Lâm Hà Nội. Năm 1927 tham gia Ðảng cộng sản Trung Quốc, tham gia Quảng Châu Công xã, làm tổng biên tập báo Kháng Ðịch. Ðược bầu vào Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc, dự hội nghị Tuân Nghĩa khi Mai Trạch-đông lên nắm quyền lãnh đạo. Là vị tướng nước ngoài duy nhất trong Hồng quân Trung Hoa.
(9) Bí danh của Võ Nguyên Giáp.
(10) Tôi không nghe ông Lê Liêm nói tới ông Bùi Công Trừng trong Hội nghị 9. Theo tôi nhớ thì hôm Trung ương họp ông Trừng ốm nằm trong bệnh viện Việt Xô. Ông Dương Bạch Mai có tới nơi họp, xin vào dự thính, nhưng không được chấp thuận, chuyện này ông Mai có kể lại cho tôi nghe. Việc các cán bộ Trung ương được dự thính trong các cuộc họp của Trung ương đã có tiền lệ, không phải nhất thiết không được.
(11) Nhà văn xô-viết, ủy viên Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô, ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:08:54 GMT -6
Chương 20
Thế là cuối cùng người ta đã đi tới câu hỏi không thể không đặt ra. Tôi nghĩ lẽ ra nó phải là câu hỏi đầu tiên khi người ta đưa tôi vào Hỏa Lò.
Nó chính là cái trục, mọi việc đều phải xoay quanh nó, dính vào nó. Không có nó, không thể làm ra một vụ án lớn. Ðể bắt giam một loạt cán bộ có tiếng tăm, trong đó có cả những bậc lão thành cách mạng, bọn Lê Duẩn, Lê Dức Thọ không thể đưa ra một tội danh tầm phào như “nói xấu chế độ”(1) được, mặc dầu với tội danh này đã có không biết bao nhiêu công dân phải nằm trong các trại tập trung năm này qua năm khác.
Xem xét tính hiện thực của một âm mưu đảo chính, tôi đặt hai vấn đề.
Một là, những mâu thuẫn nội tại trong xã hội trong thời kỳ ấy có phát triển tới mức nổi lên nhu cầu thay thế chế độ hiện hữu hoặc thay thế ban lãnh đạo đương nhiệm bằng một cuộc đảo chính không?
Câu trả lời là không. Nhân dân thấy bức bối dưới sự cai trị hà khắc nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, tự an ủi rằng mọi sự khó chịu là nhất thời, là do chiến tranh, chiến thắng rồi cuộc sống sẽ khác.
Hai là, nếu âm mưu đảo chính là có thì ai là người muốn đảo chính và thực sự có khả năng làm đảo chính?
Trước hết, cái gọi là những lực lượng phản động chống chế độ gồm những người có quá khứ liên quan với chính quyền thuộc địa, những thành viên các đảng phái có thật và không có thật, đều đã bị tiêu diệt hết bởi lưỡi gươm không khoan nhượng của chuyên chính vô sản. Mọi mưu toan chống đối đều bị bóp chết từ trong trứng. Không có, và không thể có chuyện những lực lượng đó làm đảo chính.
Chỉ còn lại những người cộng sản không thuộc dòng chính thống và bị dòng chính thống nghi ngờ. Chỉ họ mới có khả năng tập hợp quần chúng quanh mình như quanh một ngọn cờ đại nghĩa. Cũng chỉ họ mới có khả năng làm đảo chính.
Trong thực tế, như một nghịch lý, những người này lại chẳng bao giờ nghĩ tới đảo chính cả. Trong họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự lựa chọn hai lấy một: hoặc là chủ nghĩa xã hội phi dân chủ như xã hội hiện tại, hoặc là chủ nghĩa xã hội dân chủ chưa hiện hữu, đòi hỏi ở họ những cố gắng và quyết tâm cách tân.
Nhưng đất nước lại đang có chiến tranh, một cuộc đảo chính sẽ là nhát dao đâm vào lưng người chỉ huy cuộc chiến là Ðảng cộng sản, cho tới bấy giờ vẫn là đảng của họ. Ðảo chính có thể làm mất đi chính chủ nghĩa xã hội để có cơ may dân chủ hóa nó. Cho nên mặc dầu có nhiều điều bất đồng với nhà cầm quyền trên nhiều mặt những người bị vu là có âm mưu lật đổ chưa bao giờ nghĩ tới lật đổ.
Như thế, chỉ còn lại những người đang đứng trên đỉnh cao quyền lực tự đảo chính mà thôi. Tạo ra một cuộc đảo chính trong tưởng tượng để gạt bỏ những đối thủ có khả năng thay thế mình một sớm một chiều cũng là đảo chính.
Riêng việc cho đến tận bây giờ những người lãnh đạo Ðảng cộng sản vẫn còn phải dài lời biện bạch về một vụ bắt bớ xảy ra ba chục năm trước đủ thấy họ lúng túng tới mức nào trước dư luận xã hội. Những người lãnh đạo Ðảng còn phải biện bạch còn chán, chừng nào họ còn ngồi được trên ghế của mình mà biện bạch. Tôi dùng từ họ ở đây để chỉ lớp đệ tử đã dây máu ăn phần trong quá khứ, lớp lãnh đạo mới lên run rẩy trước viễn cảnh bị tước đoạt địa vị ăn trên ngồi chốc vừa kiếm được. Ðó là lớp trợ thủ và hậu bị đang kế tục sự nghiệp của những kẻ chủ mưu vụ đảo chính thật, thủ phạm chính của vụ trấn phản tàn bạo mở đầu năm 1967, chứ không phải những kẻ đó nay đã chết rồi.
Họ sợ vụ án bị xới lên sẽ dẫn tới thắng lợi của xu hướng dân chủ pháp trị, tới sự cáo chung không tránh khỏi của nền độc tài Ðảng trị.
Nhà cầm quyền rêu rao rằng những người bị bắt sở dĩ có lập trường đối lập với Ðảng là do bất mãn, công thần, do đòi hỏi hưởng thụ. Một sự bịp bợm trắng trợn.
Sự thật là: làn sóng chống đối đã hình thành một cách tự phát, từ bản năng bị đè nén, từ nhân phẩm bị chà đạp.
Ðó chính là sự vùng lên của con người tự trọng đòi quyền sống, quyền làm người.
Nhưng dưới triều đại sắt thép của Duẩn-Thọ, sự vùng lên của những cán bộ bất tuân chỉ mang dáng dấp một cuộc vận động âm thầm cho những ý kiến của mình, mong chúng được lãnh đạo chấp nhận. Nghĩa là một cuộc đấu tranh hòa bình nhất, hiền lành nhất, không xứng đáng với bất cứ sự đàn áp nào.
Lê Duẩn quá cẩn thận trong việc bịt miệng đồng chí. Chỉ bằng những nghị quyết dựa trên đa số áp đảo, dựa trên những mánh khóe xảo quyệt của bộ máy tổ chức, bất cứ Ðại hội Ðảng(2) nào cũng chẳng mang lại được cái gì mới, đừng nói gì các Hội nghị Trung ương.
Câu hỏi được đặt thêm là: Lê Duẩn – Lê Ðức Thọ cần gì phải dựng nên một màn kịch nhằm bôi nhọ các nhà cách mạng lão thành mà cuộc đời chiến đấu của họ đã chứng minh lòng trung thành vô hạn với cách mạng và vì thế không thể bôi nhọ nổi, trừ cách cả vú lấp miệng em?
Tổng hợp các dữ kiện tôi có, câu trả lời có tính thuyết phục cho câu hỏi đặt ra ở trên là thế này: sự hấp tấp vẽ ra một vụ đảo chính bất thành rõ ràng được tính toán như một đòn phòng ngừa nhằm vào đối thủ tiềm tàng đang nằm trong thế cờ có thể trở thành đối thủ thật sự lúc nào không biết.
Mối lo của liên minh Duẩn-Thọ không phải các cán bộ lão thành, tuy thoạt nhìn bề ngoài có vẻ là như vậy. Những người đó chỉ là mối lo cụ thể, thấy được bằng mắt thường. Mối lo thật sự làm cho Duẩn-Thọ ăn không ngon ngủ không yên chính là trí tuệ Việt Nam nằm trong những nhân vật cách mạng tiên tiến và tầng lớp trí thức, một lực lượng hàm chứa mối đe dọa lớn lao của một trào lưu âm ỉ không bao giờ tắt đòi tự do và dân chủ.
Ðối thủ tiềm tàng này sẽ gạt bỏ họ, kẻ đại diện cho nền chuyên chế bị dân chúng vừa sợ hãi vừa ghê tởm, một khi xuất hiện tình thế cách mạng, thường liên quan với một biến động thế giới.
Những nhà cách mạng lão thành và các trí thức có tên tuổi chính là ngọn cờ duy nhất có hấp lực mạnh mẽ đối với quần chúng khát khao dân chủ và nhân quyền. Ngọn cờ này có khả năng trở thành một sức mạnh bất ngờ lật ngược tất cả nếu như tình hình quốc tế trở nên bất lợi cho Trung Quốc, cũng là bất lợi cho Việt Nam, là điều Duẩn-Thọ đủ thông minh để hiểu rằng không phải không thể xảy ra. Tháng 12 năm 1963, khi họ cho ra Nghị quyết 9, tình thế không hề giống như cuối năm 1967.
Ðể đối phó với tình huống xấu nhất, nghĩa là thất bại của đường lối Mao Trạch-đông với những Ðại nhảy vọt, Ðại cách mạng văn hóa vô sản sẽ dẫn tới sự thay đổi ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Trung Quốc, hoặc nặng nề hơn, thay đổi cả thể chế xã hội Trung Quốc, và tất nhiên, ở Việt Nam lúc đó cũng sẽ diễn ra một sự thay đổi tương tự, người ta đi nước cờ liều – bắt giam hàng loạt cán bộ, trong quân đội cũng như ngoài quân đội, cho ra vẻ có một âm mưu đảo chính thật.
Những bài bản của Mao trong việc loại trừ các tướng lĩnh, những người có khả năng thế chân Mao, được Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi như bảo bối. Người có khả năng ngồi vào ghế của họ là Võ Nguyên Giáp và các cán bộ được xếp vào cái gọi là Ðoàn cán bộ Trung ương(3). Cách tốt nhất để tiêu diệt đối thủ là dựng ra một âm mưu đảo chính. Ðể dựng ra một vụ âm mưu đảo chính không cần, không nhất thiết cần có bằng chứng (tất nhiên, tạo ra được những bằng chứng giả thì tốt hơn). Chỉ cần nửa kín nửa hở, sao cho nó tồn tại trong dân chúng bị bưng tai bịt mắt như một tin đồn có sở cứ, còn với nạn nhân của vụ trấn phản thì chỉ cần nặn ra được vài lời khai của đôi ba người nhát gan rằng họ có nghĩ tới, có trò chuyện với nhau về một âm mưu đảo chính là đủ.
Hoàng Văn Hoan lầm to khi cho rằng Lê Duẩn theo Khrushov chống Mao, Lê Duẩn là xét lại. Trên thực tế, Lê Duẩn gần với Hoàng Văn Hoan hơn bất cứ ai trong ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ đó. Cả hai đều là Tiểu Mao về tư tưởng. Cả hai cùng có chung một định hướng chính trị, một hình dung về thể chế xã hội, một cách cai trị. Họ không chơi được với nhau, không chung sống được với nhau, là do những cái khác. Hoàng Văn Hoan còn có trong mình nhân cách nhà nho, ông thích mô hình xã hội Mao vì cho rằng chỉ có nó mới bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của cách mạng vô sản, trong khi Lê Duẩn đã là người thực dụng của thời hiện đại, Lê Duẩn thích nó vì nó bảo đảm cho ông ta ngồi yên trên ghế độc tài. Những người biết Lê Duẩn nói rằng Hoàng Văn Hoan nhận xét chính xác về tính cách của Lê Duẩn. Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn có tham vọng vô độ. Việc Lê Duẩn vội vã gạt Hồ Chí Minh ra khỏi quyền bính bộc lộ tham vọng này. Trong hành động Lê Duẩn là người duy lý, không thừa nhận tình nghĩa, không hợp tác được với ai mà không nghĩ tới chuyện hất cẳng họ. Lê Ðức Thọ có không trung thành với Lê Duẩn sau này cũng chỉ là sự đi trước đối thủ một bước mà thôi. Chuyện màu sắc chính trị của Lê Duẩn thay đổi như da tắc kè nhông lại là chuyện khác, nó thuộc về tính lá mặt lá trái của Lê Duẩn(4).
Khi chúng tôi bị khóa tay đưa vào Hỏa Lò, Lê Duẩn vừa đi Liên Xô về. Tại điện Kremli Lê Duẩn lớn tiếng khẳng định quê hương Cách mạng Tháng Mười là Tổ quốc thứ hai của những người cộng sản Việt Nam, thề thốt sẽ bảo vệ tình hữu nghị giữa hai nước như con ngươi của mắt. Cùng lúc, ở trong nước ngành tuyên truyền ra sức ngợi ca chế độ toàn trị, hăm dọa trấn áp những ai muốn Việt Nam đi theo con đường dân chủ hóa vừa được hé mở tại Liên Xô, gọi họ là những phần tử pro-soviétique. Tại những cuộc thuyết giảng nội bộ đám đệ tử Lê Duẩn tiếp tục chỉ trích những nghị quyết của Ðại hội XX, gọi giai đoạn sau Khrushov là chủ nghĩa xét lại Khrushov không có Khrusov, đồng thời mập mờ đưa đẩy vài ba câu chống Mao, trong khi đó thì bộ máy trấn phản thì được lệnh hoạt động hết tốc lực để thu gom đám xét lại vào xà lim.
Trước khi bị bắt tôi đã nghe những tin đồn về sự lủng củng giữa những người anh em ruột thịt Trung-Việt. Ông Hồ Chí Minh có câu nói nổi tiếng về mối tình hữu nghị khăng khít ấy: “Việt Nam với Trung Quốc như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh”. Sau này, khi hai bên day tay mím miệng đấm đá nhau rồi, đã cầm súng nã đạn vào nhau rồi, người ta mới tạo ra một nghĩa bóng cho nó, rằng Ông Cụ nhà ta giỏi lắm, nhìn xa trông rộng lắm, Cụ không ví hai nước Trung Việt như cái gì khác mà lại ví như môi với răng thì thông minh thật: môi hở đúng là răng lạnh, nhưng răng mà cắn thì môi đau, chứ ngoài cái sự mếu máo ra môi chẳng làm gì được răng hết(5).
Duẩn-Thọ không ngu để bình thản ngồi yên chờ cái kết cục chắc chắn sẽ tới: buộc lòng thừa nhận sai lầm trong sự lựa chọn đường lối mao-ít. Thừa nhận mình sai trong việc lãnh đạo đất nước có nghĩa là thời của mình đã hết. Hậu quả không tránh khỏi là nhân sự trong ban lãnh đạo Ðảng phải thay đổi: kẻ sai phải ra đi nhường chỗ cho người khác.
Mà cái sai lớn cứ lừng lững hiện hình, mỗi lúc một rõ nét. Mặc dầu Ðảng ra sức bưng bít mọi tin tức, nhưng nhờ thói quen hiểu ngược lại những gì phương tiện truyền thông độc quyền công bố, nhờ những người Trung Quốc chạy loạn bị bắt tại các tỉnh phía Bắc kể lại, mọi người đều biết ở nước Trung Quốc láng giềng đang xảy ra chuyện gì. Người Việt Nam không cần biết đường lối chính trị của Mao đúng hay sai, họ hiểu chính trị theo cách thực dụng của đời thường. Chẳng ai muốn sống như những người anh em bên kia biên giới đang phải sống: trong cuộc chiến nồi da nấu thịt thường trực, trong đạo lý suy đồi: con tố cha, vợ tố chồng.
Trong nhân dân loan truyền nhiều tin đồn về việc quân Trung Quốc lập nhiều kho vũ khí bí mật trong các hang động ở miền núi. Ðể làm gì khi vũ khí trực chiến có thể để trong các lán gần các vị trí chiến đấu? Những vùng đóng quân của Trung Quốc chiếm diện tích rộng hơn mức cần thiết để làm gì? Tại vùng mỏ Quảng Ninh quân Trung Quốc ngang nhiên bắt giữ các chuyên gia địa chất Liên Xô đi lạc vào vùng đóng quân của họ. Chỉ đến khi chính quyền Việt Nam can thiệp tích cực những chuyên gia này mới được thả. Trở về Hà Nội họ nói thẳng với thủ tướng Phạm Văn Ðồng: “Nếu đến Việt Nam công tác công dân Liên Xô phải xin visa(6) của Trung Quốc thì xin các đồng chí báo trước để về sau những việc tương tự không xảy ra nữa”.
Ðó là chuyện thật mà giới báo chí chúng tôi được biết. Thuộc về những tin đồn còn có chuyện quân Trung Quốc và các đoàn chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam mang theo gia phả để tìm của. Những kho vàng cực lớn được đào lên, đúc thành xẻng cuốc, sơn đen đi để chuyển về Tàu. Người ta kể kỹ sư và công nhân Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình đã khoanh vùng quản lý của họ rộng một cách phi lý. Sau mới biết họ làm thế để tìm kho vàng được chôn giấu từ thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Mà không phải chỉ ở một Ninh Bình có chuyện đó. Chuyện người Tàu để của thuộc lĩnh vực huyền thoại, lĩnh vực chuyện dân gian truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, tôi được nghe nhiều từ thuở còn thơ. Không hiểu người Tàu có mang gia phả sang tìm của và có tìm được hay không, nhưng những tin đồn về vụ này chẳng cần có bằng chứng vẫn được nhân dân tiếp nhận như những tin xác thực, khỏi cần kiểm tra.
Việc Ðảng cộng sản Việt Nam mời quân đội Trung Quốc vào nước mình là chuyện mọi người đều biết. Sở dĩ tôi phải nói cho chính xác “Ðảng cộng sản Việt Nam mời” vì sự kiện quân đội Trung Quốc có mặt ở miền Bắc Việt Nam trước nay được hiểu như do Nhà nước Việt Nam mời vào. Thực sự không hề có một văn bản Nhà nước nào xác nhận vụ đó, cho dù Nhà nước Việt Nam trước nay vẫn là tay sai của Ðảng. Thỉnh thoảng Việt Nam Thông tấn xã lại phải ra một tuyên bố cải chính các nguồn tin nước ngoài về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam.
Trong công việc viết báo tôi thường có mặt ở những địa phương có quân Trung Quốc đóng(7), được nghe nhiều lời phàn nàn về chuyện Ðảng và Nhà nước để quân Trung Quốc vào. Người ta tin cậy hỏi tôi như hỏi một cán bộ hiểu biết, hi vọng tôi giải đáp cho họ câu hỏi nhức nhối đó. Khốn nạn, tôi có thể nói được gì cho họ trong khi chính tôi cũng không hiểu nổi những quyết định tự quyền của Duẩn-Thọ(8), mà theo chúng tôi, chỉ có những thằng điên mới hành động như thế!
Trong số những nhà cách mạng lão thành có hòa thượng Thiện Chiếu, rất danh tiếng trong giới tăng lữ và Phật tử Nam bộ. Ông là người yêu nước không đảng phái, bị chính quyền thuộc địa đày ra Côn Ðảo. ê đây nhà sư có những cuộc tranh luận nẩy lửa và kéo dài với những người cộng sản về con đường tương lai của dân tộc. Giáo sư đỏ Bùi Công Trừng đã thuyết phục được Thiện Chiếu, nhà sư quyết định gia nhập Ðảng cộng sản. “Hổng có tổ chức nào tốt hơn cho công cuộc giải phóng dân tộc lúc bấy giờ”, ông nói. Kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông tập kết ra Hà Nội. Nhờ có Hán học uyên thâm, ông được cử sang Bắc Kinh làm chuyên gia Việt ngữ cho Nhà xuất bản ngoại văn Trung Quốc.
Vào năm 1963, trước khi có nghị quyết 9, từ Bắc Kinh Thiện Chiếu viết thư về cho Trung ương: “Tôi muốn chắp cánh bay về phương Nam để cấp báo các đồng chí biết rằng chớ có tin Mao Trạch-đông. Nó là một con ác quỷ…”. Ông bị triệu về nước, sống một mình trong một căn phòng nhỏ. Tết Ất Tỵ (1965), thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp tới thăm ông, hỏi ông sao Tết đến mà hương lạnh khói tàn thì ông già Thiện Chiếu đi cuồng trong căn phòng hẹp mà kêu lên: “Còn vui chi mà nói chuyện Tết nhứt! Tết này ta tưởng nhớ tới Quang Trung! Tổ tiên đổ biết bao nhiêu xương máu mới đuổi quân xâm lược ra ngoài bờ cõi, nay con cháu rượu thịt rước chúng vào nhà, ta ăn Tết sao đang!” Thứ trưởng họ Hà thấy ông già ăn nói bặm trợn hãi quá, đặt vội quà Tết lên bàn, rông thẳng.
Nhà báo Thái Hồng thường tới thăm sư Thiện Chiếu, thỉnh thoảng kéo tôi theo. Cha Thái Hồng là một nhà cách mạng đàn em của sư Thiện Chiếu, cho nên nhà sư rất quý anh. Gặp nhà sư tôi có cảm giác như gặp một hiệp sĩ Trung cổ. Ông có cốt cách nho sĩ, cái cốt cách vừa thư thái vừa ngang tàng, thà chết không cúi đầu. Trong ông nhức nhối tấn bi kịch của thế hệ cha chú tôi: một mặt ông vẫn tin vào Ðảng của ông, mà quá khứ huy hoàng của nó cho phép ông được tự hào, mặt khác là sự thoái hóa nhục nhã của nó trong hiện tại mà ông không thể nhắm mắt để không thấy. Ông nói ra chính kiến của ông ở bất cứ đâu, với bất cứ ai, không nể nang, không biết sợ. Nghe nói Lê Ðức Thọ muốn trị ông già bướng bỉnh lắm, nhưng Lê Duẩn ngần ngại chi đó không cho phép.
Ðó là quang cảnh thời kỳ trước khi có vụ bắt bớ nhóm xét lại chống Ðảng. Miền Bắc sống trong bầu không khí ngột ngạt.
Mấy buổi làm việc tiếp theo Huỳnh Ngự đeo chặt tôi như một con đỉa. Y một mực xoáy vào chuyện đảo chính. Phỉnh phờ có, dụ dỗ có, hăm dọa có. Mọi mánh khóe được sử dụng chỉ cốt nặn ra một lời thú nhận rằng tôi có nghe ai đó, bất kể là ai – tướng Ðặng Kim Giang, tướng Lê Liêm, cha tôi, Hoàng Minh Chính, hoặc một nhân vật nào khác thuộc khối quân đội, không kể cấp bậc, nói tới hai từ này.
– Tui đã nói rồi, nói nhiều lắm rồi, – Huỳnh Ngự ghé sát vào tai tôi mà khuyến dụ, mà chì chiết bằng cái giọng rin rít – rằng anh không cần phải nhớ chính xác ai nói, nghe loáng thoáng cũng được, cũng cứ báo cáo cho Ðảng… Việc của chúng tôi là tìm hiểu thêm, làm rõ thêm, rồi bổ sung vào báo cáo của anh cho đầy đủ…
– Nhưng tôi có nghe ai nói gì đến đảo chính đâu!
– Thời mới phải nghĩ. Con người ta ai cũng vậy, nghe mà không chú ý thời quên, nhưng bình tĩnh mà nhớ lại thời nhớ ra… Anh cũng phải nghĩ tới ngày về với gia đình chứ.
– Tôi không có gì để nói.
– Vậy thời anh rũ tù. Hiểu chưa: rũ tù!
Tôi không buồn cãi lại. Tôi không hề có ý định làm anh hùng. Chẳng ai cần tới sự dũng cảm của tôi. Nguyên nhân của sự dũng cảm bất đắc dĩ là tôi không sợ chết. Cuộc sống của tôi chẳng đẹp đẽ đến nỗi phải bám chằng chằng lấy nó. Tất cả những gì diễn ra trước mắt làm tôi chán ngán đến cùng cực. Sau sự việc xảy ra với tôi, tôi tin rằng có những người trở thành anh hùng chỉ vì không thiết sống.
Huỳnh Ngự làm tôi mệt quá. Tôi sẵn sàng đầu hàng y nếu như y hài lòng chỉ với một lá cờ trắng. Nhưng không hơn. Tôi không thể nghe theo y để bước qua cái ngưỡng đạo đức mà một người tự trọng không thể bước qua.
Tôi đoán Huỳnh Ngự, cũng như cả bọn chấp pháp tay sai của Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã thất bại trong cố gắng ép cung, mớm cung những người trong vụ, và giờ đây họ hi vọng rằng với sự non dại của tôi, tôi sẽ cho họ cái khẩu chứng mà họ cần để dùng nó ép tiếp cha tôi và những người khác.
Tội của tôi trong con mắt Huỳnh Ngự không phải chỉ có thế. Tôi còn nhiều tội tầy trời khác.
– Anh là láo lắm, anh dám kêu Mao chủ tịch, lãnh tụ giai cấp vô sản toàn thế giới bằng Mao xếnh xáng. – một lần giữa buổi hỏi cung y quát tôi – Ðúng vậy không? Hay anh lại cãi, lại biểu tụi tui vu cho anh?
Ai báo cáo với bọn chúng chuyện này nhỉ?
Tôi nghi đó là nhà thơ Hoàng Nguyên Kỳ, bí thư chi bộ tờ báo chúng tôi. Tôi chơi thân với Hoàng Nguyên Kỳ, chỉ với anh tôi mới dám nói bạt mạng, không giữ gìn. Bí thư chi bộ có trách nhiệm báo cáo về tình hình cơ quan cho tổ chức và cho công an. Anh làm công việc của anh. Mà cũng có thể không phải anh, tôi không dám nói chắc. Trong cơ quan nào chả có người của công an gài vào.
Nhạo báng lãnh tụ là tội rất nặng. Là dân thường mắc phải tội này bị tập trung cải tạo là cái chắc. Lãnh tụ không phải chỉ có Hồ Chí Minh hay Trường Chinh trước kia hoặc Lê Duẩn bây giờ, Lênin hay Stalin, mà Mao cũng lãnh tụ, Kim cũng lãnh tụ, cả Ceaucescu cũng lãnh tụ nốt. Với Huỳnh Ngự thì Trần Quốc Hoàn cũng là lãnh tụ luôn.
– Ðúng, tôi có nói như vậy. – tôi nói.
Huỳnh Ngự khoan khoái:
– Có vậy chớ! Tui tưởng cả chuyện nầy anh cũng chối.
– Nhưng ai đã báo cáo chuyện vớ vẩn ấy với cơ quan an ninh? Mỗi câu nói nằm trong một văn cảnh có một nghĩa cụ thể. Chuyện nói cho vui cũng đôn lên thành tội được.
– Anh muốn biết người nói làm chi? – Huỳnh Ngự lườm tôi – Người ta thấy anh sai thời người ta báo cáo. Vừa là bảo vệ cách mạng, vừa để uốn nắn cho anh. Dám gọi Bác Mao như vậy thiệt bậy quá, bậy quá!
Tôi chẳng biết nên nói gì với y.
– Có gì đâu. – đành phải nghĩ ra một cách giải thích – Tôi đi qua Trung Quốc nhiều lần, thấy ở bên ấy người ta gọi nhau là xếnh xáng, nghe cũng vui vui. Nghĩa của nó là tiên sinh, chứ không có gì xấu. Nói tào lao với anh em tôi cũng bắt chước gọi các vị ở bên Tàu là xếnh xáng. Tôi nghĩ gọi chủ tịch Mao Trạch-đông là Mao xếnh xáng cũng như gọi Mao tiên sinh thôi, có gì là bất nhã đâu.
Huỳnh Ngự xì một tiếng:
– Chỉ được cái vụng chèo khéo chống! May cho anh, nếu ở Trung Quốc chắc anh không còn sống được tới hôm ni. Có khi chết không toàn thây.
Tôi may thật. Nếu là người Trung Quốc chắc tôi đã bị giết. Nghe nói bên ấy mạng người không bằng con ngoé. Một anh bạn tôi trên đường quá cảnh Trung Quốc về Việt Nam đã mắt thấy loạn Hồng vệ binh là thế nào.
Bắc Kinh nhung nhúc những toán quân trong đồng phục bộ đội nhưng khác màu. Ðó là những đứa trẻ mải mê chơi trò cách mạng, với vũ khí là gậy gộc cộng với tay chân ngứa ngáy. Chúng hò hét om xòm trên đường phố, tay vung cao Mao tuyển đỏ rực màu máu(9). Trống phách ầm ầm. Dân chúng chạy ngược chạy xuôi, mặt nhớn nhác trong thành phố lòe loẹt đại tự báo giống như một nhà táng khổng lồ.
Lúc tàu dừng ở ga Vũ Xương, một đám nhóc Hồng vệ binh tràn lên các toa. Hỏi giấy, biết anh người Việt, chúng tha, chỉ hành người Trung Quốc, khảo Mao tuyển(10) khắp lượt. Tưởng chúng đi là xong, nhưng không phải. Tàu sắp chuyển bánh lại thấy một nhóm Hồng vệ binh khác mặt đỏ bừng bừng lao lên rượt theo một người đàn ông đứng tuổi. Bị chúng tóm được, ông ta vừa kịp hô rầm lên “Mao chủ tịch vạn tuế!”, “Ðảng cộng sản vạn tuế!” thì đã bị bắn chết tươi. Không ai biết ông ta phạm tội gì. Cái xác cứ nằm mãi trước phòng vệ sinh, hai cẳng chân đen đủi thò ra ngoài quần rung rung theo nhịp tàu chạy. Hành khách ngồi im thin thít, không ai dám rời chỗ để giảm đi sự căng thẳng trong bụng và trong lòng. Nhân viên đường sắt sợ xanh mắt. Không ai dám dọn cái xác đi. Ðưa xuống một ga nào đó trên đường có thể bị buộc tội cảm tình với phái hữu. Vứt xuống trong khi tàu chạy thì không nỡ.
Nói chung, tình hình Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản vô cùng rối ren, thứ tình hình được gọi là loan xi pa chao, nghĩa là loạn xị bát nháo. Dân chạy loạn Hồng vệ binh kể bên Tàu không như ta hình dung. Không có một thứ Hồng vệ binh đồng nhất. Có loại Hồng vệ binh rất ác, có loại ác vừa, có loại ác ít. Thảng hoặc mới gặp Hồng vệ binh hiền. Bọn Hồng vệ binh đặc biệt ác đi đến đâu phá phách đến đó. Chúng xông vào chùa chiền, lăng tẩm đập phá không tiếc tay. Sách báo trong các thư viện bằng tiếng nước ngoài bị lôi ra đốt sạch, trong đó có những sách quý mà nhiều thế hệ trí thức Trung Quốc tốn không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc mới gom được. Một giám đốc thư viện phải quỳ xuống, rập đầu vái chúng như tế sao: “Trăm lạy các tiểu tướng! Ngàn lạy các tiểu tướng! Xin các tiểu tướng giết tôi, nhưng tha cho, đừng đốt sách!”. Chúng dong những giáo sư đầu bạc khắp phố phường, sỉ nhục họ vì họ phạm tội đầu độc sinh viên bằng những tư tưởng phi vô sản. Chúng lấy thắt lưng quật nát tay một sinh viên nhạc viện vì anh này trốn hạ phóng, sợ lao động chân tay. Anh sinh viên sau trốn sang Anh, được giải thưởng vĩ cầm quốc tế.
Mao là một thầy phù thủy vĩ đại. Chỉ ông ta mới biết cách tạo ra thứ âm binh – vệ binh kỳ lạ như thế.
Anh Vũ Bội Kiếm, bạn thân của tôi thời tiểu học, kể rằng trước khi về nước anh liều mạng đến chia tay với thầy học, một chuyên gia khí tượng cỡ thế giới. Liều mạng, vì ông giáo sư đang bị đấu như một phần tử phái hữu. Mới qua có mấy tháng mà ông già đi cả chục tuổi. Gày rộc, hốc hác, ông ngồi ủ rũ trong căn phòng tối, không dám bật điện. Tiếp Vũ Bội Kiếm, ông khóc tức tưởi dặn anh về đến Việt Nam phải lập tức báo cáo ngay cho lãnh đạo nước mình biết việc đang xảy ra ở đây. Chớ để Việt Nam sa vào vết xe đổ, ông nói, kẻo có ngày nền khoa học trẻ của các anh bị san bằng để rồi phải khởi sự từ đầu. Về nước, Vũ Bội Kiếm hiểu rằng có nói cũng chẳng ai nghe, mà còn nguy hiểm. Trên báo Nhân Dân(11), dưới những hàng tít đậm, thành tích đập phá của Hồng vệ binh dưới sự lãnh đạo của Mao chủ tịch vẫn được ca ngợi hết lời.
Chẳng riêng Vũ Bội Kiếm, anh là thần dân quá bé nhỏ để có thể kêu thấu cửu trùng, những cán bộ không kém phần mao-ít về quan điểm nhưng trung thực về tư cách như phó tổng biên tập Việt Nam Thông tấn xã Lê Chân sau khi đi thăm Trung Quốc đã làm bản tường trình gửi Trung ương, đề nghị Trung ương thận trọng với những kinh nghiệm Trung Quốc. Bản tường trình bị bỏ vào sọt rác, người báo cáo bị gọi lên xát xà-phòng(12) vì tội có cái nhìn sai lạc đối với thực tế cách mạng ở nước đàn anh. Thật ra, trong bản tường trình Lê Chân cũng không dám phê phán Ðại cách mạng văn hóa vô sản đâu, anh chỉ khách quan trình bày những gì anh thấy – cảnh lộn xộn tại Bắc Kinh, những giáo sư bị sinh viên đánh đập, những di tích lịch sử ở Di hòa viên, ở Cố cung, Thiên đàn, Thập tam lăng bị Hồng vệ binh phá phách. Anh trích lời phát biểu của các sinh viên Bungari, Anbani, Rumani mà anh gặp. Họ lên án hành động man rợ của Hồng vệ binh và quyết định rời Trung Quốc, vì ở đây đang diễn ra sự hủy diệt bất cứ cái gì là văn hóa. Tôi được đọc bản tường trình của Lê Chân. Không ngờ con người bị chúng tôi liệt vào loại mao-ít như anh lại có dũng khí viết sự thật như thế. Một năm trước, khi tôi cùng với anh đi thăm nông trường Sao Vàng ở Thanh Hóa, Lê Chân còn hào hứng tán dương Ðại cách mạng văn hóa vô sản, cho rằng sứ mệnh của giai cấp vô sản là “phải đập tan mọi cái cũ để xây cái mới”.
Vũ Bội Kiếm còn kể cho tôi nghe những chuyện thực mà như bịa ở Trung Quốc. Tại trường đại học Thanh Hoa, Giang Thanh(13) nhảy lên diễn đàn vò đầu bứt tai kể nỗi khổ của bà ta trong gia đình chồng. Bà tố cáo lũ con chồng miệt thị bà, hành hạ bà, nhất là đứa con dâu cả. Cho dù những chuyện đó có thật cũng không phải cái để phô ra công chúng. ê bên Tàu khác: Giang Thanh là lãnh tụ Hồng vệ binh, xúc phạm Giang Thanh là xúc phạm Hồng vệ binh.
Trên diễn đàn trường này, Hồng vệ binh Bắc Kinh to tiếng chửi bới Hồng vệ binh Ðường Sơn ỉa bậy, biến thủ đô thành một nhà xí hôi thối. Hồng vệ binh Ðường Sơn giằng lấy micrô chửi lại, nói không phải họ bậy, mà Hồng vệ binh Thiên Tân bậy. Hồng vệ binh Thiên Tân nhẩy lên chửi Hồng vệ binh Ðường Sơn nói láo, rút Mao tuyển ra chỉ vào một trang. Lời Mao chủ tịch dạy rành rành: “Không điều tra không có quyền phát ngôn”. Hồng vệ binh Ðường Sơn gạt người Thiên Tân ra, cũng chỉ vào Mao tuyển: “Người nói không có tội, người nghe phải sửa mình”. Giằng co chán, chửi nhau chán, họ choảng nhau. Cảnh sát thổi còi te te nhảy vào, cũng lại rút Mao tuyển để giở một trang khác, đọc to cho mọi người cùng nghe, trong đó cũng lại Mao chủ tịch dạy rằng: “Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân không phải là mâu thuẫn địch ta, phải giải quyết bằng thương lượng”.
Trung Quốc dưới thời Mao Trạch-đông trị vì không bao giờ có được một thời kỳ bình ổn lâu dài. Thỉnh thoảng Mao Trạch-đông và đám đệ tử ông ta lại quậy một chặp, làm cho đất nước nát như tương trong một phong trào nào đó, khi tam phản, khi ngũ phản, khi thất bát phản, không còn biết đàng nào mà lần.
Không biết có phải các nhà lãnh đạo Việt Nam quay lưng lại với thực tế hay vì quyền lợi riêng làm cho mù quáng, nhưng trong một thời gian dài họ khăng khăng coi đường lối Mao Trạch-đông là đúng(14).
Huỳnh Ngự thấy có trách nhiệm phải soi sáng cho cái đầu bị thịt của tôi. Y kiên nhẫn giảng giải cho tôi hiểu vai trò của các đảng mác-xít – lênin-nít trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, đặc biệt là vai trò của Ðảng cộng sản Trung Quốc và Ðảng Lao động Việt Nam. Cứ như y thì chỉ có hai đảng là thực sự tích cực trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin. Y thóa mạ các đảng cộng sản Pháp, í, Tây-ban-nha, chỉ trích các đảng cộng sản Triều Tiên, Rumani, Anbani.
Trên báo chí thế giới đã có nhiều bài viết về chuyện tẩy não trong nhà tù xã hội chủ nghĩa. Không biết với người khác thế nào, chứ với tôi những bài thuyết giảng bữa đực bữa cái chen vào giữa buổi hỏi cung là hành động tẩy não duy nhất. Không có chuyện bắt người bị tẩy não học thuộc lòng, chỉ có sự nói dai như chão rách của kẻ tẩy não về chủ nghĩa Mác, về đường lối chính sách của Ðảng, sự dọa nạt về hậu quả sẽ đến với anh nếu anh không thông. Nghe chướng tai quá, đôi lần tôi nhẹ nhàng bác Huỳnh Ngự điểm này điểm khác, cố gắng nói cho y nghe đôi chút về chủ nghĩa Mác chính bản, thì y hét rầm lên: “Anh vô đây không phải để cãi lý với tui. Tui không lý luận với anh!”.
Hét rồi y lại ôn tồn:
– Anh phải hiểu rằng đường lối của Ðảng ta trước sau như một là kiên quyết dắt dẫn nhân dân ta thẳng tiến trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ðường lối của Ðảng là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt. Ðảng kiên quyết tiêu diệt mọi kẻ thù bên ngoài cũng như bên trong, không cho chúng phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mọi biểu hiện xét lại, hữu khuynh đều là nấm độc, là cỏ dại, phải nhổ bằng hết. Tui tiếc cho các anh, đi theo Ðảng đã nhiều năm, lẽ ra phải trung thành rất mực, phải tự hào về Ðảng ta, về nhân dân ta thì các anh lại nghển cổ hớp từng lời lếu láo của bọn phản bội xét lại hiện đại…
Y thở dài thương tôi ngu.
Vào cuối giờ một buổi hỏi cung, tôi vờ giương đôi mắt nai vàng lên nhìn y rồi hỏi bằng giọng ngập ngừng:
– Thưa bác, căn cứ những điều bác hỏi tôi, tôi mới chỉ đoán phỏng, xin bác giải đáp cho tôi rõ: phải chăng ở ta có một âm mưu đảo chính thật?
Huỳnh Ngự quắc mắt lên, nhìn tôi chằm chằm.
– Ðó chính là cái anh phải khai ra, chớ không phải cái để anh hỏi tui. Ðừng có vờ vĩnh.
– Tôi không biết thật mà. Chỉ sau khi được bác hỏi tôi mới hiểu rằng có cái đó…
– Tui chỉ hỏi anh có khi mô anh nghe thấy ai nói tới hai tiếng đảo chính không mà thôi. Rõ chưa?
Khó hiểu quá. Y muốn tôi khai về âm mưu đảo chính, mà khi tôi nhắc lại lời y thì y giãy nảy, không dám khẳng định.
– Rõ rồi. Sở dĩ tôi phải hỏi lại là vì tôi chưa từng nghe thấy từ miệng những người tôi quen hai chữ ấy.
Huỳnh Ngự cười nhạt.
– Vậy mà thằng Kiến Giang(15) lại nói khác anh đó…Tui muốn tin anh, nhưng trong trường hợp này tui tin thằng Kiến Giang hơn. Nói chung, anh chưa bao giờ khai báo trước mọi người được một điều gì. Toàn người ta khai rồi, mới đến lượt anh.
– Anh Kiến Giang nói cái gì?
– Thằng Kiến Giang khai khi hắn nói, anh có mặt.
– Tôi nhắc lại một lần nữa: tôi không nghe thấy ai nói tới đảo chính. Cả Kiến Giang, tôi cũng không nghe. Nếu anh Kiến Giang nói thế thì cứ đem hai bên ra đối chất. Ðối chất là cách tốt nhất để tìm ra sự thật.
Huỳnh Ngự cười xuê xoa:
– Thôi, thôi, nếu hắn nói không đúng thời biểu là không đúng, việc chi mà bực bội. Tôi chỉ đặt câu hỏi, anh nghe, suy nghĩ rồi trả lời. Coi như tôi ra cho anh cái đầu bài. Lúc nào anh nhớ ra, nghĩ lại, thấy trả bài được thì trả bài. Bất cứ lúc nào – ban ngày, buổi tối, nửa đêm. Anh chỉ cần nói với ông quản giáo để ông quản giáo báo lại cho tui biết.
Thấy tôi trở về đăm chiêu hơn mọi ngày, Thành hỏi:
– Cậu làm sao vậy?
– Lại cãi nhau. – tôi thác qua chuyện khác – Tôi vẫn chưa được viết thư về nhà. Tới hôm nay gia đình tôi vẫn chưa biết tôi ở đâu. Khốn nạn, chúng nó bày trò bắt cóc tôi để làm gì kia chứ?
– Mặc kệ đời đi, cậu ơi!- Thành ái ngại – Nghĩ ngợi làm quái gì. Mà đâu phải chỉ người ta gây ra cho cậu. Cậu cũng gây ra cho cậu đấy chứ…
– Anh vẫn cho rằng tôi có tội nên người ta mới bắt? – tôi bực bội – Anh vẫn không tin?
– Không phải. Tôi muốn nói nhân nào thì quả ấy. Chúng ta xây dựng nên chế độ này chứ có phải nó từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất mọc lên đâu… Thôi thì ráng mà chịu cái quả sinh ra từ cái nhân ta gieo. Chung quanh ta là bốn bức tường bê-tông cốt sắt. Có chết ở nơi này cũng chẳng ai biết, suy nghĩ phỏng có ích gì?
Một câu hăm dọa chăng?
Xem ra Thành không có ý ấy. Anh bình thản quay mặt vào tường chuẩn bị cái nghi thức trang trọng cho điếu thuốc lào. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi hút thuốc lào mặt anh nghiêm trang hẳn, trông đến tức cười. Nhờ Thành, biết đâu đấy, thuốc lào đạo cho Việt Nam sẽ hình thành, như một thiền sư Nhật Bản đã sinh ra trà đạo cho đất nước mặt trời mọc.
Tôi đã ở đây bao lâu rồi? Nửa tháng, hai mươi, hai mươi nhăm ngày?
Tôi quên thời gian rồi sao? Có vẻ tôi quên thật. Nhờ quên được tôi mới chịu đựng nổi cảnh tù ngục, rất nặng nề trong thời gian đầu. Nhưng sao lại thế nhỉ? Chẳng lẽ ý chí đã giúp được tôi chìm vào quên lãng? Không, ý chí chỉ giúp tôi tập trung tư tưởng cao độ để đối phó với những mánh khóe của Huỳnh Ngự. Chứ giờ đây, nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy hình ảnh vợ tôi, hai đứa con tôi hiện lên với đầy đủ những nét thân thương. Nhưng rõ hơn cả là hình ảnh mẹ tôi. Bà như đang đứng trước mặt tôi, trong xà lim. Tôi nhìn rõ những sợi tóc bạc của bà, những nét nhăn trên trán, đôi mắt cương nghị và cái nhìn trìu mến. Không có ai trên đời nhìn tôi như thế. “Chết đứng hơn sống quỳ, con ạ!”, mẹ tôi nói.
– Nghĩa là ta phải sống thế nào?
– Tôi muốn nói: con người phải ý thức được phận mình. – Thành thủng thẳng – Mình đã rơi vào đây thì cứ cầm bằng chết rồi là hơn. Có thế sống mới dễ. Thật đấy, đã vào đây con người không còn là người nữa. Cứ như thể Hỏa Lò là một lằn ranh, bước qua nó mình hết là mình. Có lẽ mục đích của nhà tù là thế. Nó làm cho mình có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà mình sống, rời bỏ hẳn, không trở lại…
– Chỉ có nhà tù ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.
– Tôi không biết ở các nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống nhà tù mình.
Tôi hiểu anh muốn ám chỉ nhà tù của phát-xít Ðức.
Buổi tối, tôi nghe có tiếng búa đóng giống như tiếng đóng nắp ván thiên.
– Anh đã thấy những cái chết trong xà lim chưa?
– Thấy chứ. Tội nghiệp lắm.
– Nó thế nào?
– Còn thế nào nữa! Tù xà lim chết một mình một bóng. Không ai vuốt mắt, không rửa tội, thậm chí muốn chia tay với các bạn tù cũng không được. Một cái giấy báo tử, thế là hết. Không giải thích. Không chia buồn. Ðã có một con người. Rồi không có nó nữa. Tù chết đã có tù sống chôn. Trong nghĩa địa tù. Mạng con người, cậu ơi, ở nước ta rẻ lắm.
– Người ta không khám nghiệm y tế để kết luận về nguyên nhân cái chết sao?
Thành cười gằn, khe khẽ.
– Sẽ có một biên bản chứ. Một mảnh giấy ghi loằng ngoằng vài chữ, do một y sĩ bổ túc(16) ký tên. Mà cũng chỉ làm để đấy, người nhà không đòi thì cũng chẳng ai cho xem. Phần nhiều người ta không dám đòi, đòi xem biên bản là thiếu tin tưởng ở Ðảng…
Tôi nghĩ tới cái chết của tôi. Tôi cho rằng không nên ngu để sống một đời tù không biết đến ngày về.
– Thế cho nên chẳng suy nghĩ làm gì cho thêm đau lòng. Ðời tù nó thế. Biết điều để chấp nhận thì sống nhẹ nhàng hơn. Không biết điều, cứ giãy giụa chỉ tổ trầy da sứt vẩy…
Chúng tôi nằm im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ.
Anh không có ý dọa tôi. Chẳng qua ở xà lim lâu người ta dễ thành triết gia vườn.
(1) Trong bộ Luật hình sự không có tội danh này. Tuy nhiên nó được sử dụng tùy tiện, như rất nhiều tội danh khác, đại loại như tội nói xấu lãnh đạo, tội xuyên tạc chính sách của Ðảng và Nhà nước, hoặc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ…
(2) Theo cách thức họp Ðại hội được Ban tổ chức Trung ương đề ra thì các đại biểu được các cấp cơ sở bầu đi dự Ðại hội còn phải qua cái gọi là xét duyệt tư cách đại biểu rồi mới được công nhận là đại biểu chính thức. Việc xét duyệt tư cách đại biểu thuộc thẩm quyền Ban tổ chức Trung ương. Bằng cách đó Thọ gạt ra ngoài bất cứ ai không được lòng ban lãnh đạo Ðảng đương nhiệm, để ban lãnh đạo này tiếp tục nắm quyền trong khóa sau.
(3) Chỉ các cán bộ có thâm niên công tác cách mạng, lực lượng kế cận, thường được bổ xung vào Trung ương khi khuyết, không phải một tổ chức.
(4) Xem cuốn “Giọt Nước và Biển Cả”.
(5) Hóa ra không phải Hồ Chí Minh là người đầu tiên ví Việt Nam và Trung Quốc như môi với răng. Vào tháng 4.1941, khi những người cách mạng Việt Nam tổ chức Ðại hội thành lập “Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh hội” ở Tịnh Tây (Hoa Nam), chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam của quân đội Tưởng Giới-thạch là Lý Tế-thâm có gửi đến một bức trướng với bốn câu thơ mừng:
Trung-Việt dân tộc Thuần xỉ quan thiết Tiền sỉ đồ tồn Duy thiết dữ huyết Hoàng Văn Hoan dịch ra tiếng Việt:
Hai dân tộc Trung-Việt Như môi răng quan thiết Rửa nhục mưu sống còn Chỉ có sắt và huyết (Hoàng Văn Hoan – Giọt nước trong biển cả, tr.154, in tại nước ngoài, không rõ Nhà xuất bản).
(6) Thị thực xuất cảnh, nhập cảnh.
(7) Quân Trung Quốc đóng trên lãnh thổ toàn khu mỏ Quảng-Ninh, toàn khu tự trị Việt Bắc, một phần khu Tây Bắc và dọc theo quốc lộ 1 tới tận Yên Sở (Nam Hà Nội).
(8) Sự kiện Bác và Trung ương yêu cầu Mao chủ tịch cho quân đội Trung Quốc vào bảo vệ miền Bắc Việt Nam (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, sách đã dẫn) đến nay mọi người đều đã biết.Tinh thần bảo vệ Tổ quốc theo kiểu mời giặc vào nhà còn thể hiện trong việc thủ tướng Phạm Văn Ðồng thừa nhận lãnh hải do Trung Quốc tuyên bố trong một công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai năm 1958 chính là khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ cốt để hai quần đảo không lọt vào tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
(9) Về cuối cuộc Ðại cách mạng văn hóa vô sản Hồng vệ binh có cả súng, nhưng đến lúc đó Mao Trạch-đông đã phải vội vã giải tán đám âm binh lộn xộn, sợ chúng làm loạn, quật chết thầy.
(10) Người dân Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản buộc phải thuộc lòng Mao tuyển. Người đi chợ mà không thuộc một đoạn trích Mao tuyển thì không được vào chợ. Có nhiều người tối dạ, phải đứng ngoài mà học cho thuộc lấy một đoạn Kinh thánh Ðỏ để được vào.
(11) Cơ quan ngôn luận của Trung ương Ðảng lao động Việt Nam.
(12) Phê bình, mắng mỏ.
(13) Vợ chính thức sau cùng của Mao Trạch-đông.
(14) Nhưng tới đầu những năm 80, họ lại nói rằng “những người xét xử (vụ “tứ nhân bang giao”) đổ riệt mọi tội lỗi trong cách mạng văn hóa cho Lâm Bưu và bè lũ bốn tên, trong khi chính Mao là người “đích thân phát động và lãnh đạo cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản”, rằng trong suốt quá trình xử án Giang Thanh một mực khai là “tôi làm theo chỉ thị của Mao chủ tịch”. Họ nói “Ðặng (Tiểu Bình) và những người tán dương tư tưởng Mao Trạch-đông đều đã được hun đúc trong chủ nghĩa dân tộc sô-vanh” (trích trong cuốn Chủ nghĩa Mao không có Mao” Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội 1982).
(15) Nguyên tỉnh ủy viên Quảng Bình, phó tổng biên tập hay ủy viên biên tập tạp chí lý luận của Ðảng, tờ “Học tập”. Ông bị coi là một lý thuyết gia trong “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng”. Do sau khi ra tù vẫn tiếp tục viết những bài báo phê phán sự du nhập có hại chủ nghĩa Mác và mô hình cách mạng vô sản kiểu Stalin vào Việt Nam ông bị đưa ra tòa và chịu 15 tháng án treo vì…”tiết lộ bí mật nhà nước” vào năm 1996, trong vụ xử những người dân chủ Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà.
(16) Trong chế độ xã hội chủ nghĩa có nhiều bác sĩ, kỹ sư không học qua hệ chính quy mà chỉ qua những lớp bổ túc. Những cán bộ y tế loại này thường xuất thân từ những thành phần cơ bản – công nhân, nông dân, có lý lịch trong sạch hoặc nhờ có họ hàng bà con với những người có quyền chức (tương tự tầng lớp đặc quyền đặc lợi được gọi là nomenklatura ở Liên Xô cũ).
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:10:53 GMT -6
Chương 21
Người Pháp có câu “Muốn giết con chó, hãy đổ cho nó có bệnh dại”.
Thoạt nhìn, có vẻ sự đổ vấy cho đối thủ tội âm mưu đảo chính là kế hay, nhưng xét kỹ thì thấy nó không vẹn toàn.
Trong bối cảnh cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, nếu như có một âm mưu đảo chính ắt người ta phải nghĩ tới bàn tay nước ngoài. Trung Quốc không đảo chính một chính quyền thân hữu. Nước ngoài đây chỉ có thể là Liên Xô. Một sự vu vạ có thể gây ra rắc rối to với nước đang là nguồn viện trợ lớn nhất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Không ai biết trước được Liên Xô sẽ phản ứng thế nào.
Cho nên khi đặt vấn đề có âm mưu đảo chính do Liên Xô xúi giục, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, về thực chất, đã cả gan đặt vận mệnh đất nước lên chiếu bạc. Hơn nữa, họ còn coi thường ý dân. Lẽ ra họ phải biết, mà có lẽ họ biết nhưng không thèm quan tâm, rằng mô hình xã hội trại lính kiểu Trung Quốc chưa bao giờ là hấp dẫn đối với nhân dân Việt Nam.
Tuyên bố xử lý nội bộ đối với nhóm xét lại chống Ðảng là việc không có chủ định trước. Nó là cái được nghĩ ra trong lúc bấn, để đối phó với dư luận. Không một nhà cầm quyền nào coi âm mưu đảo chính là chuyện vặt. Cách nói xử lý nội bộ cũng vô duyên. Tất cả đều tầm phào, như chuyện con nít. Nhưng hậu quả của nó lại không tầm phào chút nào.
Âm mưu dựng vụ không phải bắt đầu cùng với vụ bắt bớ. Nó được nghĩ đến từ lâu, nhưng nghĩ chưa được chín, cho nên làm được tới đâu hay tới đó. Chỉ nhìn vấn đề theo cách ấy ta mới hiểu vì sao tin đồn Nikita Khrusov gửi thư riêng cho Võ Nguyên Giáp được loan truyền từ mấy năm trước. Trong bối cảnh quốc tế hồi ấy một bức thư như thế, nếu nó có thật, phải được hiểu là sự khuyến khích, là lời cam kết ủng hộ tướng Giáp trong mọi hành động, không trừ cả việc lật đổ chính quyền(1).
Tôi đã nhận xét trong một đoạn trên rằng trong thời gian ấy những người bị coi là thuộc “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng” không hề hướng về tướng Giáp. Về đường lối đối ngoại thậm chí họ còn ủng hộ Lê Duẩn, tin tưởng ở lập trường trung dung mà ngoài miệng ông ta tuyên bố. Ðổ cho họ về phe tướng Giáp, cùng tướng Giáp mưu mô lật đổ là hết sức bậy, là nói lấy được.
Sau khi ra tù tôi được biết hồi ấy phần lớn dư luận cho rằng Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đồng tình dựng ra vụ này. Nhưng cũng có người nói Lê Duẩn bị lừa, Lê Duẩn trông gà hóa cuốc, rằng ông ta bị đánh lạc hướng. Mà kẻ đánh lạc hướng Lê Duẩn, chủ trương vụ trấn áp không phải ai khác ngoài Lê Ðức Thọ.
Những người bênh vực Lê Duẩn nói rằng hồi ấy còn đang bận bịu với đại sự: ông ta đang rắp ranh trở thành lý thuyết gia mác-xít, nếu không đạt được cỡ quốc tế thì cũng cỡ khu vực. Luận điểm ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít – lê-nin-nít ra đời cùng một lúc với các chủ thuyết ba dòng thác cách mạng, làm chủ tập thể là trong giai đoạn này.
Có thể là như thế.
Ngành tuyên truyền hồi ấy bơm Lê Duẩn lên hết mức. Ðồn rằng trong một cuộc hội đàm Việt-Xô, Lê Duẩn đập bàn quát mắng Khrusov. Tôi hỏi Khamiđulin Rashit(2) thì Rashit cười ầm nói rằng làm gì có chuyện ấy, chính anh dịch trong cuộc hội đàm ấy mà.
Chưa hết. Người của Thọ nói Thọ có đủ bằng chứng rằng chính đại sứ Liên Xô Sherbakov đứng đàng sau cuộc đảo chính bất thành(3).
Tôi không tin Liên Xô có ý muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ðại hội XX trước hết là công việc của những người cộng sản Liên Xô, chống sùng bái cá nhân Stalin cũng là công việc của Ðảng cộng sản Liên Xô, chứ không nhằm chống sự sùng bái lãnh tụ ở các nước khác. Phản ứng dây chuyền trong việc chống sùng bái cá nhân là phản ứng đương nhiên, được cổ vũ bởi sự kiện Ðại hội XX mà thôi. Trong những năm 60 Liên Xô có đủ chuyện trong nhà để mà đau đầu.
Việc tra hỏi ngầy ngà về âm mưu đảo chính kéo dài cả tháng. Tôi phát mệt với những câu hỏi của Huỳnh Ngự. Thế rồi lại thấy im.
Tưởng đến đó là xong, nhưng không phải. Ðùng một cái, Huỳnh Ngự quay lại với đề tài cũ. Giữa một buổi hỏi cung bình thường, y bỗng nổi cơn quát nạt ầm ĩ. Khi quát tháo, giọng y bốc cao, the thé như giọng một tên lại cái:
– Anh còn muốn ở Hỏa Lò nầy tới bao lâu nữa hử? Tui hớt kiên nhẫn với anh rồi. Tui tưởng đâu anh đã hiểu ra tội lỗi của anh trước Ðảng, anh sẽ thành khẩn khai báo, hóa ra không phải. Anh vẫn chó đen giữ mực, vẫn ngoan cố… Không muốn về nữa hử?
Chao ôi, quát thì quát, anh chàng thư lại này vẫn còn ảo tưởng có thể thí dỗ tôi bằng một cái bong bóng xà phòng. Y muốn tôi nghĩ y cáu với tôi chỉ vì trên nóng lòng nóng ruột muốn thả tôi lắm rồi, còn tôi thì quá ngu ngốc nên không hiểu, cứ trơ trơ như gỗ. Huỳnh Ngự có cái dễ thương của y. Trong những ngày lao đao nhất của tôi, thỉnh thoảng y lại cho tôi một trận cười.
– Tôi chỉ có thể nói sự thật và chỉ có sự thật mà thôi. Nếu tôi nhớ không lầm chính bác đã nhiều lần nói với tôi rằng Ðảng không đòi hỏi gì hơn ở tôi ngoài sự thật…
– Ðừng có chơi chữ với tui, hiểu chửa? – Huỳnh Ngự vỗ mạnh xuống bàn. Cái vỗ của y quá yếu, nó gây ra một tiếng bẹt thảm hại – Tôi đi guốc trong bụng các anh đó. Ðừng có thấy Ðảng đối xử tử tế với anh mà tưởng bở, tưởng Ðảng buộc phải nương nhẹ còn kiêng nể bọn xét lại hiện đại quốc tế… Lầm to! Lực lượng mác-xít – lênin-nít trên thế giới là vô địch, anh hiểu chưa? Vô địch. Sự thật?! Một khi anh đã không chịu thừa nhận những lỗi lầm của mình thì cái sự thật của anh chẳng bao giờ giống được sự thật của Ðảng. Mà chỉ có sự thật của Ðảng mới là sự thật, là chân lý. Cái sự thật của anh ấy à, nó không đáng giá một đồng xu keng…
Tôi nổi khùng:
– Nếu chỉ có sự thật của Ðảng mới được các anh coi là sự thật thì hà tất các anh phải hỏi tôi làm gì cho mất thời giờ. Các anh cứ việc viết cái sự thật ấy ra mà lu loa rằng tôi đã thú nhận. Mà có lẽ các anh đã lu loa với mọi người như thế rồi, bây giờ các anh muốn tôi tự tay viết, tự tay ký, để chìa ra làm bằng chứng, phải không? Ðừng hòng!
Bên cạnh Huỳnh Ngự có thêm một người lạ mặt. Ðó là một người đứng tuổi, tầm thước, với cặp mắt thông minh trên gương mặt sáng sủa của một trí thức thành thị. Anh ta lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu, không tỏ thái độ rõ ràng.
– Thế thì để tui nói cho anh hay cái sự thật Ðảng biết về anh! – Huỳnh Ngự gầm lên – Anh là một-tên-gián-điệp-của-bọn-xét-lại..
Huỳnh Ngự giúp tôi bình tĩnh trở lại. Tiếng gầm của con mèo làm tôi bật cười:
– Sao? Anh nói cái gì, tôi không hiểu. Thật mà, tôi không hiểu khái niệm này. Ra còn có một tội danh như anh nói kia đấy… Thường trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia người ta nói tới tội làm gián điệp cho một quốc gia khác, chứ không ai nói gián điệp cho bọn này hay bọn kia…
– Anh muốn nói cho rõ hơn hả? Ðược, tui sẽ nói rõ: anh là gián điệp-của-bọn-xét-lại-hiện-đại-Liên-Xô, anh làm gián điệp cho Liên Xô. Thế nào, anh có đủ can đảm nhận tội nớ không? Hay cái nớ cũng không phải là sự thật của anh? Cơ quan an ninh có đủ bằng chứng. Chính thằng Rasiđ đã thú nhận tất cả, tại phòng nầy nầy, cả thằng thầy nó nữa, thằng Sherbakov… Bọn xét lại Liên Xô đã phải xin lỗi vì thọc tay vào công việc nội bộ của Việt Nam. Các anh ngu dốt không biết, chớ cơ quan an ninh Việt Nam biết hớt mọi âm mưu của bọn xấu người nước ngoài. Lần này đến cả tên trùm lật đổ Mikoian cũng phải rợn tóc gáy. Chúng nó đều không ngờ…
Tôi muốn cười phá lên. Ghê chưa, bọn tiểu quỷ bây giờ nhảy bàn độc, nhổ bọt vào những đấng bậc mà trước mặt họ chúng khúm núm.
– Anh không tin? Anh muốn biết bằng chứng?
– Sao lại không tin? – tôi cười vui vẻ – Tôi tin lắm chứ. Tôi tin rằng cơ quan an ninh phải có bằng chứng trong tay mới dám nói thế, còn bằng chứng ấy thế nào lại là chuyện khác. Trong những việc hệ trọng thế này đâu có thể xưng xưng nói ra cho sướng miệng mà được… Những lời buộc tội không dựa trên bằng cớ xác đáng có thể dẫn tới những hậu quả tai hại vì chúng liên quan tới một quốc gia trước nay vốn không phải thù địch, hơn nữa lại là một nước anh em viện trợ cho ta nhiều hơn bất cứ nước nào khác…
Huỳnh Ngự chồm tới, ghé sát vào mặt tôi. Lòng trắng mắt y đỏ ngầu, vằn lên những tia máu. Tức giận không làm cho mắt y đỏ cạch như thế, tôi nghĩ. Thôi chết, y bị nhiễm dịch đau mắt đỏ rồi. Nạn dịch ghê gớm hoành hành dữ dội từ mấy tháng trước, tôi cũng đã bị. Nhưng trận dịch đã tắt, không hiểu sao y còn mắc. Lẽ ra y không nên ở đây lý sự lằng nhằng với tôi mà đến khám ở Viện Mắt.
– Ðược, tui sẽ cho anh biết những bằng chứng ấy. Ngay bây chừ. Ngay lập tức. – y rít lên – Chỉ vì Ðảng nhân đạo khoan dung cho những đứa con lầm đường lạc lối nên tui mới còn kiên nhẫn làm việc với anh mà thôi…
– Có nghĩa là nếu Ðảng không khoan dung thì tôi đã bị bắn bỏ? Tôi phải hiểu như thế chứ gì?
– Nè đừng có chọc giận tui nghen. Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nhơn tiện tui cũng nói cho anh hay: không phải vô cớ Ðảng lịnh cho bắt anh ở giữa đường…
– Tôi không hiểu. Bắt giữa đường hay bắt tại nhà thì có gì khác nhau? Bắt ở đâu cũng là bắt. Hẳn phải có lý do nào đó khiến Ðảng phải dùng cách bắt cóc…
– Anh lầm. – Huỳnh Ngự lửng lơ – Cái đó có nguyên nhân của nó, mà nguyên nhân ấy không nằm ngoài lòng tốt của Ðảng đối với gia đình anh. Anh cứ nghĩ kỹ khắc hiểu(4)…
– Tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn lượng bao dung và tình thương rộng lớn mà Ðảng dành cho gia đình chúng tôi – tôi cố ý chọn những từ ngữ khách sáo nhất để có thể mai mỉa nhiều nhất – Nhưng với tư cách người bị buộc tội tôi cũng rất muốn biết những bằng chứng kết tội mình. Biết đâu đấy, những bằng chứng ấy lại là ngụy tạo, do những tên bất lương cung cấp cho Ðảng nhằm mục đích tâng công thì sao?
– Ðừng có láo! – vừa dịu giọng được vài phút, Huỳnh Ngự lại sửng cồ – Anh bảo ai bất lương? Anh bảo ai tâng công?
– Những kẻ chạy theo thành tích bằng bất cứ giá nào ấy. Chẳng lẽ trong hàng ngũ cách mạng hết sạch những tên cơ hội rồi sao?
Huỳnh Ngự ngớ ra một giây. Trong các tài liệu tuyên huấn Ðảng không ngớt chửi rủa bọn cơ hội. Tôi có chửi bọn cơ hội cũng là chửi phụ họa theo Ðảng mà thôi.
Người đàn ông ngẩng mặt lên nhìn tôi.
– Ðược, lúc ni tui không thèm đôi co với anh chuyện đó. Ðể đó sau. Chừ anh trả lời tui: ngày nớ giờ nớ (y giở sổ tay và đọc rõ ngày giờ với vẻ đắc ý) anh gặp thằng Rashit tại quán An Thái kế bên rạp Tháng Tám(5) để bàn chuyện chi? Anh có chối rằng anh không gặp hắn không?
– Việc gì phải chối! – tôi nhún vai – Chẳng lẽ tôi lại không được phép gặp gỡ bạn bè là công dân một nước anh em sao?
– Không được phép. Ðảng đã nghiêm cấm tiếp xúc với người nước ngoài.
– Rất tiếc, tôi chưa được biết Ðảng đã ra một sắc lệnh như thế.
– Anh xỏ lá hả? – Huỳnh Ngự dậm chân quát – Ðừng tưởng tôi không hiểu cái lối xỏ lá của anh. Ðảng không bao giờ ra sắc lệnh. Nhưng Ðảng là Ðảng lãnh đạo, Ðảng quyết và Nhà nước thực hiện.
– Kể cả sắc lệnh của Nhà nước, xin lỗi, của Quốc hội, tôi cũng chưa được đọc.
– Không phải sắc lệnh, mà là chỉ thị. – Huỳnh Ngự nhăn nhó – Nó đã được phổ biến đến từng cơ quan…
– Tôi hiểu rồi. Chỉ thị này là chỉ thị mật, không được đăng báo, nếu đăng tôi đã biết. Không thấy cơ quan tôi nói gì về chuyện này. Mà cũng có thể khi chỉ thị được phổ biến thì tôi lại không có mặt ở tòa soạn. Chả là tôi thường xuyên đi công tác địa phương…
Tất nhiên, tôi biết cái chỉ thị mật sặc mùi bế quan tỏa cảng của Phạm Văn Ðồng. Cái chỉ thị nhà quê này làm cho những người trước kia học tại Liên Xô và các nước Ðông Âu phải chạy trốn các bạn học cũ khi vô tình chạm trán họ trên đường phố Hà Nội.
– Ta trở lại vấn đề: anh gặp Rashit bàn những chuyện chi?
Cách của Huỳnh Ngự là thế – vừa mới quát nạt phút trước phút sau y đã chuyển ngay sang giọng bình thường để quay lại với câu hỏi bỏ dở.
– Bàn chuyện gì? – tôi nhún vai – Chúng tôi chẳng bàn chuyện gì hết.
– Anh nói dối!
– Nếu cái gì tôi nói cũng bị coi là nói dối thì còn nói nữa làm gì, vô ích.
– Ðược, anh nói gì cũng được. Tui nghe.
– Tất nhiên, bên ly cà phê chúng tôi cũng nói chuyện tào lao, không thể không có chuyện đó. Nhưng đó là chuyện trời đất nắng mưa, không đáng kể ra đây…
– Tui cũng muốn nghe cả những chuyện nớ.
– Ðược thôi, đại loại tôi hỏi thăm Rashit về các bạn cũ – chả là chúng tôi có những người bạn chung…
– Hừm, chi nữa?
– Chuyện mấy năm nay Moskva xây dựng thêm nhiều, Rashit nói, bây giờ tôi sang chắc không nhận ra nơi tôi ở cũ.
Huỳnh Ngự cười nửa miệng.
– Có vậy thôi ư?
– Ðáng tiếc, hôm ấy chúng tôi lại chẳng nói chuyện gì khác…
Tôi biết hôm ấy có cá chìm theo. Khi tôi và Rashit ngồi trong quán cà phê, chúng lảng vảng bên ngoài. ê vị trí đó chúng không thể nghe được chúng tôi nói gì với nhau, giả định rằng chúng biết tiếng Nga. Ðể có thể nghe lén ở khoảng cách xa, bọn cá chìm phải được trang bị tốt. Nhưng đám phái khiển(6), được chọn từ những mối quan hệ huyết thống của gia đình Hoàn, chỉ thạo buôn lậu chứ ra nước ngoài chẳng những đã không thu thập được tin tức tình báo cần thiết, mà còn không mua sắm được phương tiện hiện đại cần cho hoạt động nghiệp vụ. Ðiều này giải thích vì sao về sau này Trần Quốc Hoàn mất hai năm không bàn giao nổi công tác tình báo cho bộ trưởng mới Phạm Hùng. Lịch sử còn ghi nhận thêm hai sự kiện đáng xấu hổ cho Hoàn: đó là khi quân Polpot vượt biên giới Tây Nam đánh vào Tây Ninh, khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc. Trong cả hai biến cố lớn ngành an ninh đã không báo trước được cho Trung ương lấy một ngày.
Tôi lấy làm tiếc đã không kể được cho Huỳnh Ngự nghe câu chuyện giữa tôi và Rashit. Y không đủ trí tuệ để hiểu được sự thật. Tính đinh ninh, cố chấp làm y mù lòa.
Câu chuyện hôm ấy đáng được kể lại ở đây, vì nó liên quan tới cái gọi là tình quốc tế vô sản. Rashit hỏi ý kiến tôi về một số yêu cầu viện trợ đang làm anh băn khoăn. Chẳng hạn, phía Việt Nam đưa ra con số tổn thất về phương tiện vận tải quá lớn. Theo thỏa thuận, Liên Xô phải đảm bảo cho Việt Nam một số đầu xe hoạt động trên toàn chiến trường Nam Bắc, Mỹ bắn hỏng bao nhiêu phải lập tức bù lại bấy nhiêu cho đủ. Cầu cũng vậy, Mỹ đánh gục cầu nào là phải có ngay sắt thép lắp lại ngay lập tức để bảo đảm vận chuyển bộ đội và súng đạn cho chiến trường. Theo tinh thần này Việt Nam yêu cầu Liên Xô cung cấp một lượng thép cầu rất lớn, tính theo loại có kết cấu trung bình thì đủ để xây dựng một cây cầu có chiều dài tổng cộng… 80km (!)
Rashit nói:
– Nhiều quá! Của cải Liên Xô đâu phải vô tận. Cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được. Tôi không biết sẽ phải giải thích với chính phủ tôi ra sao đây, mà đó là công việc tôi phải làm…
Tôi hiểu: con số không khiêm tốn. Nhưng trong tôi tư tưởng bản vị thắng lẽ công bằng. Tôi không muốn Liên Xô giảm số sắt thép viện trợ.
– Nếu chỉ nói riêng về cầu không thì quả có quá đáng. – tôi trả lời – Trong con số này chắc người ta đã tính gộp cả những nhu cầu khác thuộc cầu đường, chẳng hạn làm thanh chắn cho các đường ngầm qua suối, làm pông-tông(7). Việt Nam, cậu biết đấy, có quá nhiều sông suối…
Rashit vốn nhiệt tình với Việt Nam. Anh gật gù rồi nói có thể tôi có lý.
Câu chuyện hôm đó là thế. Nhưng có nói ra với Huỳnh Ngự cũng vô ích. Trong khối óc bã đậu của y những người xô-viết có mặt tại Hà Nội đều là những tên xét lại hiện đại, những tên địch, và y đang vênh vang tự hào về chiến thắng của quan thầy y trong cuộc chiến tưởng tượng.
Ở đây kể cũng nên mở ngoặc đơn để nói về một sự bất công. Dư luận thế giới nói nhiều về những mưu toan bá quyền của Liên Xô. Người ta dẫn ra các thí dụ về việc Liên Xô hy sinh một số nước láng giềng như Tiệp Khắc, Ba Lan trong thế chiến thứ hai, việc can thiệp vào nội bộ các nước ở Ðông Âu để đàn áp những cuộc nổi dậy của dân chúng tại các nước đó, tham gia cuộc chiến dai dẳng tại Afganistan(8), can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam, Angola…
Những việc đó có thật. Nhưng bên cạnh và bên trong những toan tính vị kỷ của các nhà lãnh đạo xô-viết còn một sự thật khác bị cố tình không nhắc tới, nhất là sau khi Liên Xô tan rã. Sự thật đó là: trong những người xô-viết bình thường có thật một niềm tin ở tinh thần quốc tế vô sản. Họ tự hào thực hiện nghĩa vụ người cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc, với nhân loại. Vì một chủ nghĩa bá quyền xô-viết mà phủ nhận công lao của các chiến sĩ Hồng quân đã hy sinh mạng sống để tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít là vô ơn.
Cũng như vậy, không thể vì những mưu toan của một Lê Duẩn, một Lê Ðức Thọ mà xóa sạch những hy sinh của các chiến sĩ Việt Nam trong cuộc chiến chống bọn diệt chủng Polpot. Trong chuyện này quốc vương Sihanuk còn công bằng hơn những người căm thù bất cứ cái gì là cộng sản. Mặc dầu không bằng lòng chính quyền Hà Nội trong nhiều vấn đề ông vẫn ghi nhận sự thật là: nếu không có người Việt Nam thì thảm họa diệt chủng ở Camphuchia còn lớn hơn nhiều.
Những vấn đề lịch sử thường rất phức tạp, không thể suy nghĩ theo cách đơn giản: có không có, phải không phải.
Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa hiện tồn, sự xuất hiện cũng như sự tan rã của nó, để lại cho nhân loại nhiều điều suy ngẫm. Ước mơ về một xã hội công bằng trong tình thương yêu không mất đi cùng với sự mất đi của một mô hình. Chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một ước mơ, sẽ còn tồn tại. Loại ra ngoài những hành động tàn bạo xảy ra trong điều kiện những thành quả cách mạng bị tước đoạt, xã hội mang tên cộng sản với nghĩa một xã hội tự do và công bằng, không còn cảnh người bóc lột người, bốn biển là anh em, chẳng lẽ không phải và không được phép là một xã hội mong muốn?
Nhưng thôi, ta hãy quay lại với cuộc khẩu chiến của tôi trong Hỏa Lò.
Huỳnh Ngự đi đi lại lại một lát rồi đột ngột dừng bên cạnh tôi, ngọt nhạt:
– Tui hiểu, anh muốn tôi phải chìa bằng chứng ra rồi mới chịu nói hớt chớ chi? Nè, cái đó, tui báo trước cho anh biết, chỉ có hại cho anh chớ không có lợi đâu. Anh không tin hử? Anh coi thường đối thủ của mình hơi nhiều đó. Bây giờ đã là năm 1967 rồi, đâu có còn là năm 1945. Ngành an ninh của ta đã lớn mạnh. Anh thấy đó, cho dù anh có được chúng nó huấn luyện kỹ tới mấy, kết cục anh vẫn thua tụi tui như thường.
Thì ra trong cái đầu cằn cỗi của y Trường Ðại học Ðiện ảnh Moskva một lần nữa lại nổi lên như một Trung tâm huấn luyện tình báo. Chẳng thế mà y cứ hỏi đi hỏi lại về chương trình học ở trường này, bắt tôi nói kỹ, bắt tôi viết, về từng môn học, về từng giáo sư. Tôi hiểu: bằng những câu hỏi triền miên Huỳnh Ngự muốn tôi bị rối trí lộ ra những cái không nhất quán để y thọc sâu, khai thác tiếp.
Tự nhiên tôi thấy mệt. Có lẽ do áp huyết tụt. Tôi mắc chứng áp huyết thấp, nhưng chẳng bao giờ tôi tìm cách chữa nó. Tôi còn trẻ, bệnh tật chưa làm phiền tôi bao nhiêu. Cái mệt mỏi bất thần ập đến làm tôi không muốn kéo dài cuộc đấu khẩu. Tôi chán ngán cúi xuống. Im lặng tràn ngập căn phòng.
Không nhìn lên, tôi nghe Huỳnh Ngự cao giọng:
– Bây chừ anh còn muốn cãi nữa không? Tui sẵn sàng nghe anh cãi. Còn cái sự thật nào nữa thì đưa ra đây coi thử? Tui chẳng cần phải dối anh làm chi, tui nói có bằng chứng là tui có bằng chứng. Ðủ cả: muốn hình chụp có hình chụp, muốn băng ghi âm có băng ghi âm… Nào, chừ anh muốn coi hay muốn nghe? Hay muốn cả hai.
Tôi chẳng muốn gì hết. Tôi chỉ muốn có một phép mầu nào đó giúp tôi biến khỏi nơi này, để khỏi phải thêm những lời xuẩn ngốc của một tên mắc chứng chuyên chính cuồng.
Huỳnh Ngự tưởng đã chế ngự được tôi. Y vênh vang như một kỵ sĩ cuối cùng đã thuần phục được con ngựa bất kham.
– Có vậy chớ! – y thở phào – Chẳng lẽ anh cứ ngoan cố mãi.
Y tưởng tôi gục rồi, tôi sẽ nhận cái tội y muốn tôi nhận.
Ai cũng biết rằng đối với nhà cầm quyền ngoài cái tội tuyên truyền chống chế độ mơ hồ, chỉ còn có tội làm gián điệp cho nước ngoài là tiện lợi hơn cả. Chẳng cần phải vất vả chứng minh, cứ có lời nhận tội là đủ, là đã có thể mang tội nhân ra xử rồi.
Tôi không được trực tiếp nghe những thông báo nội bộ của Lê Ðức Thọ. Văn Cao dự họp Ðảng ở Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật, được nghe phổ biến về những thông báo trên. Anh kể lại cho tôi không những nội dung mà cả cách dùng từ ngữ trong những thông báo nọ. Chúng là sự sáng tạo ở cấp độ cao lối nói mơ hồ, tạo ra những khoảng không bao la cho sự hiểu ngầm.
Trong thông báo số 1, Lê Ðức Thọ nói rằng Ðảng (chứ không phải Nhà nước) đã quyết định bắt giam một số tên cầm đầu của một nhóm phản bội. Bản thông báo kêu gọi những ai có liên hệ với nhóm này đến báo cáo với Ban tổ chức Trung ương Ðảng (hãy mau mau lập công, hỡi các đồng chí!). Thông báo số 2 có vẻ cụ thể hơn. Lê Ðức Thọ cho trích một số lời thú tội của những người bị bắt, nhận có liên hệ với người nước ngoài, lạy lục van xin Ðảng khoan thứ. Sự bịa đặt quá lố, làm mẹ tôi phải kêu lên: “Bọn mất dạy, bố của các con không bao giờ nói những lời hèn hạ như thế! Các con chớ tin lời chúng nó”.
Mặc kệ Huỳnh Ngự nỉ non, tôi ngồi im. Cơn buồn ngủ ập đến làm tôi ngáp chảy nước mắt.
Huỳnh Ngự lại hiểu sự im lặng của tôi theo nghĩa khác.
– Chừ anh hiểu cả rồi chớ? Hiểu thiệt chớ?
– Vâng, tôi đã hiểu… – tôi ngán ngẩm đáp và nghe thấy y cười ré trên đầu tôi.
Thằng đần, tôi rủa thầm. Từ khi vào tù tôi thích nói những câu hai nghĩa. Tôi nói hiểu là theo cách của tôi, không phải theo cách của y.
Huỳnh Ngự tự thưởng cho mình một điếu Ðiện Biên bao bạc.
– Tui biết, tui biết chớ, chẳng chóng thì chầy anh cũng sẽ hiểu ra. Ngoan cố là vô ích, bởi vì Ðảng biết tất, biết từng hành động sai trái của anh, bởi vì tai mắt của Ðảng ở khắp mọi nơi…
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Ðảng là Chúa Trời “ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự”. Ðảng là Phật nghìn tai nghìn mắt. Ðảng quyền lực vô biên!
– Ðảng còn hỏi anh là để cho anh có cơ hội phản tỉnh, để cho anh do đào sâu suy nghĩ mà hiểu thấu lỗi lầm, rồi tự mình trình bày với Ðảng…Thành khẩn khai báo là thước đo lòng trung thành với Ðảng… Ðánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại…
Tội nghiệp cho Huỳnh Ngự. Y quá vội sung sướng.
– Mừng cho anh hôm ni đã vượt qua được bản thân để thú nhận tội lỗi của mình với Ðảng. – y độ lượng mỉm cười, đặt tay lên vai tôi – Xét cho cùng, cũng chẳng con đường nào khác. Vả lại, anh theo Ðảng từng ấy năm, được Ðảng giáo dục dạy dỗ, chẳng lý nào anh lại không tiếp thu được điều chi. Trong thời gian tới tui hi vọng anh sẽ tiếp tục khai báo với Ðảng những chi mà bọn xấu người nước ngoài mưu toan gây hại cho nước ta…
Tôi ghê tởm cảm thấy trên vai mình chất nhày trên da loài bò sát. Ðể Huỳnh Ngự không nhận thấy mặt tôi nhăn nhó, tôi lí nhí đáp lại một câu không rõ.
– Bác Ngự ạ, cảm ơn bác chí tình khuyên răn, nhưng…
Huỳnh Ngự chững lại:
– Còn nhưng cái chi?
– Thế này, tôi sẵn sàng nhận tội trước Ðảng… – tôi cố ý nói chậm, từng tiếng một, bằng giọng thật điềm đạm – bởi vì, thú thực, cái mà Ðảng coi là tội thì trong quan niệm của tôi…, ồ không, xin bác đừng ngắt lời, xin hãy nghe tôi đã…
Huỳnh Ngự nuốt nước bọt. Y nhìn xoáy vào mắt tôi:
– Nói đi, đừng có vòng vo Tam quốc.
– Tôi sẵn sàng nhận tội làm tình báo cho Liên Xô…
– Tốt! – Huỳnh Ngự phán.
-… bởi vì trong khái niệm của Ðảng tôi đã dại dột mắc vào tội đó…
– Tốt!
– Tôi nhận còn vì một lẽ nữa: tôi coi sự được đứng trong hàng ngũ các chiến sĩ tình báo xô-viết là một vinh dự.
– Hừm!
– Vâng, đúng thế, tôi coi là vinh dự. Với tôi, không có cách nhìn khác. Những chiến sĩ tình báo xô-viết đã lập chiến công to lớn trong cuộc chiến đấu của loài người chống họa phát-xít. Họ xả thân vì quyền sống của nhân loại, họ ngã xuống như những anh hùng…
– Hừm!
– Nhưng nếu như tôi không nhận mình là người trong hàng ngũ những người anh hùng ấy, mặc dầu lòng tốt và sự khó nhọc của bác, thì xin bác đừng giận: ở đây không phải chuyện chạy tội hoặc giả tôi không dũng cảm nhận việc mình làm… Nguyên nhân ở đây khác: tôi là một con gà lương thiện không thích được cắm lông công.
Tôi đứng lên, tỏ ý cuộc nói chuyện đến đấy đã chấm dứt.
Huỳnh Ngự trợn mắt, đờ đẫn nhìn tôi. Y không chờ đợi một phản ứng đầy miệt thị như thế. Người của bộ máy chuyên chính vô sản quen đè bẹp mọi kẻ thù bàng hoàng trước một tên tù non choẹt nhưng không thể bẻ gãy.
Người đàn ông mỉm cười, hoặc tôi có cảm tưởng anh ta mỉm cười.
Huỳnh Ngự run bắn lên. Trong cơn tức giận ập tới không tìm được lời đối đáp. Y còn tức giận hơn nữa vì trong phút ấy y không chỉ mất mặt với mình tôi – sự mất mặt lần này lại diễn ra trước thuộc cấp.
– Ðưa hắn vô trở lại xà lim! – y hét lên, trở lại nguyên hình – Hắn muốn chết rục xương trong Hỏa Lò ni thì cho hắn toại nguyện! Không có nương nhẹ chi với hắn hớt! Từ mai các anh cắt hớt cho tôi! Cắt! Cắt hớt!
Vơ vội vã những tài liệu trên bàn, những ngón tay nhợt nhạt run lên, y nhét tất cả vào cặp, đùng đùng bỏ ra ngoài.
Còn lại người đàn ông và tôi. Giữ nguyên nụ cười khó hiểu trên môi, anh ta lững thững đưa tôi đi qua sân Hỏa Lò vắng vẻ tới cái tiền phòng, từ đó tôi trút bỏ áo quần đời thường để bước vào cuộc sống tù ngục.
Sau buổi làm việc không vui vẻ ấy cái bánh mì bộ tuyệt trần cũng vĩnh viễn ra đi. Cái chữ “Cắt hớt! Cắt hớt!” của Huỳnh Ngự té ra có nghĩa là như vậy.
Thành không oán tôi về sự ra đi đột ngột của cái bánh mì đáng yêu. Anh an ủi tôi:
– Cậu lại gây gổ với họ rồi! Thời tiết Hỏa Lò thay đổi như thế này là chuyện thường. Ðừng ngạc nhiên. Mà cũng đừng lo lắng.
(1) Trong hồi ký của mình ông Khrusov không hề nói tới một mối quan hệ riêng nào với ông Võ Nguyên Giáp, ông cũng chẳng đả động gì đến một bức thư nào gửi cho đại tướng Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp, trong những hồi ký lẻ tẻ của ông, cũng không thấy nói tới một bức thư như thế. Trong chuyện bịa ra bức thư này, chủ yếu cho nó chạy trong luồng dư luận ngồi lê đôi mách, ác ý của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ là rõ ràng.
(2) Bí thư thứ hai đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam vào những năm 60. Sau, Khamiđulin Rashit giữ chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Phnôm Pênh, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Hà Nội.
(3) Mãi tới Hội nghị Trung ương lần thứ 20, khóa III (tháng 1.1972) Trung ương Ðảng mới có kết luận về “nhóm xét lại hiện đại” như sau: “Ðây là một vụ án rất nghiêm trọng, có mục đích, có biện pháp tiến hành, nhằm lật đổ cơ quan lãnh đạo của Ðảng, đồng thời họ tổ chức hoạt động tình báo cho nước ngoài và được nước ngoài chỉ đạo chặt chẽ…” (Trích Nghị quyết số 219A ra ngày 27.1.1972. Tôi gạch dưới.V.T.H.) Như vậy là hơn bốn năm sau khi bắt người Lê Ðức Thọ mới lợi dụng Trung ương tuyên bố tội trạng (!), mà là tội trạng bịa đặt. Cũng không nói tới đảo chính nữa, chỉ nói tới lật đổ ban lãnh đạo Ðảng mà thôi.
(4) Cho đến nay tôi vẫn còn bán tín bán nghi: rất có thể hồi ấy Lê Ðức Thọ không chủ trương bắt tôi thật, mà chỉ định bắt dọa thôi. Thế mới biết Thọ tùy tiện đến mức nào trong việc đối xử với công dân.
(5) Rạp Majestic cũ.
(6) Tình báo viên được cử ra nước ngoài dưới những vỏ bọc khác nhau để thực hiện nhiệm vụ.
(7) Phao ghép làm cầu qua sông, suối.
(8) Trong những năm 1979-1989 Liên Xô đã mang quân chiếm đóng Afganistan (con số được công bố là 118.000 lính) “theo yêu cầu của nước bạn” để ủng hộ chính quyền thân Liên Xô, với những nhân vật lãnh đạo được lần lượt dựng nên và truất bỏ: Noor Taraki, Hafizullah Amin, Babrak Karman, Muhammad Najibullah.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:12:51 GMT -6
Chương 22
Dù sao mặc lòng, kể từ hôm ấy coi như tôi bị mất việc ở cơ quan tình báo xô-viết. Huỳnh Ngự cũng lờ tịt, không quay lại với đề tài bị thối lần nào nữa.
Tôi hiểu mình đã tước của các nhà chuyên chính vô sản một con bài quan trọng. Không phải đó là sự tước đi lý do buộc tội tôi, có lẽ là lý do duy nhất, hoàn toàn không phải thế. Ðiều đó không làm họ suy nghĩ. Chẳng cần phải vò đầu bứt tai nghĩ cách buộc tội tôi người ta vẫn có thể tống tôi vào xà lim như thường. Cái chính là họ mất đi kỳ vọng dùng tôi làm tấm ván bắc cầu vào nhà người khác – Võ Nguyên Giáp, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Lê Liêm và các nhà cách mạng lão thành bị bắt trong vụ này.
Nhưng Huỳnh Ngự không cho tôi nghỉ ngơi.
Bắt đầu cuộc đánh vật mới về những nhân vật quan trọng. Tôi bình tĩnh, khiêm tốn nói tôi chẳng biết gì về họ. Huỳnh Ngự phát chán. Y để họ đấy đã, chuyển qua hỏi tôi về những người mà theo tôi, chẳng mấy liên quan tới chủ nghĩa xét lại hiện đại.
Tính Tào Tháo(1) của nhà cầm quyền không phải là điều mới lạ. Nhưng nghi ngờ bất cứ ai, không căn cứ trên một chứng cứ nào thì thật quá đáng. Ðó là sự phỉ báng trắng trợn những người cùng chung hàng ngũ mà họ hàng ngày vẫn tay bắt mặt mừng, vẫn gọi bằng đồng chí.
Tôi xin kể một câu chuyện làm thí dụ.
– Anh ghê thiệt đó, chẳng kém ủy viên Bộ Chính trị bao nhiêu đâu. Ngồi tại Hà Nội mà có nhãn tiến(2) dâng tận miệng, ghê thiệt! – Huỳnh Ngự bỗng dưng nói một câu bâng quơ trong tuần trà thông lệ, trước khi bước vào cuộc hỏi cung.
Tôi nhớ ra: cách đây ít lâu anh Lê Quý Quỳnh, bí thư tỉnh ủy Hưng Yên, có gửi cho tôi một bó nhãn tiến làm quà. Thì ra việc ấy cũng đến tai nhà chức trách. Anh Lê Quý Quỳnh cho cán bộ mang tới cơ quan chứ không mang tới nhà riêng. Thế mới biết chẳng có gì mà bọn chỉ điểm không báo cáo. Nói chuyện này ra Huỳnh Ngự muốn khoe sự hiểu biết thần thông quảng đại của cơ quan công an hay còn có ý gì khác?
– Tui cần một báo cáo về Lê Quý Quỳnh. – y nói tiếp, mặt lạnh tanh.
Tôi còn đang ngỡ ngàng thì còi báo động đột ngột hú lên, cắt ngang buổi làm việc. Huỳnh Ngự lật đật ôm hồ sơ chạy ra ngoài.
Bom Mỹ cứ việc rơi trúng Hỏa Lò đi, chẳng sao hết. Tôi có một cuộc đời đẹp đến nỗi chẳng buồn tiếc nó làm gì! Thành nói Hỏa Lò là nơi an toàn nhất Hà Nội, máy bay Mỹ không bao giờ ném bom vào nơi có tù binh Mỹ. Theo lệnh quản giáo, tù xà lim phải chui vào gầm phản khi có báo động. Chúng tôi chưa một lần chui xuống đó.
Còi báo động chỉ làm tôi nhớ nhà. Nhớ lắm! Từ nhà tôi tới Nhà Hát Lớn thành phố chỉ ba bước chân. Mỗi lần còi báo động trên nóc Nhà Hát Lớn hú lên là các con tôi phải bịt chặt tai lại.
Huỳnh Ngự quay trở vào, xếp lại hồ sơ lên bàn. Cuộc hỏi cung tiếp tục.
– Tôi biết gì về anh Lê Quý Quỳnh để có thể nói về anh ấy?!
– Anh biết quá đi chớ. Không dưng Lê Quý Quỳnh gởi nhãn tiến cho anh? Thứ nhãn quý ni, anh thừa biết, chỉ dành riêng cho Bác và Bộ Chính trị, đâu phải bí thư tỉnh muốn cho ai thì cho.
Thì viết.
Tôi lùi bước theo cách của tôi. Giờ Huỳnh Ngự muốn bắt tôi viết gì tôi cũng viết. Có thể coi việc viết những báo cáo này là cách tiêu thời gian trong tù lắm chứ. Bọn mao-ít chẳng sử dụng được những báo cáo của tôi để hại ai đâu. Tôi thừa khôn để không trao cho chúng vũ khí hại người.
Tôi viết rằng Lê Quý Quỳnh là một trong những bí thư tỉnh ủy ít ỏi mà tôi được gặp. Hiếm có một bí thư tỉnh ủy gần dân như anh. Anh không mấy khi có mặt ở cơ quan tỉnh ủy mà lăn lộn hàng ngày với dân, giải quyết những vấn đề nảy sinh tại chỗ. Ðám nhà báo tìm anh rất khó. Tôi quen anh lần đầu vào mùa thu năm 1963 trong khi đi viết về Hưng Yên, không phải về Hưng Yên đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà về vùng đất “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến” ngày xưa. Lê Quý Quỳnh tiếp tôi trong phòng làm việc, nơi mọi vật bị bụi phủ một lớp dầy. Vừa cầm giẻ lau qua quít cái bàn để lấy chỗ tiếp khách, Lê Quý Quỳnh vừa nói: “Nhà báo ạ, nếu anh được một bí thư tỉnh tiếp tại một bàn giấy bóng lộn thì anh hãy cảnh giác – anh đang hỏi chuyện một tên quan liêu đấy!”.
– Tại sao anh không viết về khẩu hiệu “Hưng Yên mở hội làm giàu” của Lê Quý Quỳnh? Mấy bận anh đi làm việc cho tòa soạn về Hưng Yên, chúng tôi biết, anh thường đi với Lê Quý Quỳnh tới các xã, ăn cùng mâm, nằm cùng giường với anh ta, thể nào Lê Quý Quỳnh cũng nói chuyện quan điểm với anh, đúng thế chứ?
Lại quan điểm!
Tôi nhìn thấy trên những bức tường ở Hưng Yên khẩu hiệu này. Chúng bị xóa lem nhem nhưng vẫn còn đọc được. Vì khẩu hiệu “Hưng Yên mở hội làm giàu” Lê Quý Quỳnh bị nguyên tổng bí thư Trường Chinh gọi lên Trung ương cạo(3) cho một mẻ đến nơi đến chốn. Mở hội làm giàu là cái gì? Phục hồi chủ nghĩa tư bản, hử?
Lê Quý Quỳnh tính vốn lành, Trường Chinh vừa quát là anh nhận lỗi liền. Vẻ phiền muộn, anh nói với tôi trong chuyến đi dọc đường số 5 rằng lỗi của anh chẳng phải cái gì khác ngoài ý muốn cho dân Hưng Yên của anh có được một cuộc sống tốt hơn, để xóa đi câu nói đau lòng “Oai oái như phủ Khoái xin cơm”. Hưng Yên có mật độ dân số cao nhất miền Bắc. Số người tha phương cầu thực cũng đông nhất miền Bắc. Ăn mày Hưng Yên nhan nhản trên đường phố Hà Nội, thỉnh thoảng Công an Hà Nội lại gom vào một chỗ, chất lên xe trả Lê Quý Quỳnh.
Người lành như anh chẳng dám ngang nhiên vượt rào. Anh có cách tính toán thực tế, rất nông dân của anh, là muốn khai thác những lợi thế tiềm tàng khác của đất đai ngoài khoản ruộng năm phần trăm(4) mà Ðảng còn dành cho nông dân, để cho nông dân tỉnh anh được sống khấm khá hơn một chút. Anh thú nhận có giấu giếm làm thí điểm khoán sản phẩm ở một vài đội sản xuất và khoe rằng đó là phương án rất có lợi.
Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, theo tôi nhớ, còn đi sau Lê Quý Quỳnh trong sáng kiến khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ nông dân, tính về thời điểm khởi đầu cuộc thí nghiệm. Trường Chinh lập tức cách chức Kim Ngọc. Lê Quý Quỳnh mới khoán chui đã bị xỉ vả, bị đá lên(5), thì Kim Ngọc bướng bỉnh dám một mình cho “khoán hộ” trên diện rộng(6) có mất chức bí thư tỉnh ủy cũng đáng.
Lê Quý Quỳnh kết thúc cuộc đời hoạt động cách mạng của anh bằng chức hội trưởng Hội những người nuôi ong.
Cơ chế khoán tới hộ lao động không phải xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam. Nếu như tháng 1.1962 Mao Trạch-đông đã lên tiếng phê phán cơ chế này thì hẳn ở Trung Quốc nó đã có trước đó ít nhất cũng một năm. Trường Chinh là người chăm chú nghiền ngẫm các trước tác của Mao, ông có kiên quyết chặn đứng mưu toan của Kim Ngọc cũng không lạ.
Từ bản báo cáo nhạt như nước ốc về Lê Quý Quỳnh và một số nhân vật trong Ðảng, tôi bị Huỳnh Ngự quay sang bắt khai về các văn nghệ sĩ quen biết: nhà thơ Dương Tường, nhà báo Mạc Lân, các nhà điện ảnh Huy Vân, Vũ Huy Cương, kịch sĩ Bửu Tiến, các nhà văn Châu Diên, Hứa Văn Ðịnh, Xuân Khánh, Phù Thăng và nhiều người khác. Cứ như tôi là cán bộ tổ chức Hội Nhà văn không bằng.
Người tôi khẳng định đã nằm đâu đó trong Hỏa Lò là Vũ Huy Cương. Sau khi được thả, gặp anh tôi mới biết tôi đoán sai một chút – Cương bị giam trong Sở Công an, trước kia là Sở Liêm phóng, chứ không bị đưa vào Hỏa Lò. Người ta bắt Vũ Huy Cương chỉ cốt để hỏi về Hoàng Minh Chính. Vũ Huy Cương kể thời gian đầu anh còn được ở trong một căn phòng không có khóa ngoài, báo động còn được chạy ra hầm trú ẩn cơ quan. Sau đó, tất nhiên, anh cũng bị giam như chúng tôi ở các trại. Tội giao du với Hoàng Minh Chính làm cho Vũ Huy Cương phải ở tù sáu năm, cộng với ba năm lưu đầy ở địa phương, không khác Hoàng Minh Chính đầu vụ một chút nào.
Ðã quen với những câu hỏi ngớ ngẩn, tôi vẫn phải ngạc nhiên khi Huỳnh Ngự đòi tôi khai về Dương Tường. Anh là bạn thân nhất của tôi. Dương Tường là nhà thơ. Trong chúng tôi anh ít quan tâm chính trị nhất, nếu không nói là chẳng thèm đoái hoài tới nó. Trong hai nhà sáng lập chủ nghĩa Mác anh thích Engels vì Engels khoái chuyện tình dân gian Tristan và Iseul. Anh không thích Mác vì Mác chỉ thích các saga mang chất anh hùng ca viking vùng Scandinave(7). Là người mơ mộng, anh chìm đắm trong cái đẹp của những con chữ, những vần điệu của thứ thơ không dễ hiểu đối với cả dân đen lẫn trí thức, đối lập với thơ hạt lúa củ khoai.
Châu Diên, tác giả tập truyện ngắn “Con nhện vàng” được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam đầu những năm 60 thì chỉ ham nghiên cứu. Vào thời kỳ nảy ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối tôi ít gặp Châu Diên. Anh học ở Trung Quốc vào thời gian những trò lẩm cẩm của họ Mao chưa đạt tới đỉnh cao vĩ đại. Chắc hẳn anh lại lỡ lời ở đâu đó về Mao chủ tịch kính mến nên mới bị Huỳnh Ngự hỏi đến.
Xuân Khánh chủ trương nhà văn không cần hư cấu, cuộc đời như nó có đã thừa đủ chất liệu cho nhà văn rồi, viết cả đời không hết. Nhưng viết thực về cuộc đời là trái với phương châm hiện thực xã hội chủ nghĩa rồi, làm sao in? Những nhà lãnh đạo quốc gia thì lại chỉ thích một thứ hiện thực, gọi là hiện thực trong chiều hướng đi lên, tức là không viết về cái xấu (nó là tạm thời) đang tồn tại, mà chỉ viết về những cái cũng đang tồn tại nhưng báo hiệu những cái sẽ có trong tương lai mà Ðảng hứa hẹn. Trong khi những cái sáng lạn thuộc về tương lai chưa kịp lấp ló ở chân trời mơ ước thì nhà văn phải viết về người tốt việc tốt cho quần chúng noi gương. Viết theo lời Ðảng dạy như thế khó lắm, bởi vì nó nhạt lắm. Cho nên sau cuốn Rừng Sâu, là cuốn được cấp trên khen, anh không viết nữa. Hẳn có bản thảo nào của anh rơi vào tay công an, cho nên người ta mới vặn vẹo tôi về anh.
Mạc Lân nóng như Trương Phi, ăn nói bặm trợn, bị vào sổ đen là chuyện đương nhiên. Anh là con trai cả nhà văn Lê Văn Trương(8). Thân sinh anh ở trong thành rồi vào Nam, còn anh nhập bộ đội rồi đi Nam tiến đến tận Sài Gòn. Trong kháng chiến chống Pháp anh ở cùng đơn vị với nhà thơ Dương Tường, nhà báo Tất Vinh, có thời gian cùng công tác với Việt Phương(9), Trần Dần. Anh có hoàn cảnh gia đình trục trặc, phải nuôi một lũ con đông, đâm ra rành nghề viết thuê. Những người muốn làm nhà văn mà không có tài thường tìm đến anh để thuê anh viết. Viết thứ văn nhảm nhí ấy anh viết “như bổ củi”. Anh chỉ viết chậm những gì anh tâm đắc.
Hứa Văn Ðịnh viết rất nhiều. Làm việc ở Xưởng phim Việt Nam, anh ít khi tới cơ quan, mà làm việc ở nhà, cho mình nhiều hơn cho nhà nước. Tôi không biết Hứa Văn Ðịnh viết vào lúc nào, nhưng thỉnh thoảng gặp nhau anh lễ mễ khuân cả yến bản thảo ra khoe. Trong những sáng tác không được in của anh có những đoạn cực hay, chỉ có thể thấy ở những nhà văn bậc thầy. Anh bị công an để ý chỉ vì anh chơi thân với Kỳ Vân. Ngoài ra người ta chẳng có cơ sở gì để nghi anh hết.
Tôi nói các bạn tôi chẳng liên quan gì tới chủ nghĩa xét lại hiện đại thì điều đó chỉ đúng với quan niệm của tôi. Với các nhà chấp pháp đầy cảnh giác thì khác. Những người bạn tôi giống tôi ở chỗ không ai muốn sống như người Trung Quốc, với vòng Kim Cô của chủ nghĩa Mao trên đầu. Họ đều là những nhà văn bị cớm. Những cây đa cây đề của nền văn học quan phương đã che hết ánh sáng mặt trời và họ không còn điều kiện để lớn lên trước mắt bạn đọc.
Tôi còn nhớ nhà văn Phù Thăng từ vùng mỏ trở về Hà Nội gặp tôi: “Tao đến để mày giải thích cho tao nghe: tao đọc các tài liệu Trung Quốc thấy đúng ra phết, có lý lắm, dễ hiểu lắm, thuyết phục lắm, thế mà những thằng bạn tao cho là thông minh lại bịt mũi nói thối không ngửi được. Vậy trong cuộc cãi vã ầm ĩ cả thế giới này mày cho bên nào đúng?”. Tôi cẩn thận trả lời rằng chỉ có một bên không được nói tới là đúng – đó là cuộc đời. Anh hỏi tiếp: trong cái tương đối hiện có tôi thấy cuộc sống ở đâu tốt cho con người hơn. Tôi nói tôi thích cuộc sống ở Liên Xô hơn, ở đó đã có bóng dáng một nền dân chủ. Chúng tôi nói chuyện suốt đêm. Sáng ngày ra Phù Thăng lại lên đường, đen đủi, nhếch nhác, nhưng vẫn như bao giờ, rất đáng yêu. Anh là người hóm hỉnh, thích đùa, bút hiệu Phù Thăng của anh là sự đọc ngược hai chữ thằng phu. Chả là tên cúng cơm của anh là Phu. Phù Thăng may mắn hơn các nhà văn bị cớm bạn anh – anh đã có cuốn Phá Vây dày cộp.
Huy Vân, căn cứ những câu hỏi đặt ra của bọn chấp pháp, cũng có nhiều khả năng bị bắt. Về Huy Vân chúng chỉ hỏi miệng, chứ không bắt tôi viết. Sở dĩ chúng không vặn vẹo tôi về anh là vì mấy năm cuối cùng trước khi tôi bị bắt chúng tôi ít khi gặp nhau. Quả nhiên tôi đoán đúng. Huy Vân bị bắt, rồi được thả ra, cũng sau sáu năm giam cầm, mặc dầu anh cũng không hề thuộc nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng như bất cứ ai trong nhóm này. Trong bọn xét lại hiện đại bị bắt anh quen tôi và Vũ Huy Cương, trong bọn xét lại hiện đại không bị bắt mà chỉ bị trấn áp anh quen ủy viên Trung ương Lê Liêm, đều do những quan hệ nghề nghiệp. Bộ phim đầu tay và cuối cùng của anh là Một Ngày Ðầu Thu, được thực hiện với sự trợ giúp của đạo diễn Liên Xô Agida Ibraguimov, là một bộ phim không tồi trong giai đoạn điện ảnh Việt Nam chập chững bước vào lĩnh vực phim truyện.
Cuộc sống trong xà lim cứ thế trôi – một chuỗi lê thê những cuộc hỏi cung, ngày này qua ngày khác, lãng nhách, nhạt phèo. Nói cho đúng, thời gian đầu không phải là như vậy. Cảm giác bất cần chỉ xuất hiện khi tôi trở nên lạnh lùng với số phận. Ðã trót sa chân vào đây rồi tôi chẳng có thể làm gì hơn là ngồi rung đùi chờ xem sự thế xoay vần đến đâu.
Nhân nói về những cuộc hỏi cung lăng nhăng diễn ra trong Hỏa Lò tôi lại nhớ tới một chuyện nói lên cái hèn của lớp trí thức chúng tôi hồi ấy. Một hôm, Huỳnh Ngự bắt tôi khai về nhà báo Vũ Kiện(10). Tôi giật mình. Chẳng lẽ cả Vũ Kiện cũng bị bắt? Anh là người cẩn trọng lắm mà. Tôi quen Vũ Kiện khá thân. Về quan điểm chính trị Vũ Kiện gần chúng tôi. Tôi trọng anh vì anh sắc sảo trong nghề, giỏi nhiều ngoại ngữ, là người thiên kinh vạn quyển. Trước khi tôi bị bắt mấy ngày Vũ Kiện gặp tôi còn nói: “Mấy hôm nay có ai bị nữa không? Chúng mình rồi lần lượt cũng bị hết, chẳng đứa nào thoát đâu. Chủ nghĩa nhà quê (anh nói tiếng Tây: le campagnardisme) không bao giờ đội trời chung với trí thức. Nó chỉ công nhận có một thứ trí thức nông nô thôi”. Hồi học Nghị quyết 9 Vũ Kiện có đọc cho tôi nghe một bài thơ do anh sáng tác:
Mấy năm nay bị chứng nhức đầu, Tìm thầy thuốc hóa ra loạn thị. Cái thằng mình hèn nào láo thế. Nhìn những bậc bệ vệ nghiêm trang Thành toàn một phường ba lăng nhăng.
Tôi khoái bài thơ của anh. Khi Huỳnh Ngự hỏi tôi về Vũ Kiện, tôi chợt nhớ tới bài thơ hóm hỉnh ấy và tủm tỉm cười. Huỳnh Ngự hỏi tôi cười cái gì.
– Tôi buồn cười vì câu hỏi. Vũ Kiện không phải là người đáng nghi ngờ, nếu cơ quan an ninh muốn biết ý kiến tôi về anh ấy. Bác gặp Vũ Kiện bao giờ chưa nhỉ? Chưa hả? Thế thì cứ gặp anh ấy đi đã, sau hãy hỏi tôi. Nếu đến lúc ấy bác vẫn thấy cần phải hỏi.
– Anh nói vậy nghĩa là thế nào?
– Bởi vì Vũ Kiện không phải người ta. Anh ấy là người nước ngoài.
– Giỡn hoài.
– Xin lỗi, chúng tôi quen nhìn Vũ Kiện như một người châu Âu, một người Pháp. Tôi biết anh ấy không nhiều, nhưng chỉ cần một lần gặp thôi cũng đủ thấy Vũ Kiện chẳng có quan điểm chính trị nào, trừ một cái là làm sao cho mình phải giống người Pháp, một thứ francophile(11) chính hiệu. Ðến nói chuyện với chúng tôi anh ấy cũng nói với kiểu cách và điệu bộ người Pháp nữa là…
Nhìn vào mắt Huỳnh Ngự tôi biết y không tin tôi bao nhiêu, nhưng cũng không ngờ vực nhiều lắm.
Huỳnh Ngự còn quay lại với cái tên Vũ Kiện vài lần nữa, nhưng lần nào tôi cũng tìm cách bịa ra vài giai thoại vui vui để gạt đi và gạt đi được.
Vậy mà khi ra khỏi nhà tù tôi mới biết rằng trong thời gian chúng tôi nằm xà lim, nhà báo này tuyên bố khắp nơi rằng sở dĩ Ðảng bắt chúng tôi là vì chúng tôi chống Ðảng có tổ chức. Cứ xem anh ta thì biết, anh vẫn bảo lưu quan điểm của anh, nhưng Ðảng đâu có bắt, lại còn cho đi nước ngoài. Tôi ngờ rằng Vũ Kiện cũng bị gọi tới Bộ Nội vụ như một số anh em có vấn đề, nhưng ông Tây to xác của chúng tôi không có lá gan cần có. Ông được bề trên vỗ vai khen ông thành khẩn, được hứa những tiêu chuẩn ưu tiên ưu đãi, rồi được dạy bảo cách ăn nói về vụ nhóm xét lại chống Ðảng. Ông làm theo lời khuyên, được tưởng thưởng như Ðảng hứa – một chuyến đi nước ngoài, không nhớ là Cộng hòa Dân chủ Ðức hay Bungari gì đó. Ðược Ðảng cho đi nước ngoài là một ân huệ lớn. Vì ân huệ ấy có nói vài điều trái với lương tâm kể cũng đáng. Nhưng cái trái lương tâm lớn nhất mà kẻ sĩ không thể làm thì Vũ Kiện làm tỉnh queo, không biết ngượng, Anh đổ cho bạn mình chống đối có tổ chức, tức là, như các cụ nói, nối giáo cho giặc. Hơn ai hết, Vũ Kiện biết rõ tôi và các bạn anh bị bắt chẳng hề có một tổ chức chống đối nào. Nếu có một tổ chức như vậy thì trong đó không thể thiếu Vũ Kiện. Hơn thế, anh phải là một trong những người đứng đầu.
Tôi không ân hận đã bảo vệ Vũ Kiện. Tôi không thể làm khác, cho dù có biết ở ngoài kia anh đang tuyên bố bậy bạ về chúng tôi theo sự mách bảo của trên. Cách sống cơ hội là cách sống mang tính thời đại. Tôi còn nhớ năm 1966, Vũ Kiện từ Thanh Hóa về, anh kể cho tôi nghe chuyện người ta dựng huyền thoại về một anh hùng thiếu nhi như thế nào. Có một nhà báo nào đó trong phút ngẫu hứng đã dựng nên câu chuyện một chú bé cứu bạn bị thương dưới mưa bom bão đạn và vì thế hy sinh. Người ta làm ầm lên về người anh hùng tí hon, như một phát hiện về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Vũ Kiện đang ở Thanh Hóa, anh đến ngay địa phương có người anh hùng, anh phát hiện sự thật là không có hai trận đánh bom liền nhau, như vậy không thể có chuyện vị anh hùng thiếu nhi kia cứu bạn giữa bom đạn được. Trở về Hà Nội anh chê bai sự không trung thực của các cơ quan tuyên truyền. Không biết có phải vì sự chê bai ấy mà anh được nhà thơ Tố Hữu mời cơm tối hay không, nhưng anh đã ăn và khoe ầm ĩ với bè bạn về bữa cơm vinh dự. Sau đó ít lâu một cuốn sách thiếu nhi được ra đời về người anh hùng không có thật nọ mà tác giả lại chính là… Vũ Kiện. Gặp tôi, Vũ Kiện quên mất chuyện bữa trước, khoe cuốn sách mới in, tôi hỏi anh nhuận bút “lừa già dối trẻ được bao nhiêu?” thì Vũ Kiện sượng sùng nói sang chuyện khác. Anh không tặng tôi cuốn sách mang theo trong xà cột.
Trường hợp Vũ Kiện không phải là trường hợp duy nhất, nhưng là trường hợp điển hình. Một số người, may mắn là không nhiều, trong lớp trí thức cứng đầu cứng cổ, trước rất thích giao du với chúng tôi, vậy mà chúng tôi vừa bị bắt vội vã phân trần rằng họ không hề có quan hệ với chúng tôi. Thậm chí họ không dám giáp mặt vợ con những người bị bắt để nói một câu hỏi thăm sức khỏe. Thì ra cái tiếng thơm là người dũng cảm dám đối lập với chính quyền chỉ là bộ cánh để cho họ chưng diện chừng nào chính quyền chưa vung lên cái dùi cui.
Cha tôi rất quý các trí thức về nước năm 1945 trong dịp phái đoàn chính phủ sang Pháp. Trong số đó ông đặc biệt cưng bác sĩ Trần Hữu Tước. Chính ông thuyết phục Trần Hữu Tước trở về Việt Nam. Ông thương Trần Hữu Tước đã có gan bỏ cuộc sống sung sướng ở nước ngoài để về với đồng bào, chịu đựng khó khăn, thiếu thốn. Ông săn sóc Trần Hữu Tước như săn sóc đứa em út, ông lo chuyện vợ con, nhà cửa cho Trần Hữu Tước. Ông này mỗi khi giận vợ lại chạy sang với cha tôi, ăn dầm nằm dề trong nhà chúng tôi dăm bữa nửa tháng là thường. Ðến khi cha tôi bị bắt, Trần Hữu Tước biến mất, không hề lai vãng, không hề thăm hỏi. Cha tôi bị đau răng, nằm trong tù ông tưởng đâu vẫn có thể nhờ cậy người bạn thiết, nhắn các em tôi gặp Trần Hữu Tước nhờ ông lo thuốc gửi vào. Em gái tôi tìm gặp Trần Hữu Tước trong bệnh viện Bạch Mai, ngay tại khoa Tai Mũi Họng của ông, nhưng ông bạn thân mến của cha tôi tìm mọi cách thoái thác, không những không gửi thuốc, mà còn không gửi một câu hỏi thăm, viện cớ bận họp, chuồn thẳng.
Tôi không trách Trần Hữu Tước nhiều – hoàn cảnh xã hội làm cho nhiều người thành như thế. Nhưng tôi cũng không thân mật được với ông nữa. Tôi gặp Trần Hữu Tước lần cuối tại khách sạn Bến Nghé (Sài Gòn), năm 1983. Chúng tôi đi ngang nhau như những người không quen biết. Ông ngượng ngùng nhìn tôi, có vẻ ông muốn tiến đến bắt tay tôi, nhưng nỗi hổ thẹn giữ chân ông lại, còn tôi thì cũng không vượt qua được mình.
Sau khi ra khỏi nhà tù chúng tôi không bao giờ chủ động đến với ai. Trong sự xa lánh này có cả nỗi hờn mát lẫn lòng tự ái. Tôi không căm ghét, không thù hận những người quay lưng lại nỗi đau khổ của gia đình tôi, nhưng tôi không chơi với họ nữa. Mất thời giờ.
Nói chung, hồi ấy tôi bắt đầu học được cách nhìn độ lượng đối với nhân quần. Tôi hiểu ra rằng chúng tôi chỉ là con cháu loài tinh tinh ngu độn bị những con đầu đàn ranh ma lợi dụng. Những con này sau khi thành chủ nhân liền bắt đồng loại làm tôi đòi. Ðược dạy dỗ bằng roi vọt kèm với mồi thưởng để làm các công việc mà chủ muốn, lũ tinh tinh xấu số
giành giật nhau từng miếng ăn được bố thí, cắn xé nhau để được hưởng một đoạn xích dài thêm. Khả năng bỏ chạy không còn, vậy thì việc gì phải thương hại con nằm bên?
Huỳnh Ngự làm việc với tôi thưa dần. Thay chân y là một người đàn ông có dáng trí thức mà tôi nhắc tới ở trên.
– Tôi tên là Hoàng. – anh ta tự giới thiệu.
Tôi có cảm tình với Hoàng ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Gương mặt sáng sủa của anh ta làm tôi yên lòng. Trông bề ngoài của Hoàng có thể thấy y thuộc về nhóm tinh tinh phát triển cao trong bầy tinh tinh nô lệ. Hoàng làm công việc Huỳnh Ngự thường làm, nhưng y làm khác hẳn, từ tốn, nhã nhặn.
Tôi lập tức cảnh giác với anh ta. Ðàng sau vẻ ngoài không hăng hái vì lợi ích của Ðảng, biết đâu lại chẳng là sự tính toán khôn ngoan của một khối óc có nhiều nếp nhăn hơn óc con tinh tinh Huỳnh Ngự.
Làm việc với Huỳnh Ngự một thời gian, tôi hiểu tính y. Xét cho cùng, y mộc mạc, không nhiều thủ đoạn, chiều y cũng chẳng khó. Chỉ cần viết những báo cáo dài thượt đầy ắp sự kiện vô thưởng vô phạt với những câu chữ ồn ào biểu lộ sự thành khẩn hết mình theo công thức thời thượng là y hài lòng
Hoàng đọc báo cáo của tôi với nụ cười khó hiểu.
– Anh có khi nào nghĩ tới chuyện những mối quan hệ xã hội hình thành như thế nào không? Này, nghiên cứu chuyện đó cũng thú vị đáo để đấy.
Tôi không hiểu y muốn nói cái gì.
– Mối quan hệ giữa Ðảng và đảng viên chẳng hạn…
– ???
– Tôi để ý tới chuyện này, và thấy trong cách nhìn nhận nó có nhiều điều chưa rõ ràng. Quan hệ giữa Ðảng và đảng viên, xét cho cùng, chẳng qua là quan hệ hợp đồng. Hai bên thỏa thuận với nhau thực hiện một công việc nào đó, và mối liên hệ hỗ tương được thiết lập…
Tôi đỏ mặt. Liều lượng những lời ca ngợi Ðảng được cho vào bản báo cáo vừa mới nộp cho Hoàng có hơi cao quá mức cần thiết, do thói quen làm việc với Huỳnh Ngự. Nhưng cái sự hô khẩu hiệu rầm rĩ để đánh trống lảng đã không lừa được anh ta.
Tôi thấy cần phải nói thêm một chút về những bản gọi là báo cáo của tôi. Sau khi quyết định lùi bước, thôi không đôi co với Huỳnh Ngự về tính hợp pháp của việc giam giữ nữa, nói cách khác tôi đã chịu vào khuôn vào phép, thì lẽ đương nhiên tôi phải chấp nhận các tập tục xã hội chủ nghĩa trong quan hệ đối với Ðảng. Một trong những tập tục đó là phải bày tỏ sự trung thành của mình trong những lời ồn ào tôn vinh Ðảng mỗi khi có dịp. Tập tục này bắt nguồn từ những năm 50, khi khởi đầu cuộc vận động giảm tô giảm tức.
Từ Cải cách ruộng đất trở đi tập tục này lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân mở miệng là “Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ”. Người ta nói “Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, mùa màng năm nay khá, gia đình em tạm đủ ăn”, “Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, nhà em vừa sinh thằng cu”. Quen miệng, người ta còn nói: “Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, cái mụn chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ!” Trong nhân dân, cũng vào thời kỳ này, xuất hiện câu ca dao thú vị, nói rất trúng cách tuyên truyền của Ðảng về những thành tựu lãnh đạo:
Mất mùa là tại thiên tai, Ðược mùa là tại thiên tài Ðảng ta.
Thấm nhuần tập quán được vun trồng từ thập niên này qua thập niên khác, lũ tinh tinh hiện đại tự nguyện xóa sạch bản thân để tuân theo Ðảng ngõ hầu được Ðảng thương đến. Ðảng là Ðấng Tối Cao, như Chúa Trời. Ðảng còn hơn cả Chúa Trời nữa, vì Chúa Trời vô hình vô ảnh, còn Ðảng là có thực, cũng như những nhà tù của Ðảng là có thực, Ðảng là người quyết định hết thảy, Ðảng cho thì có, Ðảng lấy thì mất.
Ðùng một cái, nghe người của Ðảng, lại là “cán bộ thực hành chuyên chính vô sản”, nói một câu lạ tai, tôi sững sờ nhìn y.
Hoàng lấy thế làm thú vị, y nháy mắt với tôi:
– Anh không thấy thế là đúng à?
Tôi lo ngại một cái bẫy. Tất nhiên, cái bẫy này chẳng nguy hiểm. Nó không đụng tới một cái gì cụ thể, nhiều nhất chỉ là một sự thăm dò tư tưởng. Nhưng vẫn cứ phải cẩn thận – ở Việt Nam tư tưởng sai là tội, người ta trừng trị tư tưởng là chuyện thường ngày ở huyện(12). Hơn thế, mình nhận tư tưởng sai thì ắt phải khai tiếp đã chia sẻ tư tưởng ấy với ai, có khi lại làm hại người khác.
– Cũng có thể là như thế. – tôi nói lấp lửng – Ðiều đó hoàn toàn đúng ở các hình thái xã hội trước kia. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa nội dung quan hệ này có khác, xuất phát từ một hệ khái niệm khác. Mối quan hệ giữa Ðảng và đảng viên ở đây được đặt trong một bối cảnh đặc biệt, nó mang tính chất khác thường, có thể nói một tính chất thiêng liêng…
– Anh muốn nói mối quan hệ ấy mang tính chất tôn giáo? – giọng tưng tửng, Hoàng hỏi.
Thằng cha giỏi, tôi nghĩ.
– Tôi không khẳng định, nhưng về mặt nào đó những mối quan hệ thiêng liêng có nét giống nhau.
– Có lý, có lý lắm.
– Tính chất thiêng liêng thể hiện trong sự thần thánh hóa vai trò của tổ chức thế tục, trong sự đặt ra nhiều hy sinh hơn hưởng thụ trong cuộc chiến đấu cho những mục tiêu thực ra không mấy thiêng liêng như cơm áo, việc làm, nhà ở…
– Anh đồng ý với tôi rồi đấy: quan hệ giữa đảng và đảng viên chỉ là quan hệ hợp đồng – Hoàng cười tủm tỉm – Hợp đồng là hợp đồng, nó chẳng có gì thần thánh, chẳng có gì thiêng liêng. Trên đời này chỉ có một mối quan hệ thiêng liêng – ấy là quan hệ huyết thống. Quan hệ máu mủ ruột rà là cái không thể chế tạo ra, không thể mua sắm được… Nhưng thôi, ta trở lại với công việc. Này, nhân tiện anh có thể nói gì về quan hệ giữa Văn Cao và Nguyễn Ðình Thi cho chúng tôi biết không nhỉ?
– Anh đang hỏi cung hay hỏi vì tò mò?
– Tôi đang làm việc với anh.
– Tôi nghĩ rằng nếu anh quan tâm đến mối quan hệ giữa hai người thì cách tốt nhất là hỏi thẳng họ.
– Tôi lại nghĩ rằng nếu anh có cho tôi biết chút ít thêm vào những gì chúng tôi đã biết rồi cũng chẳng chết ai. Ðảng yêu cầu anh đóng góp ý kiến cho Ðảng mà. Có khi những câu chuyện của anh lại có tác dụng làm sáng tỏ những điều chưa được Ðảng hiểu đúng cũng nên.
Cách hỏi cung của Hoàng là như vậy. Anh ta không hùng hục đi thẳng tới đích, mà thủng thẳng mời tôi cùng dạo bước trên những câu chuyện mung lung rồi bỗng đột ngột rẽ vào đề tài mà y muốn biết. Nắm được phong cách làm việc của Hoàng, tôi tương kế tựu kế thỉnh thoảng lại nhân vui chuyện thọc một mũi thăm dò. Tôi muốn qua Hoàng tìm hiểu thái độ của Ðảng đối với vụ chúng tôi, và đối với văn nghệ sĩ nói chung, trong giai đoạn hiện tại. Tại sao lại không kể cho anh ta nghe những điều xét cho cùng là vô thưởng vô phạt?
Một hôm tôi kể cho Hoàng nghe chuyện xảy ra trong cuộc chỉnh huấn cho văn nghệ sĩ tại ấp Hoàng Cao Khải thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Trong cuộc đấm ngực tập thể Nguyễn Ðình Thi lên diễn đàn xỉ vả Văn Cao và câu nói “trong giọt nước có cả trời xanh” của anh. Chửi xong, từ diễn đàn bước xuống Nguyễn Ðình Thi ôm lấy Văn Cao thì thầm “Văn hiểu cho mình, cái thế mình phải thế!”. Văn Cao kể cho tôi nghe câu chuyện này, với một ánh buồn trong mắt. “Trước cách mạng nó đâu đến nỗi thế. Nó là thằng anh hùng, bây giờ cam phận làm con giun”.
Câu chuyện nhiều người biết, có nói ra cũng chẳng hề gì.
Hoàng chăm chú nghe rồi nói, giọng bùi ngùi:
– Có vẻ tinh thần nho sĩ Bắc hà chẳng còn lại bao nhiêu trong giới văn nghệ sĩ các anh, phải thế không?
Hoàng không tỏ ra muốn bảo vệ Nguyễn Ðình Thi. Y không phủ nhận câu chuyện thực. Thái độ y bàng quan.
– Nguyễn Ðình Thi không phải nho sĩ. – tôi nói – Nguyễn Ðình Thi là con người hiện đại. Những người hiện đại không hành xử theo cách của nhà nho, họ không cần tới thứ tinh thần cổ xưa ấy, nhất là những người cộng sản. Ðối với Nguyễn Ðình Thi lợi ích của Ðảng là cao nhất.
– Anh nghĩ rằng những người cộng sản không cần tới nhân phẩm?
– Tôi nghĩ rằng những người cộng sản không có nhiều khả năng lựa chọn. Họ làm những việc xét thấy có lợi cho Ðảng, cho sự nghiệp của Ðảng.
Hoàng lại nhếch mép cười. Một lần nữa y hiểu ý ngầm trong câu nói của tôi và tôi giật mình.
-Anh có quan hệ thân tình với Nguyễn Ðình Thi, phải không?
– Không.
Tôi bao giờ cũng trọng Nguyễn Ðình Thi vì phổ tài hoa của anh. Nó rất rộng. Có lẽ trong thập niên 40 chỉ có hai người đa tài như thế: Văn Cao và Nguyễn Ðình Thi. Những bài hát của Nguyễn Ðình Thi làm mê mệt lớp thanh niên chúng tôi một thời. Hát về Hà Nội tôi chưa thấy bài nào hay hơn Bài Hát Của Người Hà Nội. Thơ của anh cũng gợi nhiều. Nguyễn Ðình Thi trong thơ như cá tung tăng trong nước, không cần phải lên gân lập trường “Ðêm đêm rì rầm nghe tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về…” “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh, Soi đường chiến sĩ giữa đèo mây. Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh, Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa rừng cây…”. Nhưng Nguyễn Ðình Thi mà tôi biết cũng là người yếu đuối, anh luôn lúng túng trước những ngã ba ngã tư của cuộc đời và tình yêu. Có thể tôi nhầm, nhưng giả thử tôi có nhầm thì cái nhầm cũng không lớn.
Nhớ một đêm tháng 10 mát mẻ năm 1954, vài ngày sau khi tiếp quản thành phố Hà Nội, chúng tôi ở cùng nhau trong khách sạn Splendid(13), Nguyễn Ðình Thi qua phòng tôi rủ tôi đi chơi. Chúng tôi lững thững thả bộ từ Lý Thường Kiệt qua chợ Hôm rồi rẽ sang Trần Xuân Soạn. Ðang đi, Nguyễn Ðình Thi đột ngột rẽ vào Triệu Việt Vương hay Bùi Thị Xuân tôi không nhớ. Ở đầu phố anh rủ tôi ngồi xuống bậc thềm một ngôi nhà, đau đáu nhìn sang ngôi nhà trước mặt chìm trong bóng tối của giàn hoa giấy um tùm.
– Không biết bây giờ ai ở trong nhà này. – Nguyễn Ðình Thi thở dài – Trước đây là nhà người yêu mình…
Anh rủ tôi đi tiếp:
– Mình đã đi đi lại lại không biết bao nhiêu đêm trên vỉa hè này. Người ta viết nhiều về mối tình đầu, dường như nó lớn hơn bất kỳ mối tình nào khác. Ðiều có thật là con người không thể quên được mối tình đầu, cho dù nó thoảng qua, cho dù nó không sâu sắc. Trong điều kiện nó là mối tình đích thực…
Khi chúng tôi về tới khách sạn, trời đã khuya. Hà Nội còn đang trong thời kỳ giới nghiêm. Không đội tuần tra nào bắt gặp chúng tôi.
– Anh có biết về mối tình của Nguyễn Ðình Thi với Madeleine Riffaud không?
– Anh hỏi cung?
Hoàng cười hiền lành:
– Cung gì đâu, chúng ta đang nói chuyện vãn mà. Anh không thích trả lời thì không cần phải trả lời.
– Tôi biết hai người thân nhau trong thời gian chị Riffaud tới Việt Nam. Không rõ có phải là một mối tình không, tôi không được nghe anh Thi tâm sự chuyện đó, nhưng nếu có thì cũng chỉ là một mối tình thoảng qua, nhiều chất hữu nghị hơn là tình yêu…
Ðêm hôm ấy đi dạo với tôi về, Nguyễn Ðình Thi sang phòng Madeleine, tôi về phòng tôi. Hồi ấy có nhiều tiếng xì xào về mối tình Việt-Pháp của anh. Nếu anh không phải là Nguyễn Ðình Thi thì lôi thôi to. Anh sẽ bị buộc tội hủ hóa, tội luyến ái bất chính, là thứ tội nặng đối với cán bộ, khó tránh khỏi bị thi hành kỷ luật. Nguyễn Ðình Thi được hưởng ngoại lệ. Trường Chinh, và nói chung các nhà lãnh đạo chủ chốt, rất quý anh.
Tôi không thích những lời xì xào ấy. Tôi quý Madeleine vì tình yêu khó giải thích của chị đối với Việt Nam. Madeleine yêu đất nước của những dòng sông nồng nàn phù sa bằng tình yêu bản năng chứ không phải bằng tình yêu quốc tế vô sản, như thể nó là nơi chôn nhau cắt rốn của chị vậy. Cùng ở Việt Nam vào thời gian này còn có Helena Lemanska và Roman Karmen. Helena Lemanska có cái nhìn đồng cảm dịu dàng của người Ba Lan Thiên Chúa giáo đối với một Việt Nam mới được phát hiện, bình dị mà nồng thắm, có pha trộn chút ít tính chuộng lạ. Từ Moskva Karmen đến với Việt Nam như anh đã đến với Tây-ban-nha trong cuộc chiến đấu của những người Cộng hòa chống lại bọn phát-xít, với hai tư cách: nghệ sĩ và chiến sĩ cộng sản(14).
Madeleine Riffaud ước ao”Rồi đây đũa ngọc mâm vàng có nhau”. nhưng mộng không thành. Vì sao không thành, tôi không biết. Có thể vì Nguyễn Ðình Thi không thể bỏ vợ. Mà cũng có thể do Ðảng của anh cấm. Madeleine Riffaud xa Việt Nam và mối tình của hai người chìm vào quên lãng.
Mùa hè năm 1967 tôi có một buổi dạo phố tình cờ với Nguyễn Ðình Thi. Anh vừa ra khỏi trụ sở Nhà xuất bản Văn học nằm trên đường Hai Bà Trưng thì gặp tôi.
– Sao dạo này không thấy cậu viết gì? – Nguyễn Ðình Thi hỏi tôi.
– Có gì đâu, cái đầu tôi nó không ổn. Tôi có những ý nghĩ vô kỷ luật. Sau Ðường Số 4 bị lên án vì chủ nghĩa ấn tượng mà tôi không có, thậm chí không hiểu nó là gì, đến Ðêm Mất Ngủ bị ông Tố Hữu gọi là “bất mãn với chế độ hiện hành”, rồi Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh, tôi chán, không muốn viết nữa…
Nguyễn Ðình Thi cười khe khẽ. Tôi quen với cách cười của anh. Cười để không nói, ai hiểu thế nào cũng được.
– Thảo nào cậu vắng bóng hẳn. Không viết thì có đọc được nhiều không?
– Thì tôi còn làm gì nữa ngoài đọc? Tôi đang mê châu Phi.
– Châu Phi à? Mà tại sao lại châu Phi?
– Văn xuôi ở đại lục này nhiều chất thơ, nhiều triết lý dân dã cội nguồn, chứ không phải triết lý tư biện, không tả chân, không giải thích, đọc thú lắm. Anh đọc mấy cuốn Con Báo, Ông Giê-su Khốn Khổ ở tỉnh Bomba chưa?
– Chưa. Mình dạo này ít đọc lắm.- Nguyễn Ðình Thi thở dài – Toàn bận những chuyện không đâu. Ði lên thỉnh thị, đi xuống truyền đạt. Họp và họp. Thậm chí mình không biết có những cuốn ấy. Hay lắm à?
– Tuyệt vời! Tôi không kỳ thị chủng tộc. So sánh nền văn học của những người anh em da đen tôi thấy xấu hổ cho nền văn học của chúng ta. Toàn một thứ thuyết giảng dài dòng, minh họa thô thiển…
Nguyễn Ðình Thi trầm ngâm một lát. Sau một quãng tản bộ dài, anh nói khẽ:
– Ở các nước khác cần phải có tài mới thành nhà văn…
Tôi hiểu đoạn cuối của câu nói: “… còn ở nước ta thì không “. Nguyễn Ðình Thi có lối nói như thế – người nghe phải tự hiểu lấy điều anh không nói.
Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm trong kháng chiến chống Pháp. Giữa câu chuyện Nguyễn Ðình Thi hỏi tôi:
– Cậu thấy Vỡ Bờ của mình thế nào?
Tôi lúng túng. Câu hỏi thẳng đòi một câu trả lời thẳng. Tôi không muốn làm Nguyễn Ðình Thi mất lòng.
– Tôi không thú Vỡ Bờ.
– Có thể nói rõ thêm được không?
– Nó cũng là sự thuyết giảng. Mà thừa. Nó rõ ràng không phải là nhu cầu nội tâm của anh. Ðọc qua cũng thấy tác giả không viết cũng chẳng sao. Không cảm thấy sự thúc bách buộc anh phải viết. Thêm nữa, tôi không thích cách anh chấm phẩy, xuống dòng trong cuốn này. Không chỉnh. So với Xung Kích là sự thụt lùi. Tôi thích thơ của anh hơn. Nó là tiếng lòng anh, đích thực, nó nói thay cho tiếng lòng tôi, tiếng lòng của người đọc…
Chúng tôi im lặng đi bên nhau một lúc lâu. Lúc chia tay Nguyễn Ðình Thi nói, giọng buồn hẳn:
– Lẽ ra mình chỉ nên làm nhạc. Âm nhạc – đó mới là chỗ của mình.
Cái sự lúng túng không tìm ra chỗ của mình có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người, sau khi đặt số phận mình vào bàn tay dìu dắt của Ðảng đều phải gò mình vào cái tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô hình vô ảnh, chui vào trong đó để tự biến mình thành nó. Trong cái tôi tập thể này ai cũng thấy vướng víu, không thoải mái. Nhưng đã tự nguyện chấp nhận nó rồi, người ta đành buông tay, mặc cho mọi sự xuôi dòng. Nhưng con người là con người, có những lúc nó không làm chủ được mình, trong trường hợp cái tôi đích thực bất thình lình vùng lên, thúc bách đòi lại vị trí tự nhiên của nó, đòi được là nó.
Năm 1962, hoặc 1963 tôi không còn nhớ rõ, Nguyễn Ðình Thi cho ra vở kịch Con Nai Ðen có chất ngụ ngôn nói bóng gió chuyện những người thành đạt quay lưng lại với bè bạn thời gian khổ. Sự bóng gió trong vở kịch, theo anh em cầm bút đánh giá, nhẹ tới mức bằng không, thế nhưng những nhà lãnh đạo vẫn không hài lòng và vở kịch bị đánh(15). Cùng trong khoảng thời gian ấy, hoặc sau đó ít lâu, Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí và Vũ Tú Nam cho ra Văn Ngan Tướng Công. Cả hai con vật này cũng bị đánh nốt. Người ta giải thích rằng Kim Lân ví Ðảng như ông chủ, còn trí thức như con chó. Ông chủ hắt hủi con chó khi nó ghẻ lở gày còm, ông chỉ quan tâm tới nó khi thấy nó hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt. Con chó khốn khổ thì cứ một mực trung thành với chủ cho đến chết. Miêu tả thân phận con chó còi cọc đói khổ trên nền xám của nông thôn Việt Nam Kim Lân có ngòi bút cực hay. Còn Văn Ngan Tướng Công thì bị buộc tội ám chỉ Ðảng bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.
– Chớ có viết về những con vật! – Kim Lân nói – Không hiểu sao cứ nói chuyện súc vật là y như rằng có người động lòng. Mà nhiều, mới chết chứ!
Không rõ các nhà văn tác giả bôi nhọ Ðảng bao nhiêu, nhưng chính các nhà phê bình mới là người có công vạch ra những cái xấu của Ðảng. Không có các nhà phê bình thì người đọc bình thường chưa chắc đã hiểu nhà văn định móc máy cái gì. Bên Trung Quốc vào thời gian này cũng có những nhà văn kỳ tài trong chuyện nói xỏ Ðảng như Ðặng Thác, Ngô Hàm, Liêu Mạt-sa của Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh. Những chuyện ngụ ngôn kiểu mới dưới đề mục Yến Sơn Dạ Thoại (“Chuyện canh khuya dưới chân núi Yến”) và Tam Gia Thôn (“Thôn ba nhà”) là những áng văn rất thú vị. Ðọc họ hay thì thấy hay, nhưng không hiểu hết ý họ muốn nói, nếu như không có những nhà phê bình chỉ ra những ý ngầm cho mình thấy.
Trong nhà thơ lớn Chế Lan Viên sự lủng củng giữa cái tôi bản năng, cái tôi tự nhiên, với cái tôi được Ðảng nhào nặn, được nhà thơ tự ép mình mà thành, kéo dài không chỉ vài năm mà cả cuộc đời. Tôi quý Chế Lan Viên thông minh và tôi thích thơ anh. Nhưng những bài thơ chính trị của Chế Lan Viên thì tôi chịu không nổi. Tôi đánh giá cao bao nhiêu những lời thơ tâm tình: “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ. Nơi nào qua mà lòng chẳng yêu thương. Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”, thì tôi ngán bấy nhiêu những lời ngợi ca chiến tranh (dù là chiến tranh giải phóng) của anh: “Hỡi những con thỏ hòa bình đang tìm nơi gặm cỏ. Súng ta nổ cũng là vì ngươi đó!(16)”
Mùa thu năm 1965, tôi gặp Chế Lan Viên ở Ðồng Hới. Hồi ấy khi mặt trời lặn rồi, cả khu 4 chìm trong bóng tối mịt mùng, duy nhất có thị xã này còn điện. Vượt qua những khúc sông trước kia có cầu Bùng, cầu Phủ, Chánh Hòa, Lý Hòa… tôi đạp mải miết về phía vòm sáng trên nền trời đêm. Vừa thở ra khoan khoái khi đi vào vùng sáng của nó thì lại giật nẩy mình vì một tiếng thét lớn: “Ðứng lại!”. Tưởng gặp trạm gác dân quân, tôi vội xuống xe. Ðã thò tay vào túi để lấy thẻ nhà báo thì một người đội mũ lá sùm sụp từ một ụ chiến đấu to đùng bước ra:
– Vũ Thư Hiên hử?
Ðó là Chế Lan Viên. Anh cười hà hà, mặt rạng rỡ:
– Nửa tháng nay mình phục ở đây mà chẳng gặp ma nào trong cánh ta cả. Nhìn thấy Vũ Thư Hiên mình mừng quá. Mới quát lên một tiếng cho vui.
Anh lôi tuột tôi về nhà khách tỉnh ủy. Nhà khách xây lưng ra sông Nhật Lệ xa xa, phong cảnh hữu tình, nhưng vắng tanh vắng ngắt. Ngoài Chế Lan Viên và tôi chẳng còn khách nào khác. Mờ đất nhà bếp đã nấu xong cơm trưa, úp lồng bàn để đấy cho chúng tôi, rồi kéo nhau đi sơ tán. Cơm chiều chúng tôi tự nấu. Chúng tôi hì hục xách nước tưới cho những chậu cảnh xơ xác thay cho tập thể dục sáng rồi mò tới quán bánh bèo duy nhất còn lại trong thành phố. Chủ quán, một bà già hom hem, vừa dọn bàn vừa than phiền bánh bèo bây giờ thiếu tôm bông và không có nước mắm Ô Long. Có hôm thiếu bột hay thiếu cái gì khác bà chủ dọn món cháo sườn băm thay cho bánh bèo rồi tự động bớt tiền cho chúng tôi.
Buổi tối, chúng tôi nằm mỗi người một giường gần nhau, vừa vỗ muỗi vừa chuyện vãn. Một hôm tôi hỏi Chế Lan Viên:
– Này, anh Chế, theo anh, thơ và từ của Mao Trạch-đông có hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om xòm đến thế?
Chế Lan Viên cười hức hức:
– Thơ phú gì cái thằng cha ấy?! Vũ Thư Hiên thấy hay à?
Anh bao giờ cũng gọi tôi đủ tên họ.
– Thơ phú là chuyện tôi mù tịt, mới phải hỏi anh.
Chế Lan Viên hạ một câu xanh rờn:
– Làm đến hoàng đế nước Tàu rồi thì cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.
Tôi ngẩn người. Chẳng lẽ đó là tác giả của câu thơ ca ngợi hai lãnh tụ vĩ đại: “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao! “?
Mãi cho tới khi các di cảo của Chế Lan Viên được xuất bản tôi mới hiểu được tâm trạng nhà thơ mà tôi yêu mến. Anh có nội tâm bị giằng xé bởi nhiều mâu thuẫn: là đảng viên, anh muốn trở thành người tuyên truyền đắc lực cho Ðảng của anh, là con người anh muốn cái khác. Bằng trái tim nhà thơ anh bất bình với những bất công, phi lý, anh đồng cảm với nỗi đau của nhân dân không có tự do, nhưng người cộng sản trong anh ngăn lại, không cho anh nói ra.
Trong những câu chuyện không đề với tôi, người đối thoại độc nhất của anh trong nhà giao tế Ðồng Hới năm ấy, Chế Lan Viên nói rằng anh rất thích Nazim Hikmet(17), nhưng tôi biết anh tin tôi mới nói thế chứ với người khác anh không dám vì Hikmet đã cả gan chửi Stalin vĩ đại: “Ðĩa súp của ta ria hắn cũng thọc vào”.
Nhưng đấy là chuyện thơ phú. Giới cầm bút kêu ca nhiều về cách hành xử của Chế Lan Viên trong đời thường. Người ta nói anh thích những mưu mô chính trị, anh là tên cơ hội. Chẳng hạn như trường hợp anh khuyên Nguyên Ngọc đến đầu thú Tố Hữu sau khi bị nhà thơ của chế độ đập tơi bời bản Ðề dẫn(18) do Nguyên Ngọc dự thảo để làm báo cáo chủ chốt trong Ðại hội nhà văn lần thứ ba. Trả lời Chế Lan Viên, Nguyên Ngọc nói: “Tôi không thấy có gì để phải nhận lỗi với ông Tố Hữu. Nếu cần gặp ông Tố Hữu tự tôi sẽ đi, không khiến ông phải dẫn”. Trong quá trình chuẩn bị Ðại hội Nhà văn lần thứ tư người ta lại bắt gặp một bức thư đánh máy ký tên Chế Lan Viên nói lại chuyện cũ “Nguyên Ngọc khóc lóc nhận khuyết điểm với anh Tố Hữu”(19).
Cuộc đời Chế Lan Viên, một tài năng lớn của thi ca Việt Nam, cho ta thấy nhà văn hay nhà thơ không thể cứ đưa tay cho người dắt mà đi đến bờ đến bến được. Không những thế, cái sự đưa tay cho người dắt dễ làm hỏng mình lắm, dễ đánh mất mình lắm, nhất là khi trót dại trao thân gửi phận cho một sự dắt dẫn ngu đần. Người nghệ sĩ cảm nhiều hơn biết, nhìn bằng tim nhiều hơn bằng mắt. Thay thế sự mẫn cảm của nghệ sĩ bằng bộ óc duy lý, chủ quan, hơn nữa lại là bộ óc đi mượn thì tránh sao khỏi bị mù lòa.
Nói đến Chế Lan Viên tôi lại nhớ tới số phận một nhà thơ Việt Nam khác, một nhà thơ của quần chúng, Hữu Loan. Không ai trong thế hệ chúng tôi không biết bài Màu Tím Hoa Sim của anh. Mặc dầu bài thơ trong kháng chiến chống Pháp không được in, nhưng trong sổ tay của người lính nào cũng có bài thơ bất hủ ấy. Lần đầu tiên bài Màu Tím Hoa Sim được in là trong tờ Trăm Hoa. Hồi ấy Hữu Loan đang giữ một chức vụ cao, tất nhiên lương cũng cao tương xứng. Nhìn thấy tính chất bẩn thỉu của vụ án, Hữu Loan thôi việc. Anh không muốn dây vào những việc làm đốn mạt không xứng với kẻ sĩ, mà còn ở lại triều đình dù muốn dù không anh sẽ bị dây vào. Việc treo ấn từ quan làm anh trở thành một kẻ bất hợp tác, gần như một tên phản động. Ngay cả cuộc sống dân thường anh chọn cũng không phải là cuộc sống bình yên. Nhà cầm quyền không tha cho anh tội không theo họ. Anh bị sách nhiễu đủ đường, kể cả khi anh chỉ còn là một người đánh giậm, một người làm xe thồ, một nông dân, ở Thanh Hóa.
Gặp nhau ở Sài Gòn năm 1988, Hữu Loan buồn phiền bảo tôi: “Khổng tử đúng mới buồn chứ: “Ðời đục ta trong làm sao được! ” Thân mình, thôi chẳng nói làm gì, vì muốn lương tâm trong sạch nên mình mới chọn con đường làm dân, nghèo mà thanh thản. Nhưng các con mình vì thế mà không được học hành, thì mình sai mất rồi”. Cũng năm ấy anh cùng nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự làm một chuyến ngao du xuyên Việt để vận động trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh cho dân chủ.
Tôi im lặng. Tôi cũng lúng túng trong cách hành xử chẳng kém gì anh – sống thế nào bây giờ?
Sau vụ Nhân văn – Giai phẩm nhiều trí thức chọn cách tu tại triều đình, nhưng cách này xem ra cũng không ổn. Người ta không cho phép anh được đứng giữa các xung đột, hoặc lảng ra ngoài. Người ta kéo anh vào bằng được, buộc anh phải có lập trường rõ rệt.
Cho nên tôi không lấy làm lạ khi thấy trong vụ đánh Nhân văn – Giai phẩm có cả những tên tuổi đáng kính của nền văn nghệ như Tú Mỡ, Thế Lữ…, có cả một bức thư của 304 văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa gửi Ban chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam lên án nhóm Nhân văn – Giai phẩm chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, chống Ðảng và chống nhân dân. Cái sự đánh hội đồng, đánh hôi bị người đời phỉ nhổ hồi ấy trở thành chuyện thường tình. Ðảng đã giúp văn nghệ sĩ cắt bỏ cảm giác xấu hổ như cắt khúc ruột thừa. Tôi không loại trừ tình cảm kính yêu thật sự đối với Ðảng, nỗi bất bình thấy Ðảng bị xúc phạm, nhưng sau này tôi được biết trong đại đa số trường hợp đó là sự bảo vệ nồi cơm.
Trong giai đoạn có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, một hôm chúng tôi đang tụ tập tại nhà Thanh Châu, Kim Lân bỗng nháy tôi ra ngoài sân nói khẽ: “Này, ông cẩn thận cái mồm đấy nhá. Trong cuộc họp vừa rồi ở Hội (Văn Nghệ) Ðỗ Nhuận nói hiện nay có một số văn nghệ sĩ trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa xét lại đấy. Rồi dẫn tên ông, Phan Kế An với vài người nữa ra làm ví dụ. Nguy chứ chẳng phải chơi đâu”. Tôi ngạc nhiên quá. Tính lại ngày giờ thì đúng, ngay sau cuộc họp mà Kim Lân nói, Ðỗ Nhuận đến tòa soạn rủ tôi đi uống cà phê để bàn chuyện tôi viết bài giới thiệu nhạc kịch Cô Sao. Trước đó tôi đã được anh mời xem nháp vở nhạc kịch anh mới viết. Tôi không thích vở này. Nó không nhuyễn. Nhưng tôi nhận lời giới thiệu nó trên báo – dù sao cũng là một cố gắng của nhạc sĩ trong một loại hình sân khấu chưa quen với khán giả Việt Nam. Chúng tôi ngồi cả giờ với nhau ở cà phê Lâm. Hoàn toàn không có gì chứng tỏ Ðỗ Nhuận đang phải ngồi với một kẻ thù của cách mạng cả. Sau tôi kiểm tra lại thấy đúng thật, Ðỗ Nhuận có nói như vậy. Mà anh là nghệ sĩ đàn anh của chúng tôi, tham gia cách mạng từ trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, từng bị tù đầy vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, người để lại những bài hát hằn sâu trong trí nhớ chúng tôi: Chiều Tù, Hận Sơn La, Côn Ðảo(20)…
Trong không khí tù hãm của nền văn nghệ bị trói ai cũng phải tìm cách thích nghi với cách sống gò bó. Ðỗ Nhuận chỉ quá nhiệt tình trong sự thích nghi ấy. Trong một Ðại hội Nhà văn Nguyễn Tuân khéo léo chê lối viết văn lê thê, rồi dẫn thí dụ tiền nhân viết văn ngắn mà hay như thế nào để chửi bọn xu nịnh. Ông kể chuyện Cái Rắm. Rằng một hôm nhà vua đang ngự triều bỗng đánh rắm, tả quan lắng tai rồi tâu: “Muôn tâu bệ hạ, nghe như tiếng đàn tiếng sáo”, hữu quan hít hà rồi tâu: “Muôn tâu bệ hạ, ngửi như mùi huệ mùi lan”. Nhà vua nghe tâu sướng tai lắm, nhưng rồi đâm lo: “Phàm thiên hạ đánh rắm thời phải thối, nay trẫm đánh rắm lại không thế, e trẫm băng đến nơi”. Tả hữu mặt chảy dài. May sao nhà vua lại phát ra một cái tiếp. Tả quan vươn cổ ra tâu: “ Muôn tâu bệ hạ, thối ạ!” Hữu quan cũng không kém: “ Muôn tâu bệ hạ, không những thối mà còn thối lắm ạ!”. Tố Hữu mặt đỏ bừng. Hoài Thanh giận lắm, từ đó không bao giờ giàn mặt Nguyễn Tuân nữa.
Văn Cao đặt cho Hoài Thanh cái biệt hiệu chef des claqueurs(21). Mỗi lần lãnh tụ nói chuyện, Hoài Thanh ngồi ở hàng đầu, chực sẵn để khi lãnh tụ xuống giọng chấm câu hoặc hết đoạn thì đứng lên vỗ tay làm gương cho cử tọa vỗ theo. Tôi không hiểu tác giả Thi Nhân Việt Nam. Ông hiển nhiên có một chỗ trên chiếu dành cho bậc lão làng văn chương, ông còn muốn gì nữa?
Một lần tôi đến nhà Hoài Thanh để xin ông một bài viết về thơ Tố Hữu.
– Thưa bác, – tôi nói – bình thơ Tố Hữu không ai qua mặt được bác. Có thể nói bác là chuyên gia độc nhất vô nhị về thơ Tố Hữu, cho nên tòa soạn chúng tôi muốn xin bác một bài…
– Anh nói đúng lắm! – Hoài Thanh cười vui vẻ – Không một ai dày công nghiên cứu để có quyền nói về thơ Tố Hữu như tôi. Thơ Tố Hữu mở ra không phải một dòng thơ, mà một biển thơ, một thời đại thơ… Từ Tố Hữu thơ Việt Nam bước vào một chân trời mới… Mênh mông lắm!
Trong các cuốn Văn tuyển người ta đưa cả thơ Sóng Hồng vào, có những bài chỉ trên mức vè thôn xóm một chút, chỉ vì nhà thơ Sóng Hồng chính là ông Trường Chinh đáng kính. Nhiều nhất vẫn là thơ Tố Hữu. Ðến nỗi trong một buổi Tố Hữu đến giảng tại Trường Nghiệp vụ Văn hóa, kịch sĩ Bửu Tiến phải đứng lên xin hỏi:
– Thưa anh Tố Hữu, theo anh thì thơ anh hay hay thơ cụ Nguyễn Du hay?
Nhà thơ khiêm tốn trả lời:
– Tôi không dám so sánh tôi với cụ Tiên Ðiền. Thơ của tôi chưa được kiểm chứng qua thời gian, nó là thơ thời hiện tại. Cần phải có một khoảng cách mới đánh giá được…
– Vậy tại sao trong các kỳ thi tuyển, thi tốt nghiệp học sinh không học thơ Nguyễn Du mà chỉ học thơ anh mới có hi vọng đỗ? – Bửu Tiến hỏi tiếp – Lâu nay đề thi nào cũng là thơ Tố Hữu cả, trò nào không học thơ Tố Hữu tất trượt.
– Cái này không phải lỗi tại tôi. Các đồng chí phải đấu tranh với Bộ Giáo dục.
Bửu Tiến cười nhạt:
– Bộ Giáo dục chúng tôi không ngại. Nhưng cái chính là muốn đấu tranh chúng tôi phải biết tránh đâu(22)…
Có vẻ Hoàng không ác cảm với tôi. Y không có ý muốn hạ nhục tôi bằng thái độ kênh kiệu như Huỳnh Ngự. Mỗi buổi làm việc bao giờ Hoàng cũng chiêu đãi tôi dăm ba câu chuyện phiếm. Ðại loại Hoàng kể cho tôi biết ở ngoài kia rạp nào chiếu phim gì, có vở kịch nào mới, xem được hay không xem được. Hoàng sắc sảo trong cách nhận định tác phẩm, chứng tỏ một trình độ học vấn khá. Tôi thích làm việc với Hoàng, nhưng cũng cảnh giác với cái thích của mình. Không phải ngẫu nhiên người ta cử Hoàng làm việc với tôi.
Mà cảnh giác là phải. Hoàng dễ dàng đồng ý với tôi trong cách nhìn nhận vấn đề này hay vấn đề khác, nếu có tranh cãi thì cũng theo cách bình đẳng, tôn trọng người đối thoại. Ngoài công việc hàng ngày anh ta phải hỏi và tôi phải viết, chúng tôi còn thời gian cho những câu chuyện vãn, chẳng hạn về những sự kiện lịch sử không mấy dính dáng tới thời hiện tại.
– Anh nghĩ thế nào về chiến dịch Thập Vạn Ðại Sơn? Tôi thì tôi không tán thành ý kiến cho rằng đó là một hành động quân sự được thực hiện trong tinh thần quốc tế vô sản. – một hôm nhân nói tới anh Hoàng Thế Dũng, Hoàng đột ngột rẽ sang chuyện thời kháng chiến chống Pháp – Xét cho cùng, chẳng qua cách mạng Việt Nam cần bảo vệ lưng mình. Một động cơ nói thẳng ra là bản vị. Anh không đồng ý à? Anh thử nghĩ xem: lúc ấy Hồng quân Trung Hoa chưa xuống tới Hoa Nam, quân đội Tưởng lại ở sát nách, cho nên ta phải đánh gấp Thập Vạn Ðại Sơn để ngăn bọn này tràn sang một khi Hồng quân từ phía Bắc tấn xuống. Bọn Pháp đang yếu thế, còn đang phải chống đỡ những cuộc tấn công của ta, cho nên chúng sẵn sàng cho quân Tưởng vào Việt Nam…
Hoàng có lý. Nhưng sự kiện Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng một phần đất Trung Quốc vẫn cứ là niềm hãnh diện của Việt Nam. Người Trung Quốc không muốn nói tới Thập Vạn Ðại Sơn thì ta lại càng phải nhắc cho họ nhớ trong công cuộc chiếm lại lục địa có sự đóng góp xương máu của các chiến sĩ Việt Nam. Ðáng tiếc, do sự nể nang đối với Trung Quốc, cho tới nay chưa có một tác phẩm nào nói tới chiến dịch Thập vạn đại sơn cho xứng đáng, ngoài vài bài báo do chính Hoàng Thế Dũng viết sau khi ra tù.
Do cách hỏi khôn khéo, nhiều lần Hoàng đưa tôi vào ngõ cụt. Một cán bộ công an lành nghề như Hoàng thì phải biết tôi không thành khẩn.
Ðược cái những câu hỏi của Hoàng không vượt ra ngoài những địa hạt những câu hỏi của Huỳnh Ngự, phần lớn là hỏi thêm, hỏi bổ sung. Tôi phải căng óc ra để trả lời không bị tiền hậu bất nhất.
Với bạn bè có khả năng bị bắt, nhưng không biết liệu họ đã bị bắt chưa, hoặc không bị bắt mà chỉ bị thẩm vấn, tôi thận trọng. Nếu tôi sơ ý để lộ ra chi tiết vô thưởng vô phạt đối với vụ án, nhưng lại là cái chỉ có chúng tôi biết với nhau, mà thấy công an biết thì bạn tôi sẽ tưởng tôi đã khai, đâm ra mất tinh thần, khai lung tung.
Cần phải nhắc lại một lần không thừa rằng tôi chẳng hề có một hành động chống chế độ nào hết. Các bạn tôi cũng vậy. Tội lớn nhất của chúng tôi là dám nói ngược giáo điều chính thống, cho dù chỉ nói khẽ. Tôi tin bọn chấp pháp thừa biết thế, nhưng họ tin rằng Ðảng làm đúng – cần phải đè bẹp bất kỳ biểu hiện chống đối nào, cho dù nhỏ bé nhất. Cách xử lý những người khác chính kiến kiểu Lênin đối với Berdiaev(23) không thể có ở Việt Nam.
Một hôm, nhân hỏi tôi về Hoàng Minh Chính, Hoàng đột nhiên ghé sát mặt tôi:
– Tôi khuyên anh đừng nhọc lòng bảo vệ Hoàng Minh Chính. Anh không biết đấy thôi, chứ Hoàng Minh Chính có mưu đồ lớn lắm, anh ta muốn lật đổ Trung ương bằng một Ðại hội bất thường (Hoàng không nói đến đảo chính), trước hết bằng cách gây ảnh hưởng ngay trong Bộ Chính trị, vận động Trung ương chống lại Bộ Chính trị, bầu ra ban lãnh đạo mới… Anh thì chúng tôi biết, anh chỉ mải chuyện văn chương, anh không biết mưu đồ ấy. Anh tưởng nếu rồi đây Hoàng Minh Chính làm tổng bí thư anh ta sẽ dành cho anh một chức bộ trưởng chăng? Ðừng hòng. Với Hoàng Minh Chính anh chẳng là cái gì. Một con tốt trong nước cờ phiêu lưu, chấm hết. Tại sao anh nhất định không chịu nói về những điều anh biết? Hoàng Minh Chính có quan hệ mật thiết với đám cán bộ bất mãn trong quân đội, họ gặp gỡ nhau ở cả trong nhà anh, điều đó anh biết quá đi chứ, nhưng anh không chịu nói ra. Anh nói Hoàng Minh Chính không có liên lạc với Võ Nguyên Giáp nhưng mặt anh lại thú nhận rằng có rồi đó. Tại sao anh không thể thành thực với tôi, dù chỉ một lần này?
Tôi cười:
– Hoàng Minh Chính làm gì là việc của anh ấy, tôi không có trách nhiệm phải quan tâm. Anh ta coi tôi là con tốt hay con xe cũng là việc của anh ấy. Tôi nghĩ anh hiểu tôi: tôi không thích làm con tốt hay con xe của bất cứ kẻ nào, trên bất cứ bàn cờ chính trị nào. Riêng với anh, tôi cũng muốn anh thành khẩn với tôi, dù chỉ một lần: anh cần gì ở tôi?
– Hãy trở lại với điều tôi vừa hỏi anh: có hay không?
– Không biết.
– Anh sẽ không nói lại chứ?
– Tôi sẽ nói y như thế. Với bất cứ ai, ở bất cứ đâu.
Hoàng nhìn chằm chằm vào mặt tôi:
– Anh toát mồ hôi rồi đó. Anh không thấy trên mặt anh mồ hôi rịn ra đó sao?
Tôi cười phá:
– Tôi đánh giá anh cao hơn đấy. Tôi lầm, đáng buồn. Vừa nãy, nhờ ơn nhà bếp tôi được ăn bát cháo nóng, vì thế trên mặt tôi có mồ hôi, đơn giản là vậy.
Hoàng ngượng ngùng quay đi:
– Anh vẫn chưa trả lời tôi. – tôi nhắc – Nói đi: anh cần gì ở tôi?
– Tôi cần gì? Tôi chỉ muốn anh thành khẩn báo cáo những gì Ðảng hỏi.
Tôi cười nhạt:
– Anh nói dối. Giọng của anh không thật thà khi nói câu đó. Nhưng thôi, anh không muốn trả lời cũng được, tôi cũng chẳng có quyền đòi hỏi ở anh sự thực thà. Tôi mến anh, vì đối với tôi anh người hơn. Anh không tự giới thiệu, nhưng tôi biết anh là cấp dưới của Huỳnh Ngự, lương của anh thấp hơn lương Huỳnh Ngự…
Hoàng chăm chú nhìn tôi:
– Anh nói thế có ý gì?
Tôi nhìn vào mắt anh ta:
– Ðúng là lương anh thấp hơn chứ?
– Anh nói tới lương của tôi để làm gì?
– Ðể nói rằng tôi đánh giá anh cao hơn thủ trưởng của anh. Anh nói rằng ngành của anh là một ngành đặc biệt. Nhưng theo tôi, nó chỉ đặc biệt ở chỗ nó có quá nhiều quyền hành, phần còn lại nó giống ngành tuyên giáo mà tôi biết, trong ngành này chủ nghĩa thành phần cũng được đẩy tới đỉnh cao nhất, ở đó những người cấp dưới thường giỏi hơn cấp trên. Chúng ta đều là cán bộ cả. Trong cuộc sống được cào bằng, tình cảnh chúng ta chẳng khác nhau là bao. Tôi hình dung anh có một gia đình đông đúc. Chị chắc là giáo viên, ba cọc ba đồng. Các cháu ăn cơm phải nhìn nhau, không đứa nào dám gắp quá tiêu chuẩn, không đứa nào được phép ăn hơn đứa nào…
– ???
– Tôi đã thẳng thắn nói với anh rồi: tôi không biết nhiều về anh Hoàng Minh Chính. Ðó là sự thật. Rất có thể anh Hoàng Minh Chính có nhiều chuyện giấu tôi, hoặc giả anh ấy thấy không cần nói với tôi. Vì thế mà tôi không biết. Ngoài ra, xin anh hiểu cho điều này: tôi không phải kẻ đưa chuyện, vì thế có những điều tôi biết nhưng tôi thấy chẳng cần nói lại với anh làm gì…
– Anh đánh giá anh hơi cao đấy. Anh không nói người khác sẽ nói. Và họ đã nói rồi.
– Tôi không cần biết ai sẽ nói. Tôi không nói là đủ. Bởi vì tôi chẳng có gì để nói. Hoàng Minh Chính không rủ tôi vào một tổ chức nào. Anh ấy cũng không rủ tôi làm đảo chính. Nhưng tôi biết, các anh rất muốn tôi nói một cái gì tương tự cho anh Chính, đúng thế không? Cái ấy thì không được. Không bao giờ.
Hoàng nhếch mép cười.
– Có cái này thì được, tôi sẵn sàng nói: đó là tất cả những gì thuộc về tôi, thuộc về một mình tôi. Anh có thể đề đạt với tôi bất cứ điều gì có lợi cho anh. Chẳng hạn, tôi sẽ nhận tôi là Việt Quốc, Việt Cách, Ðại Việt hay là cái gì đó anh muốn… Tôi sẽ ký, thật đấy. Giờ đây tôi chẳng còn gì để mà mất. Lịch sử không mù. Nó sẽ tìm ra sự thật, nó sẽ lên tiếng, không phải trong tương lai gần thì trong tương lai xa. Còn ngay bây giờ anh sẽ được lên lương, chị và các cháu sẽ bớt được một phần vất vả. Ðây là việc tốt, có thể là việc tốt cuối cùng mà tôi có thể làm cho ai đó…
Hoàng gầm lên, đập mạnh tay xuống bàn:
– A, anh dám láo hả? Láo!
– Chính anh láo!
Tôi tức lắm rồi, tôi đập bàn còn mạnh hơn. Bộ đồ trà nhảy lên, mấy cái chén rơi loảng xoảng xuống nền gạch, vỡ tan.
Hoàng chồm tới:
– Mày sẽ biết tay tao!
Nhìn bộ mặt đỏ gay của Hoàng, nhìn nắm đấm chực vung lên của anh ta, tôi nghĩ anh ta sẽ đánh tôi. Tôi lùi lại, tay vung lên cái ghế ba nan.
– Này, báo trước cho mày biết, nếu mày tiến thêm một bước thì hối không kịp đấy! – tôi chẳng buồn giữ lịch sự nữa – Hãy nghĩ tới vợ con mà dừng lại! Nếu mày chết ở đây người bị thiệt sẽ không phải là Ðảng của mày đâu mà là vợ con mày đấy!
Không biết có phải tại ánh mắt của kẻ sẵn sàng liều mạng hay tại cái gì khác đã làm cho anh ta tỉnh ra, nhưng Hoàng dừng lại ngay tức khắc sau câu nói của tôi. Như một con rối hết cót, anh ta rũ ra, lẳng lặng bỏ đi. Tôi hạ cái ghế xuống.
Một lát sau Hoàng quay lại với bộ trà mới, chắc lấy từ một phòng khác. Anh ta cặm cụi thu dọn các mảnh vỡ mang đi rồi trở về hí hoáy với cái tầu ngầm(24). Chờ cho nước sôi, Hoàng pha ấm trà mới. Nhìn thẳng vào mắt tôi, anh ta nói, giọng trầm hẳn xuống:
– Tôi thành thật xin lỗi anh. Vừa rồi tôi có nóng.
Hoàng dám nhìn thẳng vào mắt tôi, có nghĩa là anh ta thành thật.
Tôi lặng lẽ nâng chén trà lên miệng, chứng tỏ tôi cho qua chuyện vừa rồi.
Tôi cũng cảm thấy một chút xấu hổ. Cơn giận dữ trào lên, nguyên nhân không phải ở tôi, nhưng tôi đã không kiềm chế được nó.
– Tôi cũng lấy làm tiếc. – tôi nói – Lẽ ra chúng ta có thể nói chuyện với nhau bình tĩnh hơn. Dù sao chúng ta cũng đã từng là đồng chí của nhau… một lúc nào đó, trước kia.
Tôi nói thật lòng. Trong câu nói của tôi không có bóng dáng của sự đạo đức giả, của mánh khóe chính trị. Tôi muốn được nhìn thấy ở Hoàng một con người. Người có đầu óc như Hoàng mà ở phía những tên vô sản lưu manh thì thật đáng tiếc.
(1) Nhân vật trong sử Trung Quốc, nổi tiếng về tính đa nghi.
(2) Một giống nhãn rất quý ở Hưng Yên, ngày nay chỉ còn lại vài cây, nghe nói rất khó nhân giống, có tên là nhãn tiến do nhãn này ngày xưa chỉ được dùng để tiến vua.
(3) Mắng mỏ, phê phán.
(4) Tại miền Bắc Việt Nam những năm đó, ruộng đất không phải thuộc nhà nước dưới dạng các nông trang tập thể đều thuộc hợp tác xã, nông dân chỉ được trồng tỉa trên 5% được Nhà nước để lại cho. Vậy mà ở nhiều nơi, thu hoạch trên đất 5% này còn lớn hơn thu hoạch được chia trong hợp tác xã.
(5) Một cách nói thời ấy. Ðể loại trừ đối thủ hoặc kẻ mình không ưa, người ta hất ra ngoài các chức vụ đang nắm giữ, cho về hưu non hoặc dùng cách khác có hiệu quả tương tự, gọi là đá xuống, đá đi, nhưng cũng có thể đưa lên chức vụ cao hơn để ve vãn, nhưng là chức vụ hữu danh vô thực nhằm vô hiệu hóa, gọi là đá lên.
(6) Trong chuyện khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ nông dân, các ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau đã đi chậm sau ông Kim Ngọc gần hai chục năm (!). Chỉ thị số 100 của Trung ương Ðảng khóa IV được ban ra mãi tới năm 1981 mới khẳng định cách làm này là có tác dụng kích thích sản xuất.
(7) Truyện dân gian truyền khẩu ở thế kỷ thứ 13 lưu truyền trong các dân tộc Anglo-Saxon. Bản dịch đầu tiên sang tiếng Việt của Vũ Ngọc Phan có tựa đề: “Chàng Tiễu Nhiên và nàng Mị cơ”. Viking là những thương gia kiêm hải tặc trên vùng biển Scandinave vào khoảng các thế kỷ 9-11. Saga là hình thức chuyện thơ dân gian nhiều chất anh hùng ca của Băng Ðảo (Iceland) và Na Uy.
(8) Nhà văn nổi tiếng trước Cách mạng với những tiểu thuyết về những người hùng đơn độc trong đời thường.
(9) Nhà thơ, nổi tiếng với những câu “Ai bảo trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ? Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ? ” trong tập thơ Cửa Mở bị đánh vào thập niên 70.
(10) Không phải tên thật.
(11) Người mê nước Pháp, văn hóa Pháp một cách mù quáng, thiên vị.
(12) Một lối nói chỉ sự việc rất bình thường, không có gì đặc biệt, có xuất xứ từ tên một cuốn ký sự “Chuyện thường ngày ở huyện” của nhà văn Liên Xô Ovetchkine.
(13) Sau đổi tên thành khách sạn Hòa Bình.
(14) Helena Lemanska làm bộ phim Cây Tre Việt Nam (“Bambuk mój brat” – Cây tre, người anh em của tôi). Roman Karmen làm phim Việt Nam Trên Ðường Thắng Lợi (“Boriushisia Vietnam” – Việt Nam chiến đấu). Madeleine Riffaud trở về Paris viết Ðôi Ðũa Ngọc (Baguettes de jade).
(15) Sau đó, vào khoảng cuối 1980 đầu 1981 Nguyễn Ðình Thi còn bị đánh tiếp về vụ viết kịch “Nguyễn Trãi ở Ðông Quan”.
(16) Chế Lan Viên lấy hứng từ một bài nói chuyện nội bộ của Lê Duẩn, trong đó Lê Duẩn nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta…”. Nói chung, nhiều bài thơ của Chế Lan Viên đi sát một cách tuyệt vời các đường lối và chính sách của Ðảng.
(17) Nhà thơ lớn của Thổ Nhĩ Kỳ.
(18) Khi ấy nhà văn Nguyên Ngọc đang là bí thư Ðảng đoàn Hội Nhà văn. Bản Ðề Dẫn được viết ra như là báo cáo chính thức của ban lãnh đạo Hội trước Ðại hội Nhà văn lần thứ III.
(19) Theo lời chứng của nhà thơ Bùi Minh Quốc.
(20) Ðỗ Nhuận (1922-1991) là một nhạc sĩ cách mạng tên tuổi của Việt Nam.
(21) Trưởng ban vỗ tay.
(22) Theo tôi nhớ thì Bửu Tiến là người đầu tiên nói lái đấu tranh thành tránh đâu.
(23) Nikolai Alexandrovich Berdiaev (1847-1948), triết gia của chủ nghĩa hiện sinh Cơ Ðốc. Một thời theo chủ nghĩa Mác, năm 1898 bị chính quyền Nga hoàng bỏ tù hai năm và lưu đầy ba năm. Berdiaev ủng hộ Cách mạng Tháng Mười, nhưng lại chỉ trích chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa bôn-sê-vích. Trong thời gian ngắn dạy tại trường Ðại học Quốc gia Moskva ông truyền bá triết thuyết của mình bất chấp sự cấm đoán của chính quyền xô-viết, nhưng Lênin chỉ trục xuất khỏi nước Nga chứ không giết (1922).
(24) Một kiểu đun nước bằng điện dùng 2 lưỡi dao cạo thay cho dây may-so.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:14:53 GMT -6
Chương 23
Nửa đêm, tôi choàng tỉnh vì tiếng la hét của ai đó.
Khu xà lim 3, theo tôi ước đoán, nằm ở quãng giữa Hỏa Lò, gần đường Hai Bà Trưng, nếu nhìn từ cổng trại giam. Nằm trong xà lim 3 không nghe thấy những tiếng động của thành phố vọng vào. Thành nói cửa xà lim chúng tôi ngoảnh mặt ra phố Quán Sứ.
Tiếng kêu gào nghe gần lắm, nhưng trong mê lộ những tường và hành lang tiếng động bị quăng đi quật lại chán chê rồi mới tới tai mình cho nên không thể biết nó phát ra từ đâu, bên phải hay bên trái, đàng trước hay đàng sau.
Thành bật dậy. Ðối với những tiếng động khác thường trong nhà tù anh thính hơn tôi nhiều.
Một lát sau chúng tôi mới xác định được tiếng gào thét ai oán như lợn bị chọc tiết ấy là của một tù binh Mỹ, chắc là một phi công.
– Help… me! He..lp m..e!(1)
Tiếng kêu cứu của con người trong cơn tuyệt vọng chẳng hướng về ai, chẳng gửi cho ai, vang to giữa đêm khuya trong một vùng bê tông lạnh lẽo.
Tôi nằm xuống, kéo chăn tới tận cằm mà vẫn thấy lạnh.
– Chắc tên Mỹ này mới bị bắn rơi chiều nay.
Thành, mắt đỏ cạch, ngáp dài:
– Có lẽ thế. Người ta đưa thẳng nó về đây.
Tên Mỹ la hét mãi không thôi.
– Chắc nó bị thương. – tôi nói.
– Chắc thế. – Thành gật đầu.
Phải hơn một giờ sau mới nghe tiếng chân người rậm rịch, tiếng cửa xà lim mở, tiếng nói chuyện lao xao. Tên Mỹ thôi kêu cứu, chắc y được tiêm thuốc giảm đau. Tiếng gào nhỏ dần thành tiếng rên rỉ ai oán.
Thành nằm xuống.
– Này, cậu có thường gặp tù binh Mỹ không?
– Thỉnh thoảng. Tôi làm báo mà. Phi công bị bắn rơi luôn.
– Con số máy bay mà bên mình đưa ra là đúng đấy chứ?
Vào thời gian này, máy bay Mỹ rụng như sung, và bao giờ cũng ngay từ loạt đạn đầu, theo tin tức báo chí.
– Nếu tin vào những thông báo chiến sự của hai bên tham chiến thì trên các mặt trận chỉ còn lại những hồn ma đang đánh nhau, chứ lính của hai bên thì đã chết hết từ lâu.
Thành cười khúc khích.
– Này, cậu làm báo, đi nhiều, gặp nhiều, có phải đúng là lính Mỹ hèn hơn lính Pháp không? – gối đầu trên đôi tay, Thành lơ đãng hỏi.
Tôi nằm xuống theo. Trong xà lim không ngồi lên nằm xuống thì còn làm gì nữa? Chẳng lẽ cứ đi bách bộ mãi – năm bước tới năm bước lui trong khoảng không gian hẹp giữa hai phản?
Sau khi biết tôi có thời kỳ ở bộ đội, Thành trở nên gần gụi với tôi hơn, nói chuyện với tôi nhiều hơn, giọng nói của anh cũng ấm áp hơn. Gì thì gì, chúng tôi cũng đã từng là anh em chung một chiến hào. Trong lòng Thành có một anh bộ đội sống dai. Có vẻ anh bộ đội này không bỏ bạn trong cơn hoạn nạn.
– Chưa chắc. – tôi đáp – Anh em trong Nam ra nói lính Mỹ đánh không xoàng, lâm trận cũng dữ ra phết, nhất là đám Mỹ đen… Nhưng khi đã bị bắt rồi thì cả đen lẫn trắng đều không coi thể diện là cái gì.
Chúng tôi thả hồn về quá khứ hào hùng những ngày kháng chiến. Nhờ Thành tôi mới biết quân đội ta có những bài bản rất độc đáo trong chiến tranh. Chẳng hạn, khi ta mở chiến dịch Tây Bắc thì ở Thượng Lào bộ đội rèn cán chỉnh quân. Vũ khí của bộ đội Thượng Lào được cấp tốc bó lại, chuyển ngay cho chiến trường mới. Ðịch choáng váng trước hỏa lực mạnh bất ngờ của ta ở Tây Bắc, chưa kịp hoàn hồn thì đã lại bị đánh rất dữ dội ở đồng bằng Bắc bộ, cũng với những vũ khí được chuyển qua chuyển lại như thế trong hoàn cảnh thiếu thốn của một quân đội trẻ tuổi.
Tù binh Pháp, chúng tôi nhận xét, láu cá hơn tù binh Mỹ. Trong hoàn cảnh nhục nhã nhất đời lính, người Pháp vẫn thông minh trong ứng xử. Họ lập tức làm ra vẻ thân thiện với kẻ thù, cứ như thể chiến tranh giữa hai bên đã chấm dứt thì mọi sự đương nhiên phải trở lại bình thường giữa kẻ thắng kẻ thua trong nền hòa bình cục bộ. Với nụ cười cầu tài, họ bả lả nài xin chúng tôi điếu thuốc, nặn ra dăm ba câu làm quà. Những mẩu đối thoại tầm phào như thế mà, lạ thay, lại có tác dụng xóa đi cái ranh giới tưởng chừng không vượt qua nổi.
Có lẽ do bị tuyên truyền sai lạc về đối phương, tù binh Mỹ rất khúm núm trước kẻ thắng. Gặp sĩ quan Việt Nam, họ cúi gập người, hai tay áp sát đùi mà chào, lễ độ lắm. Tù binh Pháp trong trường hợp ấy ứng xử khác hẳn: “Bonjour, mon capitaine! Comment allez-vous?”(2), họ toe toét, suồng sã. Ai cũng capitaine hết, từ anh lính trơn cho tới cấp chỉ huy cao nhất.
Chính sách tù binh nhân đạo đã góp phần lôi kéo lính Pháp chạy sang hàng ngũ kháng chiến. í thức được cuộc chiến tranh mà họ tham gia là phi nghĩa, những người “Việt Nam mới” sát cánh bên người Việt Nam kháng chiến chống lại chính nước họ. Nhiều người trong bọn họ sau trở thành đảng viên cộng sản, thành sĩ quan trong quân đội Việt Nam.
Họ chỉ buộc lòng phải bỏ Việt Nam mà đi khi ở đây bùng lên ngọn lửa “đấu tranh giữa hai đường lối”. Với màu da trắng, họ bị các nhà mác-xít nửa mùa coi là những tên xét lại bẩm sinh. Không thể trở về Pháp, nơi họ sẽ bị xử tội như những tên phản quốc, những người này lang thang tìm nơi tá túc tại các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Chiến Sĩ trở về Ðông Ðức, Georges Boudarel(3), Albert Clavier, Targo(4)…người đi Hungari, kẻ sang Tiệp Khắc.
Tư tưởng Mao Trạch-đông đòi hỏi người cộng sản phải có lập trường bạn thù rõ rệt, ranh giới địch ta phân minh. Vào thập niên 60, cách đối xử với tù binh Mỹ không còn tử tế như với tù binh Pháp. Dù là tù binh, họ vẫn là địch, là kẻ thù. Ðiều đó gây ra tổn thất cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Không như trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc chiến tranh mới không có một người lính Mỹ nào cầm súng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam.
Tù binh Mỹ tuy thế vẫn còn may: cấp lãnh đạo quân đội Việt Nam không hoàn toàn nghe theo những lời chỉ bảo của các cố vấn Trung Quốc trong vấn đề đối xử với tù binh. Khẩu phần cho tù binh Mỹ tôi thấy ở Hỏa Lò khá hơn nhiều so với khẩu phần bộ đội: mỗi bữa một tô đầy súp thịt, một cái bánh mì nhỏ, hai điếu thuốc lá.
Những câu chuyện trên trời dưới đất như vậy có tác dụng làm cho đêm xà lim bớt nặng nề.
– Thằng Mỹ ngủ, cậu ạ. – Thành nghiêng đầu nghe ngóng rồi nói.
Ðã tới bốn giờ sáng rồi chứ không ít. Chúng tôi vẫn tỉnh như sáo.
– Có lẽ thế. Không thấy nó rên nữa. – tôi nói – Không hiểu họ đưa nó vào đây làm gì nhỉ? Nó bị thương thì đưa vào quân y viện, chữa cho khỏi đã. Làm như thế là không tôn trọng công ước quốc tế về tù binh.
Thành cười khe khẽ:
– Mình có ký vào cái công ước ấy đâu mà rộn. Cậu có thấy đói bụng không?
– Cũng hơi ngon ngót.
Tôi làm khách. Thực sự, tôi đói run. Cái rét làm cảm giác đói tăng gấp đôi.
– Ta làm cái bánh xốp đi.
– Nào.
Anh bẻ đôi cái bánh, chia cho tôi một nửa. Tôi không được liên lạc với gia đình, tôi không được tiếp tế. Thành được nhận tiếp tế mỗi tháng một lần.
Chúng tôi nhai dè xẻn từng mẩu nhỏ, cảm thấy vị ngọt của đường mía trôi qua thực quản, qua dạ dày, thấm ướt những tế bào khô héo.
Từ hôm cái bánh mì bộ ra đi, chúng tôi trở về với bữa ăn thường lệ: hai đồng mì luộc đầy xác mọt và rau muống tần đại dương. Tôi không còn thấy gớm cái nước rau đen xì như nước cống nữa. Tôi húp sạchsành sanh, chỉ chừa lại một chút cặn.
Nhìn tôi húp nước rau ngon lành, Thành tế nhị giải thích:
– Lạ một cái là nằm trong xà lim, cả trong mùa đông, mình có làm gì nặng nhọc đâu mà bảo mất mồ hôi, vậy mà cứ thèm chất mặn. Nhiều hôm nhạt mồm nhạt miệng quá, đành nói khó với mấy ông quản giáo, tạ sự rằng đau răng quá, xin các ông làm phúc cho nhúm muối để ngậm. Khốn nạn, bỏ hạt muối vào miệng thấy ngọt như đường. Mình là người đứng đắn người ta mới cho, chứ tù khác đừng hòng…
Tôi ngạc nhiên:
– Mấy hạt muối đáng bao nhiêu mà không cho…
– Không phải chuyện đáng bao nhiêu hay không đáng bao nhiêu. Mà là người ta sợ tù trốn trại. Muối với nước tiểu hòa lẫn ăn mòn sắt dữ lắm. Tù dùng giẻ quấn quanh chấn song sắt, tẩm thứ nước ấy vào, cho sắt mục ra, dễ bẻ. Hỏa Lò chắc là thế mà người ta vẫn sợ tù trốn lắm, thỉnh thoảng lại loại các phòng….
Tôi giương đôi mắt của thằng ngốc:
– Loại là cái gì?
– Tiếng lóng mà, loại là lục lọi, khám xét.
– Có một nhúm muối mà lắm chuyện.
Thành nhún vai:
– Người ta loại còn để tìm ra những thứ khác nữa chứ: cưa sắt, dao, bật lửa…
– Mình thèm muối thế này là trong người thiếu cái gì đấy. Chứ theo khoa học thì ăn muối nhiều chỉ có hại…
– Khoa với chẳng học, quên đi. Khoa học không bao giờ bước chân vào đây. Cứ theo khoa học thì con người không thể sống thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy mà trong xà lim có ánh sáng mặt trời quái đâu mà tù vẫn cứ sống nhăn. Có người ở chín năm trong xà lim chẳng sao…
– Chín năm? – tôi kêu lên, ớn lạnh dọc xương sống.
– Chứ sao! Hiện hắn ta đang ở đây, ngay trong xà lim 3 này này. – Thành thản nhiên – Tôi nghe tiếng hắn ta ho.
– Sao không bắn quách người ta đi cho rồi? Bắn còn nhân đạo hơn.
– Xì, bắn người đâu có dễ! Tòa tuyên án tử hình rồi đấy chứ, mang bắn rồi đấy chứ. Thế mà vẫn sống, mới lạ. Tôi nghĩ con người ta có số, cậu ạ. Anh này ngụy quân, vẫn bị chính quyền địa phương để ý. Ngụy quân ngụy quyền đều trong sổ đen hết. Bỗng xảy ra án mạng, một em bé bị giết, xác vứt trên nắp cống. Ðiều tra thì biết em bé hay được hắn dẫn đi chơi, thế là hắn bị bắt. Ðồ rằng hắn bất mãn chế độ, giết em bé để gây hoang mang trong dân chúng. Chứ điều tra không thấy hắn không có thù oán gì gia đình đứa bé. Chấp pháp hỏi cung cách nào không biết, hắn nhận. Tòa xử tử hình. Hắn xin ân xá. Ðơn bị bác. Hôm giải hắn đi bắn anh chỉ huy thấy tên tử tù cứ vật vã gào khóc, một mực kêu oan, nói tại cán bộ chấp pháp xui hắn mới nhận tội, chứ hắn không giết người, chấp pháp bảo hắn cứ nhận hết thì xin tha cho, có ngờ đâu bị mang bắn thật…
– Người tù không bị giải đi bắn nữa?
– Xì, có thế hắn ta mới còn sống đến giờ chứ.
Câu chuyện hoang đường, khó tin quá.
– Người chỉ huy hành quyết thường cấp bậc gì?
– Trung úy, cũng có khi đại úy. Anh này trung úy.
– Anh trung úy rồi có bị kỷ luật không?
– Ai biết được. Tôi cũng nghe kể vậy thôi. Gan cóc tía, quân lệnh như sơn mà dám cưỡng. Giải tên tù tử hình trở lại xà lim xong, anh ta tức tốc đi gõ cửa các cấp đề nghị xem lại vụ án mà anh ta cho là có uẩn khúc…
– Rồi sao nữa?
– Người ta xét lại vụ án đấy!
– Thế thì cả anh trung úy lẫn những người chịu nghe ý kiến anh ta đều là những người cực tốt. – tôi suýt soa.
Thành nguýt tôi:
– Thế cậu nghĩ cán bộ các ngành công an, tư pháp bây giờ xấu hết à?
Tôi cười. Thành có thể làm chính trị viên xà lim được. Nhưng trong trường hợp này chính trị viên đã nghĩ oan cho tôi. Tôi không đến nỗi tệ như vậy. Ðâu chả có người tốt, người xấu.
Anh trung úy nọ đúng là to gan. Người như thế hiếm lắm. Cán bộ đã nhiều năm chỉ được giáo dục tinh thần vâng lời, không ai được dạy suy nghĩ. Ngay trong ngành tòa án, được coi là độc lập, quan tòa(5) cũng phải xử theo Ðảng chứ không theo luật. Một án xử đã xong, coi như bất di bất dịch, bởi vì Ðảng (một Ðảng bộ chẳng hạn) đã quyết rồi. Thế mà dám cưỡng lại thì liều thật.
Người tù bị bắn hụt tên là Nguyễn Văn Căn, nếu như Thành không nhầm và tôi nhớ không sai. Trong suốt những năm dài của cuộc đời tử tội anh ta đã đi qua hầu hết các xà lim Hỏa Lò. Thảo nào ở xà lim 3 tôi đã gặp những hàng chữ khắc nguệch ngoạc ký tên Căn trên tường. Ðó là những lời thống thiết kêu than: “Tôi bị oan! Tôi không giết người!”, trong xà lim tôi đang ở là những lời căm giận nguyền rủa bọn cộng sản dã man, vô nhân đạo. Lời kêu oan chắc được ghi trong thời gian đầu khi anh ta mới bị bắt. Lời nguyền rủa đến sau, khi anh ta ở xà lim quá lâu.
Nhân có quả tắc(6) Thành dành mấy đồng bánh xốp cho anh tù bất hạnh. Tiếp tế, đối với mọi loại tù, nhất là tù xà lim, là hạnh phúc lớn. Chẳng thế tù xà lim có câu: ” Thứ nhất được tha, thứ nhì quả tắc, thứ ba ra ngoài (trại chung)”. Anh tù nọ, không hiểu sao, rất ít khi có quà gia đình.
Muốn cho bạn tù quà không thể nhờ quản giáo chuyển. Chỉ có thể xin ra sân phơi quần áo rồi lén bỏ quà vào trong túi, hoặc móc vào dây phơi rồi lấy quần áo phủ lên. Người được cho cũng xin phơi quần áo như thế rồi khéo léo lấy quà vào. Một “hộp thư” tình báo cực kỳ thô thiển. Có lẽ những quản giáo đều biết trò này, nhưng nhắm mắt cho qua.
Người mở cửa cho chúng tôi sáng hôm ấy không phải Sứ giả hòa bình, chẳng phải Hách, mà là một quản giáo mới toanh, chưa kịp mỏi mệt hoặc chán nghề. Tên này vè vè theo chúng tôi từng bước. Ðành chờ dịp khác.
Anh tù tử hình không hiểu cho chúng tôi, cho rằng chúng tôi chơi xỏ anh, cất tiếng chửi đổng, lời lẽ rất khó nghe. Tôi sôi máu, bảo Thành đừng cho quà tên khốn kiếp ấy nữa, nhưng Thành ngồi im, không nói gì.
Ngày hôm sau, người mở cửa là Sứ giả hòa bình. Thành lẳng lặng cho bánh vào túi áo bông xin phơi, rồi điềm tĩnh thông báo lần nữa cho anh tù tử hình biết. Việc chuyển giao diễn ra tốt đẹp. Ðêm xuống, Căn nghêu ngao mấy câu vọng cổ bày tỏ lòng ân hận.
Cách nhắn nhủ nhau qua những bài ca, những vần thơ, là cách liên lạc độc đáo trong tù. Quản giáo có bắt được cũng không thể phạt nặng – ối giời ơi, tôi có vi phạm gì đâu, thưa ông, nằm đây mãi buồn quá tôi nghêu ngao tí chút, thế thôi, xin ông bỏ quá.
Căn có thâm niên xà lim cao nhất Hỏa Lò. Vì thâm niên này anh ta được các quản giáo nơi tay. Những người duy vật cùng mình hóa ra trong đáy lòng vẫn còn một chút duy tâm – chẳng ai muốn trong gia đình mình có thêm một con ma thù hận. Án tử hình đã tuyên rồi, chắc gì tòa đã xử lại, tòa xử lại chắc gì đã tha, một sáng nào đó đội hành quyết lại lôi cổ hắn ta đi chửa biết chừng.
– Sao anh không trả lời hắn một tiếng? – tôi hỏi Thành.
Anh lắc đầu:
– Hắn hiểu chúng ta không chơi xấu là đủ.
Tôi nói quả tắc là hạnh phúc lớn đối với tù xà lim là nói chung. Nó không đúng trong mọi trường hợp. Thành chẳng hạn, những lần nhận quà gia đình anh buồn rũ.
Cuối cùng, trong một đêm không ngủ Thành đã kể cho tôi nghe ngọn ngành câu chuyện vì sao anh vào tù.
Nhờ trước chiến tranh tiểu đoàn trưởng Thành có học trường Kỹ nghệ thực hành. Hòa bình lập lại anh được chuyển sang Bộ Công nghiệp. Trong một đợt tinh giản biên chế (7) anh xin hưu non, cùng các bạn bộ đội lập ra một hợp tác xã thủ công nghiệp. Cùng làm với anh có đại tá Trần, một nhân vật lịch sử của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Nhờ những mối quan hệ cũ với quân đội, hợp tác xã nhận được những hợp đồng lớn của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật. Từ cổ chí kim ai cũng biết hợp đồng với quân đội bao giờ cũng béo bở. Hợp tác xã của các cựu chiến binh lớn lên như thổi. Mức sống của xã viên tăng nhanh đến chóng mặt.
Chuyện Thành vào tù nghe cứ như chuyện bịa.
Chả là anh nhận được một hợp đồng gia công chốt xích xe tăng, với số lượng lớn. Nguyên liệu để làm thứ chốt này là sắt Liên Xô, ký hiệu CT45. Ðúng vào thời gian này người ta sực nhớ đến xe trâu, phương tiện vận tải thô sơ trong kháng chiến chống Pháp. Nó vẫn hữu hiệu trong công việc vận chuyển trên những đường xấu, đường rừng hẹp. Xe trâu được sản xuất hàng loạt. Mọi thứ để sản xuất xe trâu đều đủ, chỉ thiếu có trục xe, mà sắt thanh CT45 làm trục xe rất hợp.
Thành mầy mò tìm ra trong những núi sắt phế liệu thời Pháp nhiều sắt tròn có độ cứng tương đương CT45, liền mua về làm chốt xích xe tăng, còn thép do Tổng cục Kỹ thuật cấp thì bán lại cho các hợp tác xã đóng xe trâu. Nhờ sáng kiến của Thành hợp tác xã thu được một khoản lãi kếch xù.
Các bà vợ ngây thơ làm hại các ông chồng. Lẽ ra phải tiếp tục sống kín đáo thì các bà lại đua nhau phô trương. Các bà sắm sanh đủ thứ, đi chợ không thèm mà cả, tha về làn to làn bé. Quá vui vì món quà bất ngờ của số phận, họ đánh mất sự tỉnh táo để biết sống cho phải đạo. Như một quy luật, nhà cầm quyền ngu dốt bao giờ cũng che đậy sự quản lý vụng về bằng chủ nghĩa khắc kỷ. “Sự bình đẳng hai người mặc chung một quần”, theo cách nói dí dỏm của Nikita Khrusov, làm cho con người trở nên hẹp hòi, họ căm ghét kẻ nào sống sướng hơn họ. Người biết sống phải đạo muốn ăn thịt gà phải đi chợ xa để mua, lén lút mang về, lén lút vặt lông, lén lút ăn rồi lén lút đem lông đi đổ. Lòng ghen tị hiện hình thành những lá đơn tố cáo đầy những câu hỏi nồng nặc mùi cảnh giác cách mạng.
Những ông Bao Công vừa thoát nạn mù chữ nhảy vào cuộc.
Thành bị bắt. Cả ông đại tá danh tiếng cũng bị tống giam.
Trong quá trình điều tra, phía quân đội xác nhận hợp tác xã thực hiện đúng hợp đồng về mọi mặt – thời hạn, số lượng và chất lượng sản phẩm. Kèm theo, có biên bản giám định của Viện kỹ thuật quân sự. Mặc, họ bị buộc tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, bị giam hết tháng này qua tháng khác, rồi năm này qua năm khác.
Thành ôm mối hận trong lòng. Theo thói quen của người thợ, anh dùng vật liệu đúng chỗ của nó. Thay vì Nhà nước phải nhập thêm một lượng thép làm trục xe trâu thì nay không phải nhập nữa. Những đoạn thép ngắn bỏ đi đã được tận dụng. Số trục xe trâu có đủ cho sản xuất, nhu cầu vận chuyển được đáp ứng.
Ông đại tá ỷ thế có công với cách mạng, là bạn của ông thủ tướng, và cái chính là ông tin lẽ phải thuộc về ông, nhất quyết không chịu nhún mình trước bọn chấp pháp. Ông thủ tướng ngoảnh mặt đi. Ông cho mọi người biết ông không nể tình riêng mà vượt qua phép nước, ông không can thiệp. Ông đại tá bị đôn lên làm đầu vụ, sẽ bị xử nặng nhất. Chuyện ấy làm cho Thành buồn phiền. Theo anh, các nhà làm án lầm – tội của anh mới là tội nặng. Chính anh đã đề xướng việc làm về sau này bị coi là “phạm pháp”.
Không rõ rồi Thành lĩnh án bao nhiêu năm? Tôi hi vọng người ta sẽ tỉnh ra để không hành hạ những con người khốn khổ. Khi tôi rời Hỏa Lò Thành vẫn còn đó.
– Cậu có nghe thấy gì không? – Thành vụt nhỏm dậy, hỏi tôi.
Tôi lắng nghe. Có một tiếng xào xạc mơ hồ vẳng vào xà lim.
– Hình như chuyển trại. – anh nói.
Tai Thành thính hơn tai tôi. Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng người lao xao, tiếng dép lạt xạt trên mặt đường.
Một lát sau có tiếng xe vận tải nặng nổ máy, một chiếc rồi hai chiếc, ba chiếc. Tiếng người rộ lên một lát, sau đó đêm lại trở về yên lặng.
Thành cục cựa trở dậy làm điếu thuốc lào. Mặc dầu kế hoạch của anh chặt chẽ, nhưng gặp điều suy nghĩ là nó liền bị vi phạm.
– Họ chở tù đi đâu?
– Ði trại. Tết đến nơi rồi.
– Tết thì liên quan gì đến chuyển trại?
Thành nhìn tôi. Khi nào anh mải suy nghĩ, không muốn trả lời thì cái nhìn của anh không ấm áp.
– Trước những ngày hội lớn, ngày Tết, bao giờ người ta cũng chuyển tù Hỏa Lò đi để lấy chỗ giam tù mới. Ðủ loại: lưu manh, trộm cắp, ngụy quân, ngụy quyền, đĩ điếm, tình nghi phản động… Tất cả gom trong vài ngày, sau đó mới phân loại, đám đưa đi tập trung cải tạo, đám qua Tết cho về. Giam hết lấy chỗ đâu mà chứa!
– Bắt người thế thì tùy tiện quá.
Thành liếc xéo tôi, không buồn trả lời.
– Tôi cứ tưởng bắt một con người là phải qua nhiều thủ tục luật pháp, hóa ra không phải. Anh đừng cười tôi – chẳng riêng tôi, tất cả bọn nhà báo chúng tôi đều bị bịt mắt hết, chúng tôi chỉ nhìn thấy một phía của cuộc sống.
Thành hút thêm điếu nữa.
– Anh lo chuyển trại à?
– Việc gì mà lo. Người ta không cho chuyển trại trong khi chưa có án đâu. Ðược chuyển trại còn phải lấy làm mừng ấy chứ. Nằm xà lim là cực kỳ hại cho sức khỏe.
Tôi thở dài.
– Chẳng biết bao giờ tôi mới ra khỏi xà lim…
Thành nhún vai:
– Họ xử sớm thì ra sớm. Họ xử muộn thì còn phải nằm… Một năm, hai năm không chừng.
– Nếu họ không xử thì sao? – tôi nhỏm dậy.
– Sao lại không xử?
Ngần ngừ một lát, tôi nói:
– Thế mà họ không xử chúng tôi đấy.
Ðến lượt Thành ngạc nhiên:
– Bậy!
– Chấp pháp nói với tôi như vậy.
– Cậu là cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp thì phải xử chứ, nhất định thế. – anh nói bằng giọng quả quyết – Có một chỉ thị của Ðảng nói về việc này rồi, rằng lệnh tập trung cải tạo không được áp dụng cho cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng Tám bốn mươi nhăm và cán bộ kháng chiến chống Pháp.
Tôi nhớ ra rồi. Chỉ thị đó tôi có đọc. Anh Hoàng Nguyên Kỳ thỉnh thoảng cho tôi xem một số chỉ thị và nghị quyết mới của Ðảng, trong đó có một chỉ thị của Ban Bí thư về tập trung cải tạo. Lúc đó tôi không chú ý.
– Họ nói vụ của chúng tôi nằm trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ, tức là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nội bộ Ðảng, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế…
Thành cúi đầu suy nghĩ:
– Họ nói thế à? Thế thì không lo. Nhưng… cũng chẳng biết được nó là thế nào, rất có thể vì thế mà nó lại dằng dai cũng nên… Vụ án của cậu khó hiểu… Cậu bị bỏ tù hẳn hoi, sao lại gọi là mâu thuẫn nội bộ?
– Thì thế mới lạ!
Tôi quyết định nói cho Thành nghe những nét chính của vụ án chúng tôi. Tại sao lại không nói nhỉ? Tại sao lại phải nghe lời chúng nó để giấu giếm cho chúng nó cái mà chúng nó giấu giếm?
– Thế ra cậu bị cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang. Và cả ông cụ cậu nữa?
Tôi gật đầu.
– Hồi mới vào chắc cậu nghĩ tôi là chỉ điểm?
– Chẳng có sở cứ nào để nghĩ như vậy. Nhưng vẫn phải cảnh giác. Anh không trách tôi chứ?
Anh buồn rầu:
– Có gì mà trách. Cảnh giác là đúng thôi.
– Họ không cho anh biết tôi là ai?
Tôi thấy một chút lưỡng lự, rất nhỏ, trong khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời.
Tên tù binh Mỹ đã ngủ yên. Hoặc đã chết. Tôi không nghe thấy bất cứ tiếng động nào từ phía xà lim của y nữa.
(1) Cứu tôi với! Cứu tôi với! (tiếng Anh).
(2) Xin chào ông đại úy! Ông vẫn được mạnh giỏi đấy chứ? (tiếng Pháp).
(3) G. Boudarel (tên Việt là Ðại Ðồng) sau trở về Pháp, giảng dạy tại trường đại học Diderot (Paris). Cho tới khi tôi viết những dòng này cuộc chiến ở Ðông Dương đối với anh vẫn chưa chấm dứt. Anh bị những cựu tù binh Pháp còn cay cú với cuộc chiến tranh Ðông Dương đã qua đòi đưa ra tòa vì tội phản quốc. Ðiều đáng ngạc nhiên là nhà cầm quyền Hà Nội không hề quan tâm tới số phận người chiến sĩ đã chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam.
(4) Tôi kể tên mấy người quen: Chiến Sĩ (Ðức), G. Boudarel, A. Clavier (Pháp), Targo (Tây-ban-nha). Chiến Sĩ sau chết ở Ðức, G. Boudarel tôi còn gặp ở Paris năm 1996. Không rõ số phận những người khác ra sao.
(5) Các quan tòa Việt Nam hồi này phần nhiều không có chuyên môn. Họ được rút từ các ngành khác, được dự những khóa huấn luyện cấp tốc để trở thành quan tòa. Ngành tư pháp nói chung ở trong tình cảnh tội nghiệp. Do ảnh hưởng của sự sợ hãi nguyên tắc tam quyền phân lập, Ðảng luôn dè chừng ngành này.
(6) Quà gia đình được phép gửi cho tù, ở miền Bắc gọi là tiếp tế.
(7) Những đợt tinh giản biên chế diễn ra thường xuyên trong bộ máy nhà nước mỗi ngày một thêm cồng kềnh. Trong tinh giản biên chế những người xin ra ngoài thường là những người tài năng, không cần bám vào bộ máy nhà nước. Ông Phạm Văn Ðồng ví tình hình này như việc đập lúa, những hạt mẩy nhất bắn ra đầu tiên, những hạt lép thì bám rất dai.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:16:50 GMT -6
Chương 24
Tôi bị cả Huỳnh Ngự, cả Hoàng, bỏ quên suốt tuần lễ cuối năm âm lịch.
Thành rầu rĩ. Anh nhớ vợ nhớ con. Ðã lâu không nhận được thư nhà, anh lo lắng, không hiểu có chuyện gì xảy ra cho cái gia đình bé nhỏ của anh, nó đang phải chịu những cơn sóng gió nào? Mà sóng gió thì bao giờ cũng sẵn cho những gia đình bất hạnh có người thân ở tù.
Thành buồn làm tôi buồn lây. Gia đình Thành gặp khó khăn một thì gia đình tôi ắt khó khăn mười. Vợ tôi sẽ gặp nhiều gian nan lắm đây, gian nan như thế nào tôi không hình dung được, nhưng đó là điều nhất thiết sẽ xảy ra, không thể không xảy ra(1).
Không khí Tết luồn vào tận trong các xà lim. Tết đối với người Việt ở nơi nào cũng vẫn là Tết, cho dù họ đang ở dưới đáy vực cuộc đời. Thông thường, vào những ngày giáp Tết, ở xà lim hay ở trại chung cũng vậy, người tù nhận được “quả tắc đậm”, nghĩa là quà tiếp tế lớn hơn, nhiều thứ hơn so với trong những lần tiếp tế bình thường. Trong ngày Tết, đối với tù người ta khoan dung hơn, độ lượng hơn. Tù kỷ luật được tha cùm, ai bị cắt tiếp tế nay được phép nhận trở lại. Tết mà!
Người tù xà lim thiếu thốn đủ thứ, thèm khát đủ thứ, cái gì đối với anh ta cũng quý, cũng là cái mơ ước, thành thử biết gia đình mình chẳng sung túc gì anh ta vẫn cứ ngóng đợi tiếp tế như thường. Tiếp tế trong dịp Tết lại càng quan trọng, bởi vì hơn mọi đợt tiếp tế bình thường nó chứng tỏ lòng thương nhớ của người bên ngoài. Lòng người tù dịu đi khi ôm bọc tiếp tế trong tay, anh ta xúc động ăn những món ngon lành, hợp khẩu vị do mẹ mình, vợ mình, con mình nấu cho, anh ta sung sướng thấy mình không bị bỏ rơi.
Khu xà lim chúng tôi nhộn nhịp hẳn lên. Nói nhộn nhịp là nói phóng đại lên cho vui, chứ nó là cái sự nhộn nhịp không ồn ào, cảm thấy được chứ không nghe thấy được. Cái khác ngày thường là ở chỗ chốc chốc lại có cửa mở ra, đóng vào, nhát nhát lại có tiếng chân người rậm rịch đi về trong yên lặng tịch mịch muôn thuở của nhà mồ. Ðó là tù đi gặp gia đình, đi lĩnh tiếp tế. Trong những ngày giáp Tết hiếm có trường hợp tù đi cung. Những người tù xà lim lợi dụng cán bộ quản giáo lơ là – ai mà chẳng bận bịu với gia đình mình khi năm hết Tết đến – làm hiệu cho nhau ở ô cửa kiểm tra, thậm chí thậm thụt gọi với sang nhau, hỏi thăm nhau vài câu. Vẳng tới tận xà lim tiếng dao thớt rộn ràng.
Tôi biết chắc sẽ chẳng nhận được quà gia đình, kể cả thư. Tôi là người mất tích mà. Gia đình tôi chắc chắn không được báo tin tôi ở đâu.
Cuối cùng Thành rồi cũng được gọi ra. Loáng sau anh đã về, lỉnh kỉnh gói bọc.
Mặt hầm hầm, Thành quăng cả đống lên phản.
– Sao thế?
– Chúng nó cho nhận tiếp tế, nhưng không cho gặp gia đình.
Lần đầu tiên anh gọi công an bằng chúng nó.
– Mọi khi anh vẫn được gặp mà.
– Lần này không.
– Lý do?
– Chúng nó chẳng lý do lý trấu gì hết. Không cho là không cho.
– Ít nhất thì chúng nó cũng phải cho biết vì sao chứ. Anh có bị kỷ luật gì đâu?
– Chúng nó không giải thích.
Thành nằm vật ra, tay vắt trên trán.
Tôi đành phải thu dọn đồ tiếp tế cho anh. Bọn mất dạy. Cái bánh mì bị bẻ thành nhiều mẩu. Thịt kho tàu đổ lẫn với ruốc. Kẹo nhiều, chúng không bóc hết, chỉ bóc một số ngẫu nhiên. Những cái kẹo không còn giấy bọc nhơm nhớp dính vào nhau. Cứ nghĩ đến những bàn tay nhơ bẩn đã lục lọi mà tởm.
Ðêm, Thành không ngủ. Tôi cũng thao thức. Khi tôi nói có lẽ do tôi ở cùng anh cho nên chúng khám kỹ, lại không cho anh gặp gia đình, thì Thành im lặng hồi lâu.
– Ðừng nghĩ lẩm cẩm. – anh gạt đi – Tôi có được chọn người ở cùng đâu. Cậu cũng vậy. Chúng nó cho tôi ở cùng cậu chứ không ở cùng một tên cướp của giết người là tôi đã phải cảm ơn chúng nó rồi.
Chiều 30 Tết, tưởng không còn ai được gọi ra nữa, tôi đang ngồi đánh cờ với Thành thì cửa xịch mở, Sứ giả hòa bình ngoắc ngoắc tay gọi tôi ra đi cung.
Trời rét. Xoa xoa hai tay vào nhau, người cóm róm để chống lại cái lạnh cắt da ở miền Bắc Huỳnh Ngự run rẩy đón tôi ở cửa. Trong bộ dạ đen Tôn Trung-sơn làm cho nước da đã tái càng thêm tái, trông y giống một công chức nghèo trong những phim nói về thời kỳ tiền cách mạng Trung Quốc.
– Ở trỏng ra sao, đủ ấm chớ? Bữa ni rét dữ, hè?- y vui vẻ và run rẩy hỏi tôi thay lời chào.
– Cảm ơn, tôi chịu được. – tôi đáp, lịch sự vừa đủ, không lạnh nhạt mà cũng chẳng nhiệt tình.
Chúng tôi lẳng lặng ngồi đối diện trong tuần trà. Trời rét, uống trà nóng thật đã. Tôi bắt gặp trong tôi nỗi thèm muốn thật đơn sơ, thật khiêm tốn – được nhàn tản uống trà như thế này mỗi ngày.
– Bữa ni tui gọi anh ra là để thay mặt cơ quan chúc Tết anh. – yên vị rồi, Huỳnh Ngự cất giọng trịnh trọng – Chúc anh chi bây chừ, hỉ? Hè hè, tôi chúc anh cải tạo tốt để mau chóng trở về trong lòng Ðảng…
Nghe đến cải tạo tốt tôi đã sôi máu, nhấp nhổm định phản bác. Huỳnh Ngự vội xòe bàn tay gày guộc ra ngăn lại:
– Tôi nói thế có đúng không: mỗi chúng ta, hàng ngày, hàng giờ phải tự cải tạo mình để theo kịp bước tiến vũ bão của cách mạng, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng…
Xem ra y cũng vụng chèo khéo chống chẳng kém gì tôi.
Y rút bao Thăng Long, mời tôi một điếu. Tết có khác.
– Nhân dịp đầu Năm Mới cơ quan gởi cho anh chút quà mừng Xuân.
Cơ quan gửi quà cho tôi ư? Anh em tự động hay công an gợi ý? Và người ta cho tôi nhận?
Huỳnh Ngự lúi húi lấy quà Tết đặt lên bàn, ngay trước mặt tôi – bánh chưng, hộp mứt, gói kẹo… Lúc ấy tôi mới để ý – đàng sau bàn làm việc là một ghế ngựa, trên đó xếp hàng chồng quà khác, giống hệt phần quà cho tôi. Không phải quà của cơ quan tôi rồi.
– Anh em trong cơ quan chẳng có gì hơn đâu – Huỳnh Ngự nói bằng giọng phân trần – tụi tui cũng như anh thôi, mỗi người một bánh chưng, một hộp mứt, một gói thuốc, một gói trà…
Vào những năm ấy tiêu chuẩn Tết cơ quan lo cho cán bộ, công nhân viên cũng đến thế là cùng. Mà ấy là cơ quan Trung ương, chứ cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện tiêu chuẩn Tết còn thanh đạm hơn nhiều.
Có nên nhận hay không, tôi nghĩ?
Không thấy Thành nói tới lệ cho tù quà Tết. Lại đặc biệt rồi. Các anh là cán bộ mắc sai lầm, Ðảng bao giờ cũng nhớ tới công lao của các anh, Ðảng bao giờ cũng phân biệt các anh với các loại tội phạm khác – họ vẫn nhai nhải như thế. Hãy yên tâm mà ở tù, để được xúc động trước tấm lòng ưu ái Ðảng dành cho, tôi cay đắng bổ xung.
Tôi quyết định nhận quà. Những thứ này đâu phải của họ, của nhân dân cả, tội gì không lấy. Tôi không lấy, Huỳnh Ngự sẽ lấy, hoặc đàn em y sẽ lấy. Tôi đã dùng quá nhiều đồ tiếp tế của Thành. Có gì gia đình gửi vào anh cũng xẻ cho tôi. Tôi có một chút góp vào vẫn hơn.
– Tôi xin cảm ơn cơ quan Công an đã cho quà…
– Không, không phải quà của cơ quan Công an. – Huỳnh Ngự bối rối cải chính – Ðây là quà của Ban Tổ chức Trung Ương.
– Thế thì tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức Trung Ương.
– Anh không chúc lại à?
– Có chứ. – tôi lạnh lùng – Tôi chúc Ban Tổ chức Trung Ương mau chóng xem xét và giải quyết vụ án của chúng tôi một cách quang minh, chính đại, cho hợp pháp, hợp hiến… Ít nhất thì cũng đúng với tinh thần và lời văn những gì tôi đã được nghe phổ biến.
Mặt Huỳnh Ngự đanh lại. Tôi không hiểu lúc ấy y đứng ở cương vị nào, người của Bộ Nội Vụ hay của Ban Tổ chức Trung Ương, hay của cả hai cùng một lúc?
Tôi về. Huỳnh Ngự giữ lại gói trà, nói trong xà lim không có nước sôi, tôi sẽ dùng sau, trong những lần ra làm việc.
Thành vui vẻ đón tôi:
– Có quà nhà gửi vào à?
Ðợi cho cửa xà lim đóng lại, tôi mới trả lời:
– Quà nhà đâu. Họ cho đấy.
– Ai? Ai cho?
Tôi kể cho anh nghe chuyện Ban tổ chức Trung ương gửi cho chúng tôi quà Tết.
Chúng tôi ăn một bữa vui vẻ. Trong xà lim không thể để dành thức ăn. Chuột xà lim rất hỗn. Thành tỉnh thức, một tiếng động nhẹ đủ làm anh bật dậy, thế mà có đêm anh mới ngủ quên một lát chuột đã mò lên cắn thủng cái áo bông anh bọc gói bánh quy.
Trong nhà tù, chuột là một thứ cư dân hết sức đáng ghét. Chúng chẳng nể ai.
Có trải qua nhà tù tôi mới thấy mình cần phải thay đổi cách nhìn đối với các sinh vật. Chẳng hạn, chuột không ngu một chút nào như ta thường nghĩ, tôi dám đánh cuộc như vậy.
Tôi xin kể chuyện này làm thí dụ. Xà lim Hỏa Lò kín lắm, gió vào còn khó, nhưng chuột thì lại ra vào thoải mái. Lối vào của chúng là lỗ thoát nước ở chân tường. Tù xà lim được phát mỗi người một bô, nhưng người ta lười tè luôn vào lỗ ấy. Người sạch tiểu xong thì dội nước (nếu anh ta có nước trữ), người bẩn thì không. Thành kể khi anh mới bị đưa vào phòng này, mặc dầu nó đã được quét dọn, mùi khai thối vẫn nồng nặc, đêm không ngủ được. Anh phải cọ rửa nhiều lần phòng mới được như bây giờ.
Trong số chuột quen thói mò vào xà lim, chúng tôi căm thù nhất con chuột già.
Những người tù lâu năm nói rằng chuột Hỏa Lò chưa là cái gì. Chuột ở nhiều trại khác còn tệ hơn nhiều.
Mấy ngày Tết là mấy ngày chúng tôi được ăn no. Suất cơm ngày thường ăn vèo cái đã hết. Suất ăn ngày Tết có buồng còn để thừa. Trong những ngày đầu tiên rơi vào đây, tôi không thấy đói, nhưng sau đó chừng một tháng thì đói không chịu được. Thành nói khi mới vào người tù không thấy đói vì hai lý do: thứ nhất, nỗi lo lắng cho số phận làm tê liệt mọi cảm giác; thứ hai, trong người còn một số năng lượng dự trữ. Trong tôi lực lượng dự trữ chắc cũng khá, bắt đầu từ tháng thứ hai trở đi tôi mới thấy cái dạ dày luôn nhắc tôi nhớ đến nó.
Trong cái chuồng chật hẹp người tù không thể kiếm nổi bất cứ một thứ gì khả dĩ bỏ bụng, cho dù bản năng kiếm mồi chưa thui chột. May cho tôi, đúng vào lúc ruột gan cồn cào nhất Thành lại giở kho thức ăn dự phòng ra rủ tôi cùng ăn, khi cái bánh quy, khi mẩu đường phên. Thành đúng là thuyền trưởng gang thép của con tàu mắc cạn trên hoang đảo – anh chỉ tự cho phép mình dùng chút một trong số lương thực ít ỏi mà anh có, hào phóng chia sẻ cùng tôi. Tuy nhiên, đề phòng tôi không chống nổi sự cám dỗ, anh cất nó rất kỹ, tận trong cùng bọc quần áo, thậm chí khi bất thình lình bị gọi đi cung anh còn kín đáo đánh dấu đồ đạc. Sau thấy tôi là một thủy thủ có kỷ luật, anh mới thôi dè chừng. Tôi buồn vì chuyện đó, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy anh đúng. Trong xà lim con người đánh mất mình như bỡn. Thành từng ở chung với một anh chàng cán bộ cấp bậc không đến nỗi xoàng, nhưng ăn vụng như chảo chớp.
Chẳng cứ tù mới đói. Chính sách kiểm soát dạ dày của người dân là một chính sách nhất quán của các triều đại tổng bí thư mà tôi sống qua. Dân no thì hỗng, dân đói dễ trị. Cho nên, người dân bao giờ cũng phụ thuộc họ bởi nhiều sợi dây tam cố, mà sợi dây chủ yếu trong giai đoạn đó là chính sách lương thực, thể hiện rõ nhất trong phiếu gạo. Người nông dân làm ra thóc gạo, được bao nhiêu phải bán cho Nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ xong có thừa chút đỉnh đem bán ra ngoài cũng phải bán chui, bởi vì như thế là vi phạm chính sách lương thực.
Lớp cán bộ ở thành phố sống trông vào phiếu gạo. Nhà thơ Quang Dũng(2) to lớn gấp đôi tôi, chỉ được hưởng phiếu gạo 13,5kg/tháng, trong khi tôi còn được phiếu 15kg, tiêu chuẩn phóng viên. Nói tóm lại, tác giả những bài làm nức lòng quân sĩ một thời chẳng được ưu đãi gì hết. Anh than thở: “Lắm bữa mình ngon miệng, bà vợ thương quá, cứ xới cho liên chi hồ điệp, mình thì cứ hồn nhiên xơi mãi, chẳng biết là mấy bát. Sực nhớ ra, mới vội dừng lại. Chao ôi, nhìn các con mà thẹn. Cứ như thể mình ăn thâm vào phần chúng nó vậy”. Anh gặp may trong một lần đi thâm nhập thực tế với mấy nhà lãnh đạo Tổng cục lương thực, vào năm 1960 hoặc 1961. Trong một bữa chiêu đãi, thấy anh làm liền tù tì mười bát mà vẫn còn thòm thèm, ông cán bộ Tổng cục mới hỏi anh ăn được như vậy thì tiêu chuẩn anh bao nhiêu. Khi biết Quang Dũng chỉ có 13,5kg, ông thương tình, ra lệnh đặc biệt cho anh được đổi sang phiếu 21kg. Cho anh tiêu chuẩn cao hơn nữa ông không có quyền. Quang Dũng kể chuyện này cho tôi nghe, cười hì hì: “Bình thường mình cũng chẳng ăn nhiều đến thế đâu, ăn ít quen dạ rồi, nhưng hôm đó phải ra sức biểu diễn một đường hào hùng cho các vị thấy. Mới được cái phiếu 21 ký ấy chứ”. Tôi hỏi nếu thả cửa anh ăn được bao nhiêu bát, anh nói cái đó còn tùy thức ăn nhiều hay ít, ngon hay không ngon, và ai là khổ chủ dám liều mạng thết anh một bữa ăn mặc sức như thế.
Dù có thể ăn no trong mấy ngày Tết Thành vẫn cương quyết hạn chế cả hai: “Ăn ở đây mà bội thực còn khổ nữa. Không thể “Báo cáo ông quản giáo, cho tôi xin thuốc tiêu!”. Họ không cho thì chớ, còn nhiếc móc cho đã đời, vuốt mặt không kịp đấy”. Trong mấy ngày đầu năm đã xảy ra chuyện đúng như vậy. Chúng tôi nằm dài trên phản nghe tiếng quản giáo Hách sang sảng dạy bảo đám tù khốn khổ chỉ vì tội hạnh phúc đến với họ quá dồn dập và họ không chống cự nổi sự cám dỗ quá mạnh mẽ. Tiếng người nói to trong xà lim im ắng âm âm như tiếng cha xứ giảng đạo trên tòa cao nơi giáo đường.
Chúng tôi choàng tỉnh giữa đêm khuya vì tiếng loa quá lớn. Vang vang giữa những trào sóng giao thừa là tiếng phát thanh viên đọc thơ chúc Tết. Ðã thành lệ, năm nào Tết đến đài Tiếng nói Việt Nam cũng truyền đi thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn nhớ Tết năm trước gia đình chúng tôi quây quần bên ban thờ tổ tiên, thoảng trong khói pháo giao thừa có mùi hoa thủy tiên, hoa huệ, cha tôi lầm rầm khấn khứa, mẹ tôi đứng sau, sau nữa là chúng tôi, bên ngoài nhà chúng tôi là cả một Hà Nội râm ran tiếng pháo, tiếng quốc thiều, giọng sang sảng của người đứng đầu cả nước bay trong sóng điện.
Tết năm nay gia đình tôi tan tác. Cha tôi đêm nay nằm ở xà lim nào, trong cơn đau không người chăm sóc? Mẹ tôi chắc đang lặng lẽ chảy nước mắt thương chồng thương con. Còn cái gia đình nhỏ của tôi nữa, giờ này chắc vợ tôi đang ôm hai đứa nhỏ trong lòng, đang sụt sùi khóc cho đời mình và cho hai đứa con còn nhỏ đã mất cha?
Nhờ Ðảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn sự vật sáng rõ đến thế. Tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bề ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.
Cũng nhờ Ðảng tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Ðức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ để tìm hiểu ngọn nguồn?
Trước khi bị bắt, tôi có gặp ông Hoàng Quốc Thịnh, bộ trưởng Bộ Nội thương. Ông Thịnh kể mới đây ông vào Chủ tịch phủ báo cáo với ông Hồ Chí Minh về công tác thương nghiệp. Ông hỏi ông Hồ chuyện cha tôi vì sao bị bắt thì ông Hồ ngơ ngác: “Tại sao lại bắt chú Huỳnh? Chú ấy làm chi mà bắt?”. Trong tình bạn với cha tôi, Hoàng Quốc Thịnh là người chung thủy. Ông im lặng, như mọi người hồi đó đều phải im lặng trước Lê Ðức Thọ, nhưng từng hoạt động với cha tôi quá lâu, từng ở tù cùng cha tôi, ông không thể tin những lời bịa đặt của Thọ. Vậy là trước đó ông Hồ không biết cha tôi bị bắt? Hay ông biết mà giả vờ không biết? Giả thử ông không biết thật thì nghe ông Hoàng Quốc Thịnh nói rồi ông phải biết chứ. Biết rồi, nhưng ông cũng có làm gì đâu. Sự thật ở chỗ nào? Ông Hồ bị tước bỏ mọi quyền hành hay ông còn quyền hành nhưng ông làm ngơ?
Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy ngẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm, có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải.
Chúng tôi sùng bái ông bởi đạo đức vô song của ông. Chúng tôi coi ông là người tốt nhất trong mọi người. Ông là người duy nhất rũ sạch được mọi toan tính cá nhân để chỉ sống cho Tổ quốc, cho đồng bào. Không gia đình, không tài sản, không công danh.
Nhưng không phải thế.
Người ta ca ngợi ông Hồ ông đi sâu đi sát, việc nhỏ việc lớn đều được ông để mắt đến. Vậy những gì đã xảy ra dưới thời ông trị vì? Ðã có bài học giảm tô giảm tức, tại sao còn có sai lầm Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức(3)? Chẳng lẽ người thông minh như ông lại không biết vụ Nhân văn – Giai phẩm là do Trường Chinh dựng nên để chạy tội, bức hại nhiều văn nghệ sĩ có tâm huyết với dân tộc, từng theo ông suốt cuộc kháng chiến chống Pháp? Tôi nghĩ ông phải biết. Cha tôi kể ông rất chăm đọc báo chí hàng ngày, ai đến làm việc với ông cũng được ông hỏi han đủ chuyện, chẳng lẽ ông không biết gì về việc vừa xảy ra? Tôi nhớ một hôm cha tôi đi gặp ông trở về, bảo tôi: “Con vừa viết cái gì mà hôm nay bố đến chơi, Ông Cụ kêu “thằng Hiên viết truyện trên tờ Văn Nghệ, nó định nói cái chi tôi không hiểu”. Thì ra đó là ông Hồ đã đọc truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(4) của tôi mà cha tôi chưa đọc. Một việc cỏn con như thế ông còn biết nữa là.
Tôi từng là một trong những đứa cháu gần gụi của ông trong những năm đầu cách mạng. Những ngày ông phải lẩn trốn bọn Tàu Tưởng, luôn thay đổi chỗ ở, ông từng ngủ ở nhà tôi, hai bác cháu chung giường. Mẹ tôi lo lắng cho sức khoẻ ông, bà thường làm các món tẩm bổ cho ông ăn khi ông mới từ chiến khu về Hà Nội, cha tôi phải xách cặp lồng vào Bắc bộ phủ hàng ngày cho ông, chẳng lẽ ông không nhớ?
Ai cũng biết nếu ông nói “không được” thì chắc chắn bọn Duẩn – Thọ sẽ phải chùn bước trước việc bắt bớ hàng loạt người cộng sản vô tội.
Nhưng ông im lặng.
Bây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh(5). Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta. Than ôi, lũ dân thường chúng ta làm gì có những giấc mơ như thế. Chúng ta chỉ mơ thấy cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi ngựa. Sang lắm thì cưỡi bình bịch là cùng. Lẽ ra tôi phải hiểu sớm hơn mới phải: bác Hồ của tôi từ lúc đang phải sống lẩn lút để làm cách mạng đã ôm ấp mộng ước làm vua. Ông có chí lớn để thực hiện nó. Và ông đã thực hiện được.
Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.
Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người.
Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père Lachaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc được, ông trả lời: “Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ”. Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký “Tháng Tám cờ bay”, được báo Văn Nghệ in phần đầu trong năm 1994.
Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu: ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép. Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra. Có lẽ vì thế mà sau tôi thấy ông không bực bội với tôi.
Một thời gian dài, bằng nhiều thí dụ cụ thể trong cách xử thế của ông Hồ, người ta không ngớt tán tụng tính cách bạt thiệp của ông, nghệ thuật ứng xử tuyệt luân của ông, để rồi, trong khi học tập ông họ luyện cho mình thói quen đạo đức giả lúc nào không biết.
Tôi được đọc khá nhiều về Stalin, Mao Trạch-đông, Kim Nhật-thành, Ceaucescu… Mới thấy chúng ta còn may lắm – Hồ Chí Minh của ta hơn hẳn họ về lòng nhân ái. Nếu không phải ông mà là họ, chắc chắn tấn bi kịch xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã lớn hơn nhiều. Và riêng tôi, hẳn đã đi tù sớm hơn, hoặc đã chết trong tù, nếu như không bị bắn tắp lự. Tôi cho rằng sự biết ơn người có quyền giết mà không giết mình cũng là cái nên có trong lòng chúng ta.
Cuộc chia tay với thần tượng không nhẹ nhàng gì. Cần phải là người trong cuộc mới hiểu được chuyện đó. Cái giá tôi phải trả cho cuộc chia tay đắt lắm.
Ông Hồ cũng có bi kịch của chính ông. Tôi hi vọng rồi đây sẽ có người viết về những bi kịch đó. Những bi kịch xảy ra khi ông còn trẻ, ở xa tổ quốc. Những bi kịch khi ông về già, ngay trên đất đai quê hương. Tôi rất muốn tin những gì người ta đã viết về ông là đúng. Ðó là những mặt tốt của ông. Chúng có thật. Có nhiều. Ở đây tôi chỉ kể ra những gì tôi nhận xét trong mối quan hệ giữa ông và tôi, những ý nghĩ của riêng tôi về ông trong khi rà soát lại mối quan hệ với chủ thuyết ông mang về từ nước ngoài làm quà tặng cho dân tộc, trong đó có phần dành cho tôi.
Ông chỉ là một con người, như mọi người, với những cái tốt và những cái xấu, những mặt mạnh và những mặt yếu, mà mỗi cá thể người phải có. Chính chúng ta sai khi nhìn ông như thánh nhân.
Tôi nhớ năm 1946, tôi thường ra vào Bắc bộ phủ và được gặp ông Hồ Chí Minh nhiều nhất, do cha tôi làm việc và ở sát với ông. Ðó là năm sóng gió nhất của chính quyền cách mạng. Nạn đói do thực dân Pháp và phát-xít Nhật gây ra(6) giết chết hơn hai triệu người để lại những hậu quả nặng nề. Ngoài Bắc quân Tưởng Giới-thạch tràn sang, trong Nam quân Anh-ấn kéo vào, theo chân họ là quân đội Pháp lăm le chiếm lại Ðông Dương màu mỡ(7). Những người Quốc dân đảng biểu tình, mít tinh, phát truyền đơn, bắc loa điện ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày chửi Hồ Chí Minh bán nước. Họ giết các chiến sĩ tự vệ thành, cả dân lành, rồi chôn trong một trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Họ bắt cóc rồi thủ tiêu ông Trần Ðình Long, ông Nguyễn Văn Phúc, biệt hiệu Phúc ghẻ, cả hai là bạn tù Sơn La của cha tôi. Tôi cũng nghe nói có những vụ Việt Minh giết người của Quốc dân đảng, tuy bản thân chưa được thấy vụ nào. Nhưng tôi tin tất cả những sự kiện đó là có thật, cũng như sự kiện này là có thật: chính những người cộng sản đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tháng Tám chứ không phải là một sự tranh công của các đảng phái khác như có một số tác gia đã viết.
Trong những ngày nước sôi lửa bỏng như thế, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm tĩnh ngồi trong phòng làm việc trên tầng hai Bắc bộ phủ. Ông như một thuyền trưởng can trường, bình tĩnh chỉ huy con tàu trong cơn bão.
Tôi còn nhớ cha tôi lo lắng thế nào khi ông Hồ Chí Minh bị Lư Hán và Tiêu Văn giữ lại trong lần ông thân tới hành dinh quân Tưởng để đàm phán. Nhưng trở về Bắc bộ phủ Hồ Chí Minh vẫn là Hồ Chí Minh – tự tin và ung dung, như không hề có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng ông ló đầu ra ngoài hành lang – tôi hay quanh quẩn ở đấy, gọi tôi vào, giao cho tôi mấy mảnh giấy nhỏ để tôi chạy xuống đưa cho các chú các bác ở tầng dưới, hoặc đang chờ ở phòng cảnh vệ. Từ trong phòng làm việc của ông, bao giờ cũng tối bởi sàn lim và những đồ gỗ sẫm màu, tôi nghe tiếng bánh xe hơi chạy rào rào trên sỏi. Hồ Chí Minh bỏ bàn viết chạy đến bên cửa sổ. Từ tay ông bay ra một mẩu giấy nhỏ. Nó đung đưa trong gió làm cho người đứng dưới vồ trượt nhiều lần. Vồ được, người đó vội vã đọc lướt qua, rồi nhảy lên xe, Chiếc xe lại rào rào phóng thẳng ra cổng. Ðó là ông ra lệnh chuẩn bị những kho muối cho cuộc kháng chiến chưa biết chừng xảy ra lúc nào. Tôi nhớ rõ hình ảnh ấy và tôi nghĩ nó sẽ đắt trong một bộ phim nói về năm 1946 hào hùng.
Lúc đó ông Hồ Chí Minh còn là Bác Hồ tôn kính, Bác Hồ yêu mến của tôi.
Ông mở đầu pho sử hoành tráng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại chế độ thuộc địa toàn cầu, với tư cách một phong trào, chứ không phải cuộc đấu tranh của riêng một Việt Nam. Trận thắng Ðiện Biên phủ đã thổi vào lòng các dân tộc bị trị niềm phấn khích chưa từng có, mở ra cao trào đấu tranh cho độc lập dân tộc trên khắp thế giới, thúc đẩy sự chấm dứt chế độ thực dân, làm tan rã hệ thống thuộc địa. Thế giới biết tên ông cùng với tên đất nước nhỏ bé dám dùng gậy tầm vông chống lại vũ khí hiện đại để giành độc lập, tự do.
Tượng đài cho ông, với tư cách nhân vật lịch sử, đã được đúc.
Nhưng tôi buồn. Tôi còn tiếc nữa. Tôi đã quen nhìn ông không phải chỉ là chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là Bác Hồ của tôi.
Không buồn sao được khi nhìn lại tôi thấy trong tôi chỉ còn trơ trọi một niềm tôn trọng duy lý, một tình cảm lạnh lẽo đối với ông, như đối với một nhân vật lịch sử. Mà một thời ông đã từng có vị trí không nhỏ trong tim tôi.
(1) Ban tổ chức Trung ương không quên ra lệnh trấn áp các gia đình có người bị bắt trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”. Sau khi tôi bị bắt vài tháng, vợ tôi đang làm ở Viện quy hoạch thuộc Bộ kiến trúc bị chuyển công tác tới Ty kiến trúc Hà Sơn Bình. Hàng ngày vợ tôi phải đạp xe 40 cây số đi về để trông nom ba con nhỏ. Các em tôi không được phép thi vào đại học, trừ một người được thi vào ngành thư viện do mẹ tôi đấu tranh rất dữ với Lê Ðức Thọ trong những năm sau này.
(2) (1921-1988) Nhà thơ quân đội thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với những bài thơ Tây Tiến, Ðôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây, Lính Râu Ria (Cô Hàng Cà Phê)…
(3) Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã Cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học.
(4) Báo Văn Nghệ, 1961.
(5) Hồ Chí Minh “Nhật Ký Trong Tù”.
(6) Vụ lúa 10.1944 ở miền Bắc bị tàn phá nặng nề vì đê vỡ. Trong khi đó Pháp và Nhật thi hành một chính sách thu mua tàn bạo (giá thị trường 200 đồng Ðông Dương một tấn lúa, chúng bắt dân bán với giá 25 đồng). Một số vùng bị Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh.
(7) Tháng 9.1945 tướng Dougles Gracey chỉ huy quân Anh-ấn kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến thứ 16 trở xuống phía Nam theo quy định của Hiệp ước Postdam (7.1945). Dougles Gracey đã lấy vũ khí tước được của Nhật trang bị cho 1.400 tù binh Pháp mới được thả ra và một đại đội thuộc trung đoàn thuộc địa số 5 (5è RIC) cộng với một số Pháp kiều hung hãn để bọn này tấn công cách mạng Việt Nam. Ngày 11.10.1945 ngoại trưởng Anh Ernest Bevin còn tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Ðông Dương (là điều hoàn toàn không được ghi trong Hiệp ước Postdam).
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:18:53 GMT -6
Chương 25
Tiếp theo là những đêm không ngủ. Cái loa công cộng, cách chúng tôi khá xa, mắc trong trại lính gác Hỏa Lò, theo gió đưa tới tai chúng tôi những tin tức đứt quãng, bập bõm, lúc được lúc mất, chen lẫn những khúc quân hành hùng tráng. Qua những con số không rõ, những địa danh lào phào, nhưng còn có thể đoán được, chúng tôi hiểu rằng ở miền Nam đang xảy ra những trận đánh lớn.
– Choảng nhau to ở miền Nam rồi! – Thành nói.
– Chắc thế.
– Ðang còn ngừng bắn mà?
– Ðiệu này mình vi phạm thỏa thuận ngừng bắn. – tôi nhận xét – Không phải Mỹ. Nếu là Mỹ, người ta chửi nhiều, chứ không hát nhiều.
– Miền Nam thế là mất đứt cái Tết.
– Còn phải nói! Miền Bắc cũng mất một nửa. Cho mít-tinh chào mừng.
Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi vẫn thấy rét run. Ðể có chỗ ngủ ấm, người tù xà lim phải lấy nhiệt thân mình sưởi cho cái phản xi-măng trước đã. Phải sưởi khá lâu nó mới ấm lên được, mà cũng chỉ ấm đúng bên dưới thân người thôi, hai bên sườn vẫn lạnh như băng.
Không ngủ được, Thành ngồi dậy hút thuốc lào. Khói thuốc tạo ra ảo giác nhờ nó hơi ấm không bay đi, hoặc nó ngăn được không khí lạnh từ ngoài vào.
Hỏa Lò không tham gia chiến tranh. Nó đứng sang một bên, duy trì sinh hoạt đều đặn của nó, dửng dưng như một kẻ vô can. Quản giáo đóng cửa mở cửa, lấy phạm đi cung. Chấp pháp tới giờ làm việc la hét, cật vấn như những viên chức được trả lương chỉ để quát nạt. Tôi nằm dài trên phản, nghĩ vẩn vơ. Chiến tranh đi bên ngoài những bức tường đá như người qua đường. Những hồi còi báo động báo yên là những tin tức duy nhất về một cuộc chiến đang xảy ra ở một nơi nào đó rất xa.
Những ý nghĩa lan man dẫn tôi tôi nhớ tới cuốn Nhật Ký Tây-Ban-Nha, một tác phẩm rất hay của nhà viết phóng sự Mikhail Koltsov(1). Tác giả của nó, nguyên tổng biên tập báo Pravda, một người cộng sản, vào một ngày đẹp trời bỗng nhiên trở thành kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một chiếc xe bịt bùng đến mang ông đi vào ban đêm, và thế là con người tuyệt vời nọ biến mất. Chỉ còn lại cuốn sách, đứa con tinh thần côi cút, nhân chứng của thời đại, kỷ niệm về người tạo ra nó.
Nhớ tới Nhật Ký Tây-Ban-Nha, tôi chợt phát hiện một điều thú vị. Thì ra trong cái sự cứng đầu của mình đối với bọn độc tài có cả ảnh hưởng của tiếng thét bất khuất “No passaran(2)” vang vọng từ Madrid xa xăm.
– Không biết năm nay vợ con mình ở nhà ăn Tết ra sao? – Thành tự hỏi – Hay là có tí tiêu chuẩn nào lại gửi vào cho mình hết?
Tôi nhớ hai đứa con tôi. Chúng ăn Tết ở nhà với bà nội bà ngoại chứ không ở nơi sơ tán. Vợ tôi thể nào cũng đưa các con về. Không biết cái sự giã nhau trong lúc tết nhất này có ảnh hưởng đến mấy ngày vui chơi của chúng không?
– Ðã thỏa thuận nghỉ Tết thì ăn Tết cái đã, Tết xong tiếp tục đánh nhau cũng được. Cho nó đàng hoàng. – tôi lầu bầu – Trong chiến tranh Tây-ban-nha, anh biết không, quân Cộng hòa và quân Phát-xít đánh nhau thậm chí còn có giờ giấc nữa kìa(3).
Thành gãi sồn sột. Mấy hôm nay ngày nào anh cũng truy lùng một con rệp tình nghi từ một xà lim khác bò qua mà không tìm ra.
– Ðánh nhau có giờ giấc là thế nào?
– Là thế này: từ sáng sớm hai bên nã đạn vào nhau chí tử, nhưng đến đúng ngọ là ngừng bắn, lính cả bên này lẫn bên kia bò ra khỏi chiến hào, phủi bụi, rồi đi đến một cái quán ăn nằm giữa tuyến lửa, ăn trưa và uống cà phê với nhau…
– Lại còn thế nữa?! Phịa!
– Thật mà. Có điều họ ngồi quay lưng lại với nhau, không bên nào thèm nói chuyện với bên nào…
Tôi kể cho Thành nghe những đoạn thú vị trong “Nhật ký Tây-ban-nha”. Anh thích nghe tôi kể chuyện, với vẻ mặt nửa tin nửa ngờ. Ðối với anh, nhà văn là thứ người chúa bịa chuyện, hay thì hay đấy, mà không tin được. Với tôi, anh gọi nửa đùa nửa thật: “Này, cậu nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm ơi!”
– Tôi có hỏi một ông người mình hồi ấy chiến đấu ở bên phe Cộng hòa, ông ấy bảo chuyện có thật(4) đấy, đúng như thế.
– Sao? Cậu bảo có cả người mình tham gia chiến tranh Tây-ban-nha kia à?
Thành trợn tròn mắt.
Tôi kể cho Thành nghe về ông ThọTây-ban-nha, về những Binh đoàn quốc tế. Thành khoái lắm.
– Ông ấy còn sống chứ?
– Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
– Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề – xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
– Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
– Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề – xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
Ông Thọ Tây-ban-nha sau cách mạng chẳng làm chức gì to. Cha tôi khuyên ông:
– Mày đừng nghe chúng nó xui dại mà nhận chức này chức nọ. Nước độc lập rồi, thế là hả dạ, mày biết nấu cơm tây, làm nghề ấy là hay nhất, không phải lo nghĩ.
Cha tôi hồi ấy đang làm vụ trưởng Vụ Lễ tân. Ông giới thiệu ông Thọ đi làm bếp cho sứ quán Cuba.
Ông Thọ Tây-ban-nha thường đến thăm cha tôi. Tôi nhớ có hôm ông đang ngồi uống trà với cha tôi thì phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đến chơi. Ông Thọ Tây-ban-nha nhấp nhổm định về. Cha tôi giữ lại: “Nó làm quan to kệ nó, mày với nó đồng chí, việc gì mà ngại”. Như mọi khách khác ông Lê Thanh Nghị đến nhà tôi phải bắt bảo vệ ngồi đợi ngoài xe, chính ông cũng phải tụt giày, đi chân đất vào phòng cha tôi mà ngồi trên sàn gạch men. Căn phòng này cha tôi lau sạch sẽ để khi trời nóng quá thì lăn ra cho mát. Ông phó thủ tướng ôm chầm lấy ông bếp, cả ba chuyện trò vui vẻ, cười vang nhà. Ông Thọ Tây-ban-nha hứng lên chạy xuống bếp tự tay nấu món ra-gu cho cả ba cùng ăn.
Ông Thọ Tây-ban-nha có cho tôi biết một chi tiết thú vị mà những nhà nghiên cứu đời hoạt động của ông Hồ Chí Minh chắc cũng muốn biết: trong ông Hồ Chí Minh con người quốc tế và con người quốc gia con người nào mạnh hơn? Hồi phe xã hội chủ nghĩa cường thịnh, người ta ra sức chứng minh ông Hồ theo chủ nghĩa quốc tế. Sau này người ta lại ra sức chứng minh ông Hồ là người quốc gia. Cho nên lời chứng của ông Thọ Tây-ban-nha có ý nghĩa lắm. Theo ông Thọ kể lại thì khi biết có người Việt Nam chiến đấu trong Binh đoàn quốc tế, ông Hồ nói: “Rõ việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng”.
Năm 1964, hoặc 1965 tôi không nhớ rõ, ông Thọ Tây-ban-nha đã thôi nấu bếp cho các sứ quán, đang làm gác kho cho Liên hợp dệt Nam Ðịnh thì được tổng thống Nam Tư Iosif Broz Tito(5) mời sang Belgrad dự cuộc họp mặt các cựu chiến binh Binh đoàn quốc tế. Nhận được giấy triệu tập của Ban tổ chức Trung ương ông dặn vợ: “Ðã nhiều năm Trung ương không nhắc gì tới tôi, nay lại có giấy gọi, lành thì ít dữ thì nhiều, nếu tôi không về thì
bà ráng nuôi con, đừng nghe người ta nói này nói nọ mà hiểu lầm. Tôi không chống cách mạng, không phải tờ-rốt-kít, không phải AB(6) gì ráo. Tôi sống trong sạch, chết cũng trong sạch”. Lê Ðức Thọ tiếp ông, căn dặn trước khi lên đường: “Sang bên ấy anh không được phát biểu chính trị. Câm như hến, nghe chưa? Ăn nói lăng nhăng thì coi chừng!”. Ông trở về, tôi hỏi ông chuyện Nam Tư, ông cười hiền lành: “Có chuyện quái gì mà kể! Tao sang bên ấy làm đúng như Lê Ðức Thọ ra lệnh, ai nói gì tao cũng chỉ nhe răng ra cười. Mới lại, có ai nói chính trị chính em gì đâu. Bạn bè lâu ngày gặp lại, ca hát ầm ầm, uống rượu lu bù, say khướt. Vui lắm!”
– Thế ông nhà báo Liên Xô về sau bị giết à? – Thành hỏi.
– Người ta không nói rõ. Ông ta bị bắt mang đi rồi chết trong tù. Mà không phải chỉ có ông ta. Nhiều người nhà văn nhà thơ bị giết trong thời kỳ đó(7).
– Tội nghiệp!
Thành nghe chuyện, ngồi như tượng, tư lự đặt tay lên cái cùm, vuốt ve nó một lát, rồi quay mặt vào tường làm thêm một điếu thuốc lào ngoài kế hoạch.
Tôi đã kể về cái cùm trong xà lim. Của đáng tội, cái cùm ở chỗ chúng tôi chỉ hiện diện như một vật trang trí nội thất. Ít khi nó được dùng đến, trừ ra trong các xà lim tử hình.
Tù tử hình chỉ được tháo cùm vài lần trong một ngày – một lần làm vệ sinh thân thể buổi sáng, hai lần khác cho ra lấy cơm, trả bát rếch. Có người không được tháo, nhà bếp phải mang cơm vào tận nơi. Khi bị cùm người tù chỉ có một tư thế nằm, hai chân bị kẹp chặt. Tiểu tiện, đại tiện đều ở trong tư thế đó.
Thành có bị cùm lần nào không tôi không rõ, anh không kể. Thành nói những người to béo vào tù khổ hơn những người gày còm nhiều. Trước hết là đói, người béo đói hơn người gày. Thứ hai, cùm chỉ có một cỡ, chân to quá thường bị nghẽn máu, sinh hoại thư, dễ bị cưa. Tôi đồ rằng anh đã được nếm thử.
Trong hồi ký của những người bị xử trí oan thời Stalin không thấy nói tới thứ này. Xiềng thì có. Mình mà bị cùm thì không biết sẽ giải quyết vấn đề đại tiểu tiện ra sao đây, tôi vẩn vơ nghĩ? Sau này, bị cùm rồi, có kinh nghiệm rồi, tôi mới thấy Thành nói tới cái chân là đúng. Cổ chân mà to thì khốn nạn lắm, chứ chuyện đại tiểu tiện khó khăn là cái không đáng kể.
Mãi tới mồng bốn Tết, tôi mới được Huỳnh Ngự gọi đi cung.
– Mấy bữa rầy anh có biết có chuyện gì đang xảy ra không? – Huỳnh Ngự vui vẻ đón tôi bằng câu hỏi.
– Không. Trong xà lim kín như bưng làm sao biết được việc ở bên ngoài.
Huỳnh Ngự nghi ngờ nhìn tôi:
– Tưởng các anh ở trỏng có nghe loa đấy chớ?
Tôi nói trong xà lim tôi có nghe thấy tiếng loa nhưng không rõ nó nói cái gì.
Y quẳng lên bàn cho tôi mấy tờ Nhân dân, trang nhất nào cũng đỏ lòe những hàng tít lớn.Những tờ báo nhàu nát, chứng tỏ chúng đã qua tay nhiều người. Tôi vồ lấy, đọc ngấu nghiến.
Mọi chuyện xảy ra ở miền Nam đúng như tôi và Thành hình dung. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, mà một đứa trẻ cũng hiểu do miền Bắc dựng nên, vu cho đối phương vi phạm thỏa thuận ngưng bắn nhân dịp Tết Nguyên đán để làm một vi phạm lớn hơn – mở một cuộc tổng tiến công trên toàn cõi. Những mỹ từ bóng lộn, tỏa sáng, ồn ào, tràn ngập từ bài xã luận kêu gọi thừa thắng xông lên cho tới những hàng tin giờ chót.
– Anh nghĩ ra răng, Ðảng ta lãnh đạo tuyệt vời chớ? – Huỳnh Ngự nheo mắt nhìn tôi, mặt ngời ngời phấn khích – Nói để anh hay, cứ đà này chỉ trong vài ngày nữa là ta nuốt tất, nuốt tất. Miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng.- Tôi rất vui mừng…- tôi nói.
– Anh vui là đúng. – Huỳnh Ngự nói – Chẳng lẽ anh lại buồn? Nhưng tui muốn hỏi nhận định của anh kìa?
Tôi nhún vai.
Huỳnh Ngự ghét tôi nhún vai lắm, y đã lưu ý tôi vài lần, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi đã ở tuổi không cần đến vú em. Huỳnh Ngự coi nhún vai chỉ có một ý khinh bỉ.
– Những chuyện lớn thế này nhận định của tôi phỏng có nghĩa gì? – tôi thờ ơ nói – Chẳng có ý nghĩa gì hết.
– Nhưng chừ anh tin ở tài lãnh đạo của Ðảng rồi chớ?
– Tại sao lại cứ phải hỏi đi hỏi lại tôi chuyện đó? Tin hay không tin là chuyện khác, không phải chuyện nhận định một hiện tượng hay một sự kiện cụ thể.
Huỳnh Ngự cười khục khục.
– Vậy mà thằng Hoàng Minh Chính lại không tin đó. Tui vừa làm việc với hắn ta xong, điên cả ruột. Vì vậy tôi mới hỏi anh coi anh nghĩ có giống hắn không.
– Anh Chính tin cái gì hay không tin cái gì là chuyện riêng của anh ấy, tôi không quan tâm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống trà. Ðó gói trà Tết của Ban Tổ chức Trung Ương cho tôi mà y giữ lại.
– Nói để anh hay: đợt tiến công và nổi dậy lần này, về thực chất, là tổng khởi nghĩa, còn đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ là tổng phản công. Anh đọc lại thơ chúc Tết của Bác đi. Ðó! Bác thiệt vĩ đại! Bác tính trước tất cả, thấy trước tất cả. Xuân này rõ ràng hơn hẳn mấy xuân qua…Ðúng vậy không nào? Ðúng quá đi chớ. Tiến lên, toàn thắng ắt về ta! Bác đã lệnh thì toàn quân, toàn dân cứ việc thi hành. Bác đúng là thánh, thánh sống. Mấy thằng tổng thống Mỹ chỉ đáng mút cu cho Bác(8) thôi. Anh có thấy thằng Chính hắn dốt không? Thắng đến như vậy mà hắn còn nói là đánh sớm, đánh bây chừ khi chuẩn bị chưa tốt, chưa hội đủ các điều kiện để giành toàn thắng, là manh động, là mất hết cơ sở gây dựng bao nhiêu lâu mới có trong địch hậu… Thối, thối lắm!
Thì ra là thế!
Tôi cũng nghĩ như Hoàng Minh Chính. Các điều kiện bên trong và bên ngoài đều chưa đủ chín muồi, theo chỗ chúng tôi biết. Mà chúng tôi biết không đến nỗi tồi. Quan tâm tới diễn biến của cuộc chiến, chúng tôi tiếp xúc với khá nhiều nguồn tài liệu, với nhiều người có trách nhiệm ở miền Bắc cũng như những người từ trong Nam ra.
Không rõ chủ tịch Hồ Chí Minh có bao nhiêu phần quyết định trong cuộc chiến được Huỳnh Ngự gọi là tổng phản công? Và lần này ông có được tham chiến với tư cách bộ óc sáng suốt của cách mạng Việt Nam không?
Ai cũng biết vai trò quyết định trong ván bài này là sự nôn nóng của cá nhân Lê Duẩn muốn giải phóng thật nhanh vùng đất mà trước 1954 Lê Duẩn lãnh đạo, giải phóng bằng bất cứ giá nào, dù có phải đốt sạch rặng Trường Sơn, như chính ông ta tuyên bố. Nhưng nói với Huỳnh Ngự làm gì? Nói với y, như các cụ ví, vạch đầu gối ra mà nói còn hơn!
Nhưng Huỳnh Ngự không dễ dàng buông tha. Trong sự hỏi cung y rất dai hoi. Y mà đã đặt ra câu hỏi thì y đòi bằng được câu trả lời.
– Tôi nghĩ khác. – đành trả lời cho qua chuyện – Tôi nghĩ đúng như cách dùng từ của Trung Ương trong các bài báo vừa đọc. Ðó là một đợt tổng tiến công và nổi dậy, không hơn, cũng không kém.
– Nghĩa là làm sao?
– Nghĩa là nếu đúng là tổng khởi nghĩa và tổng phản công(9)thì Ðảng đã nói tổng khởi nghĩa, tổng phản công, hà tất phải nói tổng tiến công và nổi dậy.
Huỳnh Ngự nóng mặt:
– Tui nói rồi: thực chất đó là tổng phản công! Lũ các anh đúng là một giuộc với nhau hết trọi. Ðảng nói vậy phải tin vậy chớ. Không phải vậy Ðảng nói vậy mần chi?
– Tôi đang ở đây. Bác thông cảm. Tôi không có nguồn tin nào khác. Tôi cũng không được nghe Ðảng chính thức tuyên bố. Còn về chuyện phổ biến miệng tôi đã có chút ít kinh nghiệm. Trước hết, cần phải coi lại xem cấp phổ biến cho mình là ai? Ðảng ủy? Ðảng đoàn bộ? Ðảng đoàn các cơ quan Trung Ương? Hay là Tuyên giáo Trung Ương? Tôi biết có những vụ người này người khác nhân danh Trung Ương nói việc này việc nọ, rồi sau Trung Ương lại phải cải chính, nói không phải quan điểm của Ðảng như thế đâu. Thành thử tốt nhất là cứ tin báo Nhân dân. Nó mới là cơ quan ngôn luận chính thức của Ðảng.
Câu nói ám chỉ y chả là cái gì làm Huỳnh Ngự tức giận:
– Anh cho rằng tui phổ biến cho anh sai?
– Không phải thế. Tôi chỉ muốn nói ta nên tin báo Nhân dân thì hơn thôi. Còn người nào không tin báo Nhân dân là tùy.
– Tui không nói không nên tin báo Ðảng.
– Tôi cũng không nói bác có ý ấy.
– Hừ, khi các anh không tin thì các anh đủ miệng lưỡi ngụy biện để che đậy sự thiếu lòng tin. Tại sao anh không dám nói huỵch toẹt ra như thằng Chính, có phải hơn không?
– Thì tôi nói huỵch toẹt ra đấy thôi, tôi có quanh co đâu. Ðây này, trước mặt tôi là quan điểm của Ðảng được in ra rành rành bằng giấy trắng mực đen, bác khuyên tôi tin quan điểm này hơn hay tin tôi quan điểm được phổ biến bằng miệng hơn? Xin lỗi, không phải tôi không tin bác. Nhưng bác cũng chỉ được nghe phổ biến thôi, cấp nào phổ biến tôi không rõ.
– Có nghĩa anh không tin những điều tui nói là quan điểm của Ðảng?
Tôi thở dài.
– Tôi nhắc lại: tôi không nói như vậy. Ta giả thử thế này: Ðảng khôn, chứ Ðảng không dại, trên báo chí chính thức Ðảng chỉ nói tổng tiến công và nổi dậy thôi, còn cái gì khác thì cho người đi phổ biến miệng. Rồi ra, nếu toàn thắng Ðảng sẽ bảo: đó là tổng phản công, Ðảng đã nói rồi, còn nếu không thắng được như ý muốn thì Ðảng bảo: đó chỉ là một đợt tổng tiến công và nổi dậy thôi, báo Ðảng đã viết rõ rành rành. Ðã gọi là một đợt tổng tiến công và nổi dậy có nghĩa là sau đợt này còn có đợt khác nữa…
Huỳnh Ngự nín lặng. Mặt y đần ra. Y chợt thấy trong câu nói của tôi có cái lý mà y chưa nghĩ tới. Hẳn y nghĩ cái lý đó có thể đúng, cho nên y không gầm thét với tôi như thường lệ, mà chỉ hầm hừ:
– Giỏi, anh giỏi. Chúng ta còn có dịp quay trở lại vấn đề này. Rồi anh sẽ thấy sự việc diễn biến ra sao, các anh đúng hay là tôi đúng?
Diễn biến của sự việc chứng tỏ Huỳnh Ngự sai.
Tôi không nói Ðảng sai, bởi vì tôi không rõ những nhà lãnh đạo hồi ấy tính toán thế nào? Người ta chỉ sai so với dự tính, chứ không thể sai chung chung. Nếu họ tính làm một cuộc tổng diễn tập thì sao? Họ dự định trả giá nào cho nó.
Những người bạn tôi chiến đấu trong Nam kể thời kỳ Mậu Thân thương vong nhiều lắm, cơ sở hậu địch vỡ từng mảng lớn, có nơi vỡ hết, sau này phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới xây dựng lại được. Nhưng họ cũng không thể biết đích xác sự thiệt hại trong cuộc phiêu lưu này là bao nhiêu. Ðây là đề tài cấm kỵ, các nhà nghiên cứu quân sự cũng không được biết, nói gì đến báo chí.
Vả lại, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân kéo dài tới giữa năm, tổn thất nhiều thật, nhưng cái đạt được cũng rất lớn – đó là thắng lợi vang dội trên mặt ngoại giao và sự hủy hoại về căn bản ý chí chiến đấu của đối phương. Nước Mỹ bị phân hóa. Dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh đã kéo quá dài, lại chẳng phải là cuộc chiến tranh nhất thiết phải tiến hành vì quyền lợi nước Mỹ.
Vấn đề vẫn là so sánh cái được với cái mất.
– Anh được nghỉ Tết mấy bữa nữa. Sau đó ta lại tiếp tục làm việc.
Huỳnh Ngự nói như thể chúng tôi đang ở trong một công sở chứ không phải trong Hỏa Lò.
Mấy ngày Tết trời rét ngọt. Tôi lo lắng cho cha tôi. Ông không chịu được lạnh. Những ngày trở trời cha tôi thường lên cơn đau gan. Huỳnh Ngự thông báo: sức khỏe của cha tôi bình thường, bệnh gan của ông đỡ nhiều. Trong ni, y nhắc lại, cha tôi vẫn được hưởng chế độ săn sóc y tế như khi ở ngoải, tôi có thể yên tâm.
Tôi thừa biết, nếu cha tôi có lên cơn bệnh nặng thì ông cũng chẳng được đưa đi bệnh viện đâu. Người ta sẽ giao ông cho tên y sĩ đặc trách chúng tôi. Ðó là một con người vạm vỡ, thấp, dáng đi nặng nề, với cặp mắt vô hồn dưới vầng trán ngắn. Y không thích hợp với bất cứ bộ quần áo nào. Mọi thứ trên người y đều giống đồ đi mượn. Y không tốt cũng chẳng xấu, không ác cũng chẳng hiền, câm lặng một nô lệ bẩm sinh, ra đời để chịu sự sai khiến của ai đó, bất kể là ai, miễn người đó trả công y, nuôi y. Thỉnh thoảng y xuất hiện, kiêm luôn công việc quản giáo, đưa tôi đi cung, thay cho Hách hoặc Sứ giả hòa bình. Thuốc của y vẻn vẹn chỉ có át-bi-lin (aspirine), hoặc ga-li-đăng (ganidan), theo cách gọi của y, để chữa độc có hai bệnh mà y biết: nhức đầu và đau bụng.
Thỉnh thoảng tôi cũng xin y thuốc ngủ. Y cho luôn, không cần hỏi han dài dòng:
– Này, mê-bô-ba-mát đây! Tối một viên. Khó ngủ quá thì hai.
Thấy y dễ, tôi xin cả thuốc đau bụng nhức đầu. Tôi phải viện trợ cho mấy xà lim bên cạnh. Tù xà lim ốm, xin thuốc rất khó. Quản giáo khe khắt đã đành, nhưng có lẽ còn có cả nguyên nhân thiếu thuốc nữa. Thành khuyên tôi phải xin để có một ít thuốc dự trữ, nhân lúc còn xin được. Ở Việt Nam chẳng có gì ổn định, chẳng có gì lâu dài, con người nay ở đây mai đã ở nơi khác, nay làm công tác này mai đã chuyển công tác khác. Biết đâu mình chẳng gặp một tên y sĩ khó chịu hơn.
Ý nghĩ tự sát thỉnh thoảng vẫn trở lại. Tôi quyết không chịu để cho bọn độc tài muốn hành tôi thế nào thì hành. Cái chết bằng thuốc ngủ là cái chết dễ chịu. Nhờ trong y bạ của tôi trước đây y sĩ vẫn thường cho thuốc ngủ, nên viên y sĩ nhà tù cũng không tỏ ra khe khắt khi tôi đề nghị. Gói thuốc ngủ tích cóp được để ở đầu giường, thỉnh thoảng tôi lại giở ra đếm lại. Thành nhìn thấy, không nói gì.
Từ ngày vào Hỏa Lò tôi ngủ dễ và ngủ nhiều lắm. Tôi cho rằng đó là giấc ngủ bù cho thời gian làm việc căng thẳng trước đó. Một hôm Hoàng bảo tôi:
– Này anh Hiên, đây là nơi đấu tranh tư tưởng chứ không phải nơi để ngủ đâu nhé!
Thì ra trong xà lim mọi động thái nhỏ nhất của tôi đều được quản giáo báo cáo cho chấp pháp.
– Trong lòng thanh thản thì ngủ dễ. – tôi nói – Tôi chẳng có điều gì phải suy nghĩ. Cũng chẳng làm điều gì để đến nỗi phải xấu hổ, không bị lương tâm cắn rứt.
Phấn khởi trước thắng lợi vang dội ở miền Nam, cường độ làm việc của các chấp pháp tăng vọt. Huỳnh Ngự thoáng hiện, thoáng mất, bỏ mặc tôi cho lũ đàn em – chắc hẳn y bận làm việc với nhiều phòng cùng một lúc. Hoàng cũng biến đâu mất. Làm việc với tôi là một tay non choẹt, đang thời kỳ tập sự. Y không hỏi tôi, mà chỉ đọc các câu hỏi của Huỳnh Ngự ra cho tôi. Tôi cặm cụi viết. Y ngồi bên canh chừng, như phỗng.
Thành chăm chú nghe tôi kể về những câu hỏi quái dị của bọn chấp pháp chẳng hiểu từ đâu mà có, do ai khai ra cho tôi, rồi cười hì hì:
– Trò trẻ con ấy mà! Bài bản của họ chỉ có tưng nấy thôi: bắt nọn là một, hù dọa là hai. Mình cứng thì họ hết vở. Nhưng thế mà lắm lúc cũng đau đầu ra phết. Gặp phải anh non gan, tưởng mọi người khai cả, phun phè phè, thì mình chống đỡ cũng mệt. Họ chỉ cần tóm được lời khai của một hoặc hai anh, dùng nó moi tiếp hết người nọ tới người kia, cho tới khi tất cả không chịu nổi nữa, nhận tội hết, là xong… Hiểu ra thì đã muộn.
Nụ cười của anh trông cay đắng lắm. Nó dính chặt vào mặt anh, không có cách gỡ ra. Thà đừng cười còn hơn.
– Mình lấy làm lạ: Ðảng nói cách mạng nhằm xây dựng một xã hội trong đó người với người là anh em, thế mà trên thực tế chỉ thấy Ðảng chăm dạy oán thù, căm ghét chứ không thấy dạy yêu thương, là làm sao? Cứ nhìn một cái Hỏa Lò này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra sao, cán bộ đã khăng khăng bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù như thế là lỗi ở ai? Bác đâu có dạy cán bộ như vậy!
Năm 1946 khi đến thăm lớp cán bộ bình dân học vụ đầu tiên do nhóm ông Nguyễn Hữu Ðang tổ chức, ông Hồ chỉ trích những người viết sách vỡ lòng trong đó có câu mẫu “Nó ở tù” để dạy ghép vần có nguyên âm u: “Các đồng chí không còn thí dụ nào hay hơn sao mà dùng cái thí dụ ác thế? Làm hại đầu óc trẻ con. Xin tìm câu khác”. Mẹ tôi đi dự lớp huấn luyện này. Bà thường kể câu chuyện trên cho mọi người nghe như một thí dụ về lòng nhân ái cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hồ gặp một tù binh co ro trong cái rét cắt da của rừng Việt Bắc. Ông cởi tấm áo trấn thủ của ông cho anh ta, và câu chuyện lan truyền trong tù binh như một huyền thoại.
Nhưng tôi còn biết một Bác Hồ khác. Mùa hè năm 1950, đang ở Thái Nguyên, tôi nhận được thư cha tôi gọi tôi tới ATK(10). Tôi tới đúng lúc được dự lễ mừng lục tuần đại khánh(11) của Bác.
Trong bộ quần áo ta bằng lụa nâu, ông Hồ ngồi sau cái bàn tre ghép, trên có mấy tờ báo tiếng Pháp. Trong ngôi nhà vách nứa lợp cọ ở Thác Dẫng, tổng hành dinh các lực lượng kháng chiến, ông giống một lão nho tiên phong đạo cốt, một nhà thơ, một bậc hiền triết phương Ðông hơn là một thủ lĩnh nghĩa quân, vị thống soái của cách mạng. Tôi bước vào, đứng nghiêm, đưa tay chấm vành mũ lá. Ông hiền từ ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh:
– Chà, thằng nhỏ vận bảnh hả? Bộ đội giờ quần áo đẹp đấy chớ! – ông nói với cha tôi – Mới được phát, hả?
Giọng ông âm vang, ấm áp, một giọng nói pha trộn âm sắc Nghệ An với nhiều vùng khác của đất nước, của riêng ông, rất đặc biệt, rất dễ thương, không giống giọng nào khác. Có điều hơi thở của ông rất hôi. Tôi nghĩ tới bệnh lao phổi mà ông mắc từ khi về nước. Bệnh có vẻ không đỡ. Tôi xót ông, lòng tôi tràn ngập niềm kính trọng đức hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của ông.
Tôi lễ phép thưa với ông rằng bộ đội bây giờ thường được phát mỗi năm hai bộ, nhưng quần áo không đồng nhất: bộ đội khu 3 mặc vải khác bộ đội Việt Bắc, bộ đội khu 4 mặc khác kiểu bộ đội khu 5. Bền nhất là quần áo của bộ đội khu 5, được may bằng vải xi-ta dày dặn, màu xám tro chứ không phải màu kaki.
– Thế này tốt rồi. Nước ta còn thiếu thốn, cháu ạ, chưa có quần áo cùng một kiểu cho các cháu…
– Thưa Bác, chúng cháu cũng không kêu ca. Ðược thế này đã tốt quá!
Ông đưa bàn tay gày guộc mân mê chất vải trên bộ quần áo tôi mặc, vẻ hài lòng. Ðó là quân phục mới của bộ đội Liên khu 3.
Không bao lâu sau ông ra lệnh xử tử Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, người cung cấp chúng tôi thứ quần áo từng làm ông thích thú, vì tội nhận hối lộ. Chất lượng quân phục thứ quân phục chúng tôi được cấp đúng là không ra gì – làm bằng sợi viscose, còn gọi là tơ dứa, mặc vào vải cứ chảy ra, lõng thõng, lụng thụng. Nhưng dù sao mặc lòng nhờ những cố gắng của Cục Quân nhu chúng tôi cũng không còn ăn vận lung tung, mỗi đơn vị một kiểu quần áo như hồi đầu kháng chiến.
Cha tôi can ông, nhưng ông không nghe. Cha tôi nói ông Hồ không chịu giảm nhẹ hình phạt cho Trần Dụ Châu còn vì tội ăn chơi xa xỉ. Người ta báo cáo Trần Dụ Châu chụp “cả một va-li ảnh” với người tình là ca sĩ T.H. Cha tôi có hỏi lại, thì không phải thế. Trần Dụ Châu có chụp nhiều ảnh với T.H. thật, nhưng nói “cả một va-li” là ngoa ngôn. Tội hối lộ cũng không rõ ràng. Chính cái “va-li ảnh” đã làm cho ông Hồ nổi giận. Ông Lê Giản cũng không tán thành án xử tử Trần Dụ Châu. Nhưng một khi ông Hồ đã muốn trừng phạt để làm gương thì không ai có thể làm ông đổi ý.
Cũng chính ông Hồ đã duyệt án tử hình một trung đoàn trưởng trong chiến dịch biên giới (1950) vì tội anh này tự động nhận lời mời của viên quan năm thầy thuốc Pháp(12) đáp máy bay về thăm gia đình anh ở Hà Nội nhân cuộc trao trả tù binh. Anh nhận lời mời với điều kiện anh sẽ mặc quân phục Việt Nam đi với viên quan năm, chứ không mặc thường phục. Trước khi lên máy bay anh còn vui vẻ nói với các bạn rằng hôm nay đồng bào ta ở thủ đô sẽ được thấy người của quân đội Việt Nam đi hiên ngang trên đường phố của thủ đô bị chiếm đóng. Anh muốn bằng cách đó tuyên truyền cho chiến thắng Cao-Bắc-Lạng. Người Pháp giữ lời hứa – từ sân bay Gia Lâm anh ngồi trên xe Jeep về thẳng Bờ Hồ và đi bách bộ ở đó rất lâu trước con mắt trầm trồ của dân chúng. Ðúng là anh đã được diện quân phục Việt Nam đi trên đường phố Hà Nội. Cũng với bộ quân phục ấy anh đi ra trường bắn. Những người lính bị cưỡng bức bắn anh, bắt xong vứt súng lăn lộn gào khóc.
Trong kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông Hồ Chí Minh, chí ít cũng cho tới năm 1950, khi biên giới Việt-Trung được nối liền, những vụ oan khuất xảy ra có thể tính trên đầu ngón tay. Trừ vụ H122(13) do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo làm chết nhiều cán bộ quân đội, phần lớn ở cấp đại đội và tiểu đoàn. Cha tôi nhận xét trong vụ này tội của Hoàng Quốc Việt đương nhiên lớn nhưng Trường Chinh phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, mặc dầu lên án Trường Chinh trong vụ này, và trong sai lầm Cải cách ruộng đất, nhưng cha tôi vẫn không coi Trường Chinh là một người hiếu sát. Trường Chinh, theo ông, con người cách mạng Trường Chinh được hiến dâng trọn vẹn cho những giáo điều cằn cỗi, còn con người trần thế Trường Chinh thì hoàn toàn hài lòng với một nửa ngai vàng. Trong những người gần gụi Trường Chinh – từ anh giám mã, chị cấp dưỡng cho tới các nhân viên văn phòng, các bí thư, không người nào yêu mến Trường Chinh. Trong khi đó những người được ở gần ông Hồ không những chỉ kính trọng ông mà còn yêu mến ông thực sự.
Mẹ tôi có những kỷ niệm tốt về Trường Chinh. Bà kể khi biết ông Trần Huy Liệu quá đắm đuối trong mối tình với nữ sĩ Thu Tâm ở Huế, ông Trường Chinh giận lắm, mới đưa việc này ra thường vụ Trung ương. Sau đó ông đại diện cho thường vụ họp với các bà: bà Liệu, mẹ tôi và bà Trần Ðình Long. Trong cuộc họp này ông Trường Chinh ra quyết nghị: cho ông Liệu được đi chơi với cô Thu Tâm thêm một tháng nữa, sau đó phải về với vợ con, trái lệnh Ðảng sẽ thi hành kỷ luật. Một Trung ương Ðảng giải quyết chuyện tình của cán bộ Ðảng như vậy tuyệt quá đi chứ. Vừa thấu tình vừa đạt lý. Trường Chinh, chứ không phải ai khác, đã đứng đầu một Trung ương như thế!
Nhưng đó là chuyện quá khứ, chuyện người ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông.
(1) Koltsov M.E. (1898-1940), nhà văn và nhà báo, đảng viên Ðảng cộng sản Liên Xô từ năm 1918.
(2) Chúng bay không đi qua được! (tiếng Tây-ban-nha).
(3) Năm 1936, quân đội của tướng Francisco Franco (1892-1975) nổi dậy chống nền Cộng hòa do liên minh cánh tả (cộng sản và xã hội) nắm quyền. Cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài cho tới năm 1939 thì kết thúc với chiến thắng của quân Phát-xít. Quân Cộng hòa, được Liên Xô và các binh đoàn Quốc tế (gồm các chiến sĩ tình nguyện từ châu Âu và Mỹ) giúp đỡ, nhưng ô hợp, thiếu kỷ luật, đã thua quân Phát-xít, được phát-xít Ðức-í yểm trợ mạnh mẽ về quân sự.
(4) Một trong hai người Việt Nam tham gia trong những Binh đoàn Quốc tế là ông Nguyễn Văn Thọ, biệt hiệu “Thọ Tây-ban-nha”. Ông Thọ kể còn có mấy người nữa, tôi không nhớ tên. Trong các Binh đoàn quốc tế hồi đó có Josip Broz Tito, Ernest Hemingway, Mikhail Koltsov, Roman Karmen…
(5) Iosif Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư (cũ), người Croatia, sau này là một nhà lãnh đạo các quốc gia không liên kết. Ðáng ngạc nhiên là ông vẫn nhớ đến những đồng chí Việt Nam trong các chiến sĩ tình nguyện quốc tế để mời.
(6) Phần tử chống bôn-sê-vích, nói tắt tiếng Pháp anti-bolchevik.
(7) Hãy kể một số tên tuổi được thế giới biết đến như Babel,Vessioly, Voronski, Kataev, Kluiev, Koltsov, Mandelstam, Pilniak, Pribludny, Sviatopolk-Mirski, Florenski, Tchaianov…
(8) Có lẽ Huỳnh Ngự học đòi nhà thơ Bút Tre trong một bài thơ với những câu: “Trên trời con khỉ đánh đu. Thằng Ngô Ðình Diệm mút cu cụ Hồ…”. Tôi xin lỗi vì những lời trích thiếu văn hóa. Cho tới nay một số nhà lý thuyết văn học vẫn còn đề cao Bút Tre như một nhà thơ lớn và độc đáo, thơ Bút Tre là một hiện tượng văn học. Một nét chấm phá hi hữu cho bức tranh xã hội.
(9) Theo lý thuyết của Trường Chinh trong cuốn Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi thì đó là giai đoạn thứ ba của bất kỳ cuộc kháng chiến nào. Lý thuyết này được viết còn rõ hơn trong Trì cửu chiến luận của Mao Trạch-đông.
(10) Gọi tắt An toàn khu, một khu nằm sâu trong vùng rừng núi Tuyên Quang, Thái Nguyên, được bảo vệ rất cẩn mật, là nơi đặt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Phủ Chủ tịch đặt tại thác Dẫng, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(11) Kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60.
(12) Hình như viên đại tá quân y này tên là Huart.
(13) Một vụ phản tình báo do phía Pháp tiến hành, tạo ra hồ sơ giả cho Việt Minh đanh cắp. Theo hồ sơ này thì Pháp đã chiêu mộ được rất nhiều cán bộ quân đội Việt Nam làm việc cho Pháp.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:20:43 GMT -6
Chương 26
Ðùng một cái, chúng tôi bị chuyển phòng.
Buổi tối, chúng tôi còn đang chúi mũi vào ván cờ tướng thì bỗng giật mình nghe tiếng mở khóa. Ngẩng lên đã thấy Sứ giả hòa bình sừng sững đấy rồi. Không nhìn đến chúng tôi, cái mũi đỏ hất lên, anh ta nói:
– Chuẩn bị đồ đoàn(1)! Chuyển phòng.
Tù bị di chuyển từ phòng này qua phòng khác, từ khu này qua khu khác là chuyện thường ở đây. Mục đích của việc chuyển phòng, Thành giải thích, là để tránh tình trạng thông cung, làm cho người tù luôn bị động, không có thời gian chuẩn bị một cuộc trốn trại nếu như họ có ý định trốn. Ðôi khi đó là sự sắp xếp lại tù nhân trong một vụ. Việc chuyển phòng bao giờ cũng đột ngột, tù không được biết trước. Người có kinh nghiệm lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng. Anh ta không thể không sẵn sàng, bởi vì sự cập rập thường gây ra những tổn thất nặng nề – quản giáo ập vào đúng lúc mình không ngờ nhất, và thế là những vật quý giá chưa kịp cất giấu sẽ không mang theo được. Chưa kể khi chuyển phòng còn bị quản giáo loại, tịch thu các đồ vật bị cấm và thi hành kỷ luật.
Trong các thứ có thể bị mất quý nhất là con dao. Ðể làm một con dao người tù xà lim phải bỏ ra rất nhiều thời gian, nhất là thời gian tìm nguyên liệu. Sắt đai thùng, hoặc sắt nói chung, không phải chỗ nào cũng có, tìm được nó hoàn toàn phụ thuộc vào may rủi. Sau đó mới tới việc chế tạo nó, thường mất cả tuần, cả tháng, có khi hơn, trong điều kiện quản giáo lỏng lẻo, anh tù khéo tay và may mắn.
Tôi chăm chú nhìn Sứ giả hòa bình. Y nói với ai? Với tôi hay với Thành? Hay với cả hai? Liếc sang Thành, tôi thấy anh cũng lo lắng không kém. Anh bước xuống đất, hai tay chắp lại, lễ phép:
– Báo cáo ông quản giáo, tôi? hay anh này?
Tim chúng tôi đập dồn, mặt chúng tôi căng thẳng chờ đợi lời phán quyết của viên quản giáo.
– Cả hai.
Sứ giả hòa bình hờ hững trả lời. Tim tôi đập rộn. Tôi sung sướng. Phải xa Thành, tôi đau khổ thật sự. Thành nhìn tôi, mắt long lanh. Anh cũng vậy, anh quen sống có tôi bên cạnh mất rồi. Chúng tôiquýnh quáng dọn đồ, mặt mày rạng rỡ.
– Ði!
Sứ giả hòa bình ra lệnh. Chúng tôi theo sau.
Có những tiếng động không bình thường vẳng ra từ những cánh cửa đóng kín – tiếng ho khan, tiếng đằng hắng. Ðó là các bạn tù nói lời chia tay với chúng tôi. Tuy không nhìn thấy nhau, những người tù hàng xóm láng giềng vẫn cảm thấy sự hiện diện của nhau, vẫn hình dung ra nhau căn cứ những dấu hiệu khó nhận thấy nhất. Bên phải chúng tôi là một ông già, hẳn rất gày còm, ông thường ho khan vào sáng sớm. Tối tối ông ngâm thơ, giọng ư ử như bị cảm lạnh. Bên trái là anh chàng không ngừng chiến đấu cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau(2)…Ngoài cái bài muôn thuở ấy anh ta không biết bài nào khác. Sát anh ta là một cán bộ thương nghiệp, chắc hẳn bị tội tham ô. Có lần anh đi lĩnh tiếp tế về, tôi nghe Hách nói với anh, giọng ghen tị: “Cán bộ thương nghiệp, hả? Vợ là nhân viên mậu dịch, hả?”. Tôi đã thoáng thấy anh ta – người tầm thước, trắng trẻo, béo tốt, hơi gù. Ðàng xa, cuối hành lang, là anh tù tử hình đáng thương, trắng bệch và phù thũng vì ở trong phòng kín lâu ngày. Ðể đánh tín hiệu từ biệt, anh ta rống lên một câu vọng cổ thê lương đến nỗi Sứ giả hòa bình phải quát: “Này anh kia, có đậy ngay lập tức cái thượng môn của anh đi không hử?”
Khu xà lim chúng tôi được chuyển tới bề thế hơn khu chúng tôi vừa bỏ đi. Nó cách khu xà lim 3 chưa tới trăm mét tính theo đường chim bay, nhưng vì vòng vèo theo Sứ giả hòa bình qua mấy khu trại chung cho nên thấy xa hơn. Người ta tính toán chu đáo: cuộc di chuyển diễn ra lúc chiều tối, khi tất cả tù xưởng thợ, tù tự giác, đều đã bị lùa vào trong các nhà giam chung, chẳng ai nhìn thấy chúng tôi.
Chăn chiếu cắp nách, tay tòn ten bộ quần áo thay đổi, chúng tôi lững thững đi trên những lối hẹp ngoắt ngoéo vắng tanh vắng ngắt. Từ bên trong những nhà giam hình khối chữ nhật vẳng ra tiếng người rầm rì làm thành một tiếng ồn không dứt.
Trước khi vào ngôi nhà-hầm mộ kế tiếp, chúng tôi còn phải qua một cái cổng nhỏ không khóa, một mảnh sân hẹp.
Bên trong, khu xà lim mờ tối giống như một cái hang với những bóng điện đầy bụi bặm hấp hối trong những rọ lưới sắt. Nó giống một khoang tàu chở khách, loại tàu cổ lỗ từ đầu thế kỷ, với những cửa ca-bin đều tăm tắp ở hai bên hành lang. Con tàu chết máy, nó trôi dạt trên đại dương thời gian, còn hành khách thì ngủ mê mệt sau những cánh cửa đóng im ỉm. Chỉ ở đầu hành lang, gần cửa vào khu hầm mộ, có một xà lim để ngỏ. Tôi ngó thấy bên trong trống rỗng, mấy bức tường đen xì.
– Ðấy là xà lim ông Hoàng Văn Thụ. Ông ta nằm đây trước khi bị xử tử.- Thành giải thích – Khu này là xà lim 1. Còn gọi là xà lim án chém. Trong các xà lim án chém tường đều sơn một màu đen như thế. Ðến thời ta mới quét vôi lại, nhưng xà lim lưu niệm này giữ nguyên như cũ.
– Nghĩa là khu này cổ nhất Hỏa Lò?
– Tôi không dám nói chắc. Khu xà lim 3 ta vừa đi khỏi là khu mới được xây, thời tạm chiếm hay là thời mình tôi không rõ, anh không thấy phòng ở đấy hẹp hơn à?
Tôi quan sát nơi ở mới. Xà lim cũ hẹp hơn, trần cao hơn, nhưng ấm hơn vì kín gió. Không biết rồi tôi còn được du ngoạn qua bao nhiêu xà lim nữa?
Ngoài xà lim lưu niệm dành cho Hoàng Văn Thụ, không còn xà lim lưu niệm nào khác. Lịch sử cách mạng Việt Nam được trình bày như thể nó chỉ bắt đầu với sự ra đời của Ðảng cộng sản Ðông Dương. Các tổ chức cách mạng khác ít được nhắc đến, mà có nhắc đến thì cũng bằng giọng bề trên, kẻ cả.
– Ê bên này được cái thoáng hơn. – Thành nhìn quanh, nói.
Khác với xà lim trước, ở tường hậu phòng giam này có một cửa sổ to, chấn song và lưới thép bưng kín. Bụi bám đầy lưới, y như trong một kho hàng. Bên trên cửa ra vào có một khoảng cũng bít lưới như thế.
Không biết bằng cách nào những khách trọ cũ trong xà lim bẻ được cả một mảng lưới sắt, làm thành một lỗ thủng to bằng bàn tay, qua đó không khí bên ngoài ri rỉ chảy vào phòng. Người ta biết, nhưng chẳng buồn vá lại. Có vượt ngục được cũng còn lâu – sau tấm lưới là hàng chấn song sắt to gộc, sau chấn song là bức tường đá sừng sững, dây thép gai giăng mắc bên trên, ngày đêm đều có lính gác.
Chỗ ở mới có mùi khó tả. Mặc dầu vừa được quét dọn – trên sàn còn ướt những vệt nước – nó vẫn tanh tưởi và lạnh lẽo.
– Còn phải dọn nhiều. – Thành nói – Khí lạnh đây là tử khí đấy. Chắc có tù tử hình vừa đi.
Xà lim 1, Thành giải thích, bây giờ dùng để giam tù trọng án trong thời kỳ giam cứu là chính, chứ không phải cho tù tử hình. Nói chung, án tử hình bây giờ ít được tuyên, xử nặng nhất cũng chỉ đến chung thân, hai mươi năm. Nếu cải tạo tốt, được giảm án đều đều, sống được qua sóng gió nhà tù, người mang án chung thân có thể được ra sau mười hai, mười lăm năm, còn người mang án hai mươi năm có khi mới tám năm, chín năm đã được về.
Nếu tình hình hiện nay kéo dài thì khả năng tôi ra khỏi đây là ít. Chừng nào Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ còn sống. Mà họ còn sống lâu.
Thiên hạ đàm tiếu nhiều về chuyện quan hệ với phái yếu ở các nhà lãnh đạo cao niên. Ðó là đề tài ưa thích trong cuộc sống đơn điệu một thời ở miền Bắc. Tôi nghĩ người ta chẳng nói tới chuyện riêng tư của các vị làm gì nếu như các vị không lên mặt đạo đức, luôn miệng dạy dỗ thần dân lối sống khắc kỷ xã hội chủ nghĩa. Lời đàm tiếu là phản ứng ngược cho những lời rao giảng đạo đức giả. Các vị lang chạ với hết cô này cô khác thì không sao, cán bộ cấp thấp mới chỉ hơi dính dáng chuyện ăn nằm với phụ nữ là đã bị kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, bị thi hành kỷ luật rồi. Trong chuyện này Lê Duẩn là người hồn nhiên. Lê Duẩn không coi dư luận ra gì. Cái gì Lê Duẩn thích là Lê Duẩn làm. Thọ chẳng thua gì Duẩn, theo những người gần Thọ cho biết, nhưng kín đáo hơn. Mỗi lần cán bộ nữ đến cầu cạnh Thọ để xin lên chức, lên lương, thường được Thọ cho gặp riêng để đả thông tư tưởng. Họ ra về, mặt tươi nở. Ðược gặp anh Sáu là đời lên hương rồi.
Tôi là người duy lý. Tôi sẵn sàng chấp nhận những nhà lãnh đạo mắc bệnh tim la. Miễn họ đừng lạm dụng quyền chức gây đau khổ cho đồng bào.
Ðêm đến, qua lỗ thủng trên tấm lưới sắt nơi ở mới tôi có thể nhìn thấy những cành sấu trụi lá in những nét gãy lên nền trời tím đen với những vì sao yếu ớt run rẩy trong gió bấc.
Chiều hôm sau, lúc trời nhập nhoạng tối, chúng tôi đang nằm nghỉ sau bữa cơm chiều thì nghe tiếng chân người chạy thình thịch bên ngoài, tiếng mở cửa, đóng cửa, rồi sau đó mọi sự lại trở về yên lặng.
– Có tù mới đến, cậu ạ. – Thành nhận xét.
Ngày hôm sau anh bổ sung:
– Người này trong vụ các cậu.
Một nhận xét kéo dài hai ngày, hẳn nó phải chín chắn.
– Căn cứ ở cái gì mà anh cho là như thế? – tôi hỏi.
– Trước hết, nếu là tù thường, người ta không dọn dẹp xà lim trước khi cho vào. Hôm qua, khi ta mới tới, tôi nghe tiếng quét dọn, là một. Tiếp đến có giám thị hay là cấp to của nhà tù đến kiểm tra, là hai. – Thành phân tích – Sáng nay, đi qua tôi thấy cửa phòng hé mở, ngó vào thấy có cái giá gỗ mới tinh để trên phản, là ba… Tù thường, không phải tù đặc biệt, không được săn sóc như thế đâu.
– Hôm tôi bị đưa vào, người ta có dọn phòng không?
– Tôi đến trước cậu vài ngày. Phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ rồi.
– Hừm, lạ nhỉ?
– Trong vụ các cậu có vẻ người ta còn lấn bấn, chưa dám quyết…
Hóa ra Thành biết nhiều anh em trong quân đội bị dính vào vụ này. Một vài người còn là bạn chiến đấu của anh. Sự có những người quen biết chung làm chúng tôi thêm gần nhau. Anh cám cảnh cho tôi lắm.
– Tình thế của cậu, nói thực nhé, chẳng lấy gì làm sáng sủa. – Thành vuốt mái tóc lòa xòa – Ðiểu tận thì cung tàng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám tới nay tôi chưa từng thấy vụ nào tương tự. Lớn quá, lớn quá! Người ta dám làm thế là người ta quyết tâm lắm. Không dễ gì họ bỏ cuộc. Chơi nhau thế này là sát ván.
– Còn phải nói!
– Nhưng đúng là họ tuy quyết tâm, nhưng lại chưa dám quyết liệt trong hành động. Cách đối xử thế này tỏ ra họ còn một chút e ngại, một chút phân vân…Nếu triệt không được thì cũng phải có đường rút chứ.
– Tôi nghĩ họ vừa làm vừa nghe ngóng. Nếu thấy trong ngoài không phản ứng thì họ làm tới.
– Lại càng cần bình tĩnh nhìn thẳng vào sự thật để mà chịu đựng. Thôi thì cứ coi như cậu chia sẻ nỗi khốn khó với ông cụ. Tội nghiệp ông cụ quá. Cậu còn sống lâu, còn có quyền hi vọng. Chứ ông cụ thì mất cả cuộc đời!
Tôi thở dài.
– Trong lịch sử nước ta chưa bao giờ xảy ra chuyện bắt nhiều công thần một lúc như thế.
Buổi chiều ra lấy cơm, Thành đưa mắt chỉ cho tôi cái xà lim có tù mới. Cánh cửa đóng im ỉm. Từ bên trong không một tiếng động nào vẳng ra.
Ngày hôm sau, khi ra nhận cơm trưa, tôi thấy cửa xà lim nọ khép hờ. Bên trong, một cái chăn đơn để bừa trên phản và dưới cái giá gỗ mộc mới đóng lỏng chỏng mấy hộp thuốc bên tuýp kem răng Hoa Mai.
– Anh đúng. Người đó trong vụ tôi.
– Cậu căn cứ vào cái gì?
– Nếu là tù khác, chăn để không gọn gàng thì quản giáo mắng, nhưng sáng nay lấy tù đi cung, chỉ nghe tiếng quản giáo mở cửa…Nói chung, họ đối với chúng tôi nhẹ nhàng. Họ biết quá, chúng tôi không sợ chết, nói gì sợ họ.
Thành gật gù rồi khen tôi:
– Cậu bắt đầu biết xét đoán việc trong tù rồi đó!
Trong khu xà lim 1 chúng tôi thoát được con chuột già nữa, nhưng lại phải chịu đựng nạn kiến hôi. Bộ lạc những con kiến li ti màu vàng nhạt này đông vô số kể. Chỉ có thể chạy trốn chúng chứ không thể giết chúng. Con kiến bé tẹo khi bị di chết tiết ra một mùi hăng khó tả, giống mùi hạt thu đủ bị bóp nát. Lũ kiến gan lì và kiên nhẫn không thể tả được. Chỉ một gói kẹo nhỏ thôi cũng đủ để chúng điên lên, lùng xục đủ mọi chỗ mà Thành có thể cất giấu. Ban ngày anh móc vào lưới thép cửa thông hơi. Ban đêm anh treo trên đình màn. Chỗ nào rồi chúng cũng tìm ra. Tìm được rồi chúng lăn xả vào, sẵn sàng chết chỉ để hút một chút xíu chất ngọt. Cái kẹo thế là không thể ăn được nữa. Nhưng chúng tôi lại quá nghèo để có thể vứt đi. Ðành phải rửa kỹ kẹo cho xác những con kiến trôi đi mà ăn vậy.
Lũ chuột cống ở đây không cần phải vào xà lim kiếm ăn. Thức ăn đã có sẵn ngoài sân. Ðó là phần cơm tù được nhà bếp gánh vào, thường là rất sớm. Leo lên cửa sổ ngó ra sân, tôi thấy những con chuột béo múp ngồi chễm chệ trên những tô cơm của chúng tôi. Tôi phải gạt bỏ phần cơm trên nguội ngắt, đè cảm giác ghê tởm xuống mà nuốt phần ít ỏi còn lại. Có hôm tôi bắt gặp Thành rơm rớm nước mắt bưng bát cơm lên miệng.
Trong các quản giáo chỉ có Sứ giả hòa bình là thông cảm với nỗi khổ tâm của tù xà lim trong chuyện ăn uống. Anh ta bao giờ cũng mở cửa cho tù ra nhận cơm ngay khi nhà bếp vừa gánh tới. Khốn nỗi, quản giáo làm việc luân phiên nhau, không phải ngày nào tù cũng được gặp Sứ giả hòa bình. Hách thuộc loại người khác hẳn. Mặt y lúc nào cũng vác lên theo hình mẫu lãnh tụ. Già nhưng đỏm dáng, y quan tâm tới nếp là quần áo hơn bữa cơm cho tù. Hách thường để cơm nguội tanh mới dẫn rượu vào khu xà lim. Lũ chuột thừa thời giờ ăn, ăn rồi còn ỉa cả vào những tô cơm tù.
Tôi quyết định nói với chấp pháp về tình hình cơm nước trong khu xà lim.
Hoàng nghe tôi chăm chú, im lặng một lúc lâu.
– Làm sao anh biết cơm bị chuột vầy?
– Tôi nhìn thấy.
– Anh trèo lên cửa sổ ngó ra?
– Phải.
– Anh trèo lên bằng cách nào?
– Bằng cách thông thường nhất. Như người ta thường trèo.
– Cửa sổ cao mà.
– Tôi có cách.
– Hừm, nghĩa là anh nhận anh vi phạm nội quy? Anh có biết làm như thế anh sẽ bị kỷ luật không?
Tôi cười khẩy.
– Tôi không còn gì để mất.
– Theo nội quy trại, anh có thể bị cùm một tuần lễ.
– Anh cứ cùm.
Hoàng không cùm tôi. Hôm sau tình hình được cải thiện – Hách phải đi theo nhà bếp để mở cửa. Cái giá phải trả được coi là rẻ – chúng tôi chỉ bị chuyển qua một phòng khác, cũng vẫn trong khu xà lim 1. Từ cửa sổ này tôi không nhìn ra sân được nữa.
Trong những lần ra rửa ráy, lấy cơm, trả bát tôi tò mò quan sát phòng giam Hoàng Văn Thụ. Nhân tiện ở đây tôi cũng muốn xem kỹ nó một tí. Thỉnh thoảng có đoàn tham quan vào, chắc họ tới viếng xà lim này.
Hoàng Văn Thụ cũng có lui tới nhà tôi trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Người hay nhắc tới Hoàng Văn Thụ nhất mỗi lần đến thăm cha tôi là một hàng binh có tên Việt là Chiến Sĩ, người Ðức(3). Ðược Hoàng Văn Thụ giác ngộ, từ một sĩ quan lê-dương Chiến Sĩ trở thành đảng viên cộng sản, tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Mỗi khi nhắc tới Hoàng Văn Thụ giọng Chiến Sĩ bồi hồi, đôi mắt xanh của ông trở nên ướt. Ngồi nghe những người của thời trước, thời cách mạng chưa thành công, khi họ còn là những đồng chí thân thiết, tôi cứ ngẩn người ra mà ngắm – sao thời ấy họ đẹp thế!
Hàng ngày đi qua xà lim Hoàng Văn Thụ, tôi thường nghĩ về tình bạn giữa cha tôi và người anh hùng đã khuất với mối hoài nghi bất giác: nếu Hoàng Văn Thụ còn sống, liệu ông có trở thành một trong những tên đang hành hạ chúng tôi không?
Thành kể thời Pháp bức tường đá bao quanh Hỏa Lò không cao thế này. Vì nó thấp cho nên trong cuộc vượt ngục nổi tiếng trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám tù chỉ công kênh nhau đã leo được ra ngoài. Sửa chữa sơ hở của thực dân Pháp, chính quyền cách mạng đã bồi cao thêm chừng mét rưỡi nữa. Bây giờ vệt nối giữa bức tường cũ và đoạn được xây thêm trông còn rõ.
Từ trong xà lim 1 có thể nhìn thấy một mảng trời khá rộng với những cành sấu, cành me la đà nơi ngã ba Quán Sứ và Hàng Bông Thợ Nhuộm. Bên trong bức tường là mấy vọng gác gần khu trại nữ, trên đó mấy chàng lính trẻ chốc chốc lại cởi cúc quần ngẩn mặt ra thủ dâm trước những con mắt bị giam thèm khát màu xanh. Họ tưởng tù không trông thấy hay họ coi thường bọn tù trong xà lim, tôi không rõ.
So với xà lim 3, xà lim 1 đỡ vắng lặng hơn. Nó được dành riêng cho tù trọng án. Ðám tù này bất cần đời. Vào đến xà lim là họ hiểu họ không bị xử bắn cũng chung thân, nhẹ nhất là hai mươi năm. Khi buồn quá, họ hát ti tỉ, họ ngâm thơ, quản giáo có la hét thì họ vâng vâng dạ dạ tí chút rồi đâu vẫn hoàn đấy. Lại thêm một anh phi công Mỹ mới lạc loài vào, hẳn khu tù binh đã quá chật. Anh chàng này suốt ngày im lặng, thỉnh thoảng lại hứng lên ông ổng cất tiếng hát bằng giọng nam trầm, chẳng ra cái điệu gì. Hách xầm xầm chạy vào, mắng xa xả bằng tiếng Việt, người Mỹ cãi lại bằng tiếng Mỹ. Hai bên om xòm một hồi rồi chia tay, không bên nào hiểu bên nào.
Khu xà lim 1 còn tiếp giáp với trại nữ. Ban ngày trại nữ im ắng nhưng tối đến hoặc đang đêm lại ồn lên tiếng cãi lộn, những lời chửi bới thô tục. Thỉnh thoảng xảy ra một vụ đánh nhau, vẳng đến phòng chúng tôi tiếng gào the thé đến lạc giọng của những cô gái: “Báo cáo bà quản giáo ạ, báo cáo bà quản giáo! Chúng nó đánh chết con rồi ạ!” Tù nữ ít khi đánh nhau, nhưng đã đánh nhau thì đánh dữ lắm, quản giáo không can nổi. Dẹp một vụ xô xát ở trại nữ mất cả tiếng đồng hồ. Phần lớn tù nữ là gái điếm, trộm cắp, còn lại là các thứ khác: buôn lậu, buôn bán tem phiếu(4), lừa đảo, đánh ghen vv…
Chúng tôi còn nghe thấy cả tiếng trẻ con khóc từ trại nữ vọng lại. Không hiểu có phải khi người mẹ đang cho con bú thì bị bắt nên người ta cho phép mang con vào theo, hay là tù sinh con trong trại. Thành trầm lặng hẳn khi nghe tiếng trẻ gào như mèo kêu trong đêm.
– Khốn nạn, vừa chào đời đã ở tù. Cũng là cháu Bác Hồ cả đấy, chẳng biết rồi ra nó sẽ là cháu ngoan hay là cháu hư? Hư là cái chắc. Ði qua nhà tù, mấy ai còn tử tế…
Trong đêm thanh vắng tôi nghe thấy tiếng người lao xao trên đường Hàng Bông Thợ Nhuộm vào giờ tan buổi chiếu bóng muộn. Có hôm, tôi còn nghe thấy tiếng một người quen. Hỏa Lò được thiết kế rất lạ: ở trong có thể nghe thấy tiếng bên ngoài, nhưng ở bên ngoài không thể nào nghe thấy tiếng người bên trong.
Chẳng bao lâu sau anh chàng Căn cũng theo chân chúng tôi qua bên này. Bằng cách nào không biết, chỉ một ngày sau anh ta đã biết sự có mặt chúng tôi ở đây. Ðể đánh tiếng cho chúng tôi biết, anh ta nghêu ngao bằng giọng khàn khàn vịt đực:
Em chờ anh tối qua Suốt canh trường chẳng thấy anh ra…
(1) Tại các trại giam mà tôi đã sống qua, thay vì gọi đồ đạc, người ta gọi đồ đoàn. Không rõ cách gọi này có xuất xứ từ đâu.
(2) Lời một bài hát.
(3) Tôi biết tên ông là Stefan, không nhớ họ.
(4) Tem phiếu là từ chung dùng để chỉ các loại giấy phân phối các thứ hàng hóa từ gạo, thịt, đường, sữa…cho tới vải, xe đạp vv…Buôn bán tem phiếu cũng là một tội, chế tạo và lưu hành tem phiếu giả là tội rất nặng, có thể tới chung thân hoặc 20 năm tù ngồi.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:22:32 GMT -6
Chương 27
Tôi choàng tỉnh, mồ hôi đầm đìa. Cơn ác mộng đã qua. Trong ánh điện chói chang, tôi nhìn thấy mặt Thành cúi sát tôi, bàn tay đặt lên vai tôi lạnh ngắt:
– Cậu ú ớ mãi, mơ hoảng à?
– Cái gì thế? Có chuyện gì thế? – tôi ngồi nhỏm dậy.
Anh đặt ngón trỏ lên môi suỵt khẽ, hất hàm chỉ ra cửa.
Ðịnh thần, tôi nghe ngoài hành lang có tiếng nấc cụt liên hồi, tiếng người xì xào không rõ, tiếng chân rầm rập chạy vào khu xà lim. Trong tĩnh mịch, ầm lên tiếng một vật bằng gỗ rơi xuống sàn xi-măng, sau đó là tiếng bước chân nặng nề xa dần.
Khu xà lim lại chìm vào yên lặng.
Thành rời khỏi khung cửa, leo lên phản, lúi húi chuẩn bị điếu thuốc lào đầu tiên của buổi sáng.
– Cấp cứu.- anh điềm tĩnh kết luận sự kiện vừa xảy ra.
Tôi hiểu mối quan tâm của Thành đối với người tù cùng vụ với tôi.
– Cậu đoán ra là ai chưa?
Tôi lắc đầu. Cánh cửa xà lim bên ấy suốt ngày đóng im ỉm, người bên trong không đánh tiếng thì chịu, làm sao biết được anh ta là ai.
Thành là người lính trinh sát tốt. Anh quan sát, anh suy luận, anh liên tưởng, anh đặt giả thuyết trước mỗi hiện tượng và bao giờ cũng vậy, anh có những kết luận khá chắc, khá gần với sự thật.
Ai ở bên ấy nhỉ? Cha tôi không có hiện tượng bệnh như vậy. Ông đau gan, nhưng khi đau lắm ông chỉ rên khe khẽ, như thể suýt soa. Vả lại, nếu là cha tôi chắc chắn tôi sẽ biết, bằng linh tính, bằng một chi tiết nhỏ nhất. Chỉ cần đi qua cửa xà lim tôi cũng có thể bắt được hơi ông. Ông Ðặng Kim Giang, tôi nhớ, không có bệnh gì, trừ chứng tê thấp nhẹ, họa hoằn tôi mới gặp ông đi cà nhắc. Vậy còn ai nữa trong những nhà cách mạng già cũng bị trong vụ này, mà người ta phải lo lắng để không cho chết tự do? Ông Bùi Công Trừng? Ông Ung Văn Khiêm(1)?
– Liệu anh ta có việc gì không, anh Thành?
– Chẳng biết nữa! – Thành thở dài – May mà người ta đến kịp.
– Anh ta bị bệnh gì nhỉ?
Thành tư lự.
– Hiện tượng này, theo tôi nghĩ, nhiều phần là bệnh tim, hẹp van hay hở van chi đó. Nhồi máu cơ tim không phải, chứng ấy chết trong tích tắc, đợi được đến lúc y sĩ tới thì đã ngoẻo.
Thôi chết, đau tim thì đúng là Phạm Viết rồi! Thế mà tôi quên bẵng anh.
Tôi và Phạm Viết thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, nhưng giữa chúng tôi không có sự giao du thân tình. Thoạt vào Hỏa Lò Huỳnh Ngự còn hỏi tôi về Phạm Viết, nhưng biết tôi không có quan hệ mật thiết với anh, y hỏi lấy lệ rồi bỏ qua.
– Sao, cậu đã nhận ra?
– Ðó là Phạm Viết, cán bộ mặt trận Hà Nội.
Tên của Phạm Viết không nói lên điều gì với Thành. Hai người ở hai chiến trường khác nhau, chưa gặp nhau bao giờ.
Phạm Viết là cán bộ Hà Nội từ thời tiền khởi nghĩa. Năm 1946 anh bị thương trong một cuộc chạm súng với địch. Hà Nội bị Pháp chiếm, anh hoạt động nội thành. Hà Nội giải phóng, anh làm phó tổng biên tập một tờ báo hàng ngày trực thuộc thành ủy(2).
Trắng trẻo, nho nhã, học thức, lại biết nhiều ngoại ngữ, trong thời kỳ công nông được đề cao Phạm Viết đương nhiên trở thành con quạ trắng giữa các đồng nghiệp xuất thân từ những thành phần cơ bản (3). Khi nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Phạm Viết còn bị thành kiến hơn nữa bởi những phát biểu chướng tai các vị lãnh đạo.
Cha tôi vốn hiếu khách. Nhà tôi lúc nào cũng có khách, nhất là trong những giai đoạn có biến động xã hội. Người ta đến để hỏi ý kiến, để nhận một lời khuyên, tin rằng cha tôi hiểu biết, có uy tín với các nhà lãnh đạo, được ông Hồ lắng nghe. Người bị oan ức thường đến nhờ cậy cha tôi can thiệp. Ðến nỗi trong thời kỳ Cải cách ruộng đất Trường Chinh nổi đóa gọi cha tôi là cái loa của bọn tư sản và địa chủ, còn đến thời kỳ đấu tranh giữa hai đường lối thì Lê Ðức Thọ gọi ngôi nhà của chúng tôi là câu lạc bộ Pêtôfi(4).
Trong những người thường lui tới với cha tôi thời gian cuối có Phạm Viết.
Phạm Viết kính trọng cha tôi, như kính trọng một bậc tiền bối cách mạng, kính trọng thái độ dũng cảm của ông trong việc bảo vệ chân lý, không sợ cường quyền.
Tôi cũng quý Phạm Viết nhưng không mấy đồng tình với anh về tính cách cực đoan của anh. Trong anh tính xu hướng quá mạnh, mà một khi tính xu hướng quá mạnh, nó thường đẻ ra sự chống lại, chí ít cũng là ý muốn tự vệ ở người đối thoại.
Thời gian căng thẳng của Nghị quyết 9 rồi cũng trôi qua. Ba năm đủ để cho chúng tôi quên đi những nỗi lo âu. Trung Quốc vẫn mải mê đấu tranh chống xét lại, còn ở Việt Nam mọi nỗ lực được dồn cho kháng chiến chống Mỹ. Chúng tôi đã mừng: Ðảng ta thoáng, Ðảng không bắt ép ai phải theo quan điểm Ðảng.
Văn Cao cảnh cáo tôi: hãy coi chừng!
Vài tuần sau khi nổ ra vụ bắt bớ bọn xét lại chúng tôi cảm thấy rõ nanh vuốt Ðảng qua những lời dọa nạt của những tên hãnh tiến. Chúng nghiến răng kèn kẹt: “Phải quét sạch cỏ dại trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “Ðảng nhân đạo, nhưng chỉ có giới hạn thôi”, “Phải tống chúng nó (bọn xét lại) đi cải tạo hết thì xã hội mới lành mạnh”. Những người có ý kiến ngược trong Nghị quyết 9, bị coi là có quan điểm xét lại, bắt đầu lo sợ. Nhưng lo sợ thế thôi, chứ vẫn tin: mình có làm gì đâu mà Ðảng bắt. Nếu không được bảo lưu quan điểm nữa thì thôi, ta chui phắt quan điểm đi là xong, như trong trò tam cúc ấy.
Nói tóm lại, chúng tôi chưa biết sợ vì chúng tôi mắc bệnh đinh ninh. Chúng tôi tin Ðảng quá lâu, quá nhiều. Chúng tôi đinh ninh Ðảng bây giờ đàng hoàng, không bắt bậy bắt bạ, đã bắt là phải có sở cứ. Chắc Hoàng Minh Chính và mấy anh có làm điều gì quá đáng Ðảng mới bắt, cha tôi nghĩ thế, tôi cũng nghĩ thế. Théo Ronco, phóng viên thường trú tờ Nhân Ðạo (Humanité) gặp tôi hỏi về vụ bắt bớ vừa xảy ra, tôi còn nói rằng chưa biết thế nào, cần phải chờ Ðảng thông báo. Ronco lắc đầu, nói anh không hiểu luật pháp Việt Nam – cứ bắt người cái đã, lúc nào Ðảng thích công bố tội trạng thì công bố. Anh cho rằng ở Việt Nam đang diễn ra những gì đã có ở Trung Quốc, tuy kém ồn ào.
Tôi chờ Phạm Viết trở về xà lim 1, nhưng anh không trở về nữa. Không rõ anh bị chuyển đi đâu, điều chắc chắn là không phải đi bệnh viện – nhà cầm quyền không giàu lòng nhân đạo đến thế.
Tôi buồn mất mấy ngày. Tôi nghĩ Phạm Viết đã chết và tôi ân hận trước kia đã có cái nhìn khe khắt đối với anh. Khi Phạm Viết bị bắt, cha tôi nói với mẹ tôi: “Khốn khổ, bệnh nó như thế, nó đến chết trong tù mất thôi.” Chị Lan, vợ anh, kể anh bị bắt trong khi đang đau tim nặng, phải điều trị tại bệnh viện.
Cha tôi nói gở. Tôi biết tin Phạm Viết chết vào năm 1972, trong một trại giam ở Thái Nguyên(5). Khi đó tôi đang ở trại Tân Lập. Nghe nói sau khi anh chết gia đình anh được báo tin và chị Lan(6), vợ anh, được phép lên nghĩa trang nhà tù để thắp nén hương tưởng niệm chồng.
Phạm Viết đi khỏi xà lim 1 được ít ngày thì một hôm đi ngang dãy phòng giam cuối hành lang để tới phòng vệ sinh, tôi giật mình nghe thấy tiếng ho trầm trầm của ai đó, rất quen. Tiếng ho không tự nhiên, rõ ràng người ở trong cố dặn ra để chúng tôi chú ý. Hôm sau đi qua tôi nghe người trong phòng ngâm nga:
Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông Nhất nông nhì sĩ.
Tôi muốn reo lên khi nhận ra tiếng Hồng Sĩ. Chao ôi, chẳng lẽ cả anh nữa, người trước nay tôi vẫn coi là thuộc phía bên kia, cũng bị bắt, cũng là đồng vụ với tôi? Cuộc đời mới kỳ cục làm sao!
Hồng Sĩ là công an, làm công tác phản gián ở Hải Phòng. Anh ở cùng nhà với nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại đường Ðiện Biên phủ. Mỗi lần có việc đến cảng hoặc đi xa hơn, tới mỏ Quảng Ninh, tôi đều ghé thăm Tấn. Tấn lại chơi thân với Hồng Sĩ, đến Tấn tức là đến Hồng Sĩ, cho nên chúng tôi gặp nhau luôn.
Mặc dầu chúng tôi tin Tấn, nhưng với ông bạn trung tá công an của anh chúng tôi vẫn cứ chờn chợn. Khi trò chuyện với Hồng Sĩ tôi vẫn cảnh giác, lựa từng lời mà nói, chọn từng chữ mà dùng, không dám khinh xuất.
Cao to, xương xẩu, nghiện thuốc lá nặng, Hồng Sĩ giống một thầy ký nhiều hơn một cán bộ, hơn nữa, lại là cán bộ công an. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Bùi Ngọc Tấn nhận xét anh là một cán bộ công an giỏi và có học thức nhất thành phố cảng. Tôi gặp Hồng Sĩ là mến anh ngay. Anh ham học hỏi, quan tâm nhiều lĩnh vực, hiểu biết rộng. Trong căn phòng hẹp của gia đình anh có một máy thu thanh cổ lỗ hiệu Phillips, trên cái mặt nhựa vàng xỉn hình bát quái của nó chữ in đã mờ hết, nhưng nó vẫn bắt được các đài xa. Ðêm đêm anh ngồi lì bên cái radio già lão nghe hết BBC đến Tiếng nói Hoa Kỳ, hết Bắc Kinh đến Moskva, nhờ đó anh biết nhiều chuyện chúng tôi không biết trên cái thế giới xa lắc xa lơ bên kia hàng rào tư tưởng.
Hồng Sĩ không giấu giếm quan điểm của anh. Anh nói anh đang chờ xem Ông Cụ định đưa dân mình tới đâu. Nếu Việt Nam rồi sẽ như Trung Quốc thì chán lắm, anh nói, thà chết còn hơn. Cẩn tắc vô áy náy, chúng tôi nghe anh, mặt bất động như những nhân vật trong của tuồng Nô Nhật-bản.
Có lần Hồng Sĩ còn dặn dò tôi hãy cẩn thận trong mối quan hệ với nhà thơ HTK cũng ở Hải Phòng trong thời gian đó:
– Nó vừa báo cáo về cậu đấy. Lên Hà Nội, nghe Tố Hữu phê phán Ðêm Mất Ngủ của cậu xong là nó về đây báo cáo liền. Nó làm thế để duỗi ra vì trước có quan hệ thân mật với cậu hay là muốn lập công tớ không biết.
Tôi chơi với HTK từ thời kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 4. Anh người Huế, ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương, công tác trong bộ đội nhiều năm, đảng viên, là nhà thơ đầu tiên được tặng thưởng huân chương Chiến thắng. Năm 1956 anh bị dính vào vụ Nhân văn – Giai phẩm, bị Ðảng thi hành kỷ luật. Oan cho HTK, anh không dính dáng gì với Nhân văn – Giai phẩm cả. Anh bị thi hành kỷ luật do lỏng tay lãnh đạo trong cương vị bí thư ở văn phòng Hội Nhà văn hay Hội Văn nghệ tôi không nhớ. Bị mất việc, anh chuyển về Hải Phòng, công tác tại công đoàn cảng, sống nghèo khổ với một nhà thơ nữ có sẵn một đàn con.
Tôi vẫn đến chơi với HTK. Tôi vẫn thương anh. Nhưng có lần bên ly cà phê hội ngộ tôi đe:
– Bây giờ nhiều thằng bán bạn bán bè lắm. Tớ cũng bị bán, tớ biết, nhưng thông cảm hoàn cảnh của thằng chẳng có gì để bán mới phải bán bạn, tớ không trách. Tớ chỉ trách cái sự bán quá rẻ. Tiếng thế, tớ cũng có giá lắm chứ!
HTK cười ngượng. Tôi kiểm tra, biết việc Hồng Sĩ báo là có thật.
Khi biết tôi vẫn còn e ngại Hồng Sĩ, Kỳ Vân cười hì hì:
– Các cậu lại mắc bệnh Tào Tháo rồi. Thế thì khác gì họ. Tin tớ đi, Hồng Sĩ là thằng bạn tốt lắm đấy.
Nguyên Hồng có vẻ cũng e dè Hồng Sĩ. Anh hay có mặt ở nhà Bùi Ngọc Tấn, và tất nhiên, không thể không tiếp xúc với anh bạn công an có những quan điểm thoải mái. Nguyên Hồng chỉ yên tâm hơn một chút khi thấy Hồng Sĩ không chú ý tới anh nhiều.
Nguyên Hồng hồi ấy cũng rơi vào tâm trạng buồn phiền. Một hôm, Bùi Ngọc Tấn đang đứng dưới tấm bảng lớn bằng cả bức tường để so vé xổ số thì bị Nguyên Hồng bắt gặp. Nguyên Hồng thụi cho Bùi Ngọc Tấn một quả:
– Cái thằng rõ ngu. Ở đời đã chán vạn điều thất vọng mà mày còn bỏ ra hai hào mua thêm một cái, đắt quá!
Bùi Ngọc Tấn đỏ mặt lên.
Ít ngày sau, Bùi Ngọc Tấn bắt quả tang Nguyên Hồng cũng đang so vé số, cũng trước bức tường ấy. Anh khoái lắm, đem câu nói của Nguyên Hồng hôm trước ra đay lại. Nguyên Hồng làm bộ sửng sốt:
– Tao có nói thế à? Không có lẽ. Ở đời toàn là thất vọng, bỏ ra có hai hào mua được cả một cái hi vọng, rẻ ơi là rẻ!
Bây giờ Hồng Sĩ đã ở đây, bên cạnh tôi. Mọi nghi vấn về anh thế là được giải tỏa.
Thấy tôi buồn buồn, Thành hỏi:
– Cậu nhận ra người ấy à?
Tôi gật đầu:
– Anh ấy là bạn tôi.
Hồng Sĩ không có con. Vợ chồng anh đón đứa cháu họ về làm con nuôi cho vui cửa vui nhà, tình cảnh tội nghiệp lắm. Bây giờ Hồng Sĩ bị giam, không hiểu vợ con anh xoay xở ra sao? Lại còn Bùi Ngọc Tấn nữa. Hồng Sĩ bị thì Bùi Ngọc Tấn cũng dám bị lắm. Tôi biết rõ Bùi Ngọc Tấn(7). Anh hiền lành, có chính trị chính em gì đâu.
Nghe tôi kể về Hồng Sĩ, Thành chép miệng:
– Bạn cậu ở cái phòng chết tiệt ấy là khốn nạn lắm đấy. Hôi hám, ẩm ướt vô cùng. Có lần tôi bị họ nhét vào đấy, chịu không nổi. Anh này chắc bướng, hả?
– Chắc vậy.
Tôi kể cho Thành nghe về Hồng Sĩ. Giả thử Thành là chỉ điểm, có báo cáo với chấp pháp cũng chẳng sao.
Trừ tình cảm quý mến nhau, Hồng Sĩ chẳng có liên quan gì với tôi trên bất cứ phương diện nào. Vả lại, kể chuyện Hồng Sĩ tôi cũng muốn dẫn Thành vào sâu thêm vụ án chúng tôi. Biết đâu sau này anh lại chẳng là người đưa những tin tức cuối cùng của chúng tôi ra ngoài.
Tôi không biết trong lòng Thành đang có nỗi buồn. Anh suy luận: nếu người ta bố trí cho tôi ở chung với anh thì điều đó có thể có nghĩa là vụ án của anh cũng kéo dài luôn – chẳng ai dại gì cho anh ra để mang theo những bí mật về vụ án họ đang bưng bít.
Phòng giam Hồng Sĩ liền vách với phòng vệ sinh, trong đó có chuồng xí lẫn với buồng tắm. Nó rộng rãi, tiện đường đi lối lại, cho nên đám quản giáo, lính gác bên trong Hỏa Lò chốc chốc lại tạt vào tiểu tiện đại tiện, nhát nhát lại bì bõm tắm rửa, thậm chí giặt giũ cũng tới đấy. Hồng Sĩ phải sống trong tiếng đóng cửa, mở cửa, tiếng cười nói oang oang, tiếng nước xối ào ào, trong bầu không khí tanh tưởi, sũng nước suốt ngày đêm.
Tôi không mừng gặp Hồng Sĩ, nhưng sự có mặt của anh ở đây làm tôi thấy bớt cô đơn. Chắc hẳn ở cửa phòng anh có cái lỗ ai khoan sẵn ngó ra ngoài được cho nên lần nào tôi đi qua Hồng Sĩ cũng biết. Nghe tiếng ho làm hiệu của anh mà ấm lòng.
– Cần phải giải thoát cho anh bạn cậu ra khỏi cái xà lim chết tiệt ấy. – Thành nói – Nằm đấy lâu mất sức lắm.
Tôi hiểu – trong óc Thành đã nảy ra một kế.
– Ðồng ý. Nhưng phải làm thế nào?
– Có gì khó. Nguyên tắc của Công an là không để cho tù cùng một vụ thông cung với nhau…
Kế ấy được.
– Ðể nghĩ thêm một chút xem có hại gì cho anh ấy không đã.
– Sẽ xảy ra hai trường hợp: một là anh bạn chúng ta được chuyển đi nơi khác, nơi nào thì nơi vẫn cứ khá hơn ở đây; hai là chính chúng ta bị chuyển đi, trong trường hợp này số phận anh bạn không tốt lên, mà chính chúng ta có thể gặp cái tồi hơn…
– Với tôi thì đâu cũng vậy, nhưng vì bạn tôi mà anh bị ở chỗ xấu hơn tôi không muốn.
– Xì, đừng nghĩ lôi thôi. Cậu cho tôi là loại người gì?
Tôi coi anh là bạn, là người anh. Tôi cảm ơn số phận đã cho tôi gặp anh ở đây. Cách cư xử có nhân phẩm của anh làm tôi cảm phục. Nếu tôi có còn cảnh giác một chút thì đó là do tình thế. Ðược tin một con người là một hạnh phúc.
Còn một điều làm tôi ngần ngại: ấy là tôi sợ Hồng Sĩ hiểu lầm tôi nhát gan đã báo cáo với chấp pháp về việc anh đánh tiếng cho tôi. Mà sự hiểu lầm rằng tôi đầu hàng trong thời gian mọi người đang bị dồn ép khai cung có thể gây ra những tai hại không thể lường trước được.
Nhưng tôi không đành lòng không cứu anh. Vạn nhất có bị anh hiểu lầm thì cũng đành chịu vậy, sau này anh sẽ hiểu. Anh đã là công an, anh chẳng đến nỗi non nớt để bị bọn chấp pháp qua mặt.
Tôi thực hiện kế của Thành ngay lần đi cung sau. Tôi nghĩ kế hoạch của mình sẽ chót lọt mà không gây ra sự phiền phức nào vì gần đây tôi chỉ gặp Hoàng chứ không gặp Huỳnh Ngự. Với Huỳnh Ngự mọi việc sẽ phức tạp lên nhiều.
Tôi quyết định nói với Hoàng vào lúc y chăm chú đọc báo. Bao giờ cũng vậy, sau khi trao cho tôi một số câu hỏi để tôi suy nghĩ, Hoàng vùi đầu vào mấy tờ báo anh ta mang theo.
– Tôi không hiểu sao các anh lại bắt Hồng Sĩ? – đang viết, tôi ngẩng lên hỏi Hoàng – Hồng Sĩ là người của các anh cơ mà?
Hoàng giật mình:
– Hồng Sĩ nào?
– Còn Hồng Sĩ nào nữa.
Buông tờ báo, Hoàng chằm chằm nhìn tôi.
– Làm sao anh biết Hồng Sĩ bị bắt?
– Anh ấy đang ở cùng một khu xà lim với tôi.
– Anh tin chắc như thế?
– Tôi tin chắc.
– Tại sao?
– Tôi nghe tiếng ho của anh ấy. Tiếng ho của Hồng Sĩ không lẫn được.
Hoàng tủm tỉm cười. Như một người Việt Nam chính cống, anh ta cười trong bất cứ trường hợp nào.
– Anh loại trừ mọi khả năng nhầm?
– Tôi loại trừ.
Hoàng không nói gì nữa. Anh ta đẩy bọc thuốc lá sợi về phía tôi.
Tôi cuốn một điếu. Từ khi làm việc với Hoàng, tôi học được cách cuốn thuốc lá của anh ta – trên những ngón tay thành thục điếu thuốc hiện ra tròn trịa, ngay ngắn, đầu bằng đít, đít bằng đầu, như thể cuốn bằng máy. Hoàng không bao giờ hút thuốc bao, anh ta chỉ có thuốc sợi, mà là loại thuốc vụn phế liệu của nhà máy bán cho cán bộ và dân nghèo, không phải phiếu, giá lại rẻ.
– Anh có phân biệt được tiếng tên lửa lúc phóng lên và lúc nó nổ trên trời không? – Hoàng hỏi.
– Cũng còn tùy ta ở cách dàn phóng bao xa và tên lửa được cho nổ ở độ cao nào, và còn tùy ở khoảng cách giữa lúc nó nổ và tai mình nữa. – tôi bình thản trả lời – Tôi cho rằng tôi phân biệt được, mặc dầu chưa bao giờ tôi đặt ra cho mình một câu hỏi như thế.
Hoàng quay lại với đề tài Hồng Sĩ vào cuối giờ làm việc.
Anh ta nói nếu tôi muốn báo cáo với Ðảng về Hồng Sĩ thì anh ta không phản đối. Tôi cười nhạt, nói tôi không có tinh thần xung phong lập công. Ðáp lại, Hoàng làm thinh.
Không thể nhớ được là ngày hôm đó chúng tôi làm việc gì. Như mọi ngày, Hoàng đặt vài câu hỏi về một nhân vật nào đó, nhiều người tôi không quen, nhưng có gặp, hoặc có nghe tiếng. Tôi trả lời lăng nhăng, cho có lệ, rồi viết những câu lăng nhăng nọ vào giấy, Hoàng đọc lại, tôi ký phía dưới – thế là thành bản cung.
Tôi lấy làm lạ: bọn họ bày ra cái trò vớ vẩn ấy làm gì? Có lẽ họ có những bài bản độc đáo mà tôi không hiểu. Kiến thức của tôi về nghề mật thám quá nghèo nàn.
Trước khi bị bắt tôi có được đọc một số hồi ký của những người cộng sản Liên Xô bị bắt dưới thời Sta-lin đăng trong tạp chí Novy Mir (Thế Giới Mới) và Neva (Sông Neva). Cung cách bắt người ở bên ấy hoàn toàn giống ở Việt Nam. Nhưng cách hỏi cung thì khác nhiều. Thời Sta-lin, người nào cũng bị tra tấn. Có người sợ quá trong một ngày đêm khai ra hơn một trăm kẻ thù của nhân dân. Không biết có phải vì được dùng nhục hình mà OGPU hoặc NKGB, hoặc NGB(8) dựng vụ tài hơn không, nhưng những vụ lớn đều được đưa ra xét xử tại tòa án. Ðiều đáng khâm phục hệ thống trấn áp của Stalin là trước tòa hết thảy người bị bắt oan đều nhận tội phản Ðảng, làm tay sai cho đế quốc. Dưới triều Lê Duẩn, lũ công sai đã vụng về lại không được phép dùng nhục hình(9), thành thử chủ của chúng lúng túng mãi không biết làm cách nào nặn ra cái họ muốn.
Ngay đêm ấy, Hồng Sĩ bị chuyển đi nơi khác. Chúng tôi nghe tiếng mở cửa phòng anh, tiếng người nói khẽ, giọng giục giã, tiếng dép lẹp kẹp trên sàn xi măng, tiếng ho khan nhiều lần của Hồng Sĩ. Tôi hiểu: anh gửi tôi lời chào từ biệt.
(1) Về sau tôi mới biết hai ông không bị bắt, nhưng bị quản thúc tại gia. Người ta không bắt có lẽ vì không muốn vụ án thêm ầm ĩ vì cả hai là ủy viên Trung ương Ðảng.
(2) Khi Phạm Viết bị bắt, tờ báo mang tên Hà Nội Mới.
(3) Nói xuất thân công nông là nói theo cách thường bấy giờ, chứ giai cấp công nhân Việt Nam vào thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám nhỏ bé đến nỗi hầu như không có mấy cán bộ cách mạng xuất thân từ giai cấp công nhân. Ðặc biệt trong hàng ngũ cán bộ trung cao cấp lại càng hiếm hơn nữa, phần nhiều số cán bộ này thuộc thành phần dân nghèo thành thị và trí thức tiểu tư sản.
(4) “Câu lạc bộ Pêtôfi” là tên gọi của tổ chức những nhà trí thức đấu tranh cho dân chủ, chống lại chế độ độc tài của nhà nước cộng sản tại Hungari vào giữa thập niên 50, lấy tên nhà thơ Sandor Petofi (1823-1856) của Hungari. Từ “Câu lạc bộ Pêtôfi” đã hình thành một phong trào đấu tranh rộng lớn của nhân dân Hungari vì dân chủ và tự do.
(5) Phạm Viết chết trong tù ngày 31.12.1971.
(6) Chị Lan, cán bộ ẹy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, cũng bị bắt, nhưng không bị giam lâu (chị chỉ bị giam hai năm rưỡi), sau đó được tha cho về nuôi con.
(7) Bùi Ngọc Tấn bị bắt, bị giam hình như 5 hoặc 6 năm, nhưng không được Ðảng gộp vào trong đám xét lại ở Trung ương. Anh bị đối xử xấu hơn, vợ con anh ở nhà không được hưởng nửa lương như vợ con tôi, mà bị cắt hoàn toàn.
(8) Những tên tắt của cơ quan mật vụ Liên Xô trong thời kỳ trị vì của Stalin. Khởi đầu bằng cơ quan Cheka (U?y ban đặc biệt) được thành lập sau Cách mạng Tháng Mười, các cơ quan này thực hiện việc trấn áp “các lực lượng phản cách mạng”.
(9) Trong nhà tù Việt Nam kể từ Cải cách ruộng đất việc dùng nhục hình bị nghiêm cấm. Ðó là sự thật. Nghe nói sau năm 1975 ở một số trại tù miền Nam tù nhân bị phơi nắng, bị giam trong những công-te-nơ, bị đánh bằng roi, bằng gậy. Ðiều này tôi không rõ.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:24:16 GMT -6
Chương 28
Mùa hè, Hỏa Lò nóng như thiêu như đốt.
Huỳnh Ngự lấy Hỏa Lò ra dọa tôi không phải không có sở cứ. Từ sáng sớm, những khối bê tông dày và rắn như đá thu nhận lửa trời xích đạo vào lòng, tích tụ nhiệt ở đó, khoảng tầm trưa thì bão hòa. Ðến lúc đó chúng mới phả cái nóng âm ỉ được nhân lên nhiều lần vào xà lim cho tù. Xà lim, như tôi đã tả, kín như bưng. Mùa đông gió không lùa vào được còn đỡ, chứ mùa hè thì chịu không xiết. Mồ hôi tháo ra như tắm.
Thành dùng riêng một khăn mặt để lau mồ hôi, chốc chốc lại phải vắt. Nước từ khăn mặt chảy ra tong tỏng. Cái khăn mặt trắng chẳng bao lâu có màu tím xẫm của quả sim, không hiểu trong mồ hôi người có chất gì mà lại làm khăn biến màu như thế? Tôi không có khăn mặt, đành mặc cho mồ hôi túa ra đầm đìa, chảy dọc theo người, đọng thành vết dưới chân.
Lúc đầu chúng tôi còn ngượng với nhau, chỉ cởi trần, mặc quần đùi, sau chúng tôi không buồn ngượng nữa, cởi bằng hết, nồng nỗng như người tiền sử, mặc cho đám quản giáo và lính canh khinh khỉnh ngó vào. Dưới con mắt họ, hẳn hai đứa chúng tôi giống hai con vật dạng người bị nhốt trong cũi. Còn chúng tôi thì tự an ủi: cho dù có quần ngoài áo trong, chất người trong chúng mày chửa chắc gì đã bằng chúng tao.
Ðể chống nóng, Thành và tôi quyết định hai người dùng chung một bô, cái thứ hai cọ sạch đi để chứa nước. Tôi nhìn cái bô nhếch nhác, cáu bẩn, đã trải qua không biết bao nhiêu đời tù mà ngán. Thành quả quyết có thể cọ sạch được. Anh hì hục cậy một mẩu gạch ở chân tường phòng vệ sinh, kiên nhẫn dùng nó cọ nhiều lần, cho tới khi cái bô sắt tráng men trở thành trắng tinh. Có cái đựng nước dự trữ rồi lại phải kế hoạch hóa sao cho chặt chẽ để các chất thải trong ngày chỉ được phép đầy ắp cái bô còn lại đúng giờ mở cửa buổi sáng. Ðại tiện phải lần lượt kẻ trước người sau cùng một lúc, cũng vào giờ ấy, có thế mới không phải hít thở lâu không khí hôi thối trong phòng. Xà lim kín lắm, cả tiếng đồng hồ mùi thối mới bay đi hết.
Ấy thế mà cái sáng kiến nhỏ bé ấy lại rất đắc dụng – chúng tôi có thể tự cho phép mình được giội hai ca vào buổi chiều, khi cái nóng Hỏa Lò lên tới đỉnh điểm, người ngứa ngáy không chịu nổi, còn hai ca dành cho buổi tối, trước khi đi ngủ Ðó là sự sang trọng không thể có ở bất kỳ xà lim nào. Chúng tôi giội từ từ, từng giọt nước hiếm hoi lên đầu, cho chúng chảy dần xuống tấm thân nóng rẫy. Nước mát rượi, đi tới đâu biết tới đó, như là nước cải tử hoàn sinh trong cổ tích. Nó cuốn đi mồ hôi bẩn, cuốn theo cả cái mệt mỏi, chảy xuống đến ngón chân đã thành nước nóng. Vì một cái bô không chứa đủ chất thải của hai người trong một ngày, nên thỉnh thoảng chúng tôi phải đi tiểu vào lỗ thoát. Nước giội còn có tác dụng rửa sàn, làm trôi đi phần nước tiểu đọng lại trong lỗ, phòng không bị khai. Nói chung, ở trong hoàn cảnh khó khăn mới biết Thành nhiều sáng kiến.
Giờ đây, ba chục năm trôi qua rồi, vậy mà mỗi lần nhớ lại xà lim Hỏa Lò tôi còn nổi da gà.
Chao ôi là nóng! Nóng ghê gớm! Nóng khủng khiếp! Tưởng chừng cả đất trời đều bốc lửa. Tưởng chừng con người sẽ tan thành hơi sau cơn ngắc ngoải kéo dài. Nhưng sau một ngày vật vã, Hỏa Lò lại dịu đi về đêm, khoảng hai giờ sáng thì dịu hẳn, cho phép lũ tù khốn khổ được hồi sinh trong giấc ngủ mê mệt, không cho chúng chết ngay, để chúng được sống tiếp mà chịu cơn hành hạ hôm sau. Trong đời mình tôi chưa từng gặp một cái nóng nào tương tự, kể cả khi nằm trong những thung lũng lòng chảo vùng núi Việt Bắc, Tây Bắc hoặc giữa khu 4 gió Lào. Viết về cái nóng ở khu 4, Nguyễn Tuân rên rỉ: “Chao ôi, còn có giống đực giống cái nào nghĩ đến nhau trong cái mùa gió Lào nổi lên này!”.
Tôi không đủ sức tả cái nóng Hỏa Lò bằng một câu đắt giá. Tôi chỉ còn đủ sức để thở hoặc để cho mình đừng ngừng thở mà thôi.
Trong phòng hỏi cung có một cái quạt tai voi(1), được đặt sau lưng Huỳnh Ngự. Từ cái quạt phả vào mặt tôi không phải gió mát mà không khí nóng. Dù sao mặc lòng, luồng không khí chuyển động chậm chạp cũng giúp cho mồ hôi bay đi được một phần. Trong cái nóng đặc sệt nhày nhụa quyện lấy thân thể, mồ hôi vẫn cứ chảy ròng ròng bên trong quần áo sau khi đã thấm ướt tất cả.
– Nóng quá, hè!
Huỳnh Ngự, chính y, cũng không chịu được cái nóng Hà Nội.
Những ngày cuối y có vẻ ngượng với tôi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam gây được một cơn hào hứng ầm ĩ suốt mùa xuân, bước vào hè cho thấy nó chẳng phải là cái Huỳnh Ngự hùng hồn tuyên bố. Trên các mặt báo vẫn đỏ chót những bản tổng kết chiến công, không nói gì đến tổn thất.
– Dù sao nó cũng có giá trị một cuộc tổng diễn tập. – tôi an ủi y, nhân câu chuyện vô tình lạc bước vào đề tài chiến tranh – Mà cuộc diễn tập nào không phải trả giá.
Ngành tuyên truyền đã có những phương án giải thích cho mọi trường hợp. Cách ngụy biện của những người cầm chèo lái nghe có vẻ hợp lý, nhưng vô duyên. Nó gợi ta nghĩ tới một anh chàng ba hoa đứng giữa ngưỡng cửa để hùng hồn tiên đoán về ba khả năng: một là y vào, hai là y ra, ba là y đứng tại chỗ. Bất cứ khả năng nào xảy ra y cũng đúng – y đã nói trước cả rồi mà.
Mặt Huỳnh Ngự xị xuống. Nếu là trước kia thể nào y cũng phải lên giọng mắng át, nhưng lần này y nín lặng.
Nói chung, sau nửa năm cãi cọ, dền dứ, mọi sự rồi cũng thành nhàm – y không còn hăng hái đóng vai trò người thay mặt Ðảng để giảng đạo Mác mà y hiểu rõ rằng tôi thuộc hơn y, còn tôi thì cũng bắt đầu mất hào hứng vai trò tên tù bất trị.
Ðể hình dung một bản khai được cả hai bên góp sức mà thành là thế nào, tôi xin lấy một bản làm thí dụ.
Vào khoảng tháng thứ hai tính từ ngày tôi bị bắt, Huỳnh Ngự hỏi tôi:
– Anh biết Trần Minh Việt chứ?
– Tôi biết.
– Thằng Việt có viết một cương lĩnh cho cái Ðảng tương lai của các anh, anh đọc rồi chứ?
– Tôi không biết hai cái: cương lĩnh là một, Ðảng tương lai của chúng tôi là hai.
Y nhìn chằm chằm vào mặt tôi:
– Anh biết.
– Tôi không biết.
– Anh thấy cương lĩnh đó thế nào?
– Rất tiếc, tôi chưa được đọc.
Huỳnh Ngự mỏi mắt. Y nguýt tôi.
– Anh chưa đọc là may cho anh đó. Lại còn rất tiếc. Mấy anh đi Tây về anh nào cũng mắc tật ấy – mở miệng ra là rất tiếc, rất tiếc…
– Tôi thậm chí không biết nó có. – tôi xuê xoa – Nếu có thể, tôi muốn mượn một bản đọc chơi, xem cái cương lĩnh đó ra sao.
Huỳnh Ngự bĩu môi.
– Tui không mần công việc tán phát tài liệu phản động. Hôm nay anh sẽ viết cho tui một bản khai về thằng Trần Minh Việt, hí?
– Nhưng tôi biết gì về Trần Minh Việt mà khai?
– Biết tưng nao khai tưng nớ. Tức là những chi anh biết, hoặc nghe người khác nói, chính thằng Minh Việt nói ra, hay là ông già anh nói, thằng Giang hay thằng Chính nói…
Trần Minh Việt là lý thuyết gia số một của bọn xét lại hiện đại, theo cách nhìn của Lê Ðức Thọ và đàn em. Tên này đã cả gan thảo ra một bản cương lĩnh cho một đảng cộng sản mới sẽ ra mắt quốc dân sau khi ban lãnh đạo Ðảng hiện tại bị lật đổ.
Tôi không giấu Huỳnh Ngự. Tôi không biết gì về cái gọi là cương lĩnh” ấy. Ra tù, tôi mới được đọc nó, do một người bạn Trần Minh Việt cất giấu được. Chính Trần Minh Việt thì lại không còn bản nào trong tay. Hóa ra tập tài liệu đánh máy dày chưa tới hai chục trang mà Huỳnh Ngự nói tới chẳng phải cương lĩnh cương liếc chi hết, mà chỉ là những suy nghĩ của Trần Minh Việt về con đường phát triển đất nước và vai trò Ðảng trong tình hình mới, với những đề xuất tâm huyết của anh với Trung ương. Khốn nạn cho Trần Minh Việt! Anh đâu có muốn phá Ðảng, anh đóng góp ý kiến để Ðảng của anh vững mạnh hơn đấy chứ.
Minh Việt thế mà ngây thơ. Ðến những cán bộ thường như chúng tôi cũng biết rằng trong xã hội Việt Nam một việc làm như thế là một lỗi lầm không thể tha thứ. Là đảng viên, cho dù trong cấp ủy cao, anh cũng không được phép tỏ ra hiểu biết hơn lãnh đạo. Nếu anh có ý kiến hay hơn Trung ương chẳng hóa ra anh giỏi hơn Trung ương sao? Mà anh đã dám coi mình giỏi hơn Trung ương thì nhất định anh phải coi thường Trung ương, trong đầu anh nhất định phải nảy ra ý nghĩ thay thế Trung ương rồi. Lê Duẩn có cho bắt anh cũng phải.
– Thế nào, còn suy nghĩ chi nữa? Hay còn e dè, còn nể nang thằng Chính, thằng Giang(2)? Nói để anh hay, trong khi anh cứ khăng khăng bảo vệ chúng hắn thì chẳng có thằng cha mô bảo vệ anh hớt, chúng hắn khai cho anh cả ký giấy rồi nè…
Cách giáo dục cán bộ công an của Ðảng thực hay – tiên học căm thù, hậu học mạ lị. Các cụ dạy tiên học lễ, hậu học văn là sai toét tòe loe rồi. Cái thứ con cháu hơn tổ tiên thế này là phúc đức cho nòi giống hay điềm báo vận mạt của nó?
– Tui nhắc lại: chỉ có qua những lời khai anh mới chứng tỏ được lòng trung thành của anh đối với Ðảng. – Huỳnh Ngự ân cần khuyên nhủ – Việc Ðảng tha anh hay giữ anh lâu dài phụ thuộc ở anh, ở thái độ anh thể hiện trong những bản khai nầy đó.
Thì khai.
Tôi viết về Trần Minh Việt những lời nhạt thếch, rằng tôi có gặp anh vài lần ở nhà tôi. Tôi kể con cà con kê chúng tôi nói với nhau chuyện gì (tất nhiên, không phải chuyện đường lối chống Ðảng). Qua lời anh kể tôi mới biết anh đã học ở trường Ðảng cao cấp Liên Xô, nhưng khi bắt đầu có chuyện tranh chấp ý thức hệ trong phong trào cộng sản quốc tế Trần Minh Việt trở về Việt Nam, chứ không ở lại Liên Xô như Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Văn Doãn…vv (biết rồi, khổ lắm, nói mãi!).
Thế là xong một bản khai.
Làm việc với Huỳnh Ngự riết rồi tôi đâm ra khoái khai cung. Nó trở thành một trò chơi của đời tù và tôi cho trí tưởng tượng của tôi tha hồ bay bổng. Chẳng hạn, tôi bịa ra những cuộc gặp gỡ không hề có trong thời gian học ở trường điện ảnh với những điệp viên thượng thặng để lấy tài liệu cho những kịch bản phim tình báo tương lai, bốc láo rằng khi thực tập làm phim tài liệu tôi được đi xem những phương tiện chiến tranh Liên Xô mới sản xuất, những máy bay cất cánh từ những xe tải, những tên lửa tự tìm mục tiêu… Tôi cảm ơn Herbert Wells(3) đã giúp tôi trong những sáng tác bất đắc dĩ này. Huỳnh Ngự khoái những chuyện bịa của tôi lắm. Nhưng khi y mon men tới đề tài tôi làm tình báo thì tôi cài số lùi: “Tôi chưa nghe ai nói tới chuyện tuyển mộ tôi cả…”
Cuối cùng rồi cũng đến một ngày Hoàng trịnh trọng đặt lên bàn tập hồ sơ dày cộp.
– Ðây là những gì anh đã khai.
Tôi ngạc nhiên: trời đất quỷ thần ơi, tôi đã viết cho chúng nhiều đến thế kia ư? Chúng sẽ làm gì với những trang giấy vô tích sự ấy nhỉ? Thật vậy, chúng sẽ làm được gì?
Hoàng bảo tôi ký vào mấy tờ giấy. Ký xong, tôi hỏi bằng giọng làm ra vui vẻ:
– Theo tôi hiểu, giai đoạn hỏi cung đến đây là kết thúc, có phải không ạ? Sau đó là tòa án?
Hoàng gập tập hồ sơ lại, cười khẩy:
– Anh nghĩ thế nào cũng được. Việc đời, anh Hiên ạ, nó chẳng đơn giản như ta muốn.
– Chết chửa, có nghĩa là đến bây giờ vẫn chưa xong?
– Xong thế nào được. Chúng tôi còn phải hỏi nữa, chừng nào vụ án chưa kết thúc. Cứ coi là đã qua một giai đoạn, ta tạm sơ kết cái đã. Là một vụ án có nhiều người, nhiều việc, trong sự hỏi cung không tránh khỏi tình trạng người này nói khác người kia, người nọ xong trước người kia. Cũng là chuyện dễ hiểu, phải không? Việc điều tra chỉ thật sự kết thúc chừng nào cơ quan an ninh làm xong với người cuối cùng. Anh hiểu chứ?
– Tôi không hiểu. – tôi lạnh lùng – Trong bất kỳ xã hội văn minh nào cũng có những quy định về thời hạn giam giữ trong khi điều tra, tức là chỉ có thể giam người trong một thời hạn nhất định mà thôi…
Hoàng cười mũi:
– Anh có ý muốn nói ở những nước tư sản chứ gì? Anh cho rằng xã hội ta không văn minh? Anh tỉnh lại đi, anh Hiên, anh đang ở một nước xã hội chủ nghĩa kia mà. Nghĩa là ở một nước có đảng cộng sản cầm quyền, lấy chuyên chính vô sản làm sợi chỉ hồng xuyên tâm(4) trong sự nghiệp bảo vệ cách mạng. Hoàn toàn không phải là nơi có chế độ đại nghị. Ðó là những khái niệm khác nhau, khác về cơ bản, về chất, mong anh đừng nhầm lẫn.
– Cho dù có áp dụng chuyên chính vô sản thì điều đó, theo tôi nghĩ, cũng không hề có nghĩa Nhà nước vô sản không cần đến pháp luật.
Hoàng cười hi hí.
– Tùy anh. Tôi cho rằng anh nhầm. Nói trắng ra là anh có quan niệm huyễn hoặc về chủ nghĩa cộng sản. Lại là chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản châu Á nữa. Tôi thật lòng không muốn anh phải trả giá cho sự nhầm lẫn đó.
Tôi không hiểu Hoàng. Anh ta xử sự lắm lúc không khác gì một tên cuồng tín, ấy thế mà đôi khi lại tương ra một nốt nhạc ngang phè trong bài ca xưng tụng Ðảng chí tôn mà dân chúng nhất nhất phải thuộc lòng.
Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là tại sao, vì lẽ gì những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó còn đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô hình xã hội quỷ quái như vậy?
Tôi quan niệm trong xã hội xã hội chủ nghĩa Ðảng cộng sản chỉ có thể đóng vai trò lãnh đạo thông qua trung giới là hệ thống pháp luật do nó đề xướng, được nhân dân dân chủ bàn bạc, dân chủ chấp nhận. Khi nói về Nhà nước tư sản chính Mác cũng chỉ ra rằng Nhà nước này bảo vệ quyền tư hữu tài sản, tức là bảo vệ quyền lợi của những tầng lớp hữu sản, thông qua trung giới pháp luật, chứ giai cấp tư sản không trực tiếp quản lý xã hội bằng những biện pháp hành chính. Sự lãnh đạo bằng chỉ thị và nghị quyết của Ðảng cộng sản trong tinh thần đồng nhất Ðảng với pháp luật là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. Chính nó, chứ không phải cái gì khác, sẽ phá tan Ðảng.
Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao nhiêu, trong ý nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái cá nhân.
Sau Cách mạng Tháng Tám uy tín của ông Hồ Chí Minh vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của ông còn lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là “cha già dân tộc” của Việt Nam, mà còn là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.
Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với Tổ quốc. Các chiến sĩ xung trận hô lớn “Vì Ðảng, vì Bác, tiến lên!”. Những đảng viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng trên “bàn thờ Tổ quốc” trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó lòng đạt được những thành công như nó đã đạt được.
Ðiều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ thì không có phong trào là hiện tượng đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu. Nhu cầu vô thức này có cội rễ từ hình thái xã hội bầy đàn, xã hội bộ lạc thời nguyên sơ. Bắt đầu bằng lời phân trần khiêm tốn tại quảng trường Nhà hát lớn thành phố Hà Nội năm 1946 đầy biến động và khó khăn: “Hồ Chí Minh thề không bao giờ bán nước”, khi đồng bào còn chưa biết ông là ai, đến lúc uy tín đã được thiết lập, ông liền xưng “Bác” với mọi người rất tự nhiên, kể cả với những người bằng vai phải lứa hoặc không bằng vai phải lứa.
Khởi đầu cách xưng hô này là cách ông xưng với chúng tôi, những đứa con các đồng chí gần gụi ông. Sau đó nó được dùng như một bí danh, rồi mới có ý nghĩa ngôi thứ. Nhà văn Sơn Tùng trong một số văn phẩm đã miêu tả sai, như thể cha tôi và các cán bộ Ðảng gần ông Hồ đều kêu Bác xưng cháu với ông. Sự thực không phải như vậy. Những ngày Cách mạng Tháng Tám các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Ðình Long, Bùi Lâm… đều gọi ông Hồ bằng anh xưng tôi.
Từ ngữ ngẫm ra quan trọng lắm. Khi có nhiều người đã cháu cháu bác bác với ông Hồ rồi thì ông tưởng mình là bác thật, những người xưng cháu cũng sẵn sàng khoanh tay vâng dạ bề trên. Thế mới biết một từ dùng không cẩn thận có thể đẻ ra tai họa.
Cách tôn vinh lãnh tụ theo lối gia trưởng tồn tại cả trong hàng ngũ Khmer Ðỏ. Pol Pot, kẻ lãnh đạo cuộc diệt chủng không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại cũng được đồng bọn gọi là Om (Bác), là Puk (Cha)(5).
Tôi nhiều lần được chứng kiến ông Hồ nói chuyện với quần chúng như thế nào. Trong bộ quần áo kaki giản dị, có khi là bộ áo cánh lụa nâu, ông không có gì cách biệt với những người ông tới thăm họ, thăm với tình thân, chứ không phải tới để thị sát, với tư cách bề trên. Ông có giọng nói ấm áp, hơi trầm, âm lượng không lớn nhưng vang xa, với những lời dễ hiểu đối với quần chúng lao động, người nghe chủ yếu của ông. Ông không phải nhà hùng biện, nhưng tiếng tăm về lòng yêu nước của ông, địa vị chủ tịch nước của ông, cách nói dễ hiểu của ông đối với dân chúng đã làm cho ông trở thành nhà hùng biện kiệt xuất của thời đại, vượt xa những nhà hùng biện tôi đã được nghe như Trần Văn Giàu, Nguyễn Sơn, Dương Bạch Mai… Chỉ có một điều không sao hiểu được, nó làm tôi khó chịu là: khi ông Hồ Chí Minh nói chuyện với dân chúng, trong đám đông cuồng nhiệt hoan hô lãnh tụ có cả những cụ già cao tuổi, thế mà ông vẫn xưng Bác tự nhiên như không. Chẳng lẽ một người nổi tiếng khiêm nhường như ông lại có thể phạm phải một khuyết điểm không tha thứ được đối với chuẩn mực giao tiếp châu Á?
Chỉ một lần tôi nghe thấy ông Hồ xưng em – đó là với nhà cách mạng lão thành Ðinh Chương Dương. Hôm ấy dân chúng Hà Nội từ biệt ông Hồ trước khi ông lên đường sang Pháp (1946). Trước Bắc bộ phủ là cả một rừng cờ và hoa bên trên biển người xao động, trong tiếng nhạc binh trầm hùng, tiếng hô khẩu hiệu vang trời. Tôi đi cùng bác Ðinh. Bác Ðinh lúc bấy giờ đã yếu lắm, phải tựa vào vai tôi mà bước. Vì đến muộn, chúng tôi chật vật mới len được qua đám đông để vào Bắc bộ phủ. Nhìn thấy bác Ðinh từ xa, bác Hồ lật đật từ trên thềm cao chạy xuống, ân cần đỡ tay ông: “Bác tới thăm em làm chi, khổ quá, bác chưa được khỏe mà”. Trả lời câu hỏi thăm của bác Ðinh, bác Hồ(6) ưỡn ngực ra, cười lớn tiếng: “Hồi nầy em khá nhiều rồi, bác ạ”.
Ðến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ chủ tịch là chính Hồ Chí Minh. Trong lịch sử thế giới có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử mình với những lời lẽ ca ngợi chính mình. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập ký sự Vừa Ði Ðường Vừa Kể Chuyện ký tên T. Lan, những bài báo ký tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là thật. Một việc làm thừa, hơn thế, ngớ ngẩn – không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí Minh chẳng những đã tràn ngập mà còn vượt ra ngoài bờ cõi.
Thể chế tổng tài châu Á có nguồn gốc từ chế độ thị tộc. Vua coi dân như con là quan niệm chỉ có ở châu Á. Châu Âu từ xưa không có cái đó. Châu Mỹ lại càng không. Nói gì vua, một ông phủ, một ông huyện cũng dám vỗ ngực xưng “dân chi phụ mẫu”(7) trong cái lãnh địa nhỏ bé mà họ cai trị kia mà.
Không kể những thiên tài như Leonardo da Vinci, Herbert George Wells(8), trí tưởng tượng của con người ta nông cạn lắm, hạn hẹp lắm – nó không có tài tưởng tượng ra cái chưa hề có. Hình ảnh mà trí tưởng tượng sản sinh ra bao giờ cũng là cái bóng của hiện thực. Nền kiến trúc tư bản, khi xã hội tư bản vừa hình thành, mang dáng dấp lâu đài, cung điện của các chúa đất phong kiến. Những người cộng sản Việt Nam hình dung chế độ xã hội chủ nghĩa qua hình dạng cái quốc gia nửa phong kiến nửa thuộc địa là nước Việt Nam thời thuộc Pháp. Trong sự kế thừa vô thức này xã hội Việt Nam ngày nay có mang nhiều nét trật tự nửa phong kiến nửa thuộc địa âu cũng là lẽ thường tình.
Ðáng trách nhất là những người cộng sản thế hệ đầu tiên, nổi tiếng kiên cường trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, lại không có đủ dũng khí để quát lên: “Không được phép!” khi ban lãnh đạo Ðảng tự tiện đặt mình lên địa vị “dân chi phụ mẫu”, cắt xén những quyền dân chủ mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại. Còn sau đó, như theo đà trượt, nền dân chủ thiếu tháng cứ phăng phăng tụt dốc không sao hãm lại được nữa.
Xin quay lại chuyện Hỏa Lò.
Trong buổi “sơ kết” nói trên Hoàng tỏ ra vui vẻ. Anh ta mời tôi uống trà, mời tôi hút thuốc vấn, rồi khúc khích cười như có điều vui thú trong lòng.
– Cơ quan an ninh bày tỏ lòng khâm phục anh. – Hoàng nói, giọng bỡn cợt – Hơn nửa năm làm việc, tốn bao nhiêu thời giờ, cả giấy mực nữa, cũng tốn lắm, vậy mà chúng tôi không biết hơn được điều gì ngoài những điều chúng tôi đã biết rồi.
Tôi nhìn vào mắt Hoàng, nhưng anh ta tránh cái nhìn của tôi, vờ lúi húi soạn giấy má trên bàn. Ðợi cho Hoàng thu dọn xong, tôi nói:
– Cơ quan an ninh có muốn biết câu trả lời của tôi cho nhận xét đó không?
– Anh cứ nói.
– Trước hết, tôi xin phép được nghi ngờ cái gọi là những điều cơ quan an ninh đã biết rồi. Mặc dầu đối với tôi chuyện các anh biết cái gì rồi không phải chuyện khó hiểu.
Hoàng ngạc nhiên.
– Anh nói rõ thêm đi.
Tôi cười:
– Chúng tôi và các anh có những điểm tương đồng về nghề nghiệp. Những điều được gọi là cơ quan an ninh đã biết rồi, theo tôi nghĩ, thuộc một lĩnh vực mà trong nghề văn chúng tôi người ta đặt tên là hư cấu, nói theo cách dân dã là bịa.
Hoàng ngẩng phắt lên, nhưng trong cái nhìn của anh ta, tôi không thấy có vẻ gì là giận dữ.
– Anh Hiên ạ, tôi thật lòng khuyên anh nên cẩn thận trong lời ăn tiếng nói. Chúng ta đang ở Việt Nam. Tôi thật lòng lo lắng cho anh.
Anh ta gọi quản giáo đưa tôi về.
Tôi đi lững thững trên con đường đã đi không biết bao nhiêu lần. Hoàng nói thế là có ý gì? Phải chăng anh ta muốn báo cho tôi biết vụ án còn lâu mới kết thúc, và cuộc trấn áp là không khoan nhượng?
Nghe tiếng mở cửa, Thành nhỏm dậy. Mặt anh nhớn nhác.
– Mấy giờ rồi?
– Chắc gần 11 giờ.
– Mình ngủ say quá.
Tôi ghé ngồi bên anh, lặng lẽ quan sát.
– Anh nói dối tôi làm gì?
– Sao cậu lại nói thế?
– Bởi vì tôi quý anh. Tôi không thích nghe anh nói dối.
Anh nói, vẻ sượng sùng.
– Mình ngủ mà.
Tôi cười:
– Anh không ngủ. Người ngủ say mắt bao giờ cũng kéo những tia đỏ, là một. Anh gối trên bọc quần áo, trên cùng là cái quần, dải rút to thế này thể nào cũng phải hằn trên má anh mà lại không thấy vết hằn đâu, là hai. Ngủ say mà nằm ngiêng như anh thường nằm má bên dưới phải đỏ hơn má trên, là ba. Ðủ chưa?
Thành cụp mắt xuống.
– Anh cũng bị gọi đi cung chứ gì?
Thành lẳng lặng gật đầu.
– Và họ hỏi anh về tôi, phải không?
Thành lại cụp mắt xuống. Tôi thở dài.
– Tôi sẽ không hỏi anh chuyện họ hỏi anh những gì về tôi. Chẳng cần hỏi tôi cũng biết họ hỏi gì. Tôi đã nói thẳng với họ những điều tôi bằng lòng nói. Còn những chuyện gì tôi không muốn nói thì đó là việc của tôi với họ. Họ chẳng có thể kiếm chác được gì hơn ở anh. Vả lại, tôi tin anh.
Thành im lặng.
Tuy vậy, con đỉa nghi ngờ bám chặt, sống dai. Giữa hai người phải mất một thời gian mới có lại được không khí thoải mái trước đây. Không khí nghi kỵ lẫn nhau là không khí mỗi người Việt Nam hít thở. Việc Thành giấu tôi chuyện anh đi cung làm tôi buồn. Tôi lại bị nỗi cô đơn đè nặng.
Nếu như thời gian đầu tiên tôi có ý muốn tự sát thì càng về sau ý chí phải sống sót bằng được càng mạnh mẽ. Tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào tôi nghe về thực chất cái xã hội trong đó con người Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do tối thiểu mà mỗi công dân bình thường của thế giới bình thường phải có.
Kiệt lực qua thập điện khổ đau Tôi lử lả tiến công vào cái Ác Trong đêm giữa ban ngày Vũ khí trong tay Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường, Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc. Thì ra máu của tim mình nhỏ xuống đất cằn Và đất lên giọng hát Bài hát của niềm tin Từ trái tim tôi rách nát.
Tôi nằm dài, nghĩ vẩn vơ, đầu trống rỗng. Tôi viết mấy vần tự sự này tại địa ngục Hỏa Lò, mùa hè năm 1968. Tôi làm thơ lăng nhăng, khi buồn. Mỗi bài thơ ghi lại một nỗi niềm, một mẩu ký ức.
Những ngày sau đó tôi và Thành ít nói chuyện với nhau hơn. Có một cục sạn rơi vào trong mối quan hệ thân tình giữa hai con người đau khổ.
Rồi trong một đêm không ngủ được Thành kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện anh buộc phải nhận lời công an để theo dõi tôi như thế nào. Anh kể khó nhọc, giọng đứt quãng, với vẻ mặt đau khổ.
Câu chuyện nhạt phèo, không đáng kể lại. Không phải chỉ ở Việt Nam mới có chuyện này, ở đâu cũng vậy, dù ở nước Mỹ tư bản, nước Ðức phát-xít hay ở Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, để trả công cho việc làm chỉ điểm người ta tung ra vô số lời hứa, cái nào cũng hấp dẫn đối với người tù thiếu thốn đủ thứ. Anh sẽ được nhận thư vợ nhiều hơn, được nhận tiếp tế nhiều hơn, thường xuyên hơn. Người ta còn hứa sẽ giảm án cho anh nếu anh lập công lớn. Tuy nhiên, để người đảng viên trước kia trong Thành khỏi tủi, người ta kêu gọi anh hãy nhớ tới trách nhiệm trước Ðảng, cố gắng lập công dâng Ðảng.
– Tôi xấu hổ phải nghe những lời dụ dỗ ấy. – Thành ngậm ngùi – Nhưng chẳng có cách nào khác…
Tôi an ủi anh:
– Tôi hiểu. Ở địa vị anh tôi cũng không làm khác được.
– Cậu hiểu cho tôi thì tôi mừng.
Anh rơm rớm nước mắt.
Chúng tôi có những vị thế khác nhau, cách người ta đối xử với chúng tôi cũng khác nhau. Với tôi, chắc chắn bọn Huỳnh Ngự không dám đặt vấn đề như thế, cho dù chúng rất muốn.
Trời dịu dần hay là tôi đã thích nghi với cái nóng Hỏa Lò không rõ, nhưng tôi không còn thấy khó chịu đựng như trước.
Những buổi đi cung thưa dần rồi tạnh hẳn, cứ như thể không có một vụ án nào hết, mà chỉ có một hình phạt. Theo ý thích của ông chủ.
(1) Thứ quạt chế tạo tại Liên Xô, cánh bằng cao su, không có lồng sắt bên ngoài.
(2) Chỉ thiếu tướng Ðặng Kim Giang. Khi Huỳnh Ngự gọi thằng Giang là nói Ðặng Kim Giang, còn Nguyễn Kiến Giang thì y gọi là thằng Kiến Giang.
(3) Herbert George Wells (1866-1946), nhà viết truyện viễn tưởng lỗi lạc, tác giả của những cuốn Máy Thời Gian, Cuộc Chiến Tranh Giữa Hai Thế Giới, Người Tàng Hình…vv
(4) Cái tập hợp từ ngớ ngẩn này có xuất xứ từ Trung Quốc, trở thành câu cửa miệng ở các cán bộ tuyên giáo.
(5) Pol Pot, còn có tên là Saloth Sar, nhà lãnh đạo cộng sản Kampuchea. Sau chiến thắng của phe Khmer Ðỏ tại Kampuchea năm 1975 trở thành thủ tướng. Dưới quyền Pol Pot 3 triệu người Kampuchea đã bị hành quyết và chết vì bệnh tật, đói khổ.
(6) Tôi vẫn dùng từ bác Hồ (không viết hoa) trong đoạn kể này vì vào những năm đó tôi không có tình cảm nào khác với ông Hồ Chí Minh ngoài tình cảm yêu mến và tôn kính.
(7) Cha mẹ dân.
(8) Leonardo da Vinci: nhà khoa học, nghệ sĩ vĩ đại trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật thời đại ông (1452-1519). Hai chục năm trước khi Christopher Colombus “tìm ra” châu Mỹ trong cuộc viễn thám bằng tàu buồm, Vinci đã phác họa nguyên lý tàu ngầm. Herbert George Wells (1866-1946), nhà văn, triết gia chính trị, tác giả nhiều truyện viễn tưởng: Máy Thời Gian, Chiến Tranh Hai Thế Giới, Người Tàng Hình…
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:25:57 GMT -6
Chương 29
Tôi mơ hồ cảm thấy thời gian ở Hỏa Lò đã kết thúc.
Có những dấu hiệu không rõ rệt của một sự thay đổi, không rõ là cái gì nhưng đúng là thay đổi, trong động thái của đám cán bộ chấp pháp, mà đám này thì bao giờ cũng vậy – kín như bưng. Chẳng hạn, trong những lần hỏi cung thưa thớt vào thời gian cuối tôi chỉ gặp toàn nhân viên cấp dưới của Huỳnh Ngự, thoạt trông cũng biết là mới vào nghề, hoặc được chuyển từ quân đội qua. Những người này nhìn tôi như những bác sĩ tập sự nhìn con thỏ trong phòng thí nghiệm, không tình cảm mà cũng chẳng hằn thù.
Huỳnh Ngự và Hoàng biến đi đâu không biết. Khi đưa tôi đi cung, những biện pháp bảo mật không còn được tuân thủ nghiêm ngặt như trước, thậm chí chểnh mảng. Cán bộ quản giáo có lần gặp bạn giữa đường dừng lại nói chuyện bỏ mặc tôi tự đi một quãng xa mà không cần áp sát từng bước. Rõ ràng họ không còn lo tôi chạm trán với người cùng vụ. Nói chung, đó là sự lỏng lẻo. Ðiều này chỉ có thể giải thích bằng việc những tên xét lại hiện đại không còn ở Hỏa Lò nữa.
– Có thể người ta bắt đầu từ từ giải quyết vụ cậu chăng?
Thành đưa ra một giả thuyết.
Bầu không khí nghi kỵ đã nhạt. Thành thuyết phục được tôi rằng anh không bao giờ làm chỉ điểm.
– Cũng không loại trừ khả năng đó. – tôi nói – Chúng tôi có tội gì đâu.
– Vấn đề không phải ở chỗ các cậu có tội hay không có tội. – Thành cười mũi – Vấn đề bây giờ là thả các cậu ra bằng cách nào?
Tôi thấy anh tỉnh táo. Ít nhất cũng hơn tôi.
– Nhưng nếu thả, tôi nghĩ người ta sẽ thả tôi trước, chứ không phải thả những cán bộ to trước.
Thành gật gù:
– Có lý!
Nói thì nói thế chứ tôi cũng chẳng chờ đợi. Tôi lì ra rồi. Tôi chờ bất cứ cái gì khác, trừ lòng tốt của Ðảng.
Rồi đến một hôm, tôi đang nằm thì nghe có tiếng động khẽ ở le judas. Nhòm ra thì thấy Hoàng. Nhìn thấy anh ta, tim tôi đập rộn. Chưa bao giờ tôi thấy cán bộ chấp pháp vào xà lim. Chắc có chuyện gì quan trọng.
Trong óc tôi thoáng nhanh ý nghĩ về một chuyện không may. Hay là cha tôi…? í nghĩ ấy làm tôi bủn nhủn chân tay.
Nhìn quanh, Hoàng lấy ngón tay trỏ ngoắc ngoắc tôi rồi ngập ngừng thì thào:
– Tôi đến để từ biệt anh…
Vừa nói Hoàng vừa đưa mắt về phía Thành. Thành đang ngủ say hoặc giả vờ ngủ say. Tôi ra hiệu không có gì đáng ngại.
– Anh đi công tác?
– Không, tôi vẫn ở Hà Nội… – Hoàng ngập ngừng – Nhưng tôi không được làm việc với anh nữa.
– Tức là…?
– Nói cho rõ hơn: người ta không cho tôi làm việc với anh nữa.
– Họ cho rằng anh không được việc?
– Ðại khái là như vậy.
– Tôi muốn bắt tay anh, nhưng ô cửa hẹp quá.
– Tôi mang đến biếu anh chút quà.
Hoàng móc mọi túi, lấy ra bốn bao Ðiện Biên.
– Cảm ơn anh, nhưng dạo này tôi quen không hút rồi, không có thuốc không sao.
– Anh đừng nghĩ đây là caisse noire(1) của Công an. – mặt thoáng buồn, Hoàng nói -Không phải đâu. Ðây là tiền của tôi.
– Thế thì xin cảm ơn anh. Tôi nghĩ không sai về anh. Cho tôi gửi lời thăm chị và các cháu.
Hoàng đút từng bao thuốc qua khe cửa.
– Cảm ơn anh. Hi vọng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
Tôi giơ mấy ngón tay vẫy Hoàng:
– Tôi tin như vậy.
Tỉnh dậy, Thành không hỏi tôi một câu về mấy bao thuốc lá. Chúng tôi lẳng lặng đốt mỗi người một điếu, nhàn tản nằm nhả khói lên trần.
– Tôi thấy cái chuyện tha không có đâu. Ba la phiêu lắm. – tôi nói – Có một cái gì khác kia. Tôi thấy nóng ruột.
– Cậu nghĩ là cái gì?
– Cũng không rõ. Có thể là chuyển trại.
Thành nhăn trán, suy nghĩ. Rồi nhỏm dậy:
– Có thể lắm. Trong tù, trực giác, hay linh tính, rất quan trọng. Nếu cậu linh cảm thấy sắp phải đi khỏi đây thì ta cứ sẵn sàng là hơn.
– Có gì mà chuẩn bị? – tôi thờ ơ – Ði đâu bây giờ với tôi cũng thế mà thôi. Chỉ tiếc anh em mình không được ở cùng nhau nữa.
– Chưa chắc gì cậu sẽ được ở trại chung. – Nhiều phần vẫn là ở xà lim. Tôi sẽ cho cậu con dao mang đi. Trong xà lim con dao là vật thiết yếu, không có nó không được.
– Cho tôi rồi anh lấy gì dùng?
– Tôi còn một con nữa. Tôi rồi, nhưng chưa mài.
– Trại giam bình thường cũng có xà lim chứ?
– Sao không. Có điều xà lim trại chung dùng để cùm tù kỷ luật, chứ không phải xà lim giam cứu. Nhưng nghe nói có trại chỉ toàn xà lim giam cứu không thôi, không có khu ở chung. Lại còn có trại toàn xà lim bí mật, không biết giam thứ tù này mà khi kẻng đưa cơm nổi lên thì cả tù lẫn người đưa cơm đều phải trùm túi vải đen lên đầu, chỉ hở có hai con mắt, không ai được nhìn thấy ai, không ai được biết ai. Quản giáo không được phép nói với tù, tù không được phép nói với quản giáo. Muốn nói gì phải viết ra giấy.
Chắc chúng tôi ở trại đó quá. Rõ ràng người ta muốn giấu chúng tôi, không cho biết chúng tôi ở đâu, đến nỗi gia đình cũng không được gặp. Cái chuyện này thật lạ. Cứ như thể không còn một chính quyền nữa, mà một sơn trại, trong đó Lê Duẩn là đầu lĩnh.
Nói cho tôi biết về cái trại hũ nút đó hẳn Thành cũng nghĩ thế. Tính chu đáo, anh chuẩn bị tư tưởng cho tôi để tôi khỏi bị đột ngột.
Sau này, khi đã qua mấy trại, rốt cuộc tôi cũng chưa tới cái trại mà Thành nói. Chắc nó là cái trại huyền thoại, chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng phong phú của những người tù giàu sợ hãi. Biết đâu cái trại Thành nói lại chả có thật. Mọi sự đều có thể trên đất nước mà từ việc nhỏ tới việc lớn đều không công khai. Tính bí mật, tính âm mưu là đặc điểm của mọi nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thành mổ một chỗ kín đáo trong áo bông của tôi, luồn con dao vào đó.
Bóp đi bóp lại cái áo bông vài lần, Thành hài lòng:
– Thế này chúng nó không khám ra đâu.
Giờ đây anh không còn giữ gìn với tôi nữa. Cách gọi chúng nó tạo ra cảm giác ngang hàng giả tạo giữa chúng tôi và bọn cai ngục.
Thành tỉ mẩn xẻ thức ăn gia đình gửi vào làm hai phần bằng nhau, cho từng thứ vào bao nylon lành, thắt nút thật chặt để tránh ẩm, một nửa để trong bọc quần áo của tôi, nửa còn lại để trong bọc quần áo của anh. Anh dặn tôi đi đâu cũng phải cẩn thận trước hết với chuột và kiến, hai kẻ thù thường trực của người tù nghèo khổ.
– Thế là tạm ổn.
Hoàn tất việc chuẩn bị cho tôi, anh nói. Vẻ hài lòng hiện lên mặt.
Giờ thì bất thình lình tôi có bị đưa đi nơi khác cũng không còn là chuyện đáng ngại.
Của cải người tù xà lim có một giá trị trong đời thường không được biết đến, không thể tưởng tượng ra. Một mảnh giẻ, một cái đinh rỉ, một cái túi nylon thủng cũng là quý. Không phải người ta dễ dàng chia xẻ cho nhau. Thế mà Thành không tiếc tôi một chút gì.
Lòng tôi nao nao nghĩ tới ngày phải xa Thành. Anh tốt với tôi chẳng khác nào người anh lo cho đứa em. Cầu Trời cho hai anh em không phải xa nhau cho tới khi cả hai cùng thoát khỏi chốn này! Than ôi, đó là điều không thể có, bởi vì chúng tôi không cùng vụ, chúng tôi sẽ ra khỏi đây, nếu chúng tôi còn sống để ra được, vào những thời điểm khác nhau.
Sau hơn nửa năm chung sống, từ chỗ nghi ngờ nhau tới chỗ tin nhau, Thành đã hiểu tôi. Không những thế, anh còn giống tôi ở cách nhìn xã hội hiện tại. Nếu chúng tôi quen nhau ở ngoài kia chắc chắn Thành phải là một người trong “nhóm xét lại chống Ðảng”. Không cần ai tuyên truyền anh tư tưởng xét lại, mà tự anh sẽ xét lại cả anh, xét lại cả Ðảng, cả chủ nghĩa Mác mà một thời anh tin theo. Anh nhìn đời bằng cặp mắt tỉnh táo. Trong anh không có chỗ cho niềm tin mù quáng. Thực ra, trong tâm thức anh đã hết là cộng sản từ lâu. Anh còn xét lại hơn tôi nhiều.
Thành có tư cách đáng trọng. Vẻ ngoài hiền lành, nhưng anh thuộc loại người không chịu khom lưng uốn gối. Cung cách ứng xử làm tôi hiểu lầm anh những ngày đầu sống trong xà lim, tưởng anh khiếp nhược trước bọn quản giáo, thực ra chỉ là trò tiêu khiển của anh. Anh muốn kiểm tra khả năng tự kiềm chế, anh huấn luyện nó, và cũng là cách để giết thời gian.
Hách không phải không đọc được ý nghĩ của anh. Một lần thấy anh khúm núm vâng dạ, y nguýt dài: “Này, dẹp cái trò ấy đi nhá. Tôi biết thừa các anh là thế nào, trong bụng các anh ấy à, các anh coi tôi bằng mẻ. Ai chả biết ở ngoài kia các anh hơn tôi, nhưng đây là Hỏa Lò, là trại cải tạo, ở đây tôi hơn đứt các anh”.
Trong mấy ngày chờ đợi cuộc chia tay mà trực giác mách bảo, Thành ít nói hẳn. Anh ngồi bó gối, trong tư thế lần đầu tôi gặp anh, đắm mình trong suy tưởng. Thỉnh thoảng, chợt nhớ ra điều cần dặn tôi, anh mới rũ mình khỏi giấc mơ.
– Nhớ phải tập luyện tay chân luôn, kẻo ở lâu trong xà lim bị teo cơ đấy.
– Khi đi cung, trên đường gặp cái gì dùng được là phải nhặt, có lúc sẽ cần đến. – anh dặn thêm, vào một hôm khác.
– Mưu ma chước quỷ nhiều nhất là ở trong tù. Nhớ cho kỹ điều này. Lúc nào cũng phải cảnh giác. Bạn ở trong tù là của hiếm, hiếm lắm. Cần nhất đừng có hấp tấp. Không nên tâm sự với ai. Nghĩ thật kỹ rồi hãy nói, suy tính thật lung rồi hãy làm.
Mặc dầu có chuẩn bị, cuộc chia tay với Thành diễn ra vào lúc tôi không ngờ nhất.
Cửa xà lim mở ra trước giờ ăn sáng. Người bước vào không phải là quản giáo, mà là một chấp pháp tôi đã gặp nhiều lần.
– Anh thu xếp đồ đoàn.
Y nói nhẹ nhàng. Ðó là một người tầm thước, mặt tròn, hiền lành, cử chỉ chậm rãi và điềm đạm, hẳn do số phận trớ trêu mới rơi vào đám chấp pháp.
Thành sững sờ. Ðột nhiên, anh ôm choàng lấy tôi. Tôi cũng ôm cứng lấy anh, nước mắt ứa ra.
– Chân cứng đá mềm nhá! – Thành nghẹn ngào – Vững vàng nhá!
Viên chấp pháp không can thiệp vào cuộc chia tay của chúng tôi. Anh ta ngạc nhiên, thậm chí có vẻ hơi xúc động, nhưng giả bộ nhìn đi chỗ khác.
Tôi rời xà lim 1, lòng nặng chĩu.
Hôm ấy là 27 tháng 7 năm 1968. Thế là tôi ở Hỏa Lò đã được bảy tháng. Sáng tinh mơ, vừa tỉnh giấc Thành còn bảo tôi: “Mình hôm nay phải ăn vận tử tế. Lỡ có phái đoàn nào đến úy lạo chăng?”.
“Ai đến? Mà úy lạo cái gì?”, tôi hỏi. Thành cười hì hì: “Ngày thương binh liệt sĩ mà! Mình cũng là thương binh”.
Trong một phòng hỏi cung Lê Thanh Tài đã đợi tôi. Y ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành bọc vải dày đã sờn, lò so lòi ra ở vài chỗ, hai chân bắt chéo.
Nhân vật này không lạ. Tôi đã gặp y vài lần tại phòng hỏi cung. Tôi đoán y cũng đang hỏi cung ai đó, biết Huỳnh Ngự đang hỏi tôi về người mà y đang hỏi thì y đến nghe. Cao to, hùng hổ, cử chỉ phóng đãng, nói năng thô lỗ – tất cả chứng tỏ y có nguồn gốc gần cống rãnh hơn sách vở. Tôi biết tên y do Hoàng một hôm hỏi tôi xem có phải bữa trước tôi làm việc với ông Lê Thanh Tài không.
– Có một người ngồi nghe bên cạnh chấp pháp Ngự, tôi không được giới thiệu. Ông ta là ai vậy?
– Anh biết làm gì? Cũng đại loại như ông Ngự.
Như vậy, y cũng là cục phó.
– Ðâu ra những thứ này? – Lê Thanh Tài trịch thượng hỏi.
Ðó là một gói bánh quy, một gói bánh xốp, một ít ruốc thịt, mấy cái kẹo và ba bao Ðiện Biên. Tôi lo lắng cho Hoàng. Nếu theo dõi Thành, chúng sẽ biết vợ anh chỉ gửi Tam Ðảo(2), chúng sẽ cật vấn về ba bao Ðiện Biên kia.
– Người tù ở cùng cho tôi.
Y gườm gườm nhìn tôi.
– Giỏi, giỏi, chuẩn bị sẵn cả.
Tôi nhún vai.
– Sao anh biết anh sẽ chuyển đi nơi khác? Ai cho anh biết?
Tôi không trả lời. Lê Thanh Tài nhắc lại, giọng giận dữ. “Thằng khốn kiếp này không quen thấy có người không sợ nó”, tôi nghĩ.
– Tôi hỏi, anh phải trả lời! Ai cho anh biết?
– Chẳng ai cho tôi biết gì hết.
– Những thứ này ở đâu ra?
– Anh bạn tù cho tôi. Quà của gia đình anh ấy. – tôi điềm tĩnh trả lời – Anh ấy xẻ ra cho mỗi người một phần. Ai hết sớm thì nhịn.
Y rời mắt khỏi đám đồ.
– Nó tốt với anh gớm, hả? Anh Quỳnh, xem lại thái độ chính trị thằng đó nghe.
– Dạ.
Viên chấp pháp ném trở lại các thứ vừa khám vào túi vải, cũng Thành khâu cho tôi.
Cuộc khám xét kết thúc ở đó. Lê Thanh Tài phẩy tay cho qua. Chất chuyên chính vô sản ở viên cục phó này xem ra còn ghê gớm hơn ở Huỳnh Ngự một bậc. Chỉ vì cho bạn tù mấy cái bánh mà người cho đã bị coi là có thái độ chính trị xấu.
– Các anh đưa tôi đi đâu? – tôi hỏi Lê Thanh Tài.
Y lừ mắt. Tôi nhắc lại.
– Không được hỏi. Ði đâu rồi khắc biết.
Ðể củng cố cho câu nói, y hất hàm ra hiệu cho một tên Công an trẻ, vận thường phục. Tên này đưa còng tay ra. Một tiếng cách gọn, cái khóa đã ngậm chặt cổ tay tôi. Nó đã cũ lắm, đầy vết sứt sẹo và han rỉ, nhưng hàng chữ khắc chìm Fabriqué en France(3) vẫn còn đọc được.
Chiếc com-măng-ca vọt ra khỏi cổng Hỏa Lò. Ðã quen với không khí vắng lặng của xà lim, tôi bàng hoàng rơi vào cái ồn ào kinh khủng của Hà Nội đời thường. Nhất là khi xe chạy qua chợ Cửa Nam. Chao ôi, tưởng chừng cả Hà Nội mà tôi biết bỗng dưng chìm ngập trong một nghìn thứ tiếng ồn đinh tai nhức óc. Tôi đi chợ Cửa Nam nhiều lần, chưa bao giờ tôi thấy nó đông đúc đến thế, ồn ào đến thế!
Thành phố hiện ra trước mắt tôi cũng lạ, như thể nó già hẳn đi bởi những bức tường mốc thếch đã bợt hết vôi.
Qua chợ Cửa Nam, xe rẽ vào đường Nguyễn Thái Học.
Tôi ngoái nhìn ngôi nhà số 65 quen thuộc ngay đầu đường. Tưởng chừng nghe thấy cả tiếng dương cầm bay ra từ căn phòng trên gác của Ðỗ Nhuận. Tôi muốn được thấy Nguyễn Sáng đứng trên ban công nhìn xuống như anh thường đứng, dáng mệt mỏi khi rời giá vẽ. Cửa ra ban công khép chặt. Chẳng lẽ Nguyễn Sáng còn ngủ? Giờ này, theo lệ thường, bữa sáng ở cà phê Lâm đã xong rồi, Nguyễn Sáng đã về nhà rồi. Hay anh đi đâu vắng? Khi xe đi qua hẳn, tôi chợt thấy Văn Giáo lộc ngộc dắt xe đạp ra cổng, chiếc mũ lá trên đầu. Theo sau anh là Nguyễn Tư Nghiêm ưu tư không cần biết đến thế giới.
Một ngọn triều hồi ức tràn ngập tâm hồn tôi. Không hiểu Nguyễn Sáng đã lấy vợ chưa? Ðường vợ con anh vất vả, chỉ có đường sáng tác là nhẹ nhàng – dưới cây cọ của anh những bức tranh hình thành như nó có sẵn, chỉ cần anh lên tiếng gọi là nó nằm lên mặt vải. Khác hẳn Nguyễn Sáng, Văn Giáo vẽ tranh vất vả, bằng cơ bắp và mồ hôi.
Nhớ một đêm rừng Việt Bắc Văn Giáo lòng khòng bưng đĩa đèn soi cho khán giả xem tranh mình. Dầu cọ sôi lên trong đĩa, rớt xuống tay, làm anh bị bỏng, nhưng Văn Giáo không để rơi cái đĩa. Tranh Văn Giáo không được đồng nghiệp đánh giá cao, nhưng trong các cuộc triển lãm tôi thường gặp tranh anh. Chúng bao giờ cũng phản ảnh kịp thời những phong trào do Ðảng đề ra.
Lão họa sĩ Nguyễn Phan Chánh(4) giờ này hẳn đang uống trà. Sau một lần trót dại trao thân gửi phận cho hiện thực xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 60, cụ quyết định trở lại với mình, với thời Ô ăn quan của một Nguyễn Phan Chánh đích thực. Tôi xin phép cụ cho in tranh trên báo ảnh. Cụ tiếp tôi thân ái nhưng tranh thì không đưa: “Gần đây chẳng có bức nào là tôi cả, cứ như có thằng nào vẽ rồi ký tên mình vậy. Ðể khi khác!”.
Người của thế giới nội tâm, Nguyễn Tư Nghiêm sáng tác không thèm nhìn nhõm đến sự tồn tại của những nhà phê bình hội họa quan phương, những chuyên viên mua tranh của SUNHASABA(5), như thể không có họ trên đời. Bức tranh “Kiều tắm đêm” của Nguyễn Tư Nghiêm được Nguyễn Tuân khoái đến nỗi xem xong ông phải đạp xe khắp Hà Nội để tri hô cho thiên hạ đến mà chiêm ngưỡng. Nhưng chẳng mấy ai được chiêm ngưỡng – Nguyễn Tư Nghiêm không thích tiếp khách. Anh vẽ tranh không để khoe, không để bán, anh tạo ra cái Ðẹp chỉ cốt được sống một mình với nó.
Tôi có một kỷ niệm khó quên với Nguyễn Sáng. Một hôm anh tìm tôi từ sáng sớm, đứng dưới đường gọi vọng lên: “Lại nhà mình ăn cuốn”. Tôi biết Nguyễn Sáng cần gì – anh đang lên cơn cô đơn. Những lúc như vậy anh cần có một người ở bên, bất kể người đó là ai. Buổi sáng hôm ấy tôi là kẻ được chọn, hoặc anh không tóm được ai khác.
Món anh rủ tôi đến ăn hóa ra là món cuốn mạo danh. Chúng tôi ngồi bên con nghê sứ mất trán không biết Nguyễn Sáng nhặt được ở đâu. Anh hào phóng rót rượu. Rượu còn cả vò. Trời đất, cuốn gì thế này? Không rau thơm, không tôm, không thịt ba chỉ, độc có bún suông cuộn trong rau diếp. Nguyễn Sáng luôn miệng khoe tài pha nước chấm: “Mình mà pha nước chấm thì khỏi chê đi, khó tính đến như Nguyễn Tuân cũng phải ưng”. Chừng thấy tôi không hào hứng hơn, anh rủ tôi bỏ cuốn đấy đi kiếm con gà. “Mình còn nhiều gạo lắm, ta mang đổi. Gà luộc, nhắm rượu là nhất rồi!”, anh dỗ dành.
Trong hũ gạo của anh, chính là con nghê sứ bị vỡ đầu với nụ cười ngây độn, đúng là còn đầy ắp. Nguyễn Sáng ăn ngày một bữa ở cà-phê Lâm – hai lát bánh mì chấm trứng ốp-la và một cà phê đen, thế là đủ. Ăn ký sổ, trả bằng tranh. Gạo tiêu chuẩn vì thế mà thừa.
Chúng tôi vớ được một bà nhà quê có bu gà đứng ngơ ngẩn bên bức tường có hàng chữ “Cấm đái bậy” to đùng ngay dưới khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nguyễn Sáng bỗng luống cuống, bỗng ì ra, không dám tới gần bà ta. “Này, cậu đổi đi”. “Mình đã đi đổi gà lần nào đâu”, tôi thoái thác. Mặc kệ, Nguyễn Sáng cứ dúi bọc gạo vào tay tôi: “Nhà báo mua bán là phải hơn họa sĩ. Không được cãi. A lê, đổi”.
Người đàn bà bán gà nhìn thấy chúng tôi đùn đẩy cho nhau, cười toe toét: “Lại đây, các cậu lại đây tôi đổi cho”. Tôi chìa bọc gạo. Bà ta nhìn tôi thông cảm, ao gạo xong, tóm cổ một con gà tơ lôi tuột nó lên đưa cho “hai cậu”. Cuộc đổi chác thành công, không có bóng công an phòng thuế nào xuất hiện để cản trở. “Hai cậu” ồn ào ra về, lòng phấn chấn.
Con gà ngon, vừa đủ mềm, vừa đủ dai, nói chung là tuyệt. Ngà ngà say Nguyễn Sáng kể cho tôi nghe chuyện tình của anh. Ðó là câu chuyện buồn, nhưng nó lý giải được cái đẹp tôi bắt gặp trong mấy bức tranh mới đây của anh. Anh yêu say đắm một cô gái có đôi mắt đen cách xa nhau, rất lạ, làm cho sắc đẹp của cô trở thành hoang dã. Bố cô gái không bằng lòng. “Tưởng nó định lấy ai, hóa ra thằng Sáng cánh ta!”, ông nói với bè bạn, cố ý cho con gái nghe thấy. Cô đau lòng rời xa anh. Trời cho anh tình yêu đối với cái Ðẹp, nhưng bớt lại của anh tình yêu đối với một người.
Chiếc com-măng-ca phóng nhanh về phía Sơn Tây.
(1) Caisse noire = quỹ đen, tiếng Pháp.
(2) Tam Ðảo là loại thuốc lá rẻ hơn thuốc lá Ðiện Biên, rất phổ cập trong thời kỳ ấy. Thuốc sang nhất là thuốc Thăng Long.
(3) Chế tạo tại Pháp.
(4) Nguyễn Phan Chánh (1892-), tốt nghiệp Trường cao dẳng mỹ thuật Hà Nội khóa đầu tiên năm 1931. Nổi tiếng về tranh lụa.
(5) Công ty xuất nhập khẩu sách báo, người đặt hàng và mua tranh nhiều nhất, theo giá nhà nước.
|
|