|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:27:47 GMT -6
Chương 30
Nơi tôi bị đưa tới là một trại giam quân đội. Bề ngoài nó giống hệt một trại lính. Giống đến nỗi khi chiếc GAZ(1) từ từ leo lên dốc để qua cái cổng chào với hai vòng quân hiệu hai bên tôi còn nghĩ: hay người ta đưa chúng tôi đến đây để giáo dục rồi thả?
Những nạn nhân Cải cách ruộng đất kể lại rằng sau thời gian chịu cảnh đấu tố và giam cầm, cho tới ngày Ðảng tuyên bố sửa sai rồi họ vẫn chưa được về nhà ngay, mà còn bị gom lại một chỗ để học tập chính sách cái đã. Hay chuyện xảy ra trong Cải cách ruộng đất bây giờ lại lặp lại?
Tôi nhanh chóng xác định được vị trí trại giam: nó nằm trong vùng bán sơn địa khô cằn với rất nhiều đồi sắn, nương khoai ở phía Nam huyện Bất Bạt. Ðầu thập niên 60 tôi đã tới vùng này vài lần. Ðất ở đây bạc màu vèo vèo, nhanh như cam tẩu mã, bởi sự trục lợi hối hả của dân chúng ít học dưới sự dắt dẫn của những nhà lãnh đạo khinh học. Thưa thớt giữa thiên nhiên cằn cỗi mấy con đường đất đỏ bị cả Trời lẫn người bỏ quên nằm vắt vẻo qua những đồi trọc khô khốc, nơi có những mỏ đá ong khổng lồ. Những vồng bụi đỏ cuồn cuộn bốc lên đàng sau những xe tải họa hoằn, mãi không chịu lắng xuống.
Lê Thanh Tài sai lính tháo còng cho tôi rồi hối hả đi đâu đó, bỏ mặc tôi cả tiếng đồng hồ trong phòng thường trực trống rỗng. Trên cái bàn gỗ mộc bụi bặm và mốc thếch lăn lóc mấy tờ Quân đội Nhân dân nhàu nát. Tôi vồ lấy chúng, đọc ngấu nghiến để rồi ngồi thừ ra, thất vọng – tin tức trong báo chẳng nói với tôi điều gì mới.
Thời gian không đứng về phía chúng tôi. Những tờ báo giống y như những tờ này tôi đọc hàng ngày, một năm trước. Chúng sẽ giống y như thế một năm sau, hoặc nhiều năm sau. Thế giới đã mắc bệnh bại liệt.
Tôi lơ đãng nhìn ra sân trại. Ngoài mấy người lính quân phục xộc xệch, áo phanh rộng ngoài quần, lê bước uể oải trong nắng trưa rực lửa, chồng tranh nứa nặng chĩu trên đầu, quanh đây chẳng còn bóng ai khác.
Sau những ngày dằng dặc ở xà lim Hỏa Lò việc chuyển trại làm tôi khấp khởi mừng thầm. Thế là xong, tôi nghĩ, cuối cùng rồi cái sự điên khùng này đã kết thúc. Tôi sẽ được gặp cha tôi và những người cùng vụ.
Viên y sĩ công an trông nom sức khoẻ chúng tôi ở Hỏa Lò xuất hiện, vẫy tôi theo y.
Bước ra khỏi căn phòng, tôi rơi tõm vào biển lửa của nắng trưa. Tháng bảy thường là tháng nóng nhất trong năm, ở vùng bán sơn địa cái nóng còn được nhân lên thêm vài lần nữa.
Tôi thở hồng hộc. Tôi yếu quá rồi. Mà có mang vác gì nặng cho cam. Tòn ten mỗn hai bộ quần áo với cái chăn len vợ mới được phép gửi vào cho những mùa đông sau này (ai biết được sẽ còn bao nhiêu mùa đông nữa). Thế mà mệt.
Chúng tôi bước thấp bước cao theo một lối mòn lổn nhổn sỏi đá nằm men bức tường gạch chạy dài không dứt trong lau sậy um tùm. Bức tường không thẳng, nó uốn khúc nhấp nhô theo địa mạo triền đồi. Tới một cánh cổng bằng sắt tấm hoen rỉ, tên y sĩ mở khóa, dẫn tôi vào một cái sân nhỏ khô cong, không có lấy một ngọn cỏ. Bên trong cái sân này là một ngôi nhà bé xíu, kiểu nhà ở bình thường với kích thước mini.
Cửa vào được mở ra.
Thì ra vẫn nó, vẫn là xà lim.
Tôi nhầm trại giam với trại lính là phải – từ ngoài đường, chỗ cổng doanh trại nhìn vào không thể thấy được khu vực này(2). Hi vọng được ở chung với các bạn đồng vụ tắt ngấm.
Thế mới biết cái sự giáo dục của Ðảng ăn sâu thật! Vừa mới thấy cái cổng trại lính tôi đã nghĩ ngay đến chuyện được Ðảng cho về với vợ con. Tội nghiệp, tôi bao giờ cũng nghĩ về Ðảng tốt hơn nó có trong thực tế.
Xà lim mới làm tôi nhớ đến trai phòng các tu sĩ dòng Châu Sơn. Cũng chiếc giường gỗ mộc nằm trơ bên trong bốn bức tường trần trụi, cũng cái trần thấp cuốn thành vòm, chứ không phải trần tứ giác phẳng như ở Hỏa Lò. Chỉ thiếu một thập giá bằng gỗ mun lạnh lẽo trên mảng tường hậu và một tu sĩ khổ hạnh xác ve với chiếc thừng đay thay thắt lưng. Tôi đã tới Nho Quan, Ninh Bình vào đầu năm 1947, nơi có những kho muối lớn dự trữ cho cuộc kháng chiến của Công ty Nam Tiến(3). Không xa những kho muối này, nằm kín đáo trong một khu rừng ẩm ướt, là tu viện của những tu sĩ có lời nguyền câm nín. Quấn mình trong tấm áo choàng đen khâu tay, bạc phếch và rách rưới, những tu sĩ tiếp tôi bằng nụ cười mơ hồ trên gương mặt bất động. Như những cái bóng, họ lặng lẽ đi lại thấp thoáng trong u tịch rừng già. Ðêm đêm họ ngồi xếp bằng tròn quay mặt vào tường hậu, lặng lẽ cầu nguyện. Tôi ngạc nhiên – như thế mà là sống ư? Mà sống như thế để làm gì kia chứ?
Thế mà giờ đây tôi cũng sống như họ. Cô đơn. Khổ hạnh. Còn tệ hơn họ, tôi không được phép bước ra khỏi cái trai phòng đặc biệt, bị bỏ vào chứ không phải tự nguyện đến ở, không được phép gặp đồng loại, không được phép để đồng loại nhìn thấy mình.
Sau hết, và là cái khác cơ bản giữa chúng tôi – họ có Chúa, còn tôi thì không.
Tôi mệt mỏi quăng đồ đạc lên phản. Xà lim là xà lim, cho dù có vài nét phân biệt. Tính về diện tích nó còn nhỏ hơn xà lim Hỏa Lò. So với tiêu chuẩn của thực dân thì ở đây đã xảy ra một sự cắt xén được đặt tên là cải tiến. Cái phản gỗ mộc bào cẩu thả còn lởm xởm sơ gỗ được gắn chết vào bốn trụ xi măng. Không thấy mặt cái cùm muôn thuở. Gầm phản là một hố sâu – một cái hầm trú ẩn.
Tôi trườn lên phản, nằm nghĩ vẩn vơ. Sự vắng bóng cái cùm sắt chứng tỏ nhà tù bộ đội có khác nhà tù công an. Sự hiện diện của cái hầm trú ẩn chứng tỏ người ta còn tình Một điểm khác nữa, rất bình thường, nhưng cũng cứ phải coi như ưu điểm của trại này là cái cửa sổ. Nó không phải là le judas đặc trưng cho xà lim, mà to gần bằng cửa sổ nhà nông thôn, với những song sắt to hơn, được gắn chặt vào bê tông kiên cố.
Thoạt đầu, nhìn nơi ở mới thậm chí tôi còn hài lòng, còn tự hào về cái xà lim của trại giam quân đội. Dù sao nó cũng không đến nỗi tệ hại như xà lim Hỏa Lò.
Quan sát kỹ thì mới thấy mình nhầm. Nó không phải là một cái xà lim bình thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người. Căn nhà nhỏ gồm bốn căn phòng được thiết kế giống hệt nhau dưới một mái chung, cửa mỗi phòng quay về một hướng. Ở chỗ tiếp giáp giữa hai xà lim mọc ra một mảng tường tứ giác với một đường vát thượng thu hạ thếch chia ngôi nhà thành bốn ô riêng biệt, để người bên này không nhìn thấy người bên kia, kể cả khi quản giáo cho ra ngoài tắm rửa. Ở Hỏa Lò xà lim nằm thành hai dãy dài trong hành lang, một người ho khan cả dãy nghe thấy. Trong một nhà-xà lim Bất Bạt chỉ có bốn phòng, nếu ba phòng kia không có người thì cảm giác cô đơn thật kinh khủng.
Mỗi ngôi nhà lại bị bao quanh bởi bốn bức tường con kiến không cao và không kiên cố, làm thành một khu biệt giam, với một cánh cổng bằng tôn mỏng xộc xệch. Hết thảy những khu nhà như thế (không biết là bao nhiêu) bị bọc trong một bức tường cao chạy chung quanh, có vọng gác ở mỗi cạnh(4).
Cánh cửa xà lim vừa khép lại là tôi rơi vào một vùng tĩnh lặng hoàn toàn. Ngoài tiếng gió chạy trên đồi, không còn tiếng động nào khác trong buổi trưa hè.
Hôm sau, tôi thấy có tiếng động ở xà lim bên cạnh. Thì ra bên đó có người. Hai hôm sau, tôi giật mình nghe người đó gọi tôi:
– Bông hồng vàng! Bông hồng vàng(5)!
– Ai đó?
Tôi chồm ra cửa sổ, khẽ kêu lên.
– Bác sĩ! Bác sĩ đây! – người đó trả lời.
– Chào bạn! – tôi trả lời thận trọng
– Tất-cả-ở-đây-hết!
Người xưng là bác sĩ lại kêu lên. Giọng anh ta lần này có nhỏ hơn, nhưng vẫn bị phát hiện. Mấy tên lính gác rầm rập chạy đến. Tôi nghe tiếng cãi vã, tiếng mở cửa, đóng cửa xầm xầm.
Tôi căng óc, cố đoán xem người xưng bác sĩ kia là ai, mà không nghĩ ra.
Trong số bạn làm nghề y chỉ có bác sĩ Phan là thân với tôi hơn cả. Nếu là anh thì tôi nhận ra ngay. Tôi quen giọng Phan lắm. Nhưng làm sao anh bị bắt được? Anh nổi tiếng phi chính trị. Hơn thế, anh còn là ân nhân của một số cán bộ cỡ kha khá. Những người này sẽ bảo vệ anh, ít nhất thì cũng vì anh cần cho họ. Vài người trong bọn họ đã nhờ anh chữa bệnh phong tình. Anh không thích cái xã hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ(6), một lũ hủi, ở trên đầu. Mà với hủi thì tốt nhất là không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên đám công an theo dõi trí thức vẫn đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặc về chính trị.
Nhưng đến cả trung tá công an Hồng Sĩ mà cũng còn bị bắt thì Phan cũng có thể bị bắt lắm. Dù sao anh cũng có tội. Anh có tội chơi thân với tôi, giờ đã là tên phản cách mạng, và Văn Cao, tên đầu sỏ Nhân văn – Giai phẩm. Theo ngôn từ công an, chơi thân với nhau gọi là liên quan.
Tôi hi vọng Văn Cao bình an vô sự. Thời gian cuối này Văn Cao rất yếu. Anh khó lòng chịu đựng cuộc sống tù ngục. Anh đã may mắn một lần. Lần thứ hai có thể anh không may mắn nữa. Trong thời kỳ xảy ra vụ Nhân văn – Giai phẩm người ta nhiều lần ám chỉ Văn Cao khi nói tới số phận Ðinh Linh, Trần Xí-hà(7). Người ta nói chuyện bên Tàu để nhắn nhủ anh coi chừng, rất có thể anh sẽ như họ đấy. Sau vụ Nhân văn – Giai phẩm Văn Cao dìm nỗi buồn trong rượu. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh trong trạng thái ngà ngà, chai rượu ở trước mặt. Anh kể cho tôi nghe anh đã bị bọn công an giả dạng lưu manh gây sự rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với anh mấy lần trong những quán rượu bình dân. Từ đó chị Băng không cho chồng ra khỏi nhà nữa. Chị bấm bụng mua rượu về cho anh, tuy vẫn luôn miệng nhắc nhở anh đừng uống nhiều. Chị biết để anh uống như thế anh sẽ chết vì rượu, nhưng anh còn chết nhanh hơn nếu phải sống với nỗi buồn.
Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi về Phan. Y đưa ra một danh sách những tên sách, truyện ngắn, hỏi tôi có biết những tác phẩm này không? Tôi giật mình: đó chính là tên những truyện Phan dự định viết.
Làm sao chúng có được danh sách này? Phan đã bị bắt, đã khai? Hay chúng đột nhập vào nhà lục lọi khi anh đi vắng?
Hồi đó Phan chưa phải là người viết văn có tên tuổi. Anh yêu văn học bằng một tình yêu lười biếng. Sau khi đặt tên cho một tác phẩm tương lai, anh viết nguệch ngoạc vài ba trang rồi vứt đấy. Những trang bản thảo vương vãi khắp nơi trong căn phòng lộn xộn, trong đó có nhiều trang tuyệt vời. Lần nào Phan cũng tự hẹn với mình sẽ viết tiếp vào một lúc khác. Tiếc rằng cái lúc khác ấy hiếm khi xảy ra. Tôi giật mình vì riêng những cái tên sách không thôi trong danh sách Huỳnh Ngự cho tôi xem đã không ổn rồi, đã bốc mùi bất mãn rồi.
Ðáp lại câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi chỉ cười.
– Anh cười chi?
– Phan không phải là nhà văn. Xin đừng nghi anh ấy chuyện văn chương. Anh ấy cũng có lúc bốc lên muốn viết thật, nhưng rồi chỉ thành công được một lần. Cuốn sách duy nhất được in của anh Phan là một cuốn sách loại người tốt việc tốt in ở Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều…
Huỳnh Ngự gắt lên:
– Anh nói cái chi? Nhà xuất bản chi…?
Tôi giải thích rằng chúng tôi gọi đùa Nhà xuất bản Phụ nữ là Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều vì sách ở đây ra loạc choạc, khi có khi không, khi nhiều khi ít.
Huỳnh Ngự tủm tỉm cười.
– Tôi chơi với Phan vì cái khác. – tôi nói thêm – Phan rất chiều bạn. Thỉnh thoảng có món gì ngon anh lại ới tụi tôi đến ăn. Tiết canh vịt Phan đánh thì tuyệt, Văn Cao gọi là tiết canh xâu lạt…
Huỳnh Ngự ngẩn người:
– Nghĩa là sao?
– Nghĩa là tiết canh đông đến nỗi có thể lấy lạt xâu vào mà xách được.
– Bịa.
– Văn Cao vốn thích nói thậm xưng. Nhưng thật sự là thế – tiết canh anh Phan đánh đông lắm, tôi chưa thấy ai đánh tiết canh tài bằng anh ấy.
– Ðánh thế nào?
Tôi nhẩn nha kể cho Huỳnh Ngự cách đánh tiết canh mà Phan dạy tôi. Ðành phải hy sinh bí quyết nhà nghề của anh để đưa Huỳnh Ngự ra xa cái đề tài nguy hiểm. Huỳnh Ngự nghe chăm chú, sau đó không vặn vẹo thêm nữa. Tôi đồ rằng trở về nhà y sẽ ghi công thức đánh tiết canh vào sổ tay.
Còn ai nữa là bác sĩ trong số người quen tôi? Mãi rồi tôi cũng nhớ ra bác sĩ Phan Thế Vấn. Nhưng với Vấn thì không thể nói rằng tôi quen. Chúng tôi có gặp nhau đôi lần ở nhà bạn bè, không nhớ là ở nhà Vũ Huy Cương hay nhà ai. Mọi người nhận xét Vấn là một tay Ivan. “Ivan” là một cách nói vui hồi ấy, chỉ một người không thích lối sống giáo điều, công thức, không chịu uốn mình theo khuôn phép của Ðảng, không cứ là một người theo Liên Xô, như bọn tự xưng mác-xít chân chính chụp mũ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Phan Thế Vấn ở Hà Nội. Anh hoạt động trong phong trào thanh niên học sinh. Năm 1956 anh được đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Moskva. Ðó là vinh dự lớn cho một thanh niên trước kia ở trong vùng tạm chiếm, cho dù có hoạt động cho kháng chiến.
Vấn thì có thể bị bắt, tôi đoán.
Tôi không gặp Vấn lần nào nữa trong thời gian ở Bất Bạt, cũng như trong thời gian ở tù nói chung. Gặp lại anh tại Sài Gòn năm 1989, tôi hỏi có phải anh đã gọi tôi hồi ở Bất Bạt không thì anh nói không. Tôi ngạc nhiên: vậy còn ai trong những người bị bắt là bác sĩ? Hay đó là một bác sĩ quân y nào mà tôi không quen, nhưng biết tôi. Anh nhìn thấy tôi qua một khe hở phòng anh và anh muốn cho tôi biết tôi không đơn độc. Mà cũng có thể không phải thế. Nhưng nếu đây là trò của công an thì tại sao bị phát hiện nói chuyện với tôi anh ta lại bị chuyển đi ngay?
Trong trại giam – xà lim này, quản giáo bộ đội đối với chúng tôi tử tế hơn quản giáo Hỏa Lò. Họ mở cửa, đóng cửa, cho chúng tôi với nét mặt vô can – người ta bắt anh chứ không phải tôi bắt anh, tôi với anh không thù không oán, tôi cũng chẳng muốn thế này.
Trong nhà tù nét mặt, cách đối xử của quản giáo ảnh hưởng đến tâm lý người tù nhiều lắm. Một bộ mặt lầm lì, một cái nhìn hằn học cũng gây ra stress.
Tôi nhanh chóng làm quen được với một anh tù nhà bếp làm công việc gánh cơm cho các xà lim. Khi cho tôi ăn sáng, anh tù trẻ, mặt mũi sáng sủa, được phép đến sát cửa sổ để đưa cho tôi vài củ khoai hoặc mấy khúc sắn. Bữa trưa anh đặt phần cơm trên bể nước.
Anh tù thì thào cho tôi biết anh bị tòa quân sự kết án ba năm tù vì tội để xe bọc thép lăn xuống vực, làm chết đồng đội. Quen rồi, tôi mới lân la hỏi anh về những người tù không phải phạm binh trong trại.
– Tôi có thấy hai ông già. – anh nói.
– Một trong hai ông già là cha tôi đấy.
– Cụ nhà trông thế nào?
– Cụ tôi hói đầu.
Mỗi cuộc nói chuyện xảy ra nhiều nhất một lần trong một ngày, mà cũng chỉ giới hạn trong vài ba câu. Phải nói cho nhanh. Dứt lời, anh lại lặc lè quang gánh chạy đi.
– Cụ hói đầu có sẹo ở bụng, phải không? – một buổi sáng khác anh hỏi.
– Ðúng. Cụ tôi đấy. Cụ bị cắt mật.
Trong xà lim nóng, cha tôi cởi trần, nhờ đó anh bạn trẻ nhận ra đặc điểm.
– Còn cụ kia?
– Là thiếu tướng Ðặng Kim Giang.
– Cha mẹ ơi, vậy mà tôi không biết.
Hôm sau, anh móc trong lưng quần ra gói Tam Ðảo, ngó trước ngó sau rồi ném vào phòng:
– Cụ gửi cho anh.
Thì ra anh tù đã tự động báo cho cha tôi biết anh liên lạc với tôi.
Tôi xem xét cẩn thận gói thuốc. Nó có vẻ còn nguyên lành. Ðể ý thật kỹ thì thấy nó có bị bóc ra rồi dán lại. Tôi mân mê từng điếu. Không thấy gì. Ðó là gói thuốc kiểm tra. Cha tôi vốn cẩn thận. Ông không hấp tấp tin ai, trong hoàn cảnh này lại càng phải cẩn thận.
Một tuần sau, tôi lại nhận được gói thuốc nữa. Trong gói thuốc lần này có một điếu đáng ngờ. Dốc thuốc ở hai đầu đi tôi được một mẩu giấy cuộn tròn, trong đó có những hàng chữ nhỏ li ti:
“Nợ nước đời tôi trả đã tròn Việc nhà gửi mẹ với đàn con Trăm năm đầu bạc đành sai hẹn Thủy chung tôi giữ tấm lòng son.
Con học thuộc mấy câu thơ này rồi đốt đi. Nếu bố không trở về thì đây là mấy lời cuối cùng bố gửi mẹ. Nói với mẹ bố xin mẹ tha lỗi vì đã làm khổ mẹ, nhưng bố không thể sống khác được. Cố gắng tập khí công, tập yoga để giữ sức khỏe chờ một ngày tươi sáng. Ðêm tối rồi sẽ qua, ma quỷ rồi phải chạy trốn mặt trời trí tuệ, cái ác sẽ phải quỳ gối trước lòng nhân ái. Bố của con.”
Tôi ứa nước mắt. Cầu Trời Phật cho cha tôi sống được đến ngày gặp lại mẹ tôi và chúng tôi.
Nhờ anh bạn tù tốt bụng, tôi chuyển được một bức thư cho cha tôi. Tôi hứa với cha sẽ thực hiện lời người dặn. Ðến đó liên lạc giữa hai cha con chấm dứt.
Thỉnh thoảng Huỳnh Ngự gọi tôi ra, không phải để hỏi cung mà hỏi thăm sức khỏe. Y lúng túng lắm mỗi lần bị tôi hỏi về thời hạn giam giữ. Nó kéo dài quá rồi, vượt qua mọi giới hạn rồi. Không thể cứ một mực gầm thét, mà y biết là vô ích. Chính y cũng cảm thấy mệt. Giờ đây, như một y tá bên giường bệnh, y an ủi tôi, nói những lời sáo rỗng về lòng tin ở lượng khoan hồng của Ðảng, Ðảng sáng suốt, Ðảng là cha mẹ vv… Tôi thậm chí ái ngại cho y – y không đến nỗi quá ngu để không biết tí gì về pháp luật. Nhưng y không biết phải xử sự thế nào. Sự vi phạm pháp luật của các ông chủ y quá trắng trợn.
Trong những ngày ở xà lim Bất Bạt tôi thỉnh thoảng lại nhớ tới một câu nói của Hoàng:
– Tôi không muốn dọa anh. Dọa anh cũng chẳng được, tôi biết. Tôi tin anh dũng cảm, anh không sợ – anh đã bắt tay Thần Chết nhiều lần, như anh nói. Nhưng anh chưa biết đấy thôi – ở đời có nhiều cái còn đáng sợ hơn cái chết.
Hoàng đúng.
Chúng tôi không bị đánh đập, không bị giết. Chúng tôi chỉ bị chôn sống mà thôi.
Tôi không tưởng tượng nổi mình có thể sống trong một cái cũi hẹp, đúng hơn là một cái huyệt kim tĩnh kiên cố, với một tấm phản, một cái bô, một ống bương đựng nước. Không phải vài ngày, vài tháng, mà hàng năm. Một mình.
Trong một lần đi cung tôi gặp cô bộ đội dắt đứa con trai. Cháu bé chừng ba tuổi, lũn cũn bên mẹ. Nó nhìn tôi, nhoẻn cười. Tôi cười đáp, lấy tay vẫy. Nó cũng vẫy lại. Thằng bé mới kháu làm sao! Tôi ngây người ngắm nó. Như thể nó là một kỳ quan của thế giới. Như thể trên đời này tôi chưa từng nhìn thấy một đứa bé. Tôi đi chậm lại để được ngắm nó lâu hơn. Tôi cảm thấy mắt tôi rưng rưng.
– Ði nhanh lên! – viên quản giáo giục.
Mặc. Tôi đi ngang cháu bé. Tôi nhìn thấy những lông tơ trên đôi má phính mịn màng của nó. Tôi đi qua nó. Thật chậm. Cháu ngước nhìn tôi, đôi mắt trong veo, miệng lại nhoẻn cười. Người mẹ trẻ bồng nó lên tay. Cô nhìn tôi, cái nhìn đầy thương cảm.
Tôi ngoảnh lại, vẫy cháu bé. Nó vẫn nhìn theo, bàn tay tí xíu vẫn vẫy.
– Nhanh lên!
Viên quản giáo lại giục.
Ðứa bé xa dần.
Tôi đã biết ăn dè, tiêu dè. Khốn nạn, thì ra cuộc đời còn có cái dè khác – nhìn dè.
Một hôm, bên ngoài có tiếng cuốc lục cục, xoèn xoẹt trên mặt đất. Nhìn qua khe cửa sổ khép chặt, tôi thấy những bàn chân người đen đủi bước tới bước lui – đó là tù ở trại chung được đưa vào khu xà lim làm vệ sinh. Khi họ đi khỏi, cửa sổ lại được mở. Trước mặt tôi là một khoảng đất trống, không còn lấy một nhúm cỏ. Ngay trước cửa sổ phòng tôi chừng hai mét có một cây con mới được trồng, loe hoe mấy cái lá.
Thế là màu xanh cuối cùng của sự sống bị tước nốt. Mặt đất bệch ra những sỏi cùng đá. Tôi buồn xỉu.
Sau nhiều ngày sống lay lứt dưới nắng quái dữ dội, đặc biệt dữ dội ở trung du, cái cây quặt quẹo tưởng bị thiêu chết rồi đã đứng thẳng dậy, ngang ngạnh, bất khuất. Tôi thường ngậm nước trong miệng để phun cho nó. Việc tưới cây kiểu này chẳng dễ dàng – phải biết cách khéo léo để phun cho mạnh, phun cho xa và phải phun trúng.
Tôi đã ở đấy với cái cây từ lúc nó bé tẹo cho tới khi nó tỏa bóng mát. Trong cái huyệt kim tĩnh ấy.
Cái cây con ngang bướng cũng là ân nhân của tôi trong những năm tháng bị giam cầm. Nó dạy tôi phải biết nghiến răng lại mà sống.
Người “đồng vụ” đầu tiên mà tôi gặp ở đây là Trần Minh Việt. Chúng tôi háo hức thông tin cho nhau.
Ðể hình dung tù xà lim nói chuyện với nhau bằng cách nào, trước tiên phải kể đến cái tường ở Bất Bạt. Không hiểu tên khốn kiếp nào đã sáng tạo ra lối vẩy xi măng lên tường như thế? Phải là một tên kiến trúc sư cực kỳ đểu cáng, với trái tim thú dữ, mới làm ra được một bức tường ghê tởm như vậy. Nó xù xì, đầy gai nhọn và sắc. Người tù ngồi mỏi không dám dựa lưng vào đấy, dựa vào lưng sẽ rớm máu. Dùng tay gõ vào tường có thể gây thương tích. Tôi phải bọc vải vào tay mà gõ.
Cái khó là chúng tôi không sao thống nhất được ám hiệu truyền tin. Trước Cách mạng Tháng Tám tôi là một sói con(8) ở bầy Hồng Ðức. Anh sói già Vương Trọng Thành chẳng những dạy dỗ chúng tôi trở thành những đứa trẻ từ tâm với phương châm “mỗi ngày làm một điều thiện”, mà còn dạy chúng tôi biết nhiều cái vặt vãnh mà hữu dụng khác, trong đó có ngôn ngữ morse. Trần Minh Việt chưa bao giờ là sói, là hướng đạo sinh, anh không biết đánh morse như thế nào. Thành thử chúng tôi đành dùng thứ tín hiệu thủ công, trong đó các chữ cái cứ dài mãi ra theo thứ tự, chẳng hạn chữ a gõ một tiếng thì chữ k phải gõ mười tiếng, chữ v gõ hai mươi mốt tiếng. Giữa các chữ là một khoảng lặng, kết thúc một từ là một tiếng gõ thật mạnh. Nói chuyện như vậy rất chậm. Thế mà trong một tháng ở bên cạnh nhau tôi đã thông tin cho anh được hết những gì xảy ra bên ngoài kể từ tháng 7 cho tới tháng 12 năm 1967. Khi anh được biết về thông báo số 1, số 2 của Lê Ðức Thọ, Trần Minh Việt đập rầm rầm vào tường:
– Ðồ chó đẻ! Thằng khốn nạn!
Hai tháng sau bỗng nhiên tôi bị chuyển đi nơi khác. Không lý do. Chắc chắn không phải việc chúng tôi liên lạc với nhau bị lộ.
Chúng tôi mỗi ngày một thô lỗ thêm cùng với thời gian bị nhốt. Một hôm tôi nghe tiếng Lưu Ðộng(9) oang oang vang động cả một vùng:
– Cút mẹ mày đi! Ðừng có mang mấy thằng mất dạy nhà mày ra dọa tao. Bảo cho thằng Lê Ðức Thọ khốn kiếp của chúng mày biết, tao ỉa vào mồm nó! Cả cái thằng Lê Duẩn ăn cứt nữa! Tao nguyền rủa con đĩ ngựa đẻ ra nó. Tiên sư chúng mày! Tổ bố chúng mày!
Nghe Lưu Ðộng chửi thật đã con ráy! Tiếng Lưu Ðộng ồm ồm không lẫn với tiếng người khác được. Nền văn hóa làm cho con người bớt thật đi, bớt được là mình đi trong sự bộc lộ cảm xúc. Thỉnh thoảng phải được sống nguyên sơ, sống hoang dã như thế mới sướng. Tôi còn muốn nghe Lưu Ðộng chửi nữa, nhưng đang chửi ầm ầm anh bỗng im bặt. Cơn giận dữ bùng lên qua nhanh, anh thấy ngượng với mình, thấy mình xử sự không xứng với tư cách trí thức.
Từ trong khúc ngoặt, viên y sĩ công an mặt xám ngoét, chạy như ma đuổi. Lính gác rầm rập chạy tới. Các cửa sổ đóng lại rầm rầm. Tôi ngồi trong bóng tối, lắng tai nghe những tiếng động từ bên ngoài. Có vẻ như không có gì xảy ra.
Chúng không đánh Lưu Ðộng. Nếu chúng đánh anh tôi phải nghe thấy – căn cứ tiếng chửi vọng tới phòng tôi thì anh ở gần tôi, cách một ô là cùng. Từ đó tôi không nghe tiếng Lưu Ðộng nữa – anh đã bị chuyển đi ô khác.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi còn được hưởng chế độ phơi nắng. Ðó là một chế độ đặc biệt, được dành riêng cho tù nhân xét lại. Nó không phải giờ đi dạo của tù nhân các nước khác mà ta thường thấy trên màn ảnh. Một tuần một lần, quản giáo mở cửa cho tôi bước ra ngoài đi phơi nắng một giờ. Còn thì suốt ngày ở trong nhà.
Khi nào lính gác bỗng dưng chạy tới đóng cửa sổ là tôi biết chúng sắp giải tù đi ngang. Tôi nhìn thấy Vũ Huy Cương, Hồng Sĩ, Phạm Viết, Trần Minh Việt, Trần Thư, Huy Vân và những người khác tôi không quen. Thấy họ không đi cùng quản giáo bộ đội mà đi với quản giáo công an thì biết là người đồng vụ, thế thôi. Khốn nạn, thế mà chúng nó gọi là nhóm chống Ðảng, là chống đối có tổ chức, không biết dơ.
Bây giờ tôi mới hiểu cái sự vu khống chính trị được tiến hành như thế nào. Thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm nghe vậy biết vậy chứ tôi không hiểu.
Văn Cao, tên đầu sỏ của đám trí thức mưu toan đoạt quyền lãnh đạo của Ðảng, gọi theo cách của những nhà lãnh đạo văn nghệ, nói với tôi rằng toàn bộ vụ Nhân văn – Giai phẩm chỉ là trò đánh lận con đen.
– Hồi ấy, văn nghệ sĩ còn tin Ðảng lắm, – Văn Cao kể – còn yêu Ðảng lắm. Gì thì gì Ðảng vẫn là Ðảng của mình. Là ruột thịt của mình. Nhưng là trí thức, bọn mình không quen, không thích tin mù quáng. Bọn mình thấy xã hội có những khuyết tật, những cái cần sửa chữa. Mới lên tiếng đề xuất. Ðảng cầm quyền thì phải đề xuất với Ðảng, chứ còn đề xuất với ai? Chuyện đề xuất bằng hình thức nào là cái không nên bắt bẻ. Không phải lúc nào cũng phải kính đơn. Phát biểu cũng được chứ sao. Viết báo cũng được chứ sao. Chẳng ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên: ối giời ơi, có địch, có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp. Nguyễn Mạnh Tường(10) chỉ ra cái sai rành rành trong sự thi hành luật pháp cũng bị đánh. Họ đánh tuốt trí thức, chứ không phải chỉ văn nghệ sĩ không thôi đâu. Ðánh để trị, để đe.
– Nhưng trong lãnh đạo Ðảng ai khởi xướng vụ đánh này?
– Cậu muốn hỏi ai là tác giả? Không phải Hồ Chí Minh đâu, Ông Cụ không nghĩ ra cái đó, Ông Cụ không tệ đến thế. Cũng không phải Nguyễn Chí Thanh. Ðừng vì vụ Trần Dần bị giam vào cải hối thất mà đổ cho lúy(11). Thằng cha lúc ấy còn bận củng cố địa vị vừa chiếm được của général(12) Giáp. Tác giả chính là Longue Marche(13), cậu nghe rõ chưa, là-Trường-Chinh.
– Thế còn Tố Hữu?
– Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy – Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn – Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn – Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của lúy vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế – bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: “Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!” Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: lúy muốn mình phải hiểu – tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?”.
Tôi ghi lại lời nói của Văn Cao ở đây để sau này có ai nghiên cứu thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm có thể tìm thấy trong đó một chứng cứ của người trong cuộc.
Một hôm, tôi thấy Trần Minh Việt đi cung, khoảng vài giờ sau anh trở về, lủng củng những gói cùng bọc, vẻ mặt buồn rượi. Sau đó đến lượt Huy Vân, Trần Thư, Lưu Ðộng, rồi mấy người nữa.
Họ được gặp gia đình, tôi kết luận.
Vụ án, theo tôi phán đoán, đã sang một chương mới không có lợi cho chúng tôi. Sau gần ba năm giam cầm không cần tuyên bố lý do, không cho chúng tôi gặp gia đình, mà không bị phản ứng cả trong Ðảng lẫn ngoài xã hội, giờ đây nhà cầm quyền nhơn nhơn coi sự bỏ tù chúng tôi, những phần tử chống Ðảng, là việc đương nhiên họ có quyền làm.
Lường trước khả năng gặp gia đình, tôi viết sẵn một bức thư gửi ông Nguyễn Lương Bằng. Bọn công an chủ quan không ngờ tôi quan sát được động thái bên ngoài sẽ không khám xét. Không có mực, tôi dùng nicôtin đọng trong cái điếu Thành cho (phòng xa không có thuốc lá mà hút) viết trên mẩu giấy gói kẹo:
“Thưa bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng của Ðảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung thực ra xử.”
Tôi đoán đúng. Chẳng bao lâu sau đến lượt tôi được gọi ra.
Mẹ tôi, vợ tôi và các em tôi đã chờ sẵn trong một túp tranh được dựng cấp tốc cho khách thăm tù xét lại.
Ðây là lần gặp đầu tiên sau hai mươi bảy tháng tôi bị giam. Cả nhà ùa tới ôm lấy tôi. Tôi sợ mọi người sẽ òa khóc, nhưng mẹ tôi điềm tĩnh như thể không có chuyện gì xảy ra trong thời gian gần ba năm ấy(14). Tôi hiểu mẹ – bà bao giờ cũng tỏ ra cứng rắn trước kẻ thù. Chỉ giọng nói hơi nghẹn ngào ở một đoạn nào đó tố cáo nỗi xúc động trong lòng bà.
Mẹ tôi già đi nhiều quá. Mái tóc bạc thưa thớt, nhiều chỗ trơ sọ. Tôi nhìn mẹ, nước mắt ứa ra. Ðời mẹ khổ quá nhiều.
Tôi nhớ tới một buổi sáng se lạnh bên sông Ðà. Mẹ tôi lịch thiệp và bình thản trả lời viên sĩ quan Pháp áp giải đoàn tù đi Sơn La khi y hỏi tại sao mẹ tôi biết tin sự di chuyển mà đi tiễn chồng:”Người vợ yêu chồng bao giờ cũng biết chồng mình ở đâu”. Y lại hỏi tại sao bà không khuyên can chồng để đến nỗi gia đình bị ly tán, bà đáp:”Chồng tôi làm công việc mà bất cứ người Việt Nam tự trọng nào cũng phải làm”. Tôi nhìn thấy ánh mắt tự hào của các đồng chí nhìn mẹ tôi trên con phà chở tù sang thị xã Hòa Bình(15).
Mẹ luôn dặn tôi không được tỏ ra mềm yếu trước kẻ thù. Nhưng đó là kẻ thù nào khác chứ không phải thứ kẻ thù quái đản này. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, bà không tin sẽ được thấy ngày đất nước độc lập và bà âm thầm chuẩn bị đến lượt chúng tôi phải đối mặt với chúng. Mẹ đã dạy dỗ tôi không vô ích. Chính những lời dạy dỗ của mẹ đã giúp tôi rất nhiều trong những ngày phải sống trong xà lim, bị cắt đứt với thế giới bên ngoài.
Vợ tôi hoàn toàn không biết ứng xử với bọn công an như thế nào cho phải, cho nên lúng túng. Cứ như thể một khi tôi là tù thì vợ tôi cũng là tù một nửa. Trông mà thương quá. Tôi ôm lấy vợ, không biết nói gì. Tội nghiệp, vợ tôi không hề được chuẩn bị để chịu đựng cảnh sống này. Nhưng nhìn vào mắt vợ tôi, tôi hiểu vợ tôi sẵn sàng chịu đựng cùng tôi những khốn khó mà chế độ phát-xít mang lại.
Tôi bế đứa con giờ đây mới biết mặt. Khi bị bắt tôi chưa biết vợ tôi có mang. Hoài Thu giãy giụa trong tay tôi, không chịu theo. Chị nó, Mi Lan, cũng bắt đầu lạ tôi. Tôi ôm hôn con gái, rồi nhân một phút tên quản giáo lơ đãng, nhét vào túi áo con bức thư: “Con giấu đưa cho bà”. Mi Lan nhìn tôi chăm chú. Rồi gật đầu. Ðưa cho con rồi tôi đâm lo – nhỡ con tôi không hiểu lại đưa ngay cho bà nội mẩu thư cuộn trong mẩu vỏ tuýp kem răng trước mặt bọn Công an thì sao? May mà Mi Lan có trí thông minh trước tuổi. Trong suốt cuộc gặp mặt, con tôi ngồi trên đùi tôi, vui vẻ cười đùa, không gây ra một sự nghi ngờ nào.
Bức thư được mẹ tôi trao tận tay Nguyễn Lương Bằng.
Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét.
– Tội nghiệp, chưa bao giờ mẹ trông thấy bác ấy thảm hại như thế! – mẹ tôi kể về cuộc gặp gỡ đáng buồn.
Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp(16).
Nói cho công bằng, trong ông cũng có xảy ra một cuộc đánh nhau giữa tình bạn và cái ghế. Ðáng tiếc, trong cuộc đọ sức tình bạn bị đo ván. Tôi biết về cuộc đánh nhau ấy do cha tôi kể lại. Khi hấp hối, Nguyễn Lương Bằng cho người mời cha tôi đến. Ông ân hận. Ông xin cha tôi tha thứ. Cha tôi nói:”Việc đã qua rồi. Anh không phải là người gây ra. Giữa anh và tôi không còn tình đồng chí, nhưng tình bạn thì còn. Anh hãy yên tâm nhắm mắt”.
Có một số tác gia nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản cho rằng trong cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa con người quan chức, không trừ cả lãnh tụ, bị buộc chặt vào cơ chế đến mức không thoát ra được dù họ có muốn, cho nên đánh giá họ bằng chuẩn mực hành xử thông thường của loài người là sai. Cách suy nghĩ độ lượng của các vị không có tác dụng nào khác hơn sự biện hộ cho những tên hoạt đầu, những tên cơ hội, những tên độc tài đứng trên bọn chúng, xóa nhòa ranh giới giữa đao phủ và nạn nhân. Chẳng qua bằng sự xuống cấp từ từ, không nhận thấy được, của những chuẩn mực đạo đức trong một xã hội bị bần cùng hóa, con người quan chức trong cơ chế đó đã hành động một cách vô thức, theo bản năng tự vệ, để không bị cơ chế tống ra ngoài. Hơn thế nữa, những bản năng thấp hèn được khơi dậy dưới những vỏ bọc hào nhoáng, như những chuẩn mực đạo đức mới làm cho lớp quan chức vững tin ở những hành động vô đạo đức trong lối sống, và cứ thế họ trượt dần xuống dốc phi nhân bản lúc nào không biết.
Căn cứ việc công an hỏi tôi, bắt tôi làm bản khai về Nguyễn Lương Bằng thì tháng 12 năm 1967 Nguyễn Lương Bằng còn nằm trong diện những người bị tình nghi chống Ðảng. Thế mà chưa tới một năm sau, tháng 11 năm 1968 ông đã nhảy phóc một cái qua địa vị kẻ trấn áp. Trường hợp Nguyễn Lương Bằng là trường hợp điển hình cho sự trượt dốc đó.
Tôi có thể thông cảm với Nguyễn Lương Bằng. Ông tham gia ban chỉ đạo chuyên án của Lê Ðức Thọ do sợ hãi. Nhờ biết sợ ông chẳng những thoát nạn mà còn lên chức phó chủ tịch nước vào năm 1969. Ông có mất mát chút ít, nhưng là những thứ không quan trọng: tình bạn, tình đồng chí, tình yêu của những đứa cháu không ruột thịt, lòng kính trọng của những người cách mạng chân chính.
Ðó chính là sự tha hóa của con người. Nó hiện diện trong mọi tầng xã hội. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã chính là do sự tha hóa trong lòng nó, sự mục rữa chất người, hay nói theo cách của Lênin, do sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực. Hệ thống này tan rã không phải trong thời điểm kinh tế suy thoái nhất (của Liên Xô cũng như của các nước Ðông Âu), mà tan rã vào thời điểm dân chúng ở những quốc gia này không còn chịu đựng nổi sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực(17) ấy, do ý thức được sự mất nhân tính ấy họ không còn có thể điều hòa được với nó.
Mẹ tôi cho biết cả nhà đã được gặp cha tôi. Bố cũng ở đây, sức khoẻ bình thường, mẹ tôi nói, khẽ nháy mắt với tôi và mỉm cười buồn bã. Tôi hiểu cha tôi yếu, nhưng bọn công an không muốn mẹ tôi nói thế. Lại một đặc tính ngớ ngẩn của bọn đạo đức giả: chúng chỉ cho phép tồn tại một sự thật làm đẹp cho chúng. Ngay trong việc nhỏ nhất. Nhìn thấy trên bàn có cái giỏ tích đáng ngờ, tôi ra điều dẹp chỗ cho vợ tôi sắp thức ăn để bỏ nó qua chỗ khác. Tên công an trông thấy. Y nhao tới, hấp tấp đặt nó vào chỗ cũ. Tôi đoán đúng: trong cái giỏ tích có rệp.
Cuộc chiến gây ra từ một phía chưa kết thúc. Lê Ðức Thọ vẫn sợ một cái gì đấy, cho nên mới phải bí mật theo dõi cả những cuộc nói chuyện trong gia đình chúng tôi. Hay Thọ còn muốn giăng bẫy để bẫy một cái gì khác?
Mẹ tôi im lặng theo dõi việc diễn ra trước mắt, mỉm cười khinh mạn. Bà hài lòng thấy tôi không ngơi cảnh giác. Bằng lời lẽ khéo léo mẹ khuyên tôi phải chờ đợi, không nên ảo tưởng, hãy cố gắng chịu đựng. Tôi nghe mẹ nói, lòng buồn rượi. Ngoài kia vẫn là đêm tối, chưa có gì hứa hẹn bình minh. Mà bây giờ đã là mùa hè năm 1969.
Lợi dụng tên y sĩ công an nhìn đi nơi khác vợ tôi rụt rè đưa cho tôi cây bút bi hai màu. Vợ tôi muốn cho tôi một cái gì đó, và đã chọn cây bút – món quà này chắc chắn làm tôi vui thích. Tôi liếc nhanh tên công an. Y vẫn lắng nghe, nhưng quay mặt nhìn ra sân. Tôi giật phắt cây bút nhét vào túi. Vợ tôi ngạc nhiên, thẫn thờ nhìn tôi.
Ngày hôm đó, tôi đã làm một hành động phản văn hóa là hủy hoại một cây bút tuyệt đẹp. Tôi vờ xin phép tên công an cho tôi ra ngoài. Ngồi rất lâu trong cái chuồng xí dựng tạm ở sau nhà, bốn bề trống hoác với mấy tấm tranh quây quanh, tôi quan sát rất kỹ chung quanh rồi bẻ nát cây bút, dùng que đào lỗ chôn những mảnh nhựa vụn. Bằng con dao giấu trong giày, tôi xẻ quãng giữa đường khâu kép nơi mặt trong áo bông, luồn hai ruột bút bi vào đó.
Từ hai ruột bút bi này bắt đầu cuốn Miền Thơ Ấu, cuốn sách mười chín năm sau rốt cuộc rồi cũng được thấy ánh sáng mặt trời.
(1) Một loại com-măng-ca của Liên Xô.
(2) Nghe nói về sau trại quân pháp Bất Bạt được sử dụng làm nơi giam giữ tù binh Mỹ.
(3) Mật danh một cơ sở kinh tài của Ðảng trong kháng chiến chống Pháp.
(4) Thiếu tá Trần Thư cũng bị giam ở trại này năm 1973 trước khi được tha. Anh miêu tả nơi ở thấy có khác. Anh không phải ở trong xà lim mà được ở trong một ngôi nhà nhỏ như điếm canh đê, có một mảnh vườn con bên trong hàng rào dây thép gai vây bốn bề. Ðây là nơi cư trú trung chuyển giữa chế độ giam giữ và sự thả cho về, làm thành một khu riêng biệt, cách khu xà lim và khu trại chung. Lại một sáng tạo độc đáo của hệ thống giam tù “xử lý nội bộ”.
(5) Tên một tác phẩm của nhà văn xô-viết K. Paustovsky (bản dịch của Vũ Thư Hiên).
(6) Cách nói chại đi từ tiếng Pháp campagnard = tên nhà quê.
(7) Hai nhà văn Trung Quốc bị hạ ngục vì những phát biểu bất đồng với đường lối văn nghệ của đảng cầm quyền.
(8) Một tổ chức thiếu nhi rất phổ biến trên thế giới được xây dựng thành đội gọi là bầy sói gồm có huynh trưởng là sói già và các thiếu nhi trong đội là sói con như trong chuyện “Rừng” của Rudyar Kipling. Sau năm 1954 tổ chức này không tồn tại ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa nữa. Nó bị coi là của các giai cấp bóc lột.
(9) Nhà báo lão thành, được biết đến bởi những phóng sự chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp.
(10) Giáo sư trường Ðại học tổng hợp Hà Nội, đỗ hai bằng tiến sĩ ở Pháp. Sau vụ này ông không được phép giảng dạy cho suốt đời.
(11) Hắn, nó, y (lui, tiếng Pháp)
(12) Tướng (tiếng Pháp).
(13) Trường Chinh, tiếng Pháp.
(14) Theo Thọ Mai Gia Lễ thì thời gian này vừa đúng bằng thời gian vợ để tang chồng. “Ba năm hai mươi bảy tháng chàng ơi…”
(15) Năm 1939 tôi được đi theo mẹ lên thị xã Phương Lâm, tỉnh Hòa Bình, để tiễn đoàn tù cộng sản bị đi đày Sơn La. Trong đoàn tù này còn có các ông Trần Huy Liệu, Trịnh Tam Tỉnh, Nguyễn Văn Phúc, Ðặng Kim Giang… Trung ương Ðảng được mật báo đã cử mẹ tôi đón đường tiếp tế cho các đồng chí. Tôi còn nhớ cha tôi lột cái mũ nồi tôi đang đội cho ông Phi Vân, bị còng tay chung với cha tôi trong chuyến đi đó. Ông Phi Vân về sau bị Ðảng thủ tiêu. Ông Nguyễn Lương Bằng kể: Phi Vân bị Ðảng thủ tiêu vì tội bán các đồng chí nữ cho nhà chứa bên Tàu. Không rõ thực hư ra sao.
(16) Máy ghi âm bí mật.
(17) Có thể tìm thấy cách suy nghĩ rất thú vị của Lênin về tha hóa trong Bút Ký Triết Học của ông.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:29:47 GMT -6
Chương 31
Tên tuổi Lê Ðức Thọ ngày nay không những được biết đến ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Hình ảnh Lê Ðức Thọ được in trong những cuốn từ điển bách khoa, với tiểu sử tóm tắt và sự nhấn mạnh về công trạng tìm kiếm hòa bình cho cuộc chiến tại Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris với Henry Alfred Kissinger(1) và được trao giải thưởng Nobel hòa bình cùng với ông ta trong năm đó.
Ở Việt Nam tên Lê Ðức Thọ gắn liền với vụ nhóm xét lại chống Ðảng, và rất nhiều vụ oan khuất khác do Ban Tổ chức Trung ương tiến hành.
Tôi tiếc không được biết Lê Ðức Thọ một cách gần gụi để có thể viết nhiều và viết kỹ về nhân vật một thời làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam. Hi vọng rồi đây sẽ có người làm việc này một cách nghiêm túc, bởi vì Lê Ðức Thọ là một hiện tượng đặc thù trong hình thái xã hội từng được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Ý định của Lưu Quý Kỳ về việc cho ra một tờ báo châm biếm tương tự tờ Cá Sấu của Liên Xô để phê phán các hiện tượng tiêu cực, mà tôi có nhắc tới trong một đoạn trên, không phải là ý định suông. Ðiều Lưu Quý Kỳ không ngờ là ý muốn chân thành của anh đã dẫn tới tai họa. Lê Ðức Thọ xồng xộc đến tận Sở báo chí để tự mình uốn nắn ý nghĩ ngạo ngược của anh. Mà Lưu Quý Kỳ được Thọ coi như đệ tử ruột một thời. Tinh thần cảnh giác cao chưa một lần ngủ quên của Sáu Búa Lê Ðức Thọ không thể lơ là để xảy ra một sự lỏng dây xích như vậy.
Tôi có mặt ở đấy khi xảy ra sự việc.
Con người cao to, tóc bạc trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật. Trong Lê Ðức Thọ tôi nhìn thấy đầy rẫy của giả. Mọi người khúm núm, sợ sệt. Tôi nhìn Thọ dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại, một tên hãnh tiến điển hình. Trong cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc ông Hồ Chí Minh gọi căn bệnh này là bệnh lãnh tụ.
Vào những năm đang được nói tới Lê Ðức Thọ là ủy viên Ban bí thư, ủy viên Thường vụ Trung ương Ðảng. Nhưng cả hai chức ấy chẳng có nghĩa gì so với một chức nghe khiêm tốn hơn, là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Thọ giữ chức này ba mươi năm liền, kể từ khi ra Bắc.
Từ một cơ quan bình thường, mang nặng tính chất sự vụ, làm công việc quản lý cán bộ Ðảng thời Lê Văn Lương, Ban Tổ chức Trung ương trong tay Thọ nhanh chóng trở thành cơ quan siêu mật thám, nắm trong tay quyền lực cao nhất, mạnh nhất trong toàn bộ hệ thống Ðảng. Nó bao trùm tất cả, đứng trên tất cả. Nằm trong quyền điều khiển của nó có cả Bộ Nội vụ. Với thể chế Ðảng cầm quyền, tình hình đó là lẽ đương nhiên.
Ban Tổ chức Trung ương của Lê Ðức Thọ trong thực tế không chỉ nắm lý lịch đảng viên và cán bộ Ðảng, mà cả cán bộ chính quyền, từ cấp thấp nhất tới cấp cao nhất, theo một hệ thống dọc.
Mỗi cán bộ đều có một cuốn lý lịch, nó dính vào anh suốt đời, như một cái bướu. Mỗi lần xét lên lương, xét cho đi học, xét cấp nhà, thậm chí một cái phiếu mua xe đạp, là một lần lý lịch anh lại được mở ra, được tính đến. Giá trị con người tính bằng mức độ trung thành với Ðảng, hồng là hơn chuyên, đức là hơn tài. Lý lịch là chứng chỉ xác nhận giá trị xã hội của mỗi cá nhân thành viên, do đó nó quan trọng vô cùng. Lý lịch còn được cập nhật, được bổ sung liên tục bởi công an chìm và nổi, bởi cán bộ tổ chức, cán bộ bảo vệ, các bạn đồng sự, bởi ông hàng xóm hoặc ông tổ trưởng dân phố. Hết thảy đều được dạy dỗ để theo dõi lẫn nhau, được khuyến khích thu thập tin tức về nhau.
Nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có lúc mắc khuyết điểm, không lúc này thì lúc khác, không ở nơi này thì nơi kia. Nếu chẳng may khuyết điểm bị tổ chức phát hiện, nó sẽ được ghi nhận, được xếp vào hồ sơ, còn sau này có dùng đến hay không, dùng vào lúc nào, là chuyện khác.
Tại Hỏa Lò tôi ngạc nhiên thật sự khi Huỳnh Ngự, với nụ cười trịch thượng trên môi, chìa cho tôi xem bản liệt kê tất cả những gì tôi đã viết, đã in, trong đó có nhiều cái ba lăng nhăng chính tôi cũng quên bẵng từ lâu. ỉ thì cứ cho rằng từ năm 1961 khi tôi viết Ðêm Mất Ngủ bị Tố Hữu đánh, lúc ấy nghi ngờ tôi là có lý. Nhưng làm sao trong hồ sơ lại có cả những bài báo ngô nghê đăng trên tờ Nhân dân và Văn nghệ từ mãi những năm 1954-1955, khi tôi còn là một con chiên ngoan đạo? Thì ra khi có một bút danh mới xuất hiện những cán bộ tổ chức theo dõi văn nghệ liền ghi ngay vào sổ, và nếu có một chút nghi ngờ thì một hồ sơ liền được lập. Nếu không làm sao người ta có thể có những bản liệt kê những thứ tầm phơ như thế?
Dù có căm ghét hệ thống quản lý cán bộ ấy tới mức nào chăng nữa tôi vẫn phải khâm phục tính chất vô nhân và vô luân hoàn hảo của nó. Về hệ thống của Thọ cần có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc trên hai bình diện: môi trường xã hội cần và đủ cho sự nảy sinh và tồn tại của hệ thống, cách vận hành nó. Ðảng cộng sản Việt Nam có quyền tự hào – trong lĩnh vực này kể cả Gestapo của Ðệ tam Ðế chế cũng khó sánh được với Ban Tổ chức Trung ương.
Bên cạnh Ban tổ chức Trung ương, Lê Ðức Thọ đặt ra Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương. Nó được lập ra để bảo vệ sức khoẻ cho các ủy viên Trung ương, nhưng chủ yếu là các Trung ương ủy viên cổ cánh, và trước hết là các ủy viên Bộ Chính trị. Theo quy định, cán bộ đã tham gia hoạt động cách mạng trước 9-1945 đều nằm trong sự chăm sóc của Ban này, nhưng đó là quy định được đặt ra cho vui chứ không phải thực tế là như vậy. Không hề có dấu bằng giữa một đảng viên chịu đựng nhiều hy sinh cho cách mạng, với một ủy viên Bộ Chính trị đỏ da thắm thịt.
Sức khỏe các ủy viên Bộ Chính trị thời Duẩn-Thọ đượctiêu chuẩn phục vụ tối đa, với tất cả khả năng mà nền y học Việt Nam hiện đại có. Trong tay Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương có những bác sĩ hàng đầu ở các bệnh viện tốt nhất. Có vị còn được cấp phát một nữ sinh viên để thứ bảy chủ nhật đến săn sóc sức khoẻ và bầu bạn cho đỡ buồn. Khi cô sinh viên “xin phép chú cháu đi lấy chồng” thì chú nước mắt nước mũi giàn giụa nằng nặc giữ cô lại. Ðời con gái có thì, cô ta không chịu, thế là nhà lãnh đạo ngã bệnh, các chuyên gia Việt Nam khám không ra, chữa không được, ông phải đáp chuyên cơ(2) ra nước ngoài chạy chữa. Cuộc tình bao cấp được Thọ cho quay phim, chụp ảnh lén, sẽ có lúc dùng tới. Chuyện thâm cung bí sử này lọt ra ngoài cũng từ cái Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương nọ.
Cái sự ham muốn quyền lực thường có ở những người đã được nếm mùi quyến rũ của nó. Nhưng ở Lê Ðức Thọ nó mang một sắc thái đặc biệt, với một bề ngoài đạo đức giả điêu luyện. Những người tiên đoán mâu thuẫn giữa Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ nói rằng cặp này sớm muộn sẽ loại trừ nhau chính là do quyền lực. Tôi nghe vậy biết vậy, chứ không nghĩ rằng nhận định của họ có sở cứ, mặc dầu đó là những người biết cả Duẩn và Thọ từ những năm ở bưng biền. Sau mới biết là đúng.
Cuối năm 1967 tôi và mẹ tôi vào Hà Ðông thăm bác Ðinh Chương Dương, bác kể mới tháng trước có mấy cán bộ ở Ban lịch sử Ðảng vào gặp bác để lấy tài liệu về phong trào cách mạng và cộng sản ở Nam Ðịnh. Mấy nhà sử học quan phương một mực dỗ dành nhà cách mạng lão thành xác nhận bằng văn bản rằng Lê Ðức Thọ là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh. Bác Ðinh nghe rác tai quá, mới bảo họ: “Này các anh, nghe tôi khuyên đây: nếu muốn chép sử thì nhất nhất phải chép theo sự thật. Còn muốn viết sử thì cứ việc viết theo ý các anh muốn, hoặc theo ý người trên. Không làm được Tư Mã Thiên thì làm thư lại mà giữ lấy nếp nhà lương thiện”. Kể lại chuyện này, bác Ðinh nói với tôi: “Khi bố cháu đã hoạt động cách mạng rồi thì anh Thọ này còn là học sinh(3). Chẳng hiểu sao anh ta lại thích được ghi vào sử đảng rằng anh ta là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh đến thế? Con người tham thật, được bao nhiêu cũng chưa vừa lòng”. Anh Kỳ Vân kể hồi anh đã là xứ ủy viên Bắc Kỳ, Lê Ðức Thọ cũng từng hoạt động với anh. “Hồi ấy hắn ta không như bây giờ bây giờ đâu. Khiêm tốn lắm, nhũn nhặn lắm. Mà trình độ hiểu biết chính trị thì a b c, biết cái khỉ gì đâu. Cho nên nịnh Trường Chinh lắm, nghe Trường Chinh như nghe thánh sống. Thế mà sau năm 54 ở trong Nam ra hắn đã câng câng, nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt. Trường Chinh nâng đỡ hắn là thế, vậy mà khi Trường Chinh thất thế, hắn cũng vênh váo cả với Trường Chinh mới tệ”.
Mà nào có phải Lê Ðức Thọ là nhà cách mạng kiên cường cho cam! Năm 1943, ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về ở nhà tôi, tại 65 phố Nhà Rượu (phố Nguyễn Công Trứ bây giờ), ông còn bảo cha tôi: “Anh chịu khó đi Nam Ðịnh tìm thằng Khải(4) hỏi thẳng nó xem nó có còn muốn hoạt động với anh em nữa không, hay chỉ nằm nhà ôm vợ?”. Cha tôi đạp xe đi Dịch Lễ, tìm được Lê Ðức Thọ, lôi Thọ ra khỏi cái giường êm, trả về cho tổ chức. Về chuyện này cha tôi có ghi lại trong tập hồi ký “Tháng Tám cờ bay”.
Lạ nữa là chẳng phải một mình Lê Ðức Thọ làm to. Hai người em ruột Thọ là Ðinh Ðức Thiện (tức Phan Ðình Dinh) và Mai Chí Thọ (tức Phan Ðình Ðống), cho tới Cách mạng Tháng Tám chưa hề có tiếng tăm trong hàng ngũ cách mạng cũng làm to nốt. Một người lên đến thượng tướng, bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, một người được phong đại tướng ngành Công an khi về hưu. Những nhà cách mạng lão thành cứ ngẩn ngơ trước sự thăng tiến vù vù trên hoạn lộ của ba anh em nhà nọ. Quả là sự hi hữu trong lịch sử.
Người làng Dịch Lễ nói rằng ba anh em Khải-Dinh-Ðống lên nhanh thế là nhờ mồ mả. Tôi không tin. Sau này, được chính anh cháu ruột Lê Ðức Thọ, một nhà khoa học hẳn hoi chứ không phải người không hiểu biết, kể cho tôi nghe chuyện ngôi mộ cụ thân sinh Lê Ðức Thọ tôi mới đâm ra ngờ vực – chẳng lẽ thuật để mả có từ lâu đời ở nước ta lại có thật? Không khoa học nào thừa nhận môn phong thủy, nhưng trong chuyện vận may của nhà họ Phan xem ra nó lại có lý hơn mọi cách giải thích khác. Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả(5) bát cơm, không phải vô lý mà các cụ ta đã có câu như vậy.
Nhà khoa học kể: gia đình Lê Ðức Thọ gồm hai chi. Chi trên, ngành cả, là chi bác ruột của Thọ, cụ Phan Ðình Hòe, và chi dưới, cụ Phan Ðình Quế, thân sinh ra ba ông quan lớn sau này. Cụ Hòe từ nhỏ tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, sau đỗ đạt cao, làm quan nhất phẩm, thượng thư hay là cái gì đó tương tự, tôi nghe nhưng không nhớ. Ông em ruột cụ là cụ Quế thì ngược lại, học trước quên sau, được cái tính củ mỉ cù mì, an phận thủ thường ở nhà với vợ, chịu khó cày sâu cuốc bẫm, chăn gà chăn lợn.
Cụ Hòe thôi việc quan, được một thầy địa lý nổi tiếng trong vùng chọn cho một huyệt tốt phòng khi cụ hai năm mươi, gọi là huyệt Lỗ Ao. Tại sao nó có tên như vậy thì nhà khoa học không biết, cũng không được ai giải nghĩa. Thế nhưng cụ Hòe lại thọ, thành thử huyệt đã sẵn mà cụ vẫn sống phây phây để rồi gặp được một thầy địa lý khác, theo lời thiên hạ đồn thì cao tay hơn ông thầy trước nhiều.
Thầy địa lý này trẻ mà kênh kiệu, cụ Hòe vời mấy lần mới chịu tới. Trước mặt cựu thượng quan thầy cung kính chắp tay thưa: “Kẻ hèn võ vẽ chuyện đất đai, nghe lời cha mẹ dạy trước nay làm việc này chỉ cốt được sự phúc đức. Thấy ai không hiểu biết, lỡ đặt cha mẹ hoặc thân nhân nhằm chỗ đất độc thì mách cho người ta đặt lại kẻo rồi sau di hại đến con cháu. Chứ tìm đất tốt phát vương phát bá thì kẻ hèn này không có tài”. Cụ Hòe nói muốn nhờ thầy xem lại huyệt Lỗ Ao. Thầy vâng lời, xem xong rồi thưa: “Bẩm, quan lớn là bậc đa kiến văn, trí lự hơn người, xin quan tự định liệu. Huyệt này đúng là phát, phát lắm. Tiếc thay, nó phát một đời, nhưng lại bị nguyền rủa muôn đời”.
Cụ Hòe giật mình, dặn con cháu: “Công hầu khanh tướng chẳng qua chỉ là giấc mộng hoàng lương. Ta chết đi chúng bay cứ chọn chỗ cao ráo cho ta nằm. Ta không muốn giòng họ ta vì phát một đời mà chịu tiếng xấu muôn đời!”. Con cháu nghe lời bỏ huyệt Lỗ Ao. Cụ Hòe có để lại một bài tứ tuyệt nói lên ý trên, đúng là khẩu khí của bậc hiền nho, nhưng nhà khoa học kể chuyện này không thuộc.
Cụ Quế tiếc rẻ cái huyệt phát, bảo: “Bác cả không nằm, để tao nằm”. Cụ qua đời, con cháu táng vào huyệt Lỗ Ao.
Câu chuyện này tôi được nghe vào năm 1966, thời cực thịnh của Lê Ðức Thọ.
Cho đến khi tôi viết những dòng này Lê Ðức Thọ bị nguyền rủa đã nhiều. Trong cả nước. Từ dưới dân đen tới những tầng cao chế độ. Không phải chỉ những người bị Lê Ðức Thọ hãm hại và con cháu họ, mà cả những người vô can. Người ta coi Lê Ðức Thọ là đệ nhất gian thần trong lịch sử nước nhà.
Ðinh Ðức Thiện không chịu chung những lời nguyền rủa với ông anh cả. Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ những chức vụ rất quan trọng – bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên – Hà Nội. Họ tính kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền nổi khùng: “Rặt một lũ ăn hại đái nát! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính như con c… Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả trí ngủ!”. Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.
Các kỹ sư tốt nghiệp ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng chẳng được ông tướng trọng vọng hơn. Họ dặn nhau: “Ðến yết kiến lão phải phơi nắng vài ngày cho da đen đi cái đã. Mà nhớ lấy nhá, chớ có đi giày tây, chớ có diện củ(6), lão hò hét gì mặc lão, cứ vâng dạ. Chớ cãi, cãi lão chỉ có chết”. Thấy anh nào trắng trẻo, ăn vận sạch sẽ, có dáng ở Tây về, ăn nói thiếu thưa bẩm, cử chỉ không giữ gìn thận trọng trước cấp trên là ông quan hét ầm ầm: “Ði xuống cơ sở(7). Ngay lập tức, không oong đơ gì hết, Lao động một năm rồi về đây gặp tao”. Ðinh Ðức Thiện dị ứng với bằng cấp. Kẻ có bằng cấp muốn được ông thu dụng phải nhoài người ra mà nịnh ông cho tới khi ông mềm lòng.
Có một thời sự thiếu học được coi là niềm tự hào – người ít học là người có quá khứ trong sạch, không dính với thực dân, phong kiến. Ðinh Ðức Thiện tự hào về sự thiếu học của mình lắm. Ông vỗ ngực đồm độp: “Xem tao đây này, tao chẳng có cái bằng chó nào hết, thế mà tiến sĩ kỹ sư sợ tao một phép. Chúng nó ỷ có học, nhưng học gì lũ chúng nó, học vẹt ấy thì có, rời sách vở ra là chịu chết. Trí thức mà không có thực tế chỉ là cục c… Chính tao này, tao chỉ đạo kỹ thuật cho chúng nó, chứ ai? Nghe cái bọn quen bơ thừa sữa cặn ấy chỉ có mà ăn cháo, ăn cháo!”.
Cũng lại là công nhân theo lý lịch tự khai chứ không theo định nghĩa của Mác, Ðinh Ðức Thiện khó chịu với mọi biểu hiện ông cho là ăn chơi của cấp dưới. Lúc nào ông cũng phô cái quá khứ nhọc nhằn. Thực ra quá khứ của ông chẳng nhọc nhằn gì, người làng Dịch Lễ nói vậy. Ông sướng từ bé, lớn lên ra tỉnh ăn chơi lêu lổng, chim gái thành thần, họ kể. Nhưng ông cứ xưng xưng nói thế. Ông không cho phép cái lũ không biết nhọc nhằn là gì được phép sung sướng. Ông chỉ cho phép mình sung sướng thôi. Mà Ðinh Ðức Thiện là người biết cách để sung sướng lắm.
Hồi kháng chiến chống Pháp, công tác tại Liên khu 3, Ðinh Ðức Thiện rủ Hoàng Minh Chính mở một hộp đêm để giải sầu: “Chúng mình đầu tắt mặt tối, vào sinh ra tử, khổ bỏ mẹ, phải có một chỗ để thỉnh thoảng giải khuây, làm một phát cho khoái”. Hoàng Minh Chính không đồng tình: “Mày nói thế chó nó nghe được. Cán bộ cách mạng mà làm bậy, tổ chức kỷ luật chết”. Ðinh Ðức Thiện cười vào mặt Hoàng Minh Chính: “Xì, mày ngu bỏ mẹ, tiền lấy ở quỹ đen, mình làm đen luôn, giữ bem(8) tốt, thằng chó nào biết!”. Hoàng Minh Chính kể cho tôi nghe chuyện này vào mùa hè năm 1965, cũng nhân nói tới sự thăng tiến kỳ lạ của ba anh em họ Phan. Anh không hề có ác cảm với Ðinh Ðức Thiện khi kể lại câu chuyện đó. Hai người là bạn với nhau một thời, tuy không thân thiết.
Một người bạn tôi có hồi công tác dưới quyền Ðinh Ðức Thiện, thường được ông cho đi săn cùng. Ði săn là thú chơi của Ðinh Ðức Thiện. Anh kể mỗi lần ông ta ra lệnh đi săn là mỗi lần nhân viên phục vụ ông tướng quýnh quáng sửa soạn đủ thứ ông tướng cần, không được để thiếu thứ gì. Ông đi một xe, một xe chở lính hầu, súng săn, xoong nồi, bia rượu và trăm thứ bà rằn khác, kể cả lều bạt phòng khi ông hứng lên nghỉ lại trong rừng.
Sinh ư nghệ tử ư nghệ, Ðinh Ðức Thiện chết bất đắc kỳ tử trong một chuyến đi săn. Ðâu như lúc mở cửa xe bước xuống Ðinh Ðức Thiện bị súng cướp cò, đạn bắn vào đầu. Sau cái chết đột ngột của viên tướng có tin đồn: Ðinh Ðức Thiện bị hạ sát bởi tay Lê Ðức Thọ. Trước đó tôi cũng có nghe thiên hạ nói nhiều về mối bất hòa giữa hai anh em họ Phan. Người họ Phan nói chuyện đó có thật. Họ cho biết thêm: kể cả Mai Chí Thọ cũng không ưa Lê Ðức Thọ. Mỗi lần Mai Chí Thọ từ Sài Gòn ra Hà Nội ông ta đều đến thăm bà chị ruột góa chồng (ông chồng bà đã treo cổ tự tử trong Cải cách ruộng đất) và Ðinh Ðức Thiện, nhưng không đến Lê Ðức Thọ. Cũng người trong nhà nói ra thì Ðinh Ðức Thiện biết những việc ám muội của ông anh có lần đã quát vào mặt Lê Ðức Thọ: “Anh làm thế để thiên hạ đào mả bố lên à?”. Làm thế cụ thể là làm gì thì người kể chuyện không nói. Bởi vì chẳng nói người nghe cũng hiểu – trong đời mình Lê Ðức Thọ làm quá nhiều điều thất nhân tâm.
Tôi không tin chuyện Lê Ðức Thọ giết em. Trong một chuyến đi săn, cũng theo lời bạn tôi kể, có hai lái xe, mấy bảo vệ tháp tùng, không dễ gì mua chuộc hoặc cưỡng bức được bằng ấy người một lúc. Lời đồn chỉ chứng tỏ thiên hạ tin ở sự nhẫn tâm của Lê Ðức Thọ mà thôi(9). Tuy nhiên, tôi vẫn không hiểu vì lẽ gì người ta giấu nguyên nhân tai nạn. Hình như việc này cũng không đến nỗi khó hiểu, thậm chí còn tầm thường – nếu không giấu nguyên nhân tai nạn thì chôn Ðinh Ðức Thiện ở nghĩa trang Mai Dịch xem ra danh không chính ngôn không thuận. Ông tướng không tử trận, không chết trong khi thừa hành công vụ, mà chết trong khi đuổi theo mấy con vịt giời.
Mai Chí Thọ một thời gian dài làm giám đốc Công an, rồi chủ tịch ỷy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, sống như một ông hoàng. Trong ngôi biệt thự to lớn ở Sài Gòn Mai Chí Thọ có cả một khu vườn rộng nuôi trăn, nuôi vượn, nuôi gấu. Người Sài Gòn tính: hàng tháng riêng tiền chi cho việc mua giày Addidas và vợt Wilson để chơi tennis Mai Chí Thọ đã phải bỏ ra một số tiền gấp năm sáu lần lương ông ta. Tiền đâu ra? Không phải Mai Chí Thọ lấy ở quỹ đen nào, không phải Mai Chí Thọ tham ô công quỹ. Ðơn giản là trước thời kỳ “bung ra”,”đổi mới”, các phú thương Hoa kiều bị khốn đốn trong cuộc cải tạo tư sản hoành tráng của Ðỗ Mười, họ thoát hiểm nhờ tìm thấy nơi Mai Chí Thọ vị “đại huynh” rộng lòng bảo trợ. Ðể đền ơn đáp nghĩa họ chiều chuộng “đại huynh” hết lòng.
Ðám cán bộ ba cọc ba đồng bất bình trước cuộc sống sa hoa của Mai Chí Thọ. Không tham nhũng không thể sống như vậy được, họ nói. Người Sài Gòn cười hắc hắc, phẩy tay: “ Mấy ông tướng thời trước cũng dzậy à, hà cớ phải bực mình. Ông nầy không tồi hơn. Cờ tới tay ai người đó phất!’ Tòa án thành phố có lần gửi giấy triệu Mai Chí Thọ tới tòa làm nhân chứng cho vụ án xử thương gia Triệu Bỉnh Thiệt. Ðồn rằng hồi ấy phe chống Mai Chí Thọ xui mấy ông quan tòa nhân chuyện Triệu Bỉnh Thiệt phạm pháp sẽ hỏi nhân chứng một chặp rồi trước bách tính công chúng đưa Mai Chí Thọ qua ngồi ghế bị cáo. Không thể để cho cấp dưới làm chuyện đã rồi với ông em, làm mất thể diện mình, Lê Ðức Thọ cấp tốc triệu Mai Chí Thọ ra Hà Nội. Sau vụ này Mai Chí Thọ vào Bộ Chính trị.
Người Sài Gòn kể chuyện Mai Chí Thọ có một đệ tử chuyên dắt gái cho họ Mai là Năm T. Cậy có ô dù của đàn anh, Năm T. tổ chức hẳn một hộp đêm bề thế cho các quan chức cấp tỉnh lên ăn chơi ở Sài Gòn. Vụ này vỡ lở, dư luận ầm ĩ, các vị chức sắc tay đã nhúng chàm im re, mặc cho Năm T. vào khám. Năm ngồi tù mất hai hoặc ba năm, sau mới được đàn anh can thiệp cho ra trước hạn.
Một dạo Sài Gòn ồn lên cái gọi là “phương án 2”, cho phép người di tản đóng thuyền vượt biên, miễn nộp vàng cho Nhà nước. Thiên hạ rủ nhau đi như trẩy hội. Ði theo “phương án 2” người ít nhất cũng vài lạng, người nhiều hai ba chục “cây”. Ðó là một secret Polichinelle(10) được cả các quan chức lẫn dân vượt biên đồng tình giữ kín.
Tôi cho rằng Nhà nước, với tư cách bộ máy điều hành quốc gia, không có chủ trương đốn mạt đến thế, như một số báo chí hải ngoại viết. Ðây là sự thông đồng, toa rập của một đường dây quyền lực từ trên xuống dưới, một thứ mafia đã tạo kén trong hệ thống cai trị. Nhà nước, hoặc nói hẹp hơn, ngân khố quốc gia, chẳng thu được gì. Chỉ một số quan chức ở Sài Gòn (và cả ở Hà Nội) là vớ bẫm. Trong đó, cũng theo lời đồn, không thể thiếu anh em họ Phan.
Những lời đồn nói trên rất phổ biến, là thứ chúng khẩu đồng từ ông sư cũng chết, tuy hỏi kỹ thì lại không có chứng cứ nào cả. Mặt khác, chẳng ai có thể bác bỏ chúng bởi vì chúng đầy tính thuyết phục. Vụ tử hình vội vã tên Mười Vân(11), giám đốc Công an Ðồng Nai, được thiên hạ bình luận như một hành động xóa dấu vết cho “phương án 2”, nói cho đúng là xóa dấu vết cho các vị đã vớ bở(12).
Người Việt Nam vốn hào phóng với của chùa – tức là của chung cả làng, cả nước, của tập thể, cũng tức là chẳng của riêng ai, cho nên Mai Chí Thọ không bị nguyền rủa. Thực vậy, trong sự tham nhũng tràn lan từ trên xuống dưới, dư luận không xếp Mai Chí Thọ đứng đầu bảng. Còn có những nhân vật tham nhũng lớn hơn.
Dân chúng kết luận: mỡ đến miệng mèo, mèo không ăn mèo ngu. Mọi kẻ có chức quyền ở Việt Nam đều tham nhũng, khác nhau ở chỗ kẻ ít người nhiều mà thôi. Nếu ở các nước tư bản chủ nghĩa người có của dễ có quyền, thì ở nước xã hội chủ nghĩa người có quyền ắt có của.
Dân chúng quen làm ăn với những quan tham mất rồi, làm việc với quan tham không khó, tuy tốn kém, nhưng bù vào đấy lại nhanh hơn, được việc hơn. Có chuyện tới cửa công mà vớ phải ông thanh liêm thì hết hơi, người ta nói thế. Quan thanh liêm như con quạ trắng, dân sợ, dân xa lánh. Thời buổi này mà cứ thẳng băng, đúng phép tắc, không linh động gì hết, thì rõ là bôn-sê-vích dở hơi. Phép nước thì loạn xà ngầu, điều luật này chửi cha điều luật kia, nghị định này leo lên đầu nghị định khác, chính ông thanh liêm sa vào mê lộ luật pháp cũng còn lúng túng như gà mắc tóc, nói gì dân. Thành thử với lũ tham quan người ta khinh đấy, tởm đấy, nhưng để được việc người ta không chọn các quan thanh liêm.
Nếu thuyết phong thủy đúng thì huyệt Lỗ Ao ở làng Dịch Lễ ảnh hưởng quá ghê gớm tới vận mệnh dân tộc. Nó không phải chỉ ảnh hưởng tới một Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới cả các dân tộc láng giềng.
Nói những chuyện trên ra để ta cùng suy ngẫm về một hiện tượng, tôi không có ý phủ nhận sạch trơn những gì tốt mà ba anh em họ Phan đã làm. Những cái đó, trong thời đại của những nghịch lý, đều có thật, nhưng là cái hoàn toàn bình thường – bất cứ ai được đặt vào trong những cương vị như thế đều phải làm được cái gì đó, thậm chí là công trạng.
Nói đến Lê Ðức Thọ không thể không nói tới sự kiện Việt Nam chiếm đóng Kampuchea. Việc đưa 200.000 quân Việt Nam vào Kampuchea và ở lì đất nước người ta mười năm là việc liên minh Duẩn – Thọ chủ trương, trong đó Thọ vừa là người khởi xướng, vừa là người thực hiện. Thế giới không bênh vực Khmer Ðỏ. Cả thế giới lên án Khmer Ðỏ vì tội ác diệt chủng. Người Kampuchea đã hoan hỉ đón quân đội Việt Nam vào Kampuchea đánh đuổi Khmer Ðỏ. Nhưng không phải vì thế mà họ hoan nghênh quân đội Việt Nam chiếm đóng nước họ. Hai việc khác nhau không thể nhập một, không thể lấy cái tốt nọ để che cái xấu kia.
Sự kiện Khmer Ðỏ tấn công vùng biên giới Tây Nam hoàn toàn không phải là lý do để Việt Nam đưa quân sang chiếm đóng đất nước người khác(13). Không một người Việt Nam nào muốn đưa con em mình đi chết ở đó. Nhưng bất chấp dư luận, Duẩn – Thọ cứ xua quân sang. Làm gì nhau tốt? Rồi để quân lại đó, cũng làm gì nhau tốt? Ðảm bảo cho hành động phiêu lưu quân sự này đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt-Xô, thực chất là hiệp ước liên minh quân sự, ký ngày 3.11.1978. Ông chiếm Kampuchea đấy, thử đụng vào ông coi thử? Ðàng sau ông là Liên Xô hùng mạnh với tiềm lực nguyên tử dồi dào, thằng nào muốn đụng đầu với Liên Xô cứ việc nhảy vào. Cũng giống như vụ Liên Xô chiếm đóng Afganistan, thế giới phản đối om xòm, nhưng chẳng ai dại gì thò tay vào ổ kiến lửa. Kể cả nước Mỹ.
Ai cũng thấy rằng sau những cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước mình, các nhà lãnh đạo Việt Nam lẽ ra phải đủ tỉnh táo để chỉ làm một cuộc chiến tranh hạn chế khi Khmer Ðỏ cả gan vượt biên giới, tàn sát người Việt. Cùng lắm, có thể truy kích chúng, với mục đích răn đe, rồi rút quân về. Có thể để lại trang bị, vũ khí giúp nhân dân Kampuchea chống lại bọn diệt chủng. Gia dĩ có thể đào tạo cán bộ giúp họ. Và chỉ thế mà thôi. Nhân dân Kampuchea sẽ ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam. Thế giới sẽ hoan nghênh Việt Nam biết xả thân giúp đỡ hàng xóm láng giềng trong cơn hoạn nạn.
Cuộc chiến tranh không tuyên bố ở Kampuchea đã xảy ra. Nó là cuộc chiến tranh không tuyên bố vì Quốc Hội không được hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh này. Không hề có một cuộc biểu quyết nào tại Quốc Hội về việc đưa quân đội ra ngoài biên giới. Nhà nước Việt Nam không hề tuyên chiến với nước Kampuchea. Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của quốc gia, nhưng nó chẳng có quyền gì cả. Quốc Hội do Ðảng nặn ra, là tay sai của Ðảng, hơn nữa còn là tay sai bị khinh rẻ, đến nỗi Ðảng không cần dùng đến nó cho một việc hợp pháp hóa thông thường.
Thiếu tướng Hồ Quang Hóa, ủy viên Trung ương Ðảng, người được Thọ đưa lên và cũng do Thọ mà trở thành vật hiến tế trong vụ Xiêm Rệp (Siam Reap)(14) nói rằng vụ này cũng như mọi việc lớn việc nhỏ khác ở Kampuchea, đều do Lê Ðức Thọ chỉ đạo. Thái thú Lê Ðức Thọ phế truất Tổng bí thư kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pen Xô Van(15). Thái thú Lê Ðức Thọ đưa cô y tá Quân khu 7 Miên Xam On vào Trung ương Ðảng Nhân dân cách mạng Kampuchea. Cô gái dân tộc Kmer ở Việt Nam 26 tuổi lên chức vèo vèo: làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, rồi ủy viên Bộ Chính trị. Cô lên nhanh như thế, theo các cán bộ Việt Nam có mặt tại Kampuchea hồi ấy, là nhờ thường xuyên ra vào ngôi biệt thự sau điện Chăm Ca Mon để được thái thú “dạy dỗ”.
Cần phải làm rõ sự thật này một cách dứt khoát: cuộc chiến tranh ở Kampuchea là cuộc chiến tranh của Ðảng cộng sản Việt Nam. Không phải là cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam.
Liên minh Duẩn – Thọ đã biến một dân tộc hiền hòa thành quân xâm lược.
Cũng có thể cãi cho Lê Duẩn chút ít, rằng trong việc này ông ta không phải là đầu vụ. Còn đang say sưa với chiến thắng 1975 và những chương trình lớn, nhiều ảo tưởng hơn thực tế, Lê Duẩn hầu như mặc Thọ muốn làm gì thì làm. Ông ta cũng chẳng thiệt. Cuộc phiêu lưu Kampuchea do Thọ lo toan, xét cho cùng, vẫn cứ mang lại cho Lê Duẩn thêm một vinh quang. Mà vinh quang thì không bao giờ thừa.
Lê Duẩn không biết trong lòng Thọ đang nung nấu mưu đồ lớn. Nếu Thọ thành công trong việc dựng nên một chính phủ Kampuchea vâng lời Thọ thì Thọ sẽ có thêm một sức mạnh quyết định trong mưu toan nặn ra một Liên bang Ðông Dương. Trong Liên bang này Thọ sẽ là đồng chí trên hết các đồng chí. Ðến lúc đó Lê Duẩn sẽ chỉ là bí thư một nước thành viên mà thôi.
Ðám đệ tử Lê Ðức Thọ quá hí hửng về tiền đồ sáng lạn đã để lộ mưu đồ đó ra ngoài. Văn Cao có kể cho tôi nghe chuyện người của Thọ đã gặp những nhạc sĩ nào để gợi ý họ viết quốc thiều cho Liên bang Ðông Dương. Những nhạc sĩ nhận lời được Lê Ðức Thọ mời cơm tại nhà. Ông Bùi Công Trừng có lần nói với tôi: “Thằng Thọ nhiều tham vọng lắm, cháu ơi. Quan sát kỹ động thái của nó cháu sẽ thấy: mọi việc nó làm đều dẫn tới một cái đích – hất Lê Duẩn. Mà không phải chỉ nhằm cái chức tổng bí thư đâu, cái đó chưa đủ cho lòng tham của nó. Nó còn muốn làm tổng bí thư Liên bang Ðông Dương kìa”. Như vậy, từ những nguồn tin khác mưu đồ của Thọ cũng đã tới tai Bùi Công Trừng. Ông không ưa Lê Duẩn, nhưng không vì thế mà ông ưa con chuột chũi đang đào hầm dưới ghế Duẩn.
Khi Lê Duẩn phát hiện được mưu toan của Thọ nhằm phế truất mình thì Lê Duẩn căm Thọ lắm lắm. Ðến mức thẳng cánh đuổi Thọ ra khỏi nhà trong lần Thọ đến chia tay với tổng bí thư đang hấp hối. Người trong gia đình Lê Duẩn cho biết Duẩn gọi vỗ mặt Thọ là “thằng phản bội”.
Cũng theo tướng Hóa, Lê Ðức Thọ đã lẩn trốn trách nhiệm trước vụ Xiêm Rệp, cũng như nhiều vụ khác nữa, viện cớ bận họp, bận chữa bệnh.
– Anh hãy tìm cho tôi một kẻ dám chống lệnh ông Sáu vào thời gian ấy. – tướng Hồ Quang Hóa nói với tôi trong một bữa cơm ở Sài Gòn – Không ai được phép tự ý làm một việc gì nếu không có lệnh ông Sáu.
Cuộc phiêu lưu quân sự được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Ðức Thọ đã làm cho khoảng 52.000 chiến sĩ chết trận, 200.000 chiến sĩ bị thương(16). Chẳng những thế, nó còn làm cho dân tộc Việt Nam bị nhục nhã trước thế giới trong bộ mặt kẻ xâm lược, bị tẩy chay, bị trừng phạt.
Nước Việt Nam được gì, mất gì ở Kampuchea? Tại sao cho tới nay Ðảng cộng sản Việt Nam không dám nói tới, không có can đảm nhận lỗi trước những người láng giềng đau khổ để xóa đi một trang sử nhơ nhớp? Thọ đã chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.
Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Ðức Anh.
(1) Chính khách Hoa Kỳ, sinh năm 1923, cầm đầu phái đoàn Hoa Kỳ trong cuộc hòa đàm tại Paris năm 1973.
(2) Máy bay dành riêng cho các vị lãnh tụ.
(3) Theo hồi ức của ông Ngô Thế Tân, Việt kiều ở Pháp, chồng họa sĩ Nguyễn Thị Lựu, thì vào những năm 1926-1927 khi ông Tân còn là học sinh trường Canh nông Tuyên Quang thì vào “một đêm trăng mờ mở cuộc họp đông chừng vài chục người trong một khu rừng nhỏ. Không ai nhìn rõ mặt ai. Tóm tắt lại đây là đại diện một đảng có mục đích hoạt động bằng đủ mọi cách để lấy lại độc lập cho tổ quốc… Mãi đến năm 1956-1957 khi tôi ở Pháp trở lại Hà Nội anh bạn Vũ Ðình Huỳnh mới cho tôi biết người đảng viên bí mật nằm rừng tuyển mộ đảng viên ở trường Canh Nông hồi đó chính là anh… Nay anh đã khuất mà tôi cũng chẳng hay hồi ấy anh ở đảng nào…” Theo các nhà cách mạng thế hệ già Lê Ðức Thọ hồi ấy còn là học sinh.
(4) Tên thật của Lê Ðức Thọ.
(5) Cả ở đây là lớn, to, đầy.
(6) Bộ com-lê âu phục.
(7) Chỉ cấp thấp nhất trong các ngành, ở địa phương chứ không phải ở Trung ương.
(8) Bí mật, do hai chữ đầu b và m.
(9) Màn bí mật che phủ cái chết của Ðinh Ðức Thiện chẳng có lợi gì cho nhà cầm quyền. Nhưng người ta đã bị nô lệ cho thói quen không công khai và cam chịu tác hại của nó.
(10) Bí mật mà ai cũng biết.
(11) Mười Vân xuất thân là một nông dân với học lực lớp 4, bắt đầu được thăng quan tiến chức từ khi làm đội trưởng đội Cải cách ruộng đất tại Hòa Bình.
(12) Những người chạy trốn sự cai trị của cộng sản, di tản bằng thuyền, được thế giới gọi bằng cái tên “thuyền nhân” (boat people), đông tới một triệu rưỡi nhân mạng, là một vết nhơ không thể nào tẩy sạch trên mặt Ðảng cộng sản Việt Nam. Phần lớn thuyền nhân đi từ miền Nam Việt Nam nhằm hướng Mã Lai, Indonesia, số ít đi từ Hải Phòng, vùng mỏ Quảng Ninh nhằm hướng Hongkong. Có thể hình dung những người chủ trương “phương án 2” đã thu được một số lượng vàng lớn đến thế nào. Mười Vân có tội đã nâng giá “mở cửa” từ hai ba cây vàng lên tới mười, mười hai cây vàng cho một đầu người ra đi, gây nên cơn tức giận có lý ở cấp trên của y. Cho nên y bị đưa ra làm vật hiến tế cũng đáng.
(13) Theo những người lính từ chiến trường Kampuchea trở về kể lại thì thời gian đầu người dân Kampuchea rất vui mừng chào đón quân đội Việt Nam tiến sang tiêu diệt Khmer Ðỏ để cứu sống họ. Nhưng việc quân đội Việt Nam ở lì đó năm này qua năm khác đã gây ra một hậu quả xấu xa, nó trở thành quân đội xâm lược, một thứ lính lê dương, và người Kampuchea đã chống lại nó, từ quân Khmer Ðỏ cho tới cả quân của chính phủ bù nhìn Heng Xomrin.
(14) Vụ phản tình báo đã đưa vào xiếc Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam. Sự việc như sau: căn cứ vào tin đồn do Khmer Ðỏ, có sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc, tung ra thì hầu hết cán bộ lãnh đạo tỉnh Xiêm Rệp đều đã làm việc cho Khmer Ðỏ. Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam liền ra tay đàn áp, không cần hỏi ý kiến ban lãnh đạo Ðảng bạn. Hơn bốn chục cán bộ của chính quyền Hun Xen bị bắt, bị tra tấn thành thương tật, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Xiêm Rệp tự sát. Trong thời kỳ này Lê Ðức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Hồ Quang Hóa – tham mưu trưởng. Ðứng trên tất cả là Lê Ðức Thọ.
(15) Trước khi làm Tổng bí thư Ðảng cộng sản Kampuchea Pen Xô Van làm trưởng phòng quảng bá tiếng Khmer trong Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
(16) Theo những nguồn tin quân sự đáng tin cậy.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:31:38 GMT -6
Chương 32
Cảm giác dễ chịu về nơi ở mới là cảm giác đánh lừa. Chỉ vài tuần sống ở đây tôi đã thấy trại giam này là rất tồi tệ, ít nhất thì cũng đối với những tên tù xử lý nội bộ.
Về tổ chức trại quân pháp Bất Bạt giống Hỏa Lò, gồm trại chung và khu xà lim giam cứu. Cái khác là tất cả những người ở đây – cả tù lẫn người coi tù – đều thuộc bộ đội. Ðông nhất là đào binh phạm tội hình sự, còn đào binh vì sợ chết bỏ trốn về nhà thì được gom lại trong các tiểu đoàn kỷ luật. Chúng tôi là tù dân sự đầu tiên đến trại này.
Lê Ðức Thọ rất biết chọn chỗ cho chúng tôi – khu xà lim Bất Bạt nằm lọt thỏm trong một thung lũng rộng cách rất xa các khu dân cư.
Ở đây hầu như không nghe được tiếng động của cuộc sống bình thường – không tiếng mõ trâu, không tiếng chó sủa, không cả tiếng cối xay ù ì quen thuộc nơi thôn dã. Khi anh Minh Việt bị đưa đi nơi khác, trong ngôi nhà bốn phòng chỉ còn lại một mình tôi. Và cái vắng lặng khôn cùng.
Người tù xà lim Hỏa Lò còn có thể căn cứ vào tiếng động từ các khu trại chung hay khu nhà bếp vọng lại, hoặc nghe ngóng động thái của bạn tù các phòng bên mà đoán được chuyện gì đang xảy ra bên ngoài, cho dù là những chuyện vớ vẩn, không dính líu gì đến mình. Những cái nhỏ nhặt ấy tạo ra sự thay đổi, giảm bớt sự nhàm chán. Bị tách rời hoàn toàn với thế giới bên ngoài là một khổ hình.
Phạm binh sống không khác trong quân ngũ là mấy. Họ được đi lại tự do trong phạm vi trại. Phạm binh bị giam trong xà lim cũng không có cảm giác của chúng tôi. Họ bị giam cứu có thời hạn, thường không quá vài tháng, chỉ đủ để hoàn cung. Họ hiểu rằng đây chỉ là nơi tạm bợ – sau đó sẽ là tòa án binh, là trại chung, thậm chí trường bắn, nhưng mọi sự là rõ ràng.
Trước mặt chúng tôi là một chân trời xám xịt. Không ai có thể nói cho chúng tôi biết thời hạn chúng tôi phải ở trong cái nhà tù khốn nạn này bao lâu, kể cả đám chấp pháp. Trong xà lim Bất Bạt chúng tôi giống những con thú bị nhốt. Những con chuột, không rõ là chuột cống hay chuột đồng, con nào con nấy béo núc ních mỗi khi chiều xuống lại tụ hội trước cửa sổ xà lim. Chúng nhởn nhơ đi lại, vẻ no đủ, thỉnh thoảng liếc nhìn con thú to ở trong cũi, vẻ khinh khỉnh.
Cái sự giam người vô thời hạn, lại giam trong xà lim, là một cách hành hạ tàn nhẫn. Khỏi cần nói tới mọi sự thiếu thốn trong nhà tù Việt Nam. Ðau răng, xin thuốc không có. Ðau bụng, khai hôm nay thì mai mới được thuốc chữa. Sốt hả, đợi đấy, sẽ có thuốc hạ nhiệt cho anh. Nhưng hôm nay thứ bảy rồi, phải sáng thứ hai ông y sĩ mới tới. Nhưng cái khổ nhất là đói. Ðói lắm. Ðói cồn cào. Ðói mờ mắt. Ðói run người.
Có lần tôi vớ phải khúc sắn ôi trong suất cơm độn, nhựa sắn nhầy nhụa như tinh dịch. Tởm quá, giận quá, tôi quẳng nó xuống hầm trú ẩn. Thế rồi đêm đến, bụng quặn lên vì đói, chịu không nổi, tôi lại phải sờ soạng trong bóng tối tìm khúc sắn vứt đi, lấy miếng giẻ cũng chẳng sạch gì lau cái nhựa gớm ghiếc ấy đi mà nhai trệu trạo chút tinh bột lẫn đất cát.
Nhai miếng sắn mà nước mắt ứa ra. Mà thèm một khúc ngoặt lịch sử, như trong chuyện thần kỳ, để bọn Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ có dịp đến ở đây, như tôi đang phải sống lúc này. Sắn đã thiu, tôi tưởng sẽ bị tháo tỏng, vậy mà lạ thay, không hề gì cả.
Dù sao mặc lòng, trại quân pháp Bất Bạt vẫn còn khá hơn Hỏa Lò. Trước hết, nó hơn ở chỗ tù được ăn cơm nóng chứ không phải thứ cơm nguội ngắt, đã thế còn bị chuột vầy. Ðịnh lượng gạo cho tù là chung trên cả nước, ở Bất Bạt không thể nhiều hơn, nhưng ở Hỏa Lò tiêu chuẩn bị ăn bớt, suất cơm ít hơn hẳn. Sở dĩ ở Hỏa Lò tôi không bị cái đói hành hạ là nhờ kho lương thực dự trữ của Thành.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi được hưởng chế độ chờ giải quyết. Ðảng giữ lời hứa, tuy muộn. Tôi được hưởng tiêu chuẩn thịt như ở ngoài. Một cân thịt được chia làm hai, cứ nửa tháng quản giáo công an(1) mang vào cho tôi một bát thịt kho tàu. Thịt kho mặn, có thể để ăn dần mà không thiu, nhưng ngay lần đầu tôi nếm thấy nó có vị đắng khác thường, không ra vị kẹo đắng ở nhà quê mà cũng không ra vị nước hàng ở tỉnh.
Tôi được đọc về những vụ đầu độc dẫn tới cái chết từ từ. Theo một giả thuyết của Tarlé(2) thì ở đảo Sainte-Hélène Napoléon bị đầu độc bằng những liều thạch tín rất nhỏ. Thấy món thịt kho đáng ngờ, tôi không ăn. Không ăn thì phải đổ đi, mà đổ đi thì tiếc lắm. Trong tù miếng thịt quý như vàng, ai không ở tù không biết được cái sự thèm thịt nó thế nào, nhìn thấy thịt nước miếng đã ứa ra rầm rầm. Nhưng không thể không đổ. Ðổ đi cũng phải khéo, sao cho quản giáo không biết, mỗi ngày đổ một ít vào bô, buổi sáng ra ngoài rửa mặt thì tống xuống hố thải. Suốt thời gian ở trại quân pháp Bất Bạt tôi không ăn miếng thịt nào.
Lần đầu tiên đổ đi những miếng thịt đã lâu không được ăn tôi bần thần suốt một ngày. Nhưng rồi tôi thắng được sự thèm khát. Nhưng không phải đơn giản có thế. Tôi phải đóng kịch bình thản, thậm chí vui vẻ nhận bát thịt quản giáo mang tới.
Nhớ lại lời Mác nói về sự giam lâu trong xà lim cá nhân nhằm làm con người mất trí, tôi tìm cách chống lại. Ngay từ khi ở Hỏa Lò tôi buộc mình tuân thủ một chế độ nghiêm ngặt – trừ những buổi bị gọi ra đi cung, tôi dùng thời giờ còn lại cho việc tổng duyệt kiến thức. Tôi ôn lại, từng mảng một, các lĩnh vực triết học, văn học, xã hội, chính trị… Công việc chiếm nhiều thời gian hơn tôi tưởng. Về triết học tôi đi từ triết học cổ đại Hi Lạp, La Mã, qua triết học Trung Hoa, triết học ấn độ, triết học cận đại, từ Socrate, Aristote(3) cho tới Berdiaev và Jean-Paul Sartre(4)…Về văn học tôi lần theo thời gian đi dần vào từng vùng địa lý, từng nước, suy ngẫm về bút pháp của từng nhà văn. Ðó là một công việc khá thú vị, một thứ viễn du tại chỗ. Nhiều lúc tôi mải suy nghĩ đến nỗi quản giáo mở cửa không hay. Sự suy ngẫm này làm cho tác phẩm của Hemingway, Erich Maria Remarque(5) sống động hẳn lên, lấp lánh dưới một ánh sáng mới.
Ðến khi có được hai cái ruột bút bi thì công việc dành cho cuốn sách choán hết thời gian của ngày tù. Cách tách mình ra khỏi sự đời, tự tạo ra việc để mà bận rộn, giúp cho tôi nghị lực sống. Nhiều lần giữa cuộc hỏi cung tôi giật mình nghe Huỳnh Ngự quát: “Tôi đang hỏi anh. Anh phải trả lời. Anh nghĩ cái chi mô rứa, hử?”.
Nhưng đó là Hỏa Lò. Còn ở Bất Bạt tôi bị bỏ quên dài dài. Có khi cả tháng. Không có ai để tâm sự. Không có cả Huỳnh Ngự để nghe y quát lác. Nếu không có việc viết sách thì đúng là phát điên được. Không hiểu anh em khác thế nào, nếu anh em không nghĩ ra cách chống lại thì gay lắm.
Nhưng cũng không thể bắt bộ não hoạt động suốt tháng suốt năm. Thỉnh thoảng tôi cũng cho nó nghỉ ngơi bằng cách làm vệ sinh căn phòng tới mức sạch bong, hoặc giở quần áo ra vá. Vì lý do sự bắt bớ chúng tôi không rõ ràng cho nên đi khỏi Hỏa Lò tôi phải trả lại quần áo tù (chúng tôi không phải là tù), còn lên tới Bất Bạt thì trại quân pháp, cũng lại theo quy định, không phát cho chúng tôi quân phục (chúng tôi không phải là phạm binh). Thế là tôi chỉ có hai bộ quần áo gia đình gửi vào, giờ đã rách bươm. Vá đi vá lại, miếng trước đè lên miếng sau, cái áo trở thành một thứ cà sa trăm mụn. Ðể khâu vá, tôi chế tạo một cái kim bằng cật bương, không có trôn, hơ trên lửa cho cứng, chỉ thì tước ở mảnh bạt chiến lợi phẩm trong trận chống càn Bretagne ở miền nam Nam Ðịnh năm 1952, vợ tôi dùng nó gói chăn màn quần áo gửi vào cho tôi. Chủ tấm bạt, một người lính của Trung đoàn cơ động số 4, còn để lại dấu tích của anh ta trong một vết máu không sao giặt sạch. Cuộc chiến tranh chống Pháp đã lùi xa vào quá khứ. Những ngày gian khổ, nhưng có tình thương anh em một nhà cũng đã trở thành dĩ vãng, thành chuyện cổ tích.
Một đêm, tôi giật mình choàng tỉnh vì tiếng cửa sổ bị đóng sập. Tôi trở dậy, mò mẫm trong cái hũ nút tìm cửa ra vào. Ngoài trời đen như mực. Một lát sau, qua lỗ thủng tôi nhìn thấy hai công an viên khiêng một cái cáng bước thấp bước cao men theo bức tường ngăn các khu nhà-xà lim, trong ánh đuốc bập bùng. Tôi căng mắt ra nhìn nhưng không nhận ra người nằm trên cáng là ai – ánh sáng vàng vọt lấp loáng trên cáng quá yếu. Chiếc cáng lắc lư trên con đường gập ghềnh. Người nằm trên cáng được phủ một tấm chăn sợi màu xẫm, bất động như một xác chết. Bằng vào mái tóc đen trên khuôn mặt để hở tôi chắc chắn không phải cha tôi, không phải tướng Ðặng Kim Giang – hai ông tóc bạc, lại hói trán. Có lẽ lại Phạm Viết rồi. Nếu như Viết chưa chết.
Sau mới biết người bỏ xác trong tù, thật ngược đời, lại không phải mấy ông già nhất, yếu nhất. Hai người không bao giờ trở về nữa là Phạm Viết và Kỳ Vân. Phạm Viết chết trong xà lim. Kỳ Vân được hưởng một cái chết sang hơn – khi hấp hối anh được mang tới một bệnh viện Hải Phòng. Anh trút hơi thở cuối cùng trên giường sắt nhà thương, bên những đồng chí công an không một phút lơ là canh gác. Sau khi được thả ra Trần Minh Việt, Ðặng Kim Giang bệnh tật đầy mình còn chống chọi được mấy năm nữa rồi mới chết. Riêng tướng Ðặng Kim Giang còn kịp đi tù lần thứ hai trước khi Ðảng họp Ðại hội lần thứ V vì tội “tán phát đơn khiếu nại làm mất uy tín của Ðảng”(6).
Nhà tù cho tôi thấy con người là một sinh vật kỳ lạ. Nó có thể sống được cả trong những điều kiện không phải cho con người.
Tôi cảm thấy sức khỏe sa sút trông thấy sau hai năm nằm xà lim. Nhớ có đọc đâu đó, rằng nhiều nhà cách mạng bị giam vận động bằng cách đi bộ, có người đi hai chục cây số mỗi ngày, tôi bắt chước họ. Ði bộ ở đây nghĩa là đi bách bộ trong lối hẹp giữa hai phản nằm trong xà lim (bốn bước tới bốn bước lui, đi nhanh thì hoa mắt vì quay lại quá nhiều. Tôi đặt mức đi tối thiểu mỗi ngày một chục cây số, không ngày nào bỏ, thế mà bắp thịt chân tay vẫn cứ teo dần, nhão dần. ấy là ngoài đi bộ tôi còn tập thể dục buổi sáng và tối nào trước khi đi ngủ cũng đều đặn luyện khí công và yoga.
Vì ăn uống không đủ chất, trong xà lim lại không có ánh sáng mặt trời, cho nên tôi bị đủ thứ bệnh tật hành hạ. Bệnh viêm họng hạt làm tôi ho sù sụ như một ông già. Máu cứ rỉ ra ở chân răng, lợi thường xuyên bị viêm, có lần nhai phải hạt sạn mà vỡ răng hàm. Dây thần kinh răng trơ ra ở chỗ vỡ, uống nước cũng buốt. Ăn phải nhai trệu trạo, lựa một bên hàm mà nhai. Một hạt cơm rơi vào chỗ răng đau cũng gây ra cơn nhức nhối cả buổi. Xin một nhúm muối để ngậm cũng khó. Ðau răng ở trong tù là khổ nhất, đau thì ráng chịu, đề nghị chấp pháp cho đi chữa thì chúng cười trừ. Tôi còn trẻ mà đã khổ, huống hồ anh em cao tuổi bị nhiều bệnh nặng, mạn tính, còn khổ biết chừng nào.
Chính trong những ngày này tôi sực nhớ tới cô tôi, một bà lang vườn thất học. Trong trường hợp người bệnh bị xuống sức quá nhiều mà mọi thứ thuốc của bà tỏ ra vô hiệu, cô Gái khuyên người bệnh dùng thứ thuốc dân dã rất đơn giản lại không mất tiền là “đồng tiện”. Tôi đã nhiều phen cung cấp thứ “thuốc” đó cho các bà hàng xóm. Tôi đứng, mặt đỏ bừng vì ngượng, ngẩng mặt lên trời, cố gắng dặn từng tia ngập ngừng vào cái bát mà một bà ngồi xổm ngay bên chân tôi chìa ra. Trong tù đào đâu ra “đồng tiện”, tôi đành dùng nước tiểu của chính mình. Thế mà bệnh lui mới lạ. Tôi khỏi dứt chứng đau họng hạt không phải chỉ ngay lúc đó mà cả nhiều năm sau. Chân răng ngừng chảy máu, cái răng vỡ đau đớn là thế mà cũng đỡ dần. Tôi đồ rằng trong nước tiểu có chất độc ở dạng vi lượng. Chất độc ngấm vào cơ thể gây ra sự chống lại mạnh mẽ, cơ thể phải huy động tức thì toàn bộ lực lượng phòng vệ để tiêu diệt kẻ thù, không phân biệt kẻ thù nào, do đó cùng với chất độc cần thải ra nhiều bệnh bị đẩy lui.
Cũng trong mối quan hệ bất đắc dĩ với đám chấp pháp thời gian ở Hỏa Lò tôi hiểu ra một điều quan trọng: bọn chấp pháp không hề sợ những người tù mạnh miệng dám cãi lại chúng, dám chửi bới chúng. Chửi chúng, chúng mặc – làm nghề hỏi cung chúng có đủ chất lì lợm nghề nghiệp. Người tù mạnh miệng dễ là anh hùng rơm lắm. Là người bốc đồng chính anh ta lại dễ bị bẻ gãy hơn người khác. Rốt cuộc anh ta mệt mỏi trước, bỏ cuộc trước, bởi sự lên gân thường trực, trong khi đó đối thủ vẫn lạnh lùng chờ anh ta tự gục ngã.
Nhưng bọn chấp pháp lại ngại người tù bình thản. Ðó là con người điềm đạm, lịch sự trong quan hệ với chúng, nhưng trong thâm tâm anh ta coi chúng là lũ nhân quần dưới tầm mắt. Gặp người bình thản chúng lúng túng, không biết phải ứng xử thế nào. Lúc đầu Huỳnh Ngự còn giễu cợt (hay đứng đắn không biết) dạy tôi luyện khí công, đến lúc thấy tôi thản nhiên với thân phận, coi nhà tù là nơi ở lâu dài, bình tĩnh rèn luyện thân thể, bình tĩnh trả lời mọi câu hỏi của y, không tỏ ra sợ hãi, y lúng túng, xử sự dò dẫm, như thể người mù gặp ngõ cụt.
Tôi bình thản được không phải vì tôi gan dạ, mà do tôi tuyệt vọng. Tôi nghĩ bọn phát-xít trước sau sẽ giết chúng tôi, việc của chúng là nghĩ cách giết thế nào cho gọn, cho êm mà thôi. Nếu rồi đây tôi ra khỏi được nhà tù của chúng thì không phải vì chúng có lòng tốt, chúng rộng lòng thương chúng tôi, hoặc chúng có lương tri, mà do thời thế buộc chúng phải mở cửa cho chúng tôi ra. Vì thế việc gì phải sợ chúng, phải cúi mình trước chúng.
Thỉnh thoảng lắm Huỳnh Ngự mới gọi tôi ra một lần. Cũng gọi là đi cung. Cũng hỏi tôi về một người, một việc ba lăng nhăng nào đó. Cho ra vẻ vụ án chưa kết thúc.
Tôi không hiểu Huỳnh Ngự sống ở Bất Bạt để trông coi tụi tôi, hay thỉnh thoảng mới lên đây. Chỉ biết trông y có vẻ mệt mỏi lắm. Chiến tranh vẫn kéo dài. Cuộc sống thì mỗi ngày mỗi khó khăn. Bằng những lời vắn tắt anh phạm binh gánh cơm thỉnh thoảng lại thông báo cho tôi biết tình hình sinh hoạt bên ngoài trại. Nạn đói xuất hiện ở Thanh Hóa. Trong mỗi gia đình sự thiếu ăn là chuyện thường ngày. Huỳnh Ngự cũng có một gia đình như mọi người. Người chồng phải công tác xa nhà sinh ra tình trạng hai bếp, ảnh hưởng không nhỏ đến ngân sách gia đình. Trong Huỳnh Ngự không còn cái khí thế hào hứng của ngày đầu ra quân chống chủ nghĩa xét lại hiện đại nữa. Y tã ra, sập sệ, thậm chí không cần che giấu vẻ ngao ngán.
Tội nghiệp, trước trận đánh y còn nhìn thấy phần thưởng dành cho người chiến thắng vẫy gọi. Nhưng trận đánh mãi không kết thúc, cái phần thưởng ngoạn mục thì cứ lơ lửng nơi tít tắp chân trời.
Tôi hiểu tâm trạng y. Lớp cán bộ chúng tôi, trong đó có cả tôi lẫn Huỳnh Ngự, đã quen sống bằng những lời hứa của các nhà lãnh đạo. Mà họ hứa thì hay lắm. Trong kháng chiến chống Pháp họ bảo: hãy kiên trì chiến đấu, hãy chịu đựng gian khổ, tới ngày chiến thắng chúng ta sẽ xây dựng một cuộc sống giàu có, hạnh phúc…
Kháng chiến thắng lợi rồi thì cuộc sống mỗi ngày mỗi xo rụi thêm, mỗi cực nhọc hơn. Họ lại động viên: chúng ta còn phải vất vả là do Mỹ-Diệm. Chúng ta phải tiếp tục cuộc chiến đấu để giải phóng đồng bào miền Nam ruột thịt, chúng ta phải thắt lưng buộc bụng xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải làm nhiệm vụ quốc tế với nhân dân Lào Miên anh em… Cuộc chiến đấu của chúng ta không phải chỉ cho hôm nay, nó còn cho ngày mai, cho muôn đời sau…Vân vân và vân vân.
Chúng tôi không nhận ra một sự thật rằng những nhà lãnh đạo chúng tôi là những người không có nghề nghiệp. Họ chỉ biết phá, chứ không biết xây. Họ không biết và cũng không thèm học cách cách quản lý xã hội sao cho ra nhiều của cải. Quen sống bằng chiến tranh, nhờ chiến tranh mà tồn tại, họ chỉ chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang để làm chiến tranh tiếp. Bằng tiền và vũ khí người khác. Liên Xô, nước đàn anh của phe xã hội chủ nghĩa liên tục đổ của vào Việt Nam. Ðến nỗi quốc hiệu CCCP(7) một thời được người Việt Nam hóm hỉnh diễn dịch thành Các Chú Cứ Phá, Càng Cho Càng Phá.. Những khoản viện trợ được rót vào một cái thùng không đáy. Sự quản lý kinh tế bằng các biện pháp hành chính làm cho đời sống cứ tồi tệ thêm mãi, èo uột thêm mãi, nhưng trong bất cứ báo cáo nào của ông thủ tướng vĩnh cửu cũng không thiếu câu đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Một bước là bao nhiêu, bước ngắn hay bước dài, ông không nói rõ. Không đem lại được cho nhân dân mỗi người một cân thịt một tháng, các nhà lãnh đạo hào phóng thế vào đó hai cuộc cách mạng toàn thế giới.
Nhà tù có cái tốt của nó. Nó cho con người thời gian suy nghĩ, nó kích thích bộ não lười biếng. Nhưng thôi, nghĩ về họ làm gì. Nghĩ thế đủ rồi. Ðủ để vĩnh viễn chia tay. Như nhà thơ nào đó đã viết:
Anh đi đường anh. Tôi đi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Ðã quyết không mong sum họp nữa, Bận lòng chi lắm lúc chia phôi.
Người có luân thường không thể tôn trọng Ðảng còn vì một lẽ: lúc nào Ðảng cũng chì chiết, cũng nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi rằng các anh được sống, được làm việc là nhờ ơn Ðảng. Không có Ðảng đời anh là đời con chó. Cái sự kể công kỳ cục này được trắng trợn trưng ra ở mọi nơi, mọi lúc, kệch cỡm vô cùng, chối tai vô cùng, nhưng nó lại làm khoái con ráy các nhà lãnh đạo. Và họ ra sức khuyến khích sự ca ngợi Ðảng, tâng bốc Ðảng, tức là tôn vinh chính họ. Họ chỉ ca ngợi nhân dân khi nào họ yếu thế, họ mắc sai lầm, họ đang đứng trước nguy cơ đe dọa sự tồn tại của họ.
Còn nhớ một trong những buổi hỏi cung đầu tiên Huỳnh Ngự mắng tôi:
– Anh là cái thằng gần chùa kêu bụt bằng anh. Láo lắm! Toàn dân ta một lòng tôn kính các vị lãnh tụ(8), vậy mà anh gan cóc tía, dám coi các vị không bằng nửa con mắt. Riêng tội nớ cũng đáng chết rồi. Nghĩ mà coi, không có Ðảng sao anh có ngày nay. Ðảng nuôi nấng anh, Ðảng dạy dỗ anh cho anh nên người, còn anh đã không nhớ ơn thì chớ, lại còn học đòi ba thằng phản động chống Ðảng….
Bình thường, khi y cao hứng lên thuyết giảng về chủ nghĩa Mác thì tôi ngồi im. Thôi thì mỗi người mỗi tật, y thích biểu diễn kiến thức mác-xít thì mặc y. Chẳng lẽ những hiểu biết bấy lâu tích cóp được lại để đó, trong khi trước mặt là một thằng thính giả muốn hay không cũng phải chịu chuyện? Nhưng một hôm ngứa tai quá, tôi quạt lại:
– Bác nói không đúng. Nói thế không được.
– Cái chi không đúng?
– Sinh ra tôi là cha mẹ, nuôi tôi cũng là cha mẹ. Nói Ðảng nuôi tôi làm sao lọt tai được? Tôi thừa nhận như thế hóa ra tôi bất hiếu ư? Người khác nghĩ thế nào không biết, chứ khi tôi bắt đầu tham gia cách mạng thì tôi mặc quần áo mẹ tôi may cho, miếng ăn thì do nhân dân chu cấp…
Huỳnh Ngự trợn trừng:
– Anh…anh dám ăn nói như vậy… hử?
– Tôi nói thế không đúng hay sao? Sự thật là như vậy. Khi Ðảng chưa nắm tài chính thì bộ đội tới làng nào làng đó nuôi. Ðóng góp thóc gạo, lập kho quân lương, góp tiền góp của cho kháng chiến – ai làm? Nhân dân cả đấy.
– Hừ!
– Còn đến lúc chính quyền đã vững, đã có chế độ lương, thì tôi là công chức, tôi làm thì tôi được trả công, tức là tôi nuôi tôi chứ. Chuyện nhà nước cho tôi đi học Liên Xô cũng là chuyện bình thường, nước nào chả có – cần có cán bộ làm việc thì nhà nước nào cũng cử người đi học, đi tu nghiệp, theo chế độ đào tạo….
– Tui…. tui…. thiệt không ngờ anh… vô ơn bạc nghĩa đến… đến như vậy! – y ré lên, lại bắt đầu nói lắp – Ðảng bắt… bắt anh thực không…không oan chút mô.
– Các cơ quan Ðảng sống bằng tiền của ai? Của nhân dân! Ðảng có bao nhiêu đảng viên? Ðảng phí bao nhiêu một tháng? Một năm Ðảng thu được bao nhiêu? Tính dễ lắm! Ðảng phí một năm, tôi biết, không đủ dùng cho một ngày Ðại hội. Lại còn tiếp khách, quà cáp cho các đoàn nước ngoài, tiền ở đâu ra? Lấy của nhân dân cả đấy. Tôi có người quen làm ở Bộ Tài chính. Chị cho biết Bộ quản lý một ngân khoản đặc biệt. Trung ương lệnh lấy tiền thì chi, không ai được phép hỏi tiền lấy ra để làm gì. Mà ngân khoản đó không phải quỹ Ðảng đâu nhá. Ðấy là chuyện Trung ương. Các cơ quan Ðảng ở các cấp đều dùng kinh phí nhà nước cho mọi hoạt động, kể cả mua một cái xe ô tô cũng lấy từ kinh phí nhà nước. Là tiền của dân cả đấy. Phải nói ngược lại mới đúng: dân nuôi Ðảng, chứ Ðảng làm sao nuôi được dân! Ngày trước, trong kháng chiến chống Pháp, tôi còn nghe Ðảng nói Ðảng ở trong lòng dân. Bây giờ không nghe nói thế nữa, chỉ nghe nói Ðảng lãnh đạo, Ðảng chăm lo cho dân, Ðảng là cha mẹ dân. Tôi, cũng như mọi cán bộ, cũng là dân, nhân dân chúng tôi nuôi Ðảng, chứ không phải Ðảng nuôi chúng tôi đâu, xin lỗi.
Huỳnh Ngự la hét rầm rầm, nhưng tôi hiểu: y muốn trốn chạy cái lý không thể bác.
– Giờ giữa tôi với Ðảng tình nghĩa đã hết. Còn bác, còn tôi, rồi ra bác sẽ thấy khi tôi chỉ làm cho cá nhân mình, không còng lưng phục vụ thằng nào nữa, cuộc sống của tôi ra sao. Chắc chắn nó sẽ là cuộc sống hơn hẳn khi tôi mang tiếng được Ðảng nuôi nấng.
Tôi biết: sống không dính tới Ðảng là khó: Ðảng đã nắm hết mọi đường sống của dân rồi. Nhất cử nhất động phải được Ðảng cho phép, ngay cả cái sự ở, sự đi, sự kiếm ăn của mình cũng phải được Ðảng cho phép mới được. Nhưng tôi sẽ sống như tôi muốn, dù cho cuộc sống có khó tới mấy. Tôi sẽ chữa xe đạp vỉa hè, tôi sẽ trồng rau, cấy lúa hoặc làm thợ may, thợ điện, thợ cắt tóc. Làm gì thì làm, chứ không khi nào tôi đi làm cho Ðảng nữa.
Tôi nhớ một buổi kiểm thảo tại cơ quan, nhà báo Hùng Thao gầm lên: “Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối với tá điền còn tử tế hơn!”. Câu nói bật ra trong phút không kìm giữ làm anh khốn khổ. Người ta chẳng những không tha phê phán anh mà còn phê phán mạnh hơn nữa, sau đó anh còn bị trù dập một thời gian dài.
Quả nhiên, sau khi ra tù, không đi làm cho nhà nước nữa, đời sống gia đình tôi khấm khá hẳn lên, tinh thần cũng thoải mái, kể cả khi tôi làm thuê cho những người theo lý thuyết của các nhà mác-xít là những tên bóc lột. Những ông chủ cá thể xử sự có văn hóa hơn hẳn ông chủ lớn mà tôi phục vụ suốt đời.
(1) Quản giáo công an thỉnh thoảng mới tới, là người của Cục chấp pháp, chứ không phải người của Cục quản lý trại giam.
(2) Một nhà sử học xô-viết. Ông có viết một cuốn về cuộc đời của Napoléon, trong đó có nói tới giai đoạn bị đi đầy ở đảo Saint-Hélène.
(3) Aristote (384-322), Socrates (469-399 trước CN), các triết gia cổ đại.
(4) Jean-Paul Sartre (1905-1980), triết gia, kịch tác gia, nhà văn, nhà báo chính trị, ngọn cờ của chủ nghĩa hiện sinh ở châu Âu.
(5) Erich Maria Remarque (1898-1970), nhà văn Ðức quốc tịch Mỹ, nổi tiếng với những tiểu thuyết Mặt Trận Phía Tây Yên Tĩnh, Khải Hoàn Môn, Một Thời Ðể Sống Và Một Thời Ðể Chết.
(6) Ông Ðặng Kim Giang thọ 73 tuổi, bị tù thời Pháp thuộc 12 năm, thời xã hội chủ nghĩa 7 năm, tổng cộng tất cả những năm tù và quản thúc trong cả hai chế độ là 25 năm. Ông qua đời trong căn nhà dột nát rộng 14 mét vuông ở khu chùa Liên Phái, nơi trú ngụ của lớp cùng dân của xã hội – những bà đồng nát, những người phu quét rác không hộ khẩu và những đứa trẻ làm nghề móc túi…. Khi hấp hối vẫn có hai công an viên ngồi kèm. Bà Giang phải bảo họ đi ra cho ông được nhắm mắt.
(7) Viết tắt (tiếng Nga) Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết.
(8) Khái niệm lãnh tụ trong Huỳnh Ngự rất rộng. Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn cũng được y gọi là lãnh tụ.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:33:14 GMT -6
Chương 33
Có vẻ như cái sự im ắng tại Bất Bạt chứng tỏ giai đoạn giam cứu đã kết thúc. Tôi sống trong tâm trạng chờ đợi: để xem Ðảng xử sự ra sao. Nhưng, giống như những con đom đóm, những tia hi vọng nhỏ nhoi lập lòe một thoáng rồi chìm nghỉm trong bóng đêm dày đặc. Những cuộc hỏi cung muộn mằn, càng về sau càng thưa, diễn ra uể oải, như thể cả người hỏi cung lẫn người bị hỏi cung đều quá mệt mỏi. Với vẻ mặt ngán ngẩm đời cạo giấy, Huỳnh Ngự máy móc đặt những câu hỏi vô duyên. Chẳng hạn, chợt nhớ ra, y bắt tôi khai về cuộc gặp gỡ vào ngày ấy tháng ấy giữa tôi với Rasid tại câu lạc bộ Quốc tế(1). Những sự kiện vớ vẩn như vậy chỉ có Trời nhớ được nó có hay không và nó đã diễn ra thế nào. Tôi từ chối không trả lời, nói tôi không nhớ, tù lâu quá trí nhớ tôi ngày một kém. Không nhớ thì thôi, y cũng không thúc bách, không bắt buộc tôi phải nhớ.
Ðáp lại câu hỏi của tôi liệu cứ dằng dai thế này mãi thì biết đến bao giờ vụ án mới kết thúc được thì, thay vì hét ầm lên để át giọng như trong những ngày đầu, Huỳnh Ngự tránh nhìn vào mắt tôi, ấp úng:
– Cán bộ cỡ tui sao biết được! – y nhỏ nhẹ – Việc của Trung ương chớ có phải của cấp vụ cục đâu… Ngay cả cấp Bộ cũng không có thẩm quyền xử lý vụ các anh nữa là. Thôi thì anh hãy yên tâm chờ đợi. Cứ phải tin tưởng tuyệt đối ở Ðảng. Ðảng là cha mẹ. Ðảng trước sau cũng sẽ giải quyết thỏa đáng cho các anh.
Khi nói câu đó nét mặt y hiền hẳn đi, nụ cười miễn cưỡng làm hằn sâu hai đường pháp lệnh, trông tội nghiệp lắm. Mới có ba năm mà tôi thấy Huỳnh Ngự già đi nhanh quá. Y đã gày còn gày thêm. Mùa đông da mặt xám xịt, nhăn nhúm. Bộ dạ đen Tôn Trung-sơn bất ly thân chảy ra, bạc màu, mất tuyết, sờn nhiều chỗ. Có hôm tôi ngồi viết báo cáo nghe loáng thoáng bên tai Huỳnh Ngự và anh hương sư bàn chuyện thời sự – bìa nào, ô số mấy bán gì, ô thịt giờ bán đậu phụ, ô nước mắm thay bằng ma-gi, nhà nào có mấy bìa C, mấy bìa A(2)… Tôi nghe mà thương vợ! Bức thư chót vợ tôi báo tin bị chuyển công tác vào Hà Ðông, tới một công trường xây dựng, hàng ngày đạp đi đạp về nuôi con, đi chợ xếp hàng với tấm bìa có những ô tí xíu…
Một hôm bỗng Huỳnh Ngự vào tận xà lim, hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi ngạc nhiên – chẳng bao giờ tôi bắt gặp y xử thế như vậy. Thân thiện quá, tử tế quá! Trước đây, trong bất kỳ trường hợp nào y cũng không quên nhấn mạnh sự khác biệt giữa người tù là tôi và y – người hỏi cung.
– Tui tới để… báo cho anh… một tin buồn…. – y nghẹn ngào – Bác của chúng ta… Bác đã… đã… Bác… mất rồi!
Thế là ông Hồ Chí Minh không còn nữa!
í nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói gì thì nói, ông Hồ còn sống vẫn là một vật cản. Bởi vì ông đã hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì cũng vẫn còn hơn ông không nói, ông không đoàn kết thực thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ của câu nói. Không còn quyền nhưng ông còn cái uy, cái thế buộc chúng phải nể. Có làm gì chúng vẫn phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.
– Bác mất hôm nào? – tôi hỏi khẽ.
– Cách đây ba ngày – Huỳnh Ngự đáp, một giọt nước mắt lăn trên má.
Tôi nhẩm tính: bốn ngày trước là mồng 2 tháng 9, Tết Ðộc lập, trại được ăn một bữa tươi, thức ăn có thêm thịt rang mặn. Như vậy, ông Hồ qua đời vào ngày mồng 3(3).
Tin ông Hồ Chí Minh qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc đời tôi.
Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết, ông không phải là thủ phạm. Nói cách khác, không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Khi ông đã kề đùi kề vế với Duẩn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục. Nhưng tôi tin nhận xét của cha tôi – ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy ra vụ án thảm khốc này?
Ðể tôn trọng nỗi đau khổ của Huỳnh Ngự, tôi vờ buồn bã, quay đi. Huỳnh Ngự thì lại nghĩ rằng tôi đau đớn lắm, tưởng tôi muốn giấu những giọt nước mắt yếu đuối, ra sức an ủi tôi. Rằng y biết rất rõ quan hệ thân thiết của gia đình tôi với ông Hồ. Rằng y đã báo tin cho cha tôi, ông già lặng đi, không nói được lời nào. Rằng Bác mất đi là nỗi đau đớn khôn nguôi trong lòng mọi người, là tổn thất vô cùng to lớn cho cách mạng Việt Nam, cho cả chúng tôi, những cán bộ đi theo cách mạng lâu năm chẳng may mắc tội với Ðảng. Nhưng phải biết biến đau thương thành sức mạnh. Với chúng tôi, niềm thương tiếc Bác phải biểu lộ trong sự thành tâm hối lỗi, ra sức cải tạo tốt để mau chóng trở về với hàng ngũ cách mạng, trở về trong lòng Ðảng.
Giá vào lúc khác chắc chắn câu nói lăng nhăng của y về cải tạo sẽ làm bùng lên một cuộc đấu khẩu. Nhưng lần này tôi im lặng. Tôi biết Huỳnh Ngự đang đau khổ thực sự trước cái chết của lãnh tụ vĩ đại. Không phải mình y, tôi nghĩ, trong những ngày này có bao nhiêu người đang thương khóc Bác Hồ.
Y lặng lẽ chia tay với tôi, ý tứ khóa cửa, cố không gây ra một tiếng động mạnh, như thể không phải y khóa cửa xà lim mà khép cửa phòng bệnh.
Thời gian chậm chạp trôi, với những ngày, những tháng giống hệt nhau…
Khi vừa bị chuyển tới trại quân pháp, tôi còn tiếp tục đánh dấu ngày tháng như khi còn ở Hỏa Lò với Thành, lâu dần rồi ngày đánh dấu ngày không, đâm ra lẫn lộn lung tung. Tôi chỉ chỉnh lại sự đo đếm thời gian bằng những ngày lễ tết, tù được ăn tươi, và mỗi lần gặp gia đình, nửa năm một lần. Mọi người trong gia đình tôi nghĩ rằng trong óc tôi bắt đầu có sự trục trặc. Tôi không cải chính – như thế mà tốt hơn. Thấy tôi dở điên dở dại bọn chấp pháp càng đỡ làm phiền.
– Trời! – vợ tôi kêu lên – Anh không nhớ được bây giờ là tháng mấy nữa hay sao?
Tôi nhìn thấy trong mắt vợ tôi nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Ðể cho tôi khỏi quên thời gian vợ tôi mang cho tôi những cuốn lịch túi, nhưng chỉ cần lãng đi một ngày là tôi lại bắt đầu lẫn. Sau tôi không thèm đánh dấu ngày nữa mà chỉ nhớ áng chừng bây giờ là tháng nào thấy cũng đủ.
Cái sự đơn điệu của đời tù xà lim thật ghê gớm. Một cuộc cãi nhau với chấp pháp cũng là một cơ hội giải tỏa tinh thần. Nhưng không phải lúc nào cũng cãi nhau được. Nếu đám chấp pháp không chọc tôi bằng những lời lẽ xúc phạm thì tôi cũng chẳng cãi nhau với họ làm gì.
Sau cuộc chia tay với anh bạn bác sĩ không quen biết và Trần Minh Việt, tôi không được ở dưới một mái nhà với người nào trong vụ chúng tôi nữa. Những phạm binh đến rồi đi, không ai nói chuyện với ai. Nếu ở bên cạnh có người cùng vụ thì tôi biết ngay. Quản giáo bộ đội phụ trách người trong vụ chúng tôi mở cửa cho nhận cơm, cho ra tắm bao giờ cũng mở lần lượt hết phòng này tới phòng khác trong một ngôi nhà rồi mới sang nhà khác. Nếu anh ta mở cho tôi rồi đi ngay có nghĩa là tôi ở một mình. Quản giáo phụ trách phạm binh không có nhiệm vụ mở cửa cho chúng tôi. Anh ta đi riêng, mở cửa cho những người tù mà anh ta quản lý.
Anh quản giáo bộ đội khoảng ba mươi tuổi, mặt mũi hiền lành, quần áo chững chạc, nhưng lại quá ít lời, chẳng bao giờ nói một câu. Không thể nào dò hỏi anh ta được điều gì. Có hỏi xin thuốc thì anh ta cũng chỉ ừ hữ rồi lặng lẽ khóa cửa lại. Trông cung cách thì thấy anh ta đoán được chúng tôi là ai, do đó mà trong cách đối xử thấy có phần trọng vọng.
Tôi có Arlequin ở chung là trong thời kỳ này.
Một hôm quản giáo cho ra tắm, tôi đang giội nước ùm ùm bên cạnh cái bể chứa sát tường nhà giam thì bỗng thấy một sinh vật bé xíu, đen xì cuống quít nhảy loi choi dưới chân mình. Nhìn kỹ, thì ra một con cóc vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Tôi nhìn anh chàng quản giáo. Anh ta vẫn chắp tay sau lưng nghênh trời nghênh đất. Tôi tắm vội tắm vàng, vừa kỳ cọ vừa dùng chân lùa con cóc về phía cửa xà lim. Nó nhảy tránh chân tôi, lao bạt mạng về hướng tôi muốn. Lối vào xà lim tối om, hẳn con cóc nghĩ đó là chỗ lẩn tránh tốt. Tôi kết thúc buổi tắm sớm hơn thường lệ, cứ để đầu ướt đẫm chạy thẳng vào phòng, tự mình khép cửa lại. Anh chàng quản giáo trợn mắt, không hiểu vì sao hôm nay tôi lại có thái độ lạ lùng như vậy.
Ðể cho con cóc nhỏ bé không thể chui ra ngoài qua khe cửa, tôi lấy cái áo rách chèn kín cái khe đó. Những ngày đầu tôi rất lo nó chết đói: tôi không biết nuôi cóc bằng cái gì. Nhưng trong xà lim con cóc vẫn sống nhăn và lớn lên rất nhanh. Ðể ý quan sát thì ra nó ăn kiến. Ðàn kiến trú ngụ trong xà lim vợi hẳn.
Sự bận rộn với con cóc làm cho cảnh sống của tôi dễ chịu hơn. Bây giờ hàng ngày tôi có được cái thú ngồi im lặng trên phản mà quan sát nó nhảy nhót qua lại trên khoảng đất trống giữa cái phản và cánh cửa.
Con cóc xấu xí nhưng chăm chỉ chẳng mấy khi ngồi yên một chỗ. Suốt ngày nó tha thẩn nhảy tới nhảy lui, thỉnh thoảng lại đớp lia lịa những con kiến vô hình trong bóng tối.
Tôi buộc phải đặt chân rất thận trọng mỗi khi bước xuống đất kẻo dẫm chết nó. Mà tôi phải xuống đất nhiều lần trong một ngày để tập thể dục, đi bách bộ mươi, mười lăm phút giữa giờ làm việc.
Nhà cầm quyền cuối cùng đã cho phép tôi được nhận mấy cuốn sách: một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga và hai cuốn tiểu thuyết Liên Xô bằng tiếng Pháp. Từ điển là để tra cứu, nhưng với tôi nó là cuốn sách để đọc, để nghiền ngẫm. Tiếng Pháp của tôi vốn tồi, gặp từ nào không hiểu thì bỏ qua, gặp lại nó vài lần thì dựa vào văn cảnh mà đoán nghĩa. Tôi mải mê đọc đến nỗi nhiều khi quản giáo mở cửa mới giật mình biết rằng đã tới giờ ăn sáng hoặc ăn chiều. Ðến khi có hai cái ruột bút bi thì tôi còn bận hơn nữa với việc viết cuốn Miền Thơ ấu. Tôi phải chia công việc ra, lúc viết lúc đọc, thay đổi công việc cho óc khỏi mệt. Không thể viết nhanh được vì phải tiết kiệm giấy: tôi chỉ có trong tay một số vỏ thuốc lá và vỏ giấy từ những cái kẹo gia đình gửi cho.
Con cóc cũng chẳng buồn để ý tới tôi. Nó còn bận kiếm ăn. Ðược cái giống kiến kém trí khôn. Chúng không hề để ý tới hiểm họa đang rình rập bên cạnh. Thậm chí chúng thản nhiên giăng hàng đi ngay trước mặt con cóc, thỉnh thoảng bị mất vài con nhanh như chớp mà không biết.
Kể ra kiếm được con chuột nhắt con để nuôi thì vui hơn. Hồi còn nhỏ ở nhà quê tôi nuôi đủ thứ: chim sẻ, chim gi, sáo sậu, sáo đen, sáo đá… Chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ nuôi một con chuột làm bạn, đừng nói gì một con cóc. Với chim sẻ, chim gi thì dễ bắt lắm – chỉ cần theo dõi những con chim bố mẹ tha rác làm tổ dưới mái nhà, chịu khó chờ ít lâu là chắc chắn bắt được chim con vừa vỡ bọng cứt. Với giống sáo thì nhiêu khê hơn. Phải lấy cót cuộn lại thành một cái ống dài ở cuối phình ra với một cái giỏ thủng, cho vào trong đó ít rơm, bọc kín lại bằng chiếu rách, rồi buộc vào một cành ngang, chọn sao cho tránh hướng mặt trời chiếu vào tổ là thể nào cũng có đôi sáo bố sáo mẹ chọn làm tổ.
Trong các giống chim gần người tôi thích chim gi hơn cả. Con chim bé bỏng với bộ lông màu gụ và cái mỏ sừng mập mạp nếu được nuôi từ lúc bé tí thì luyến chủ vô cùng. Nó không rời tôi nửa bước. Khi lớn hơn, đã có thể tự kiếm ăn, thì nó cũng bay xa, nhưng chỉ cần gọi “tơri, tơri.i.i…” là nó đã tự đâu xà xuống trước mặt. So với sẻ và các loại sáo, chim gi thông minh hơn. ấy là tôi nghĩ thế, chứ giữa loài chim với nhau tiêu chuẩn thông minh chắc phải khác. Một con chim bỏ loài để theo người hẳn bị chúng chim coi là xuẩn ngốc.
Chao ôi, giá mấy thằng cha độc tài ở nước tôi có được cái đức độ của Sa hoàng thì may biết mấy! Chúng tôi sẽ được phát vãng như những nhà cách mạng Nga lên một vùng rừng núi nào đó, kiểu Sibir(4) hoang vu, chứ không phải nằm mốc ra ở đây. Trong cuộc sống phát vãng đáng mơ ước đó tôi sẽ buộc tổ sáo trên những cành xoan, hoặc của bất cứ cây gì. Tôi sẽ nuôi những con sáo con mép vàng hoe bằng cào cào châu chấu và cơm nguội cho tới khi chúng khôn lớn. Trong tuổi thơ của tôi, rất tiếc, tôi chưa một lần bóc lưỡi cho sáo để chúng nói được tiếng người.
Ðành nuôi con cóc xấu xí kia vậy. Những ngày đầu nó còn lẩn tránh tôi, mỗi khi tôi tới gần là nó vội vã nhảy đi. Lâu dần rồi cu cậu cũng quen, không đến nỗi xa lánh tôi như trước. Thậm chí thỉnh thoảng tôi có vuốt ve nó, nó vẫn ngồi im. Người ta nói khi đụng vào cóc, da nó sẽ tiết ra một loại mủ độc, chạm vào thì bị lở loét. Con cóc của tôi chẳng tiết ra chất gì hết. Chắc nó không muốn hại tôi. Quen thêm chút nữa, tôi đặt nó vào lòng bàn tay rồi đưa lên tận mắt ngắm nghía. Nó cũng mặc. Chỉ tiếc nó không biết nói, tôi có nói gì nó cũng không thèm đáp, chỉ giương đôi mắt thao láo ra nhìn lại.
Cuộc sống trong khu xà lim lặng lẽ trôi. Gió vẫn thổi, mây vẫn bay, tôi vẫn ngồi đó, Trong khu biệt giam bên cạnh chiều chiều vẳng tới tiếng ngâm thơ khe khẽ, không rõ là của ai. Từ cửa sổ phòng tôi có thể nhìn thấy một chút xíu phần trên cửa sổ, từ đó vẳng ra tiếng ngâm thơ, nhưng người ở trong cũng không thể ngó thấy tôi. Nhặt được một mẩu gương vỡ tôi bắt ánh mặt trời buổi sáng chiếu hắt sang cửa sổ đó, hi vọng một chút ánh sáng sẽ lọt được vào trong phòng. Quả nhiên người ở trong bắt được tín hiệu của tôi, anh ta gõ vào chấn song mấy hồi liền để trả lời. Lính gác chạy xồng xộc đến nhưng không bắt được quả tang chúng tôi liên lạc với nhau, đứng ngơ ngẩn một lát rồi bỏ đi.
Một hôm, cả khu xà lim náo động hẳn lên vì những tiếng gào thét ầm ĩ, những lời chửi rủa tục tằn. Một lát sau qua lỗ thủng ở cửa tôi nhìn thấy một người tù bị nhét giẻ vào miệng, mặt đỏ gay vì khó thở hoặc vì tức giận. Anh ta xoạc cả hai chân ra để chống lại, không chịu đi, nhưng hai tay lính gác trẻ hơn và khỏe hơn vẫn lôi xềnh xệch anh ta đi được, chắc hẳn để tống vào một thứ xà lim kỷ luật kiểu như ca-sô(5) Hỏa Lò. Anh tù còn trẻ, mặc quần áo bộ đội.
Lợi dụng những người lính gác đã đi ra ngoài khu xà lim, người ở ngôi nhà trên đã bắt được tín hiệu của tôi kêu lên:
– Ai đó? Kỳ Vân đây!
– Chào anh! Hiên đây! – tôi đáp lại.
– Vững vàng nhá!
– Nhất định rồi. Anh khỏe chứ?
– Khỏe lắm! Ðừng tin lũ bịp! Chúng nó dựng vụ đấy!
Kỳ Vân nói dối. Anh yếu hơn chúng tôi nhiều. Nghe giọng anh thì biết. Với tiêu chuẩn ăn uống ở trại không ai có thể khỏe được. Anh lại không được tiếp tế nhiều như cha con tôi. Gia đình tôi dù sao cũng còn khá hơn gia đình anh. Các con anh sống được là may, nói gì đến tiếp tế cho bố. Tất nhiên, những gia đình cùng chung cảnh ngộ cũng không quên chăm sóc các con anh, nhưng xin tiếp tế cho anh thì không được – không đời nào Lê Ðức Thọ cho phép. Các con anh còn nhỏ quá, lại đang đi học, không thể đi thăm và tiếp tế cho anh.
Ðó là lần cuối cùng tôi gặp Kỳ Vân.
Nếu bọn Duẩn-Thọ cho chúng tôi ở cùng nhau để trông nom nhau, săn sóc nhau thì chắc gì Phạm Viết, Kỳ Vân đã chết thảm trong tù.
Con cóc lớn nhanh như thổi. Mới hôm nào còn là một con cóc bé xíu, bé đến nỗi tôi không cảm thấy trọng lượng của nó khi đặt nó lên tay, thế mà mới hai ba tháng sau nó đã chầm chẫm, trở thành một con cóc thanh niên lực lưỡng.
Ðến giai đoạn này cu cậu bắt đầu thay da: màu đen mất dần, xuất hiện những mảng loang lổ màu nâu đất xen lẫn màu vàng thẫm. Lũ kiến vợi đi trông thấy. Ðể nuôi con cóc tôi phải nhịn một ít đường cát tiêu chuẩn để nhử thêm kiến vào phòng. Giống kiến xem ra không có óc suy xét, thấy đâu có ăn là kéo đến liền. Theo vệt nước ngọt được tôi vẽ từ cửa sổ hạ xuống tận nền nhà chúng rùng rùng kéo đàn kéo lũ từ bên ngoài tràn vào, bổ xung nguồn lương thực cho chàng cóc. Món ăn cu cậu thích hơn cả là kiến đen, nhưng thỉnh thoảng đổi món cu cậu cũng xơi kiến lửa. Cóc không thích kiến hôi, có thể vì chúng bé quá, mà cũng có thể vì chúng hôi quá.
Vì những mụn vá rất nghệ thuật theo phong cách siêu thực trên tấm áo mới của con cóc tôi đặt cho nó cái tên Arlequin, nhân vật nổi tiếng của sân khấu hài kịch Italia. Tôi nhìn dáng đi nghiêng ngả chông chênh tức cười của con cóc mà hình dung ra những chàng Arlequin vui tính nhảy nhót trên sân khấu Moskva, Leningrad, hình ảnh gắn liền với một thời đã mất.
Tôi nhớ trong một cuốn sách khoa học thường thức người ta viết rằng cóc không nghe được tiếng người mà chỉ bắt được âm thanh thuộc âm vực hoặc rất thấp hoặc rất cao. Thế mà Arlequin nghe được tiếng tôi gọi. Mỗi khi tôi vỗ tay, khẽ kêu lên “Arlequin!” là nó quay đầu lại nhìn tôi, cặp mắt mở to, chớp chớp.
Ngẫm ra con người ta không phải chỉ có các bản năng được gọi là cơ bản như bản năng sinh tồn, bản năng tự vệ, bản năng truyền giống… mà còn có một bản năng ít được chú ý là bản năng cầu bầu. Không hiểu sao tôi lại thích cái từ đã chết này. Các cố đạo Y-pha-nho, Bồ-đào-nha ghi nhận từ cầu bầu trong tiếng Việt thế kỷ thứ 19 và đưa nó vào những cuốn kinh bổn sớm nhất bằng tiếng Việt với nghĩa che chở, chăm nom, săn sóc, giống như từ patronage trong tiếng Pháp. Khi anh gặp một người yếu đuối đang cần sự che chở, trong lòng anh nảy ra ý muốn giúp đỡ kẻ đó, ấy là trong anh bản năng cầu bầu lên tiếng đấy. Năm 1956 tôi được xem một cuốn phim Pháp nhan đề Porte des Lilas, với Jean Gabin thủ vai Juyjuy, một anh chàng lộc ngộc kém trí khôn. Một tên gangster chạy trốn cảnh sát lạc vào khu phố nghèo, nơi nhân vật của chúng ta đánh bạn với một anh chàng thất cơ lỡ vận có biệt hiệu Nghệ Sĩ. Tên gangster hành hai người đến nơi đến chốn: ngồi yên tại nơi ẩn nấp y bắt họ dội nước cho y tắm, dọn bữa cho y ăn, đi mua transistor cho y tập thể dục buổi sáng,… Ðã thế y còn quyến rũ cô gái bán bar thơ ngây mà anh chàng lộc ngộc của chúng ta thầm yêu trộm nhớ. Cho tới một hôm, Nghệ Sĩ hộc tốc chạy tới lay tỉnh anh ta, mặt mày rạng rỡ:
– Dậy, dậy đi, mày!
Juyjuy phẩy tay, ọ ẹ:
– Ðừng có phá! Ðể tao ngủ.
– Dậy, dậy! Nó đi rồi!
– Ðứa nào đi rồi? – mắt nhắm mắt mở Juyjuy hỏi lại.
– Còn đứa nào vào đấy nữa! Nó đi rồi!
Juyjuy ngẩn người ra một lát. Rồi hiểu ra nó là ai, anh ta thở dài:
– Thôi, thế là từ nay chẳng còn ai cần đến tao nữa!
Bản năng cầu bầu chính là cái đó.
Không phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn mà người tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao giờ. Con người cần có ai đó để mà săn sóc. Nói cách khác, nó cần được thấy có ai đó cần đến nó, để được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích. Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta.
Tôi cảm thấy đỡ đơn chiếc hơn nhiều khi có Arlequin ở bên. Nhưng càng lớn lên Arlequin càng bướng bỉnh. Nhiều lần tôi gọi, nó không tới nữa, mà cứ ngồi yên trong nỗi trầm tư của nó, chỉ một mình nó biết nó nghĩ gì.
Một hôm, vào buổi trưa tôi bắt gặp Arlequin đang ì ạch trèo lên bức tường gai góc. Nó thở dốc, cái bụng phập phồng. Tôi tiếp tục giấc ngủ chập chờn trong cái nóng đầu hè. Tỉnh dậy, tôi thấy Arlequin đang giãy giụa dưới đất. Hình như cu cậu vừa bị ngã một cú trời giáng. Tôi nghĩ đó là trò nghịch ngợm của trẻ con, không đáng để ý.
Nhưng những cuộc phiêu lưu của vận động viên leo núi diễn ra ngày một nhiều thêm. Những cú ngã cũng nặng nề hơn. Bức tường xà lim Bất Bạt, như tôi đã kể, lổn nhổn vẩy vữa cứng và sắc, gây ra những vết xước khá trầm trọng cho Arlequin – trên bộ cánh đẹp đẽ của nó, nhất là ở chỗ da bụng mịn màng, xuất hiện những cái sẹo nhem nhuốc.
Cho tới một buổi trưa đang ngủ say chợt thức giấc tôi thấy Arlequin hì hục trèo lên cao bằng cách bám vào những vẩy vữa rồi đi ngang về phía cửa sổ. Thì ra nó muốn bỏ trốn.
Tôi nổi giận. ớt nhất thì cũng đã mấy tháng trời chúng tôi chung sống cùng nhau, vậy mà nó tệ, muốn bỏ tôi mà đi. Chẳng phải là tôi đã nhịn phần đường của mình để nuôi nó sao? Tôi nhoài người vớ cái chổi quét một nhát thật mạnh. Arlequin bay bổng lên rồi rơi bịch xuống đất. Nó giãy giụa một hồi, rồi nằm thẳng cẳng, phơi cái bụng xây xát. Ðã tưởng nó chết, nhưng nó vẫn sống. Tỉnh lại, nó bực bội nhảy vào một góc tối.
Arlequin giận tôi. Từ hôm đó tôi gọi nó không thèm nhảy lại nữa.
Mùa hè ở Bất Bạt nóng lắm. Mặc dầu ở trên đồi cao, nhưng những hôm trời lặng gió trong xà lim nóng như trong lò lửa không kém xà lim Hỏa Lò là mấy. Tấm phản mộc dày là thế mà cong hẳn lên trong cái nóng khô khấc, thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng tí tách của gỗ nứt. Không đường chạy trốn, tôi quằn quại trong cơn thiêm thiếp của sinh vật hấp hối. Bây giờ không phải là những người lính gác đóng cửa sổ lại không cho phép tôi nhìn ra ngoài, mà tự tay tôi phải đóng lại để cho mắt khỏi nhức nhối bởi cái nắng chói chang đang thiêu đốt khoảnh đất trần trụi trước mặt.
Trong một buổi chiều nóng bức như thế, tôi choàng tỉnh như bị đánh thức. Linh tính báo cho tôi biết trong xà lim chỉ còn lại một mình tôi.
Arlequin đã đi rồi!
Mắt nhắm mắt mở, tôi gọi ầm lên ” Arlequin! Arlequin!”. Ðáp lại tiếng gọi tuyệt vọng của tôi chỉ có im lặng mênh mông.
Nghe tiếng tôi kêu lớn, mấy anh lính gác xồng xộc chạy lại. Nhưng ngó nghiêng một lát, chẳng thấy có chuyện gì xảy ra, họ bỏ đi. Tôi nghe tiếng một người vẳng lại:
– Lại một thằng nữa phát điên!
– Nóng bỏ mẹ thế này, chúng nó chưa chết là giỏi rồi! – có tiếng cười hô hố.
– Còn nóng kéo dài chúng nó còn điên nhiều…
Bọn khốn kiếp, tôi chửi thầm. Nhưng tôi chả còn tâm địa nào nghĩ tới họ. Tôi còn đang đau khổ vì sự bỏ đi của Arlequin. Tôi chui xuống gầm phản, sờ soạng tìm trong mọi xó xỉnh của cái hầm trú ẩn tối om lởm chởm đá răm và cuội. Nhưng đó là cuộc tìm kiếm vô vọng – Arlequin đã đủ lớn để không thể chui vào những lỗ nhỏ có rất nhiều trong lòng đất laterit.
Mệt mỏi, tôi nằm vật ra phản. Nước mắt tôi chảy ra. Tôi nhớ Arlequin như nhớ một con người.
Buổi chiều tôi bỏ cơm. Viên quản giáo bộ đội ái ngại:
– Anh ốm à?
– Vâng.
– Phải ăn để giữ sức khoẻ chứ.
– Anh báo cháo giùm tôi.
Anh ta khép cửa lại.
Trong xà lim vắng lặng hẳn. Cứ như thể Arlequin còn đó thì xà lim không vắng vẻ đến thế. Tôi cảm thấy hụt hẫng. Không còn nữa tiếng sột sạt khe khẽ khi Arlequin di chuyển trên nền xi măng, chỉ có thể nghe thấy được nếu rất chú ý. Không còn cái bóng nhỏ lui cui lúc chỗ này lúc chỗ kia trong cái cũi người nay còn lại mình tôi.
Về chiều trời oi nồng như chưa bao giờ oi nồng đến thế. Miệng đắng ngắt, tôi vật vã trên tấm phản mãi khô cong, không sao ngủ nổi. Trong cơn mơ màng tôi nghe tiếng đàn cóc đông đảo bên ngoài xà lim kêu rộn rã. Có vẻ chúng hoan hỉ đón mừng Arlequin thoát vòng tù ngục.
Tôi lịm đi khi cơn mưa rào giội xuống xối xả.
Trong giấc mơ tôi thấy Arlequin trở về. Không phải con cóc mà là một chàng trai cường tráng. Không phải xà lim mà ở một nơi nào đó không rõ rệt, không ra là ở ngoài đời, cũng không ra ở trong tù.
– Tôi quay lại để từ biệt anh! – Arlequin nói – Tôi không thể ra đi mà không chào anh một lời…
Tôi nhỏm dậy.
Giữa hai chúng tôi là những song sắt. Hiện thực trở lại một nửa, lờ mờ.
– Sao chú nỡ bỏ tôi mà đi, hở Arlequin?
– Tại sao ư? – Arlequin đăm đăm nhìn tôi, cái nhìn thương xót – Chẳng lẽ anh lại không hiểu nổi một điều đơn giản như thế sao?!
Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi, cái nhìn nhòa đi.
– Tôi có đối xử với chú quá tồi tệ đâu, Arlequin? Tất nhiên, tôi cũng có lúc nóng nảy, nhưng đó là khuyết điểm có thể bỏ qua cho nhau được…
– Ồ, chuyện đó tôi quên rồi! Anh đối với tôi rất tốt, tốt lắm. Tôi không quên anh đã nuôi tôi lớn lên, tôi cũng không quên những gì anh đã làm cho tôi, tôi hiểu tấm lòng của anh đối với tôi… Những cái đó làm sao quên được! Nhưng thú thực, có một điều tôi không hiểu nổi: vì sao anh có thể ở mãi trong cái chuồng này mà không chán. Tôi thì tôi không thể sống như thế được.
Tôi nhìn cái xà lim, ngôi nhà của tôi.
– Không phải tôi muốn thế. – tôi kêu lên – Tôi bị cầm tù, Arlequin hiểu không, tôi bị cầm tù…
– Và anh muốn cầm tù tôi cùng với anh?
– Tôi không cầm tù Arlequin, tôi chỉ muốn Arlequin ở cùng tôi thôi. Không có Arlequin tôi buồn lắm.
Arlequin nói, ngậm ngùi:
– Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người… Không biết và không nỡ. Tôi biết: các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm. Hoàn toàn không phải thế…
Tôi không biết nói gì với Arlequin. Tôi buồn nỗi mình thuộc một loài mà cả đến con cóc cũng không thèm kính trọng.
Arlequin đưa tay cho tôi:
– Anh ở lại nhé, nếu anh không thể ra được. Vĩnh biệt anh!
Tôi nắm chặt tay Arlequin không rời. Nhưng bàn tay Arlequin cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi trở thành bàn tay của con cóc bé nhỏ đã ở cùng tôi, con vật xấu xí dễ thương đã là niềm vui của tôi trong mấy tháng trời. Tôi nhắm mắt lại vuốt ve bàn tay nhỏ bé nhưng nó đã tuột khỏi tay tôi.
Tôi choàng tỉnh. Mở mắt ra thì trời đã rạng. Không khí mát và ngọt sau cơn mưa rào ùa vào lồng ngực. Chung quanh tôi là sự tĩnh lặng của vô cùng. Qua song sắt nhà tù tôi nhìn thấy bầu trời nhợt dần, bóng đêm mất đi nhường chỗ cho một ánh hồng cảm thấy được chứ chưa nhìn thấy được đang dâng lên từ phương Ðông. Ðầu óc tôi bừng sáng trong một tia chớp từ bên trong, những ý nghĩ trở nên rõ ràng như chưa bao giờ rõ ràng như thế. Nỗi buồn mất đi không để lại dấu vết, Thế chỗ nó là một niềm vui không tên, trong sáng.
Ðó là phút mà con người đặt tên là mặc khải.
Tôi nghĩ tới Lênin và hiểu rằng ông đã sai biết bao nhiêu khi đặt tự do nằm trong phạm trù ý thức.
Bằng sự ra đi của nó Arlequin chứng minh điều ngược lại: tự do nằm trong phạm trù bản năng.
(1) Câu lạc bộ dành cho người nước ngoài, phần nhiều là người thuộc đoàn ngoại giao.
(2) Các loại bìa tiêu chuẩn thực phẩm.
(3) Ngày tạ thế của ông Hồ Chí Minh không phải là 3 tháng 9, mà 2 tháng 9. Bộ Chính trị đã quyết định sửa lại ngày để ngày Quốc Khánh không phải ngày tang, như sau này họ bào chữa. Do bị nhiều nhân chứng vạch trần hành động tự ý này khoảng tháng 11.1990, Ban chấp hành Trung ương đã phải ra thông báo chính thức thanh minh việc cắt xén di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và thừa nhận ngày tạ thế của ông là 2.9.
(4) Vùng băng giá phía đông nước Nga, nơi phát vãng tù chính trị. Những nhà cách mạng Tháng chạp, và sau này V.I.Lenin và nhiều đồng chí của ông đã bị đi đầy ở vùng này.
(5) Từ tiếng Pháp cachot, ở Hỏa Lò là một phòng giam ngầm dưới đất, rất chật hẹp, tối tăm và bẩn thỉu. Theo những người tù đã từng ở cachot thì tù bị kỷ luật giam vào đây không đứng được, không nằm được, chỉ có thể ngồi trong tư thế lom khom, bên cạnh cái bô cứt đái nồng nặc mùi khai thối, đêm không dám ngủ để khỏi bị chuột cống cắn. Thời xã hội chủ nghĩa cachot vẫn được dùng nhưng may, tôi chưa có hân hạnh nếm mùi.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:34:57 GMT -6
Chương 34
Cùng một lúc cửa sổ các nhà-xà lim theo nhau đóng sập lại rầm rầm, tiếng lính gác chạy sầm sập. Sau đó là im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió hú trên đồi, quanh quất giữa bàn cờ những ô biệt giam.
Xà lim tối om. Tôi rón rén bước ra phía cửa ra vào để nhìn qua lỗ thủng ra ngoài.
Thường cho tù ra đi cung người ta không đóng hết mọi cửa sổ mà chỉ đóng ở những nhà nào có tù đi ngang. Khi các cửa sổ bị đóng hết có nghĩa là sự kiện bất thường. Tôi phải chờ một lúc mới nghe tiếng cánh cổng tôn rên rỉ mở ra xa xa, tiếng đế giày sàn sạt trên sỏi, rồi mới tới đoàn người. Ði đầu là những tên bảo vệ lăng xăng. Theo sau chúng là các quan chức líu ríu vây quanh một nhân vật bệ vệ. Tôi nhận ra bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn.
Ðây là lần thứ hai kể từ khi bị giam tôi nhìn thấy tên Béria(1) của Việt Nam.
Lần đầu là ở sân Hỏa Lò, lúc Huỳnh Ngự lấy tôi đi cung. Cũng một đoàn rầm rộ như thế này. Hoàn đi thẳng một mạch từ cổng vào tới khu ngách trái của Hỏa Lò, gần nơi diễn ra những cuộc hỏi cung. Tôi đoán Hoàn vào giải quyết chuyện gì đó trong vụ chúng tôi. Sau này, cha tôi tính ngày tháng để nhớ lại, ông nói có lẽ đó là hôm Hoàn vào gặp ông để yêu cầu ông chấm dứt cuộc tuyệt thực kéo dài đã mười ngày. Gương mặt lầm lì, cái nhìn vô cảm, nhân vật thứ hai trong ngành chuyên chính vô sản sau Lê Ðức Thọ gợi nghĩ tới một con sâu róm. Khi tôi đi ngang, Hoàn liếc xéo tôi, như nhìn một con vật trong đàn gia súc.
Cuộc đi thăm của Hoàn lần này chắc chắn liên quan tới vụ chúng tôi. Bất Bạt là trại không thuộc quyền Bộ Nội Vụ. Hoàn tới đây hẳn lại để gặp ai đó trong số những tên tù cao cấp bướng bỉnh. Chứ không phải để gặp những tên tù lèm nhèm như tôi. Tôi thuộc loại con sâu cái kiến, loại không được các đại quan tính đến.
Hình như bất cứ người cầm bút nào cũng có lần gặp trạng thái kỳ cục này: mạch văn đang trôi chảy bỗng ì ra khi gặp một nhân vật mà ngòi bút khước từ không muốn viết về nó. Chuyện đó đã xảy ra với tôi khi tôi đụng tới Trần Quốc Hoàn. Tôi đã tính bỏ, không viết về Hoàn nữa. Y không xứng đáng được nhắc tới trong cuốn sách, bởi y không có quan hệ trực tiếp với tôi trong quá trình vụ án, Hoàn không có vai trò trong câu chuyện tôi muốn thuật lại cùng bạn đọc. Trong vụ án này, mặc dầu tên Trần Quốc Hoàn được ghi như một trong những nhân vật chủ chốt, Hoàn chỉ là tay sai cho Lê Ðức Thọ. Tay sai là tay sai, cho dù có là bộ trưởng. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy vẫn phải viết. Bức tranh xã hội Việt Nam vào thập niên 60 thiếu Hoàn sẽ mất đi một mảng điển hình.
Tôi không có lần nào tiếp xúc riêng với Trần Quốc Hoàn. Cùng ngồi tù với cha tôi ở Sơn La, nhưng Hoàn không nhập được vào khối các cựu tù nhân bè bạn với cha tôi. Những người này sau Cách mạng Tháng Tám vẫn thường qua lại thăm nhau. Hoàn chỉ tới ngôi nhà chúng tôi ở 65 Nhà Rượu đôi ba lần là cùng trong thời kỳ bí mật. Kháng chiến thành công rồi không bao giờ tôi thấy Hoàn tới nữa. Ðối với tôi điều đó có nghĩa Hoàn không thuộc số người mà cha tôi coi là bạn. Cha tôi phân biệt bạn và đồng chí. Những người cộng sản hiển nhiên là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn của ông. Bạn bè của ông đông, đủ loại, trong đó có nhiều người không phải là cộng sản, thậm chí có xu hướng trái ngược với cha tôi, như ông Tiến cố tôi đã có dịp nhắc tới ở trên, hoặc các ông Hoàng Văn Chí, ông Phan Tử Nghĩa, Nguyễn Văn ỏi… theo xu hướng xã hội. Mỗi khi gặp nhau họ tranh luận ầm ĩ khi nhận định thời cuộc, cãi nhau về chủ trương, nhưng khi mẹ tôi đã dọn cơm lên thì bầu không khí lại trở về vui vẻ, nhộn nhạo tiếng cười và những câu nói đùa bất tận.
Khoảng đầu những năm 60 Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Khắp nơi, người ta xì xào về những lời tuyên bố của Hoàn, coi như Hoàn là cái phong vũ biểu cho thời tiết chính trị của đất nước. Hoàn được gán cho cái biệt hiệu “Béria của Việt Nam” chính là trong thời kỳ này, thời kỳ bắt đầu những cuộc tấn công hùng hổ và ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại hiện đại, không phải vì những cuộc bắt bớ (lúc đó chưa xảy ra) mà vì những lời dọa dẫm được hào phóng ban phát trên các diễn đàn. Tôi có lần hỏi cha tôi Trần Quốc Hoàn là người thế nào. Cha tôi có vẻ không bằng lòng câu hỏi của tôi.
– Con phải cẩn thận. – cha tôi càu nhàu – Tình hình nước ta không đơn giản. Nói động tới Trần Quốc Hoàn là nguy hiểm lắm đấy. Con đã ở Liên Xô thời kỳ Ðại hội XX, con thừa hiểu tình hình bên đó ngày trước là thế nào. Bố nói phải cẩn thận là trong ý nghĩa đó. Béria dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, còn có học đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt, nhưng coi đó là khuyết điểm sinh hoạt, chỉ nhắc nhở hắn rồi bỏ qua. Trong đời thường mà thế, ắt trong công việc không thể đàng hoàng. Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm. Nhất là bây giờ hắn lại ở trong Bộ Chính trị, tuy là ủy viên dự khuyết, trên hắn lại có Lê Ðức Thọ đỡ đầu.
– Thế những người biết hắn đâu cả mà không ai dám can ngăn?
Cha tôi thở dài:
– Hồi cuối năm 1954 các cố vấn Trung Quốc phát biểu không đồng ý cho bác Lê Giản lãnh đạo ngành Công an, cụ Hồ nghe theo. Sau đó ít lâu, một hôm ông Cụ có hỏi bố: “Chú thấy liệu Trần Quốc Hoàn có đảm đương được trách nhiệm bộ trưởng Bộ Công an không?” Bố biết can cũng chẳng được, nên chỉ trả lời qua quít: “Tôi ở Sơn La với anh ấy mấy năm tôi biết, trình độ văn hóa cũng như trình độ kiến thức anh Hoàn này kém lắm. Mà trông nom một bộ quan trọng như Bộ Công an(2), theo tôi nghĩ, phải có người giỏi, có học thức, sao Bác không giao cho ai khác?”.
Người tiến cử Trần Quốc Hoàn nắm Bộ Công an là Lê Ðức Thọ. Trường Chinh tán thành. Ông Hồ hỏi ý kiến cha tôi cũng chỉ để tham khảo. Cho dù ông có thấy cha tôi nói phải ông cũng không nghe theo được. Còn cha tôi thì cho rằng để trả lời cho một câu hỏi của ông Hồ về nhân sự ông nói thế đã là nhiều. Thường ông kín đáo, không hay nhận xét về người này người khác. Không phải vì sợ hãi, hay nể nang, mà vì thận trọng.
Ông cho rằng con người ta lúc thế này lúc thế khác, không phải bất biến, lấy một giai đoạn mà nhận định cho cả cuộc đời con người là không nên. Ðấy là nói chung, chứ riêng trường hợp này ông không nói còn vì e ngại thế lực của Lê Ðức Thọ. Năm 1955, khi Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức bị phát hiện sai lầm, Lê Ðức Thọ được thay Lê Văn Lương, thì thế lực Thọ đã mạnh. Cha tôi sợ, nói thẳng ra là như thế. Như một bệnh truyền nhiễm bắt đầu lan rộng, cái sợ không chừa cả ông. Cái khí phách còn lại của tinh thần nho sĩ chỉ còn lại ở chỗ ông đủ nghị lực để giữ mình không dây vào những việc làm bạc đức, một thứ khí phách mà vài thập niên sau được đặt tên là chủ nghĩa makeno.
Vào năm 1965, nhân người nhà một viên chức chế độ cũ bị bắt tìm đến ông nhờ ông can thiệp giùm, cha tôi nhận lời đi gặp Trần Quốc Hoàn. Cha tôi biết rõ người bị bắt, ông này là người đúng đắn, trước đã có công giúp đỡ cách mạng. Chắc hẳn do tính tình nóng nảy, không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói mà ông này bị bắt. Lúc ấy cha tôi đã về hưu, không còn quyền chức gì để có thể trực tiếp giúp đỡ ông. Cha tôi đến với Trần Quốc Hoàn, nghĩ Trần Quốc Hoàn sẽ nể tình bạn tù cũ mà nghe ông xem xét lại vụ án. Nhưng ông lầm. Hoàn tiếp ông, hứa hẹn bâng quơ, nhưng rồi việc đâu bỏ đó.
Không giúp được người oan ức cha tôi rất buồn.
– Thằng lưu manh khó lòng trở thành người tử tế. – ông than phiền với ông Ðặng Kim Giang – Mình quá tin ở khả năng cải tạo của môi trường đối với con người, hóa ra không phải như vậy.
Ông Giang an ủi cha tôi:
– Cậu không giúp được người ta thì cũng đừng dằn vặt mình quá. Ai chịu trách nhiệm được thay kẻ khác?
Ông Ðặng Châu Tuệ(3) hôm đó có mặt thở dài:
– Thời bây giờ khác trước rồi. Nghĩ nhiều đến số phận dân chúng lúc này là lạc hậu lắm, chúng mày ơi. Bây giờ người ta nghĩ tới những cái khác kia – cái chức, cái quyền, cái lợi. Cách mạng mà rồi thế này ư? Tao ngấy đến tận cổ.
Tôi nghe được mẩu đối thoại ấy, nhưng tôi không nghĩ cha tôi nói theo nghĩa đen. Một nhà cách mạng làm tới chức vụ cao như thế sao lại có thể là một tên lưu manh được?
Bộ Nội Vụ, trung thành với tính chất bí hiểm của nó, không hay tổ chức những cuộc gặp gỡ các nhà báo, nếu có thì chỉ là những cuộc họp báo hạn hẹp để nghe một cán bộ cấp vụ phổ biến chủ trương hoặc công bố kết quả một chiến dịch, một vụ phá án gián điệp chẳng hạn. Cho nên các nhà báo ít có dịp tiếp xúc với Trần Quốc Hoàn. Tôi chỉ thỉnh thoảng được gặp, nói cho đúng là nhìn thấy Hoàn, trong một số buổi khánh tiết long trọng, ở những cuộc đón tiếp ở địa phương mà tôi tình cờ có mặt. Trong các nhân vật lãnh đạo ở Việt Nam thời bấy giờ Trần Quốc Hoàn có bộ mặt khả ố nhất, theo tôi. Có thể người khác thấy Hoàn theo cách khác, nhưng tôi thì tôi thấy đúng như vậy. Hay vì Hoàn là bộ trưởng công an nổi tiếng tàn bạo mà tôi nhìn ra thế chăng? Từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù.
Trần Quốc Hoàn thường xuất hiện cùng lúc với Lê Quốc Thân. Béo núc ních, cổ rụt, hai mắt ti hí, giống hệt một con lợn, là phó của Hoàn. Thứ trưởng Lê Quốc Thân được người ta biết đến như một tên bất nhân. Trần Quốc Hoàn còn học được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Ðức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Ðược Ðảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn(4) chiến đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Ðến nỗi, những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên: “Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này”. Tôi được nghe, được đọc một số bài nói chuyện với cán bộ ngành công an của Lê Quốc Thân. Những bài báo này, theo nhận xét của giới trí thức, vừa ngu xuẩn vừa sặc mùi bạo lực. Tôi là người yêu chủ nghĩa xã hội, và tôi lấy làm xấu hổ cho cái chủ nghĩa xã hội mà tôi theo vì những bài phát biểu thiếu văn hóa đó.
Khoảng từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp phương châm bắt nhầm còn hơn bỏ sót được người ta nói tới nhiều, như thể đó là đường lối tốt nhất để bảo vệ cách mạng. Tôi cũng là người chăm đọc sách mác-xít, nhưng trong những đoạn văn viết về chuyên chính vô sản tôi không thấy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói tới một phương châm như thế. Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó cực kỳ giản tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài củng cố địa vị thống trị. Nó cho phép tên độc tài thoát khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Trên thực tế nó đã trở thành phương châm hành động của công an nhiều nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước châu Á (ở các nước châu Âu, sau Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô, tình hình đã có thay đổi theo chiều hướng dân chủ). Cán bộ thực hành chuyên chính vô sản tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào họ. Vạn nhất có bị phát hiện họ sẽ được chuyển sang công tác khác, được bảo hiểm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả là không biết bao nhiêu thường dân vô tội trở thành nạn nhân của cái phương châm bất nhân bạc ác này. Mà nói thường dân làm chi, đến những cán bộ cấp khá cao như anh Tạ Ðình Ðề, nguyên đội trưởng Biệt động thành Hà Nội, cũng bị đem ra “làm thịt” theo chủ trương nói trên của Hoàn(5). Tôi biết Tạ Ðình Ðề từ năm 1949 khi học trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tôi ở đại đội 3, đóng bên đại đội Lê Hồng Phong gồm các sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn về học khóa 6 trong chủ trương chính quy hóa quân đội. Tạ Ðình Ðề ở đại đội Lê Hồng Phong. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, tôi hiểu tính cách của anh. Anh là người có tinh thần đồng đội, lại thẳng thắn, không biết nịnh bợ. Trong triều đại Lê Duẩn những người có tính cách như thế trước sau cũng bị gạt ra khỏi guồng máy. Sau khi được trắng án, Hoàn và Thân còn nhiều lần mưu toan đưa anh trở lại nhà tù nhưng không thành công.
Ông Nguyễn Tạo, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp, là phó tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam thời ông Lê Giản làm tổng giám đốc, biết rõ tiểu sử Trần Quốc Hoàn.
– Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy. – ông trả lời thắc mắc của tôi – Chả là thằng này đích thực lưu manh, anh ạ.
Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hi vọng ông còn sống lâu để có thể kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.
Không thể nào tưởng tượng nổi – một bộ trưởng, hơn nữa, một ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản, lại là một tên lưu manh xuất thân! Và tên lưu manh này đã đứng trên đỉnh cao quyền lực làm mưa làm gió nhiều năm trong bộ máy trấn áp của Ðảng. Cũng chính tên lưu manh này đã cùng “đại huynh” của nó thực hiện vụ hãm hại chưa từng có trong lịch sử đất nước những trung thần của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu chuyện ông Nguyễn Tạo kể được ghi lại như sau:
Trong một thôn nghèo bên một thị trấn heo hút thuộc miền núi Nghệ An có một đôi vợ chồng nghèo hiếm muộn, có độc một mụn con trai. Họ kiếm sống bằng nghề đi rừng kiếm dây leo về bện rế mang ra chợ bán, đắp điếm lần hồi, với hi vọng rồi đây đời con mình sẽ khá. Tuy nghèo khổ, hai người vẫn ăn nhịn để dành cho con trai theo học trường tiểu học phố chợ. Thằng bé loắt choắt được bạn cùng lớp gọi là Cảnh con, không đến nỗi quá tối dạ, khốn nỗi cũng chẳng thông minh, học thì lười, ăn cắp thì chăm.
Lớn lên một chút Cảnh con nổi tiếng cả thị trấn và một vùng xung quanh về tật ăn cắp vặt. Học đến cours préparatoire(6) thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Từ đó Cảnh con lêu lổng như một con mèo hoang. Nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở thành bất trị. Cha mẹ nó bị xóm giềng chửi bới, nguyền rủa, bị bắt đền, bị đe dọa. Ðứa con hư trở thành gánh nặng, thành nỗi khổ tâm không sao thoát khỏi của đôi vợ chồng nhà nọ. Nỗi giận dữ của dân phố chợ nhằm vào Cảnh con cũng ngày một tăng lên. Rồi tới một lúc không ai còn có thể chịu nổi nữa.
Họ gặp may. Ðúng lúc có người mộ phu tới, viên trưởng thôn liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ. Vừa được tiền, lại vừa nhẹ mình. Thường người đi phu được lĩnh ở thầy ký mộ phu một khoản rõ ràng, khoảng năm đồng Ðông Dương nhưng đám chức sắc ăn chẹn, người đi phu chỉ được lĩnh một nửa, có khi còn ít hơn. Chức sắc ở địa phương bao giờ chả muốn đuổi khỏi địa phương mình những phần tử thanh tích bất hảo, bây giờ ta gọi là làm trong sạch địa bàn.
– Lúc bấy giờ Cảnh con chừng bao nhiêu tuổi, thưa bác? – tôi hỏi.
– Khoảng mười lăm, mười sáu. – ông Tạo đáp – Thời trước là tuổi đi làm được rồi. Cảnh con được đưa sang Lào, tới một vùng có mỏ vàng, làm phu. Công việc phu đãi vàng rất đơn giản: đào đất ở những chỗ có mạch vàng rồi đem ra suối đãi. Dụng cụ đãi là một cái chảo lớn, dân đãi vàng gọi là pa-tê.
– Công việc phu đãi vàng ngày trước có khó nhọc lắm không, thưa bác?
– Làm phu tất nhiên là khổ rồi. Nhưng phu đãi vàng cũng không đến nỗi khó nhọc so với phu mỏ, phu đồn điền. Cái khổ nhất của phu đãi vàng là bệnh sốt rét ngã nước. Họ sống rải rác trong rừng, từng tốp một, mỗi tốp vài chục người. Ðứng đầu mỗi tốp có một cai trông coi gọi là xú-ba-dăng(7). Tiếng là đãi cát ra vàng, nhưng lương phu thấp lắm, chỉ đủ sống, ít có ai hết giao kèo còn dành được tiền mang về nhà. Người đi phu thường không có ý định quay về – ở nông thôn thời bấy giờ còn khổ hơn đi phu. Anh đọc Tắt Ðèn rồi chứ?
– Thưa, đã.
– Nông thôn lúc bấy giờ đúng như cụ Ngô Tất Tố tả. Nhiều người còn đi phu xa hơn, sang tận Nouvelle Calédonie hoặc Nouvelles Hébrides(8), ta gọi là Tân Ðảo và Tân Thế Giới, làm công nhân khai thác kền ở Chiepagui…
Các đồng chí ta ở Thái Lan lúc bấy giờ đã có Thanh niên Cách mạng Ðồng chí Hội hoạt động tương đối mạnh. Chính quyền Thái đối đãi với Việt kiều cũng nhẹ nhàng, họ không gây khó dễ cho các tổ chức cách mạng Việt Nam mà họ thừa biết là có cơ sở rộng khắp trên đất họ. Có thể nói đó là sự ủng hộ đáng quý. Cách mạng Việt Nam nhờ Thái Lan nhiều. Chỉ từ khi phái cực hữu Thái Lan lên nắm quyền thì cách đối xử với các tổ chức cách mạng Việt Nam mới xấu đi. Xét cho cùng, là lỗi tại mình. Ai lại nhờ đất người ta mà lại đi vận động dân Thái chống chính quyền ngay trên đất họ của họ. Thời kỳ mà tôi đang nói tới ngoài việc phát triển hội viên trong kiều bào tại chỗ, Hội Thanh niên cách mạng còn triển khai tổ chức của mình trong kiều bào ở Lào, Miên.
Khái niệm công nhân trong Hội Thanh niên bấy giờ rất đơn giản – bất cứ ai bán sức lao động chân tay đều là công nhân tuốt, đều là đối tượng để kết nạp vào Hội. Chứ đám phu đãi vàng đâu có là công nhân công nghiệp theo cách phân định thành phần của Mác, như các anh bây giờ hiểu. Vậy, các đồng chí Thanh niên cách mạng phát triển tổ chức vào đám phu mỏ vàng nọ. Người ta phát triển vào Cảnh con. Mà phát triển vào hắn cũng phải. Chỉ có mình hắn biết đọc biết viết trong đám phu mù chữ. Cảnh con thường viết thư thuê cho các bạn phu lấy tiền.
Chuyện bắt đầu từ đây. Ðồng chí phụ trách phát triển Cảnh con, tôi không nhớ tên, thiếu cảnh giác, trong lúc tâm sự con cà con kê đã nói với Cảnh con tên tuổi một số đồng chí. Tôi nghĩ anh này lo xa, lại có chút lãng mạn nữa – vạn nhất mình có bị địch bắt, có bị hy sinh thì Cảnh con còn biết người này người kia để liên lạc. Mấy đồng chí mà anh ta nói đến về sau đều bị bắt hoặc bị bắn chết trên đường rừng nằm trên biên giới Thái-Lào. Không ai biết vì sao họ bị lộ, nhưng Cảnh con sau đó cũng mất hút.
– Cảnh con bán các đồng chí cho Pháp?
– Hồi ấy có nghi vấn như vậy. Nhưng không có bằng chứng. Nghi thì để bụng, vậy thôi. Nghe nói có đồng chí bị bắn, chạy thoát, lúc hấp hối có trối trăng lại, nói Cảnh con là tên phản bội.
– Sao họ không báo cáo tổ chức?
– Một lời nói của một người không thể là bằng chứng. Vả lại, công tác cách mạng thì lu bu, có thể có ai đó đã báo cáo, nhưng người nghe báo cáo rồi cũng chết nốt chẳng hạn. Như tôi cũng chỉ nghe nói lại, mà không từ gốc, làm sao có thể báo cáo được. Ðến khi biết đồng chí Trần Quốc Hoàn ngày nay chính là thằng Cảnh con ngày trước thì những người biết hoặc có nghe việc này không dám nói nữa. Cảnh con đã ở trong Trung ương rồi, lại còn vào Bộ Chính trị nữa. Nói ra mất mạng như bỡn. Ðành nín lặng.
– Hồi ấy Cảnh con bỏ trốn vì sợ tổ chức biết?
– Ðiều đó có thể lắm.
Sau khi Cảnh con trốn khỏi Lào, hắn trở thành một tên ăn cắp vặt ở các chợ Hà Nội. Theo lời những tên lưu manh già, trước đó có hồi Cảnh con còn đi theo một đám cướp ở Hải Dương, nhưng vì nhát gan nên bị chúng đuổi, không cho theo. Không còn đường nào, Cảnh con mới bò về Hà Nội, nhập vào đám móc túi, giật dọc. Nhưng ở trong đám này hắn ta cũng bị coi là một tên thuộc hạng bét, loại vét đĩa(9), như cách gọi của dân lưu manh bây giờ.
Ăn cắp ở quê còn được, chứ ăn cắp ở thành phố khó lắm, dân thì tinh, phú-lít(10) đầy đường. Nhưng không ăn cắp thì đói. Cảnh con mới xin nhập vào đám tiểu yêu cầm cờ đám ma, dưới trướng một tên anh chị ở phố Hàng Chợ Gạo. Bọn cầm cờ đám ma cũng là một dạng lưu manh, từ trong đám lưu manh chuyên nghiệp mà ra, như kiểu thầy tu xuất.
Mỗi băng cầm cờ thường được một nhà đòn(11) thu dùng. Trong số các nhà đòn hồi ấy có nhà Louis Chức rất nổi tiếng. Ðám tang do các nhà đòn thời trước ổ chức to lắm, sang lắm. Có minh tinh nhà táng xênh xang, màn che ngù rủ, ngựa cũng vận áo tang hai màu đen trắng, cũng đội kèn bú-dích(12) diễu hành trước linh cữu, trên xe tang ngất ngưởng một anh xà ích ăn vận chẳng khác gì đại tướng nhà ta bây giờ, theo đúng kiểu tây.
Tang chủ nào giàu có là có ngay băng cầm cờ đến xin phục vụ. Cách xin cầm cờ chúng thường là thế này. Mấy đứa lực lưỡng nhất bọn, xăm trổ đầy mình, mặt mũi bặm trợn, chít khăn tang hẳn hoi, kéo nhau đến gặp tang chủ. Lũ cô hồn xông thẳng vào nhà, quỳ lạy trước linh cữu, khóc lóc, kể lể, tuồng như trước đây chúng chịu ơn người quá cố, nay đến để giả nghĩa, xin được bảo vệ đám ma ân nhân. Tại sao lại phải bảo vệ? Tại vì cụ nhà tuy ân dày đức trọng thật đấy, nhưng, chúng nó nói, thiên hạ trăm người trăm ý, cụ nhà có ăn ở tốt mấy cũng không phải là không có kẻ thù, chúng con biết có kẻ định bụng phá đám tang của cụ cho nên chúng con phải đến ngay, vì tình sâu nghĩa nặng với ân nhân…
Tang chủ biết chúng nói láo, nhưng ngậm bồ hòn làm ngọt: không cho chúng cầm cờ thì chính chúng chứ chẳng phải kẻ thù nào sẽ phá đám, thôi thì đành để cho chúng “bảo vệ”. Nghĩa tử là nghĩa tận. Công cầm cờ do vậy mà rất cao: một lá đại kỳ (cờ lớn) 1 đồng, cờ phướn từ 3 hào tới 4 hào (giá một tạ gạo hồi ấy khoảng 5 đồng, hơn 5 đồng một tí). Loại tiểu yêu như Cảnh con chỉ được cầm cờ phướn thôi, đại kỳ không đến lượt. Mà đã là tiểu yêu thì cũng chẳng được hưởng trọn tiền. Tang chủ cho năm hào thì đàn anh lấy ba, thương tình lắm cũng lấy hai. Lại nữa, không phải ngày nào cũng có đám tang nhà giàu để được cầm cờ. Chưa kể đến chuyện băng cầm cờ Hàng Chợ Gạo còn phải giành giật, tranh khách với băng cầm cờ chợ Ðồng Xuân và những băng khác. Nói tóm lại, Cảnh con sống dặt dẹo, bữa no bữa đói, khổ sở lắm.
Tình cờ một hôm Cảnh con đọc mục rao vặt trên báo Ðông Pháp thấy nhà in Tân Dân tìm thợ sắp chữ, mừng quá, bèn ba chân bốn cẳng chạy đến xin việc. Chủ nhà in sát hạch thấy được, mới cho vào làm. Tôi nhắc lại: thời thuộc địa dân mình ít học lắm. Trong làng đỗ được cái certificat đã là oai rồi, đã là thành phần trí thức rồi, đã được dân làng vị nể rồi. Thời kỳ tập sự, gọi là học việc, lương công nhân chẳng được là bao, giỏi lắm đủ ăn, nhưng cũng vẫn là có lương, còn hơn sống phập phù với bọn cầm cờ đám ma. Cảnh con ra sức làm, được chủ khen.
Nhưng chẳng bao lâu sau, chứng nào lại tật nấy, Cảnh con lại xoay ra ăn cắp. Ai cũng tưởng làm nhà in thì chẳng xoay xở được gì, ngờ đâu lại vớ bở. Chữ in làm bằng hợp kim antimoine, ta thường gọi là chữ chì, hồi ấy được dân đúc gang ở phường Ngũ Xã rất chuộng, mua với giá cao. Chả là đang lúc Tây cấm nghề đúc đồng (đồng là nguyên liệu chiến lược, mẫu quốc cấm dân thuộc địa đúc đồng để đưa về Pháp đúc đạn), cho nên dân Ngũ Xã phải quay ra đúc chảo gang. Chảo lớn thì phom(13) lớn, gang nóng chảy nguội quá nhanh thì chảo nứt, phải pha thêm một chút antimoine cho nó đông cứng chậm lại mới đúc được. Cảnh con liền ăn cắp chữ in đem bán. Trường Chinh hồi ấy cần chữ in cho báo Ðảng, cho người đi gặp Cảnh con để mua, nhưng hắn ta không bán. Một kí lô chữ in bán cho dân Ngũ Xã được sáu đồng, người của Trường Chinh chỉ trả có năm với lại năm rưỡi, đời nào hắn bán. Thằng Cảnh con này khôn như rận”.
– Nghĩa là vào thời kỳ Mặt trận Bình dân Cảnh con không hoạt động gì cho cách mạng?
– Hoạt động gì trong khi nó còn bận ăn cắp?!
Ði đêm lắm có ngày gặp ma, Cảnh con bị bắt quả tang trong lúc trên vai còn cả bị chữ in. Chả là nhà in mất nhiều chữ quá, xót của, mới thuê thám tử tư đi điều tra. May cho Cảnh con, hắn bị tống ngục trúng lúc Mặt trận Bình dân vẫn còn cầm quyền. Thời kỳ này, sau cuộc đi thăm Ðông Dương của các nghị sĩ cộng sản và xã hội, nhất là sau cuốn Ðông Dương Cấp Cứu của bà André Viollis, các lực lượng phái tả của Pháp lên án mạnh chính quyền thuộc địa trong việc giam giữ tù chính trị, cho nên chế độ sinh hoạt cho tù chính trị được cải thiện hơn trước nhiều.
Không biết được ai mách giúp bảo giùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm Phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn. Cảnh con chắc khai cũng lăng nhăng lắm, hắn có liên lạc với ai đâu mà bảo hoạt động. Thế mà hắn được đưa sang bên chính trị, mới lạ. Tại Sơn La hắn nói với tổ chức Ðảng rằng hắn là người trong tổ chức, viện tên những đồng chí Thái Lan trước đây đã kết nạp hắn (nay đã chết hết), xin được kết nạp lại. Tổ chức nhờ bên ngoài xác minh, thấy quả có những đồng chí tên tuổi đúng như vậy, bèn cho hắn sinh hoạt. Lê Ðức Thọ cũng kết tình thầy trò với hắn ta từ đó
– Chẳng lẽ Trường Chinh hoặc những đồng chí gần Trường Chinh không nhớ chuyện Cảnh con từ chối không bán chữ in cho họ?
– Nhớ thì cũng thế thôi. Có lục chuyện ấy ra Cảnh con cũng thiếu gì cách chống chế. Nguyên tắc bí mật chẳng hạn, chưa bắt được liên lạc thì biết ai là ta ai là địch. Theo nguyên tắc đó Cảnh con có quyền không biết Trường Chinh là ai, nói gì người của Trường Chinh cử tới gặp. Sau, Cảnh con đã làm to rồi, có ai biết chuyện cũ cũng im thin thít, không dám hó hé. Chỉ tội bọn lưu manh tép riu, hồi Cách mạng Tháng Tám chúng bị giết vô số kể, là lệnh của Trần Quốc Hoàn đấy.
– Hoàn muốn bịt miệng những người biết quá khứ của hắn?
– Tất nhiên.
– Hồi ấy ai nắm công tác tổ chức, thưa bác?
– Chẳng có ai. Hoặc có thì cũng là phân công miệng với nhau, bảo nhau mà làm, mỗi người một mảng việc, mỗi người một địa phương. Ngay các chức vụ trong Trung ương cũng vậy, nhiều khi ới nhau mà giao, ai gần thì gọi. Nói chung là phải tự động giải quyết. Ðấy, như Văn Tiến Dũng đấy. Có hồi anh ta mất liên lạc với Ðảng, chẳng được tổ chức phân công việc gì, nhưng anh ta cứ đi các nơi xây dựng cơ sở, kết nạp đảng viên như thường. Cho tới khi bố anh đi tìm được thì Văn Tiến Dũng đã có sẵn một mớ chi bộ của anh ta rồi.
– Có phải hồi chú Văn Tiến Dũng đóng giả nhà sư không?
– Ðấy là hồi sau, khi đã bắt được liên lạc. Phải công nhận Văn Tiến Dũng kiên trì cách mạng lắm. Chưa bắt liên lạc lại với đồng chí thì tự nghĩ ra việc mà làm. Văn Tiến Dũng đúng. Nhưng nếu bắt bẻ thì có cái chi không bắt bẻ được, Văn Tiến Dũng làm thế gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật rồi, phải không? Tổ chức Ðảng trong những năm ấy chẳng chặt chẽ gì. Vả lại số đảng viên bấy giờ ít lắm, đâu có như bây giờ, thêm được một người là quý. Là đảng viên trước đây có nghĩa là tù đầy, là máy chém…
– Bác nghĩ Cảnh con rồi sau cũng giác ngộ cách mạng?
– Ai biết được?! Cũng có thể là như thế – con người ta thay đổi…. Mà cũng có thể không… Tôi chỉ tin một điều: con người ta rất khó thoát khỏi bản chất của nó, khó lắm.
Tôi trách cha tôi nhiều. Lẽ ra ông phải cho tôi biết những điều ông biết, nhưng ông đã lảng tránh.
Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi:
– Con lấy xe đưa bố đi một lát.
Hôm ấy tôi có một cái hẹn, nhưng đành phải bỏ – trong gia đình tôi sự không tuân lời người trên là lỗi nặng. Ðành phải dịch cái hẹn sang ngày khác để đưa cha tôi đi. Ông ngồi sau chiếc Jawa 05 thấp tè, vốn không được thiết kế để chở hai người, hai chân khuỳnh khuỳnh. Nhưng ông chịu khó ngồi lắm, không kêu ca. Năm ấy cha tôi không còn đi được Mobylette nữa, dắt xe ra cửa, cái xe kéo ông theo làm ông ngã dúi dụi. Trước đó, khi còn làm ngoại giao có tiêu chuẩn xe hơi ông cũng chỉ đi xe Mobylette của riêng, do bạn bè ở Pháp gửi cho. Ông bảo: “Nước ta còn nghèo, xe cấp cứu cho đồng bào còn chẳng có, mình đi một mình một xe hơi làm gì, phí phạm!”. Có hôm tới dự kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga ở đại sứ quán Liên Xô lính gác (Việt Nam) không cho ông vào chỉ vì ông đi Mobylette.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái.
– Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống – cha tôi chỉ tay về phía trước – Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại…
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
– Con không hiểu bố muốn nói gì…
– Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên, sau này… Thôi, ta về.
Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau:
– Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ… Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
– Bác biết?
Ông gật đầu:
– Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả…
– Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác?
– Một vụ án mạng oan khuất.
– Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu?
– Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó.
– Một hiện trường giả?
– Chính là như vậy. – ông ngậm ngùi – Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ…
– Thời gian nào, thưa bác?
– Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955…
– Cùng được Trần Ðăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về…
– Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu?
– Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm… Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi…
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín.
– Như vậy, có thể coi như bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam?
Ông cười chua chát:
– Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha… Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể đó là tội lỗi.
– Ai đã giết bà Xuân?
– Ðừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này: vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm(14). Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Ðức, được nhận dạng. Ðó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn.
– Tại sao lại Trần Quốc Hoàn?
– Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết.
– Rồi sau thì sao?
– Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh… thần kinh. ớt lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang… Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng.
– Những đầu mối đều bị bịt?
– Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
– Về những cái chết này không có ai điều tra hết?
Ông Tạo cúi mặt xuống.
– Không.
– Tại sao, thưa bác?
– Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới.
– Trần Quốc Hoàn?
– Phải. – ông thở dài – Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Ðảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy…
– Vì sao Trần Quốc Hoàn giết bà Xuân?
– Ðó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
– Và Trung ương im lặng?
– Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này…
– Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
– Có nhiều điều chúng ta không biết được. – ông nói, giọng bùi ngùi – Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai? Với Lê Duẩn chăng? Hay Lê Ðức Thọ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng…
– Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi?
– Trong mấy cái chết nói trên? Không.
– Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ? Ông Hồ cũng không có lỗi? – tôi gặng – Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào?
– Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. – ông thở dài – Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự ràng buộc với Ðảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Ðảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Ðảng bị phỉ báng. Ðảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Ðúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người? Dù họ có là ai đi chăng nữa…
(1) Beria Lavrenti Pavlovich (1899-1953), đồng hương với Stalin, năm 1938 được Stalin giao cho phụ trách NKVD (tiền thân của KGB, Nha An Ninh Quốc Gia), phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô năm 1941, vào Bộ Chính trị năm 1946. Tháng 12.1953 bị hành quyết vì tội phản bội tổ quốc.
(2) Bộ Nội vụ hiện nay. Khi mới thành lập ngành công an Việt Nam cơ quan này mang tên Nha Công an Việt Nam. Sau năm 1954, nó được đổi thành Thứ bộ Công an, rồi Bộ Công an.
(3) Một nhà cách mạng lão thành. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm chủ tịch ẹy ban kháng chiến hành chính tỉnh Ninh Bình, sau 1954 làm tại Tòa án tối cao.
(4) “Kiếm và mộc” là biểu tượng của ngành công an Liên Xô.
(5) Tạ Ðình Ðề, chỉ huy trưởng Ðội Biệt động thành Hà Nội, nhân vật huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3. Sau chiến tranh ông làm giám đốc xưởng sản xuất vợt bóng bàn ngành đường sắt. Bị đưa ra tòa xử vì tội “chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”. Chưa bao giờ trong chế độ xã hội chủ nghĩa lại có một cuộc xử án mà quần chúng ủng hộ bị can kéo tới làm áp lực với Tòa đông đảo như trong vụ xử án Tạ Ðình Ðề. Ông được xử trắng án. Khi không buộc tội được Tạ Ðình Ðề “tham ô”, Tòa hỏi Tạ Ðình Ðề tại sao lại thu nạp nhiều kẻ có tiền án tiền sự (tù được tha) vào xưởng của ông, Tạ Ðình Ðề thản nhiên trả lời: “Họ là những người đáng thương. Ai còn có tình người thì phải giúp đỡ họ”.
(6) Lớp 2, hệ tiểu học thời Pháp thuộc, còn gọi là lớp dự bị, trên lớp Ðồng ấu (enfantin).
(7) Từ tiếng Pháp surveillant = giám thị.
(8) Hai quần đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nouvelle Calédonie bị Pháp chiếm năm 1853, nay còn là lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Nouvelle Hébrides bị Bồ Ðào Nha chiếm năm 1606, sang tay Anh và Pháp năm 1906, năm 1980 tuyên bố độc lập, đổi tên là Cộng hòa Vanuatu.
(9) Tiếng lóng của lưu manh: lính đú = loại lưu manh không chuyên nghiệp, đàn đúm theo đuôi); vét đĩa, lính vét đĩa, lính vét = loại lưu manh ở hàng cuối cùng, không đáng được tôn trọng.
(10) Từ tiếng Pháp police = cảnh sát.
(11) Như công ty dịch vụ mai táng ngày nay.
(12) Từ tiếng Pháp musique = âm nhạc.
(13) Khuôn, do chữ forme tiếng Pháp.
(14) Ông Nguyễn Minh Cần, vào thời gian đó là phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, phụ trách Văn giáo và Ngoại thành nhớ lại: “Hôm đó (vào mùa xuân năm 1957) tôi đang thường trực thì anh Nguyễn Quốc Hùng, thành ủy viên, tới báo cáo có vụ xe cán chết người trên đường Nhật Tân, công an báo cáo người bị cán đã là một xác chết. Anh em công an nói chiếc xe mang biển số của Phủ Chủ tịch… Mấy hôm sau tôi có hỏi anh Trần Danh Tuyên, bí thư thành ủy, về vụ này (theo phân công, anh Tuyên bí thư phụ trách công an), thì anh ta nói “Vụ đó giải quyết xong rồi”. Anh Nguyễn Quốc Hùng là cán bộ công an thời ông Lê Giản, sau bị Trần Quốc Hoàn đẩy ra ngoài. Theo anh Hùng cái chết này có uẩn khúc, anh nói cần phải tìm hiểu”.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:36:57 GMT -6
Chương 35
– Sắp xếp đồ đoàn! – viên quản giáo nói.
Y đứng đuồn đuỗn trong khung cửa vừa được mở ra, thân hình lỏng khỏng in những nét sắc lên nền trời trắng bệch.
Lại chuyển chỗ, tôi nhìn y chán ngán. Chuyển phòng hay chuyển trại đây?
Cuối năm 1971 quản giáo bộ đội không mở cửa cho chúng tôi nữa. Thay chân họ là một tay công an. Anh chàng trẻ măng, mặt mũi hiền lành, có phần hơi ngây ngô, với giọng nói ràn rạn của cậu bé vừa vỡ tiếng. Trong chiếc sơ-mi màu trứng sáo, quần âu màu lam thẫm, y giống học sinh năm thứ nhất trường trung cấp nông lâm hơn là quản giáo trại giam.
Anh tù đưa cơm thì thào báo cho tôi biết cha tôi và tướng Giang đều đã bị đưa đi khỏi chỗ cũ, hình như tới một nơi nào đó cũng nằm trong khu vực trại này, nhưng anh không có phận sự tới đó, không biết có đúng như vậy không. Mấy ngày sau anh tù tốt bụng cũng biến mất. Người đưa cơm mới ít lời đến nỗi tôi tưởng anh ta câm điếc, hỏi gì anh ta cũng một mực lắc đầu.
Tức là có tình hình mới, nhưng cụ thể là cái gì thì không sao đoán được.
Cuốn tiểu thuyết – hồi ký hình thành dần. Tôi đang mê mải miêu tả thú đi câu trong những cái ao làng. Tôi viết với niềm hưng phấn ít gặp, khi toàn bộ con người tôi, từng tế bào nhỏ bé, say sưa ngụp lặn trong hồi ức về những ngày xưa đầm ấm với tất cả tâm trạng náo nức chỉ có trong tuổi ấu thơ. Hồi tôi lên sáu, năm 1939, cha tôi đi tù Sơn La, mẹ tôi bận hoạt động, cho nên tôi phải về quê nội ở với bà cả cha tôi, một bà cô già ngoan đạo, sống trọn đời đồng trinh. Trong nỗi buồn sống xa gia đình, đi câu là cái thú lôi cuốn tôi nhiều nhất, đem lại cho tôi nhiều niềm vui nhất. Tôi bồi hồi sống lại tuổi thơ trong ngôi làng bình dị nơi châu thổ sông Hồng. Chìm đắm trong hồi ức nhiều lúc tôi quên bẵng mình đang ở tù. Ðưa mình về với kỷ niệm tuổi thơ là cách chạy trốn thực tại tuyệt vời.
Ðể tiết kiệm những mẩu giấy hiếm hoi lấy được từ những vỏ bao thuốc lá, giấy gói kẹo, tôi phải nhẩm mỗi câu trong đầu nhiều lần trước khi đặt bút, mà lại phải viết nắn nót bằng những chữ li ti như những con kiến gió kia, cho đỡ tốn diện tích. Cái ruột bút bi lại quá nhỏ, chỉ cần lơi ra một chút, tức thì nó lọt xuống kẽ tay.
Cái khó lớn nhất trong việc viết cuốn sách là làm sao giấu được những bản thảo đã viết xong. Bởi vì những khi tôi đi khỏi phòng giam tới nơi hỏi cung các quản giáo có thể vào phòng lục soát, là việc người ta thường làm. Nhưng họ đã không tìm ra, không phải vì tôi tài giấu, mà vì họ lười. Chẳng ai hơi đâu chui xuống gầm phản để tìm cả, mà những trang bản thảo của tôi nằm chính ở dưới đó, trong cái khe giữa tấm gỗ và trụ bê tông. Tôi giấu rất cẩn thận, ngụy trang thật khéo, nhưng tôi không tin rằng nếu người ta quyết tâm tìm cũng không thể tìm ra. Tôi không sợ kỷ luật của trại giam, Thành cho tôi biết người giấu giấy bút trong tù có thể bị tống vào ca-sô, nhưng tôi sợ bị tước đoạt công việc mà tôi muốn làm. Công việc này mang lại ý nghĩa cho thời gian ở tù, cho tôi thấy tôi vẫn độc lập được đối với quyền lực của bọn độc tài.
Viên quản giáo đến đột ngột. Những con cá trê bóng nhãy đen như bóng đêm còn đang quẫy trong đầu tôi. Tôi chỉ kịp giấu mẩu bản thảo xuống dưới chiếc áo rách mà tôi giả vờ vá hết ngày này qua ngày khác, thì y đã mở xong cửa.
– Chuyển phòng? – trống ngực đánh thình thịch, tôi hỏi lại y.
– Sắp xếp đồ đoàn!
Y không trả lời vào câu hỏi, lười biếng nhắc lại.
Tôi còn đang lúng túng, chưa biết xoay xỏa thế nào với mấy mẩu bản thảo nằm bên dưới tấm áo rách nếu như y cứ đứng ỳ ra đấy chờ tôi thu dọn, nhưng thật may, nói xong y quay ra, khóa cửa lại.
Tôi thở phào.
Khi y trở lại thì tôi đã giấu xong những gì phải giấu. Ði cùng với viên quản giáo trẻ là viên hương sư Thanh Hóa. Cũng tử tế như lần đưa tôi từ Hỏa Lò lên Bất Bạt viên hương sư xách hộ tôi đồ đoàn, giờ đây đã lỉnh kỉnh chăn màn, quần áo, với những gói lớn gói bé quà gia đình tiếp tế.
Chúng tôi bước ra ngoài trời nắng, người nọ theo chân người kia qua những ô xà lim im lìm, cửa sổ khép kín, trên con đường nhỏ lạo xạo sỏi đá.
Chuyển trại rồi, tôi nghĩ, tim đập mạnh.
Viên hương sư dẫn tôi về phía chiếc com-măng-ca đỗ trong bóng mát một cây bàng.
Cái mà tôi lo nhất là bị khám đồ. Cái thủ tục rất khó chịu được nghiêm túc thực hiện ở bất cứ trại nào, lúc đi cũng như lúc đến, không có ngoại lệ. Trong lần chót gặp gia đình tôi đã chuyển được một số chương đầu tiên của cuốn sách ra ngoài. Bây giờ chỉ còn lại vài chương được cất trong mấy bao thuốc lá rỗng ruột.
Một người tù đã ngồi sẵn trên ghế sau. Nước da trắng trong, thứ nước da chỉ có ở những người sống lâu trong xà lim thiếu ánh sáng, hai tay bị còng phía trước, anh ta có vẻ như vừa qua một trận ốm. Cảm thấy cái nhìn chăm chú, anh tù quay đầu lại, dò xét nhìn tôi. Viên hương sư leo lên xe, ra hiệu cho tôi chuyển đồ cho y sắp xếp. Sắp xếp xong, y chỉ cho tôi leo lên ngồi bên anh tù. Trước khi bước xuống y rút còng tay. Tôi đưa tay cho y. Mọi việc diễn ra trong im lặng, không ai nói với ai một câu.
Một tiếng cách lạnh lẽo. Hai cổ tay tôi bị khóa chặt. Tôi đưa hai tay lên, ngắm nghía cái còng. Trên nền thép trắng có khắc những chữ Nga viết tắt tên nhà máy sản xuất ra nó. Tôi mỉm cười cay đắng: âu cũng là một sự mỉa mai của số phận. Người ta buộc tội tôi làm gián điệp cho Liên Xô, nay lại khóa tay tôi bằng một cái còng số 8 của Liên Xô.
Lát sau tôi thấy Lê Thanh Tài lững thững đi tới, khẩu súng săn dài thượt trên vai. Không thèm nhìn đến chúng tôi, cũng không nói một câu, y ngồi lên ghế trên, bên cạnh tài xế, khẩu súng gác bên cạnh. Ðó là một một khẩu Verney Caron hai nòng, cỡ 12 ly. Thấy tôi chăm chú nhìn khẩu súng, y gườm gườm nhìn tôi rồi kẹp chặt nó giữa hai đùi.
Chiếc com-măng-ca rời trại Bất Bạt nhằm hướng Bắc. Ðến bến phà Trung Hà, chúng tôi được phép xuống xe, đi bộ.
Trước mắt tôi hiện lên toàn cảnh dòng sông ngầu đục phù sa cuồn cuộn chảy và những làng mạc xanh rì xa tít tắp bên kia. Tôi bước thấp bước cao xuống dốc, cố ý đi thật chậm trên vệ sông thoai thoải để ngắm cảnh. Sau thời gian quá dài trong xà lim đây là lần đầu tiên tôi được thấy một chân trời. Nguyễn Tuân sẽ cười tôi lắm đây: rõ ngợm, cái đường gẫy khúc với những mảng xanh nhấp nhô thế kia mà thằng Hiên nó dám gọi là chân trời!
Trong những ngày kháng chiến chống Pháp Nguyễn Tuân đã lên một cơn thèm chân trời đến điên khùng cũng ở một vùng bán sơn địa như thế này đây. Ông lồng lộn, ông vùng vẫy hòng thoát khỏi sự bủa vây của núi rừng Việt Bắc trùng điệp. Từ đèo Re, đèo Kháng Nhật, ông thượng ba-lô lên vai, về xuôi. Ðến gần Hà Nội, ông cất công leo lên tận đỉnh Tam Ðảo, chui qua những tầng mây xốp để ngóng nhìn cái chân trời mong muốn. Nhưng chẳng thấy nó đâu. Nguyễn Tuân rầu rĩ. Ông thở dài kết thúc bài bút ký về cái sự thèm khát chân trời không ai hiểu được: “Thèm một người bạn tâm tình! Thèm một người đàn bà!”.
Bây giờ tôi chẳng có gì hết. Không một người bạn tâm tình. Không một người đàn bà! Không cả quyền được thèm. Tất cả đều quá sang đối với tôi. Bây giờ thế kia đã là chân trời rồi, một chân trời mà tôi mơ ước, cho dù nó gãy khúc.
Những người phu phà gày gò gồng mình lên chống sào cho con phà rời bến. Khi con phà hướng mũi về bên kia sông, tôi đăm đăm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy bên mạn phà mà thấy lòng mình buồn rượi. Tôi gập mình xuống, khỏa tay. Tên công an cảnh giác vội bước tới. Nhưng tôi có định nhảy xuống đâu. Tôi chỉ muốn được nhúng tay trong cái mênh mông nước mát một chút, một chút thôi. Biết đến bao giờ tôi mới lại được vùng vẫy trong một dòng sông quê hương như dòng sông này? Có lẽ chẳng bao giờ nữa! Những người Do Thái trên đường tới các các lò thiêu trong Thế chiến thứ 2 chắc hẳn có ý nghĩ giống tôi.
Nhìn sang anh bạn tù ngồi ủ rũ bên mạn, tôi thấy anh kín đáo giấu đôi tay bị còng dưới cái quạt giấy trước cái nhìn tò mò của hành khách qua phà. Tôi cứ để nguyên đôi tay bị còng trên đùi. Việc gì mà xấu hổ. Sau này, biết đâu đấy, sẽ có ai đó trong bọn họ nhớ lại cảnh này và đoán ra họ gặp ai. Tôi nhìn thấy cả những ánh mắt lạnh lùng, thậm chí ghê sợ – hẳn người ta nghĩ chúng tôi là những tên sát nhân. Nhưng lẫn vào những ánh mắt lạnh lùng tôi bắt gặp cả những cái nhìn thương hại.
Con đường chúng tôi đi, hẹp và gập ghềnh, luồn trong những rừng nứa đồi tranh bất tận, qua những những bản làng thưa thớt, những vạt thực vật bị cháy thui, những triền cỏ úa xác xơ dưới mặt trời gay gắt.
Ðầu năm 1947 tôi đã có dịp qua địa phận này, nhưng hồi ấy tôi còn là đứa trẻ. Quá nhiều năm đã qua kể từ ngày ấy. Thế mà trong trí nhớ bập bõm vẫn ghi lại một cái tên ỏi Mỗ. Tôi biết bên kia Trung Hà có con đường dẫn tới sông Thao, con sông đã đi vào ca dao như một lời cảnh cáo:
Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về…
Như vậy, có lẽ chúng tôi đang tiến sâu vào địa phận Phú Thọ. Phía trước chúng tôi mỗi lúc một nhiều thêm đồi núi và rừng non rừng già.
Giữa đường, thỉnh thoảng Lê Thanh Tài lại bảo tài xế dừng xe để y bắn chim. Anh hương sư và lái xe lẽo đẽo theo chân thủ trưởng. Quan trên đi khỏi là tên quản giáo chưa có ria mép liền leo tót lên ghế trên, tiếp tục cuộc ngủ gật.
Lòng xe rất nóng và ngột ngạt. Chúng tôi không dám tự tiện xuống xe. Tôi sợ những viên đạn rình một hành động thiếu suy nghĩ của chúng tôi để bay ra khỏi nòng.
Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi bực bội chửi đổng. Người bạn tù nhìn tôi. Tôi hỏi nhỏ:
– Anh tên gì nhỉ?
– Tôi là Mỹ, Phùng Mỹ.
Khi chưa bị bắt tôi có nghe tên Phùng Mỹ. Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi có quen Phùng Mỹ không, nhưng khi tôi nói tôi không quen thì y cũng không hỏi thêm. Cơ quan an ninh không đến nỗi quá tồi để không biết những mối quan hệ của tôi.
– Như vậy, anh bị bắt cùng đợt với anh Chính?
– Phải. Còn ông? Bị bao giờ? – liếc nhìn lên ghế trên, chỗ anh chàng quản giáo đang gà gật, anh thì thầm.
– Tháng 12 năm 1967. – tôi đáp.
– Nghĩa là… Có phải Vũ Thư Hiên đấy không?
– Phải.
Mặt Phùng Mỹ tươi rói.
– Tại sao anh biết? – tôi hỏi.
– Tôi đoán. Trong vụ chúng ta có hai người trẻ nhất là Vũ Huy Cương và ông. Tôi chơi với Cương. Người trẻ mà tôi không quen thì đúng là Vũ Thư Hiên rồi.
– Anh có đoán được chúng ta đang bị đưa đi đâu không?
– Không biết!
Những lời thì thào của chúng tôi làm cho anh chàng quản giáo tỉnh giấc.
– Này, cấm nói chuyện đấy nhá! – y cằn nhằn.
Không được nói chuyện thì chúng tôi ngủ gật cùng với y vậy. Trong trạng thái mơ màng tôi nghe thấy tiếng súng đì đẹt xa xa.
Lê Thanh Tài quay về với mấy con chim cu rừng xanh mướt. Y đặt chiến lợi phẩm vào giữa hai ghế trên, sau phanh tay. Những con mắt đen láy mở to ngơ ngác: “Sao lại thế này? Chúng tôi làm gì mà các người giết chúng tôi?!”.
Tôi tỉnh hẳn. Nhìn những con chim ngoẹo đầu bất động mà thương. Tôi đưa tay vuốt mắt cho mấy con chim tội nghiệp. Nhưng vuốt thế nào thì vuốt, không như mắt người, mắt chim vẫn mở trừng trừng. Lê Thanh Tài nhếch mép cười giễu.
Trời vừa tối là tôi lịm đi trong giấc ngủ mê mệt, không buồn nhìn ra bóng tối mịt mùng hai bên và vệt sáng đèn pha quét trên con đường rừng đầy ổ gà.
Chúng tôi tới đích vào nửa đêm. Mắt nhắm mắt mở bước xuống xe, tôi thấy mình trong một cái sân rộng – một khoảng không rộng rãi với những ngôi nhà trắng lên thành những hàng đều đặn trong ánh sáng yếu ớt những ngọn điện vàng vọt và ánh trăng hạ tuần, với bức tường sáng mờ mờ bao quanh. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một trại giam.
Vừa xuống xe Lê Thanh Tài lập tức biến ngay vào bóng đêm. Viên hương sư cần mẫn giúp chúng tôi hạ đồ lề. Bâu quanh chúng tôi là những bộ cảnh phục hoàng thổ thấp thoáng trong ánh sáng chao đảo của mấy cây đèn bão. Khệ nệ đồ lề trên cả hai vai và hai tay, chúng tôi được đưa vào nhà giam. Không có sự khám xét nào. Sau khi chỉ cho chúng tôi chỗ ngủ – hai cái giường tầng thênh thang trong một ngôi nhà dài bằng nhà năm gian ở thôn quê, đám âm binh lặng lẽ khóa trái cửa lại, bỏ đi.
– Có lẽ chúng nó cho hai thằng mình ở với nhau… – Phùng Mỹ mừng rỡ – Ông nghĩ thế nào?
– Cũng chưa biết được. Ðể rồi xem. – tôi nói.
Thành dặn tôi: trong tù không được ngạc nhiên, không vội vã mừng rỡ, cũng không hốt hoảng hoặc buồn rầu trước bất cứ điều gì. Phải bình thản đón nhận tất cả – cái may cũng như cái rủi. Người tù bình thản thì mới đối phó được với những hoàn cảnh oái oăm mà mình không lường trước được.
Chúng tôi dọn chỗ ngủ ở tầng trên, bên cạnh một cửa sổ. Từ đó nhìn ra là một khoảng trời đen mênh mông với một mảnh trăng nhợt nhạt. Tính toán số giờ ngồi trên xe, tôi đoán mình đang ở một nơi nào đó thuộc địa phận Phú Thọ.
Ðám âm binh để lại cho chúng tôi một cây đèn dầu hỏa. Tôi dùng cây đèn rọi vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà. Tôi không thích người ta ghi âm những cuộc nói chuyện của tôi với Phùng Mỹ. Mà họ có thể làm chuyện đó lắm. Phùng Mỹ không hiểu tôi định tìm gì, nhưng anh hào hứng tham gia cuộc khảo sát. Chúng tôi phát hiện một mẩu bút chì giấu kín trong một mộng giường, một số que diêm kẹp trong một vỏ bao xẹp lép. Ở đầu một hồi là chuồng xí, có một hộc nước đủ cho hai người tắm rửa thoải mái. Trên tường, ở đôi chỗ tôi đọc được những dòng chữ ghi ngày tháng và một cái tên lặp đi lặp lại nhiều lần: Tân Lập. Tân Lập có nghĩa là Mới Dựng Nên, Mới Lập Ra. Vậy thì trước đây phải là một rừng hoang.
– Ở đây có điện!
Phùng Mỹ reo lên, chỉ cho tôi thấy một ngọn đèn lủng lẳng trên cao, dưới một sợi dây cứng quèo, to quá khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn không bị chuyển đi. Một viên quản giáo lầm lì dẫn theo một anh tù tự giác mang vào cho chúng tôi xoong nồi, gạo, muối và rau, bát đĩa, đủ cho một cái bếp tối thiểu.
– Các anh nấu lấy mà ăn. Gạo nước hàng ngày sẽ được cung cấp vào buổi sáng.
Y nói rồi quay ra.
Chúng tôi có cả một ngôi nhà thênh thang. Ðang bị tù túng trong xà lim, chúng tôi mặc sức chạy nhảy, vừa cười ha hả vừa đánh đu trên giường tầng như hai đứa trẻ. Cần phải luyện lại những bắp thịt đã nhão nhoét. Tôi ngạc nhiên thấy sức mạnh cơ bắp của mình sau thời gian dài ở Bất Bạt không đến nỗi quá tồi. Thì ra những thế cầu kỳ của hatha yoga đã giúp tôi giữ gìn cơ thể khỏi bị tàn phá bởi cuộc sống trong xà lim. Không những thế, cuộc sống chung hai người rõ ràng là một sự giải tỏa tinh thần. Chúng tôi nói chuyện say sưa, ngày này qua ngày khác. Bằng nhiều cách kiểm tra vòng vèo tôi khẳng định Phùng Mỹ đang ở với tôi là Phùng Mỹ thật, không phải một tên chỉ điểm mạo danh. Tuy vậy, tôi cũng không vội cởi mở. Phùng Mỹ quá hồn nhiên, tôi nhận xét. Người như anh không dễ dàng đối phó với bọn chấp pháp khi bị chúng dẫn vào bẫy. Biết đâu đấy, chúng để cho chúng tôi ở với nhau một thời gian rồi lại tách ra, tiếp tục khai thác từng người một. Cho tới lúc ấy chúng vẫn chưa kiếm được ở tôi một bằng cớ nào khả dĩ có thể dùng để buộc tội, trừ cách cả vú lấp miệng em. Hơn nữa, những sơ xuất trong khi trò chuyện với nhau về các anh em còn ở ngoài có thể mang tai họa lại cho họ.
Khu nhà dành cho chúng tôi cách sân trại một khoảng trống. Sáng nào chúng tôi cũng bị quả bom quái ác đánh thức, mặc dầu chúng tôi có thể ngủ cho tới đẫy giấc, tới khi quản giáo mở cửa đưa tiêu chuẩn thức ăn và gạo vào. Quản giáo cũng chẳng vội vàng đưa thức ăn cho chúng tôi. Y cũng chẳng buồn vào sâu trong nhà. Mở cửa cho chúng tôi ra sân xong, y bảo tù tự giác bỏ thức ăn cho chúng tôi ở cổng, rồi bước ra, khóa lại. Ðứng trong khu biệt giam chúng tôi có thể nghe thấy tù chuyện trò xôn xao trên đường ra sân trại tập họp sáng. Ðiểm danh xong, tù đi xong, cả khu trại giam lại vắng tanh vắng ngắt..
Cuộc gặp gỡ với Phùng Mỹ cho tôi hiểu thêm nội dung và tình tiết của vụ án. Cho tới khi ấy tôi chỉ biết lơ mơ, hay nói cho đúng hơn, chẳng biết gì về nó. Theo cách các chấp pháp hỏi tôi thì nhà cầm quyền có vẻ quan tâm nhiều tới những người có quan hệ với đại sứ quán Liên Xô, và muốn hướng những bản cung vào việc buộc tội chúng tôi làm gián điệp.
Phùng Mỹ cho tôi biết anh có giao du với mấy cán bộ đại sứ quán Liên Xô, bị theo dõi, rồi bị bắt. Trong tù anh bị hỏi cung liên tục về mối quan hệ bị cấm. Anh thú nhận bừa đã chuyển cho một người bạn Liên Xô nội dung Nghị quyết 9 mà anh chép lại sau khi dự lớp học. Theo lời Phùng Mỹ thì Phạm Viết cũng ra vào đại sứ quán Liên Xô nhiều lần. Theo các chấp pháp cho biết thì dường như Phạm Viết có tổ chức một cuộc gặp mặt giữa đại sứ Sherbakov với ông Ðặng Kim Giang và cha tôi. Trong cuộc gặp hai ông đề nghị Liên Xô phải tỉnh táo trước những hành động không thân thiện của một số cán bộ Việt Nam đối với Liên Xô, đừng vì thế mà làm ảnh hưởng xấu tới tình hữu nghị giữa hai dân tộc, đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp Việt Nam chống Mỹ. Chuyện này tôi không biết. Cha tôi không kể cho tôi nghe(1). Không thấy Phùng Mỹ nói gì về Biên bản hội đàm Việt-Trung mà anh chuyển cho phía Liên Xô, như sau này người ta nói đến như một cái tội của anh. Mà anh thì làm sao có được cái biên bản tối mật đó.
Chắp nối những câu chuyện của Phùng Mỹ với những câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi hiểu rằng chẳng có chuyện ban lãnh đạo Ðảng lo lắng cho bí mật Nghị quyết 9 bị tiết lộ. Cả triệu người được biết về nghị quyết thì không có gì còn là bí mật cả. Cái mà người ta muốn biết là có thể khai thác cái gì dùng được làm cớ để buộc Võ Nguyên Giáp vào tội âm mưu đảo chính hay không?
– Ông có nghe anh em mình nói tới đảo chính bao giờ không? – tôi hỏi Phùng Mỹ.
– Làm quái gì có chuyện đó.
– Thế tại sao người ta xưng xưng nói rằng có.
Phùng Mỹ cười:
– Họ muốn nặn ra cái đó.
– Họ có hỏi ông về âm mưu đảo chính không?
– Có chứ.
– Nghĩa là có thể có, nhưng chúng ta không biết? – tôi gặng.
– Tôi tin chẳng có gì hết. Nếu có tôi phải biết. Chúng nó bịa.
Tôi kể cho Phùng Mỹ nghe về cuộc khủng bố trắng của Stalin những năm 30 mà tôi được đọc trên các tạp chí Liên Xô. Phùng Mỹ biết tiếng Nga không giỏi lắm, cho nên anh ít đọc, ít biết về những vụ án oan trong thời kỳ Ðại khủng bố. Tôi muốn anh rút kinh nghiệm của những người xô-viết để biết cách đối phó trong nhà tù Việt Nam. Anh rất tâm đắc chuyện những người xô-viết thoát xử bắn, được thả ra lại sẵn sàng lên đường ra trận.
– Chúng mình cũng vậy thôi! – Phùng Mỹ buồn rầu nói – Nếu đất nước bị xâm lăng thì chúng mình có khước từ bảo vệ nó không? Chúng mình lại phải cầm súng, biết rằng bảo vệ đất nước cũng là bảo vệ ngai vàng của các vị lãnh tụ kính mến. Khốn nạn thật!
– Bi kịch thời đại. Biết làm thế nào?
Sự suy ngẫm về những gì xảy ra ở Liên Xô, ở Trung Quốc, và bây giờ ở Việt Nam cho tôi thấy cái gọi là bàn tay đế quốc chỉ là cái cớ muôn thuở để gây ra những cuộc sát phạt nội bộ. Nguyên nhân chính là một số người bứt khỏi hàng ngang để chiếm lấy địa vị lãnh đạo phong trào cách mạng thấy cần phải củng cố quyền lực đã đạt được. Họ vu cho đồng chí hôm trước là tay sai đế quốc, hữu khuynh, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, xét lại, tả khuynh, hữu khuynh…tùy theo trí tưởng tượng của họ phong phú hay nghèo nàn. Cựu học sinh chủng viện Stalin trịnh trọng ban phát án tử hình do các ủy ban an ninh vài người ký, rồi cho các đồng chí đi ô tô ra pháp trường. Cựu hương sư Mao Trạch-đông mê kinh kịch không chịu thiếu trống phách: Mao còn cho dong Lưu Thiếu-kỳ, Trần Nghị, Bành Ðức-hoài đội mũ cao mà đi chán chê trong tiếng thanh la não bạt, trong tiếng hô đả đảo rầm trời rồi mới cho phép họ được mục rữa trong ngục thất. Xem ra các hình thức trấn áp của Duẩn -Thọ còn nhẹ nhàng hơn nhiều.
Cái sự cho chúng tôi ở hai người với nhau, được tự do trong khuôn khổ một xà lim rộng, được nấu nướng lấy, có vẻ như một sự nới lỏng. Nhưng kèm theo sự nới lỏng là một âm mưu không lấy gì làm sạch sẽ.
Càng ở lâu với Phùng Mỹ tôi càng thấy anh khác Trần Quốc Thành. Thành điềm đạm bao nhiêu thì Phùng Mỹ nóng vội bấy nhiêu. Trước hiện tượng nào Phùng Mỹ cũng có sẵn, ngay lập tức, một nhận định, một kết luận. Thành thì bao giờ cũng lật đi lật lại vấn đề chán chê, xem xét kỹ mặt này mặt khác của nó, rồi mới thận trọng đưa ra một giả thuyết cho người đối thoại cùng suy nghĩ với mình. Cuộc sống chung giữa hai người khác cá tính đã cho thấy mặt trái của nó: chúng tôi thỉnh thoảng cũng có một cuộc cãi vã nho nhỏ do bất đồng ý kiến.
Tôi không muốn người ta được sung sướng thấy chúng tôi hục hặc với nhau. Tôi thương Phùng Mỹ. Cũng như tôi, anh không phải nhà chính trị. Về khía cạnh này anh là người bị oan. Anh chỉ không oan trong tình cảm đối với họ mà thôi – anh không yêu họ một chút nào. Anh sớm nhìn thấy tính cách cai trị độc tài làm thui chột mọi suy nghĩ độc lập. Mà chỉ có sự suy nghĩ độc lập mới mang tính sáng tạo.
Tôi nói với Phùng Mỹ:
– Không phải vô cớ mà người ta cho chúng mình ở chung với nhau. Họ nghiên cứu chán ra rồi. Họ biết chúng mình có tính cách khác nhau, dễ va chạm nhau. Họ muốn chúng ta ghét nhau, căm thù nhau. Ðó là một mánh khóe tiêu diệt kẻ thù.
– Ðúng! – Phùng Mỹ đồng ý – Ðúng lắm!
– Tôi đề nghị thế này: để đối phó với âm mưu của chúng nó, ta phải tự đặt ra chương trình làm việc cho kín thời gian một ngày, người nào làm việc người nấy, chỉ trò chuyện một lát trước khi đi ngủ. Như thế chúng ta sẽ chẳng bao giờ cãi nhau, đơn giản vì không có thời giờ để cãi nhau. Tôi hiểu ít về triết học, ông thì lại có thời gian là giảng viên môn này, tôi đề nghị ông dạy tôi. Còn nếu ông quan tâm tới văn học thì tôi cũng có thể thuyết trình ông nghe một số vấn đề. Như vậy có ích hơn.
Phùng Mỹ tán thành.
Một hôm, viên quản giáo tự giới thiệu là cán bộ phụ trách giáo dục trại vào gặp chúng tôi. Ðó là một anh chàng đẹp trai, tầm thước, về sau mới biết không phải là người của trại Tân Lập, mà của Bộ Nội vụ. Y vui vẻ hỏi thăm sức khoẻ (tiết mục nhàm chán nhưng nhất thiết phải có trong những cuộc gặp gỡ giữa hai bên) rồi mở cặp.
– Hôm nay tôi đến để phổ biến cho các anh một quyết định quan trọng. – y rút ra một tờ giấy, định đưa cho chúng tôi, nhưng rồi lại cất vào cặp – Mà thôi, chẳng vội gì, để các anh ăn Tết Ðộc Lập cho vui vẻ đã…
Lại một quyết định mới nữa, tôi nghĩ. Chúng nó toan tính cái gì mà thay quyết định xoành xoạch, như thay quần lót vậy?
Phùng Mỹ lo lắng. Bữa cơm chiều anh ăn kém đi một bát.
– Chúng nó định làm gì đây? – anh tư lự đặt câu hỏi.
Tôi đã chai lì rồi, tôi mặc kệ, chúng muốn giở trò gì thì giở.
– Nếu mọi sự tùy thuộc ở ý muốn của chúng ta thì chiều nay tôi mời ông đi ăn chim quay với tôi ở Tiểu Lạc Viên. – tôi nói – Còn khi chúng ta sống tùy thuộc ở chúng nó thì tốt nhất là quên chúng nó đi…
Phùng Mỹ vẫn băn khoăn:
– Không hiểu có quyết định gì mà nó đã định đưa cho chúng ta rồi lại không đưa?
Biết nói thế nào cho Phùng Mỹ yên tâm đây?
– Ông không nghĩ đó có thể là một màn kịch à?
Phùng Mỹ ngẩn người. Rồi vỗ trán đánh bốp:
– Có lẽ lắm. Nếu không, tại sao hắn không nói ngay mà lại bảo để cho chúng ta ăn Tết cho vui vẻ đã? Hiểu rồi! Loi de suspension d’intérêt(2), có thế mà mình không nghĩ ra!
Nói thế, nhưng Phùng Mỹ lo lắm. Còn mấy hôm nữa mới đến 2 tháng Chín. Trong những ngày chờ đợi Phùng Mỹ ủ rũ, trông mà thương. Nhà cầm quyền thật độc ác với trò chơi của họ. Cái lối mèo vờn chuột không quân tử chút nào.
Qua mồng 2 tháng Chín cũng chẳng thấy viên quản giáo đẹp trai bước vào khu biệt giam. Mãi tới rằm tháng Chín mới thấy y dẫn xác đến.
– Quyết định mới của Ðảng đối với vụ các anh là thế này. – y nói, hàm răng trắng bóng lên trong nụ cười tươi tắn – Các anh không bị xét xử theo luật pháp mà được hưởng lệnh tập trung cải tạo. Mỗi lệnh có thời hạn 3 năm. Sau một lệnh, nếu các anh cải tạo tốt Ðảng sẽ cho các anh về đoàn tụ với gia đình. Bằng không, các anh sẽ ở thêm một lệnh nữa, rồi một lệnh nữa… Tất cả tùy thuộc ở thái độ cải tạo, tốt hay không tốt.
Phùng Mỹ nhìn tôi. Tôi nín lặng, chờ viên quản giáo nói tiếp.
– Lệnh tập trung cải tạo được ký ngày… – y nói một ngày thángmà tôi bỏ ngoài tai – Các anh có quyền được khiếu nại, được viết đơn lên Trung ương xin khoan hồng. Chúng tôi sẽ nhận và chuyển lên trên cho các anh(3).
Thấy chúng tôi vẫn im lặng, y hỏi lại:
– Tôi có mang giấy bút cho các anh đây. Nếu các anh muốn làm đơn, tôi sẽ để lại.
– Cảm ơn. – tôi nói – Chúng tôi không viết.
– Cái đó tùy các anh. Tôi khuyên các anh nên viết.
Tôi mỉm cười.
– Căn cứ quân hàm của anh, tôi chắc anh phải là đảng viên có thâm niên…
– Ý anh muốn nói sao?
– Tôi muốn nói rằng nếu như vậy anh phải được biết có một chỉ thị của Ban Bí thư liên quan tới chế độ tập trung cải tạo…
– ???
– Chỉ thị này nói rõ rằng chế độ tập trung cải tạo không được áp dụng cho các cán bộ đã tham gia cách mạng trước Tháng Tám năm 45 và các cán bộ đã tham gia kháng chiến chống Pháp… Tôi chắc anh đã được đọc chỉ thị đó?
Viên quản giáo chớp mắt liên hồi. Y không biết trả lời thế nào: có thể y chưa được đọc thật, nhưng nhận mình chưa đọc hoặc tệ hơn, không được đọc, thì điều đó có nghĩa là nhận mình kém, mình không phải người được Ðảng tin cậy.
– Anh đọc rồi chứ? – tôi gặng.
– Phải.
Tôi cười:
– Thế thì anh bảo chúng tôi khiếu nại mà làm gì?! Trường hợp này các cụ gọi là thế nào nhỉ? Tôi nhớ ra rồi: nhổ đấy rồi liếm đấy. Có nói cũng bằng thừa.
Viên quản giáo tái mặt. Tôi nghĩ y sẽ có một hành động lỗ mãng với tôi, nhưng y chỉ lặng thinh bỏ đi.
Chúng tôi chỉ còn biết chờ đợi. Chờ đợi một cái gì không biết.
Hàng ngày, vào buổi sáng chúng tôi tắm rửa, làm vườn, rồi quay vào nhà học tập. Ðược nấu nướng lấy, lại có thêm rau tươi tự trồng, lại được tắm nắng tùy thích, sức khoẻ chúng tôi phục hồi nhanh chóng, nước da không còn bủng beo như trước.
Tôi vẫn giấu kín bản thảo Miền Thơ Ấu. Không phải tôi không tin Phùng Mỹ. Nhưng một sự sơ ý của anh sẽ làm mất đi kết quả của rất nhiều thời gian làm việc của tôi. Hơn nữa, nếu người ta đã cảnh giác thì khó mà viết lại lần nữa. Nhưng giấu thì phải ngừng viết, cũng không được. Cho nên đành cho Phùng Mỹ đọc. Hóa ra anh là một nhà phê bình văn học sắc sảo. Nhiều chương trong Miền Thơ Ấu đã được viết ra dưới ảnh hưởng những nhận xét của anh.
Phùng Mỹ sốt sắng truyền đạt cho tôi những kiến thức triết học. Nhưng nghe anh giảng vài buổi tôi nhận thấy tầm hiểu biết của giảng viên môn triết ở đại học ta nghèo nàn quá. Phùng Mỹ chắc chắn không phải giảng viên tồi. Có thể anh còn là giảng viên khá nữa là khác. Tôi không trách anh không đáp ứng được yêu cầu của tôi. Lỗi tại nền giáo dục. Nó không đòi người thầy giáo dạy môn này có kiến thức uyên bác. Nếu ông thầy thuộc lầu chủ nghĩa Mác trong những giáo trình được biên soạn lại, với hai môn duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng, thì thế đã là đủ. Biết thêm anh sẽ trở thành kẻ đa thư loạn thị, anh không còn là thầy tốt được nữa. So với đòi hỏi của nền giáo dục Phùng Mỹ biết nhiều hơn cần thiết, nhưng hiểu biết thừa này lại không đủ cung cấp cho tôi điều gì mới. Anh không biết được bao nhiêu về triết học cổ ấn Ðộ và những trường phái triết học phương Tây hiện đại. Trong tình hình bế quan tỏa cảng về văn hóa, trí thức khoa học xã hội ở Việt Nam có bị hạn hẹp về kiến thức cũng là chuyện bình thường. Nền đại học Liên Xô về mặt này, theo tôi nghĩ, còn khá hơn đại học Việt Nam. Bằng chứng là tôi không học khoa triết, nhưng các giáo sư Liên Xô đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản và một phương pháp tư tưởng không đến nỗi tồi.
Nhờ hiểu rõ mục đích của việc ghép những người có có tính khác nhau ở chung với nhau, chúng tôi biết cách tổ chức cuộc sống để không để xảy ra một cuộc cãi lộn nào. Chẳng bù với những anh em không ý thức được âm mưu của nhà cầm quyền. Sau những ngày đầu mừng rỡ được ở cùng nhau, cái xà lim hai người còn tệ hơn xà lim một người nhiều.
Tôi được chứng kiến cảnh đó sau khi chuyển từ khu biệt giam trại A sang khu biệt giam trại B, ít lâu sau.
Khu biệt giam trại B nhỏ hơn hẳn khu biệt giam trại A. Trong một căn nhà dài thượt, vốn là khu xà lim kỷ luật, người ta cắt ra hai đầu hồi mỗi bên bốn xà lim, phá tường ngăn và hành lang của chúng đi, thế là thành hai phòng biệt giam. Nhưng đó là sau khi ở một thời gian rồi chúng tôi mới biết, chứ khi mới chuyển đến vào ban đêm, chúng tôi chẳng biết mình được đưa đi đâu, đang ở đâu. Sau mới biết trong hai phòng biệt giam ở hai đầu hồi đều được dùng để giam tù trong vụ chúng tôi.
Phòng của chúng tôi nhỏ hơn trước rất nhiều. Mảnh vườn cũng bé tí xíu, đất lại toàn sỏi đá. Chúng tôi ra sức cải tạo nó bằng cách xin đào một hố đổ phân và nước tiểu ngay trong vườn (nếu không tù tự giác sẽ phải đưa bô đi đổ ở xa), rồi dùng thứ phân này bón cho cây trồng. Với những củ khoai lang được phát, để cho mọc mầm chúng tôi nhân giống lên thành một luống rau khoai lang xum xuê, những quả ớt mang theo từ khu biệt giam cũ cũng cho chúng tôi một loạt cây sai quả.
Những xà lim bên cạnh vẫn được dùng, thỉnh thoảng lại có tù được đưa vào. Những người tù kỷ luật không nằm lâu trong xà lim, thường chỉ một tuần hoặc hai tuần họ lại được ra nhường chỗ cho người khác. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi, có lẽ không hiểu chúng tôi là ai, chỉ đoán rằng chúng tôi là loại tù nguy hiểm, liên lạc với chúng tôi chỉ mang họa vào thân.
Một đêm, chúng tôi nghe từ phòng bên có tiếng gọi:
– Các chú ơi, các chú!
Chúng tôi im lặng. Tiếng một đứa trẻ. Nó gọi chúng tôi hay gọi ai? Tiếng gọi kiên trì lặp lại một lần nữa, rồi một lần nữa.
– Chào cháu! – tôi lên tiếng đáp.
– Tại sao các chú lại ở đây?
Tôi và Phùng Mỹ nhìn nhau. Biết giải thích cho cháu bé thế nào?
– Chuyện dài lắm. Các cháu không hiểu được đâu.
Từ một xà lim khác vọng lại giọng khàn khàn của một người lớn tuổi:
– Ð…m…! Có cái đéo gì mà không hiểu được. Chính trị nà cùng chứ cái đéo gì mà rộn?
Chúng tôi không trả lời y. Phùng Mỹ cười đau khổ. Là nhà giáo anh xa lạ với mọi biểu hiện của các nền văn hóa hè, văn hóa chợ. Không bao giờ tôi thấy anh văng tục, kể cả khi tức giận nhất.
– Chính trị, phải không các chú?
– Phải. Thế còn cháu.
– Cháu là lưu manh.
Giọng khàn khàn lại vang lên:
– Mày thì nưu manh cái đéo gì hở Hán Còi? Ðừng có sĩ, mày còn nâu mới được nà nưu manh, mày chỉ là thằng nính đú, thằng nính vét thôi, Hán Còi ạ! Cho dù mày có gan cho tóe me(4) thằng Tín Nác.
Hán Còi van vỉ:
– Thì em có dám mẽ đâu. Em nói chuyện với mấy chú cho đỡ buồn thôi.
Giọng khàn cười hô hố.
– Lói đi! Hôm lay các ông ấy đi xem xi-lê, còn nâu mới vào… Dưng mà mày giỏi đấy! Thằng Tín Nác tỏi củ tỉ do tay mày cũng đáng, đéo thằng lào thương!
Hán Còi tiếp tục câu chuyện với chúng tôi:
– Các chú bị mấy năm hở các chú?
– Chưa xử, cháu ạ! Không biết là bao nhiêu. Thế cháu bị xử bao nhiêu năm?
Hán Còi im lặng một lúc lâu.
– Án của cháu là án tù mù, các chú ạ.
– Tù mù là thế nào? – Phùng Mỹ hỏi.
– Các chú không biết án tù mù là thế nào hay sao?
– Không.
– Tức là án cao su, các chú ơi. Nó chỉ dãn ra, chẳng bao giờ co vào…
Một lát sau nó lại nheo nhéo:
– Các chú ơi, các chú làm nghề gì?
– Chú dạy học! – Phùng Mỹ nói.
– Còn chú kia?
– Cũng thế.
Hán Còi nói như nói một mình, giọng não nuột:
– Mẹ cháu cũng dạy học. Mẹ cháu là cô giáo…
Chúng tôi lặng đi. Không ai nói thêm câu nào nữa, kể cả giọng khàn khàn ở cuối phòng.
Tôi thấy cay cay ở mắt. Từ giường bên Phùng Mỹ chăm chú nhìn tôi:
– Ông khóc đấy à?
Tôi chùi nước mắt:
– Mình xấu hổ.
Phùng Mỹ quay mặt đi. Tôi úp mặt xuống gối, mặc cho nước mắt tha hồ chảy. Tôi thấy mình có lỗi trong việc Hán Còi bị án tù mù.
Hán Còi còn quay lại với chúng tôi nhiều lần, không phải vì bị kỷ luật. Nó tới vì cảm giác lưu luyến chúng tôi, lưu luyến các chú nhà giáo. Ngoài Hán Còi ra, trong thời gian ở khu xà lim này, còn có một cháu nữa cũng hay nói chuyện với chúng tôi là cháu Bông. Bông làm lái xe, bị tập trung cải tạo vì làm mất hàng của Nhà nước mà Nhà nước không biết ai lấy, lấy lúc nào. Vì không tìm ra thủ phạm, kẻ tình nghi chỉ có mình Bông, cho nên Bông cũng bị tù mù.
– Thế cháu bị oan à?
– Không, không oan. Cháu lấy! – Bông thú nhận – Thằng nào cũng lấy, cháu không lấy cũng dại.
Về sau, nghe lời khuyên của tôi Bông chịu khó theo lớp học trong tù. Cháu quyết tâm làm lại cuộc đời. Ra tù rồi, tôi được nghe vợ tôi kể lại có một ông mang con đến tạ ơn, nói nhờ tôi khuyên bảo mà con ông thành người. Vợ tôi không nhớ tên ông ta. Tôi khuyên nhiều đứa trẻ đi học, không phải một mình Bông, nhưng tôi ngờ đó là Bông và bố cháu.
Không biết các nhà lãnh đạo hồi ấy có tin thật ở khả năng cải tạo con người bằng cách đưa họ vào tù không? Dường như họ tin thật như vậy. Chẳng thế mà những nhà tù cứ theo nhau mọc lên như nấm mùa xuân.
Một người tù lâu năm lại có cái nhìn khác hẳn về cách cải tạo này. Ông ta nói với tôi: “Mấy thằng bé thằng nào vào tù rồi cũng hỏng. Anh còn ở lâu, anh sẽ thấy. Cứ tha ra là y như rằng chúng trở lại. Tôi gặp chúng nó nhiều lần lắm, gọi là vào đồn ra phủ cứ như cơm bữa. Ở ngoài, chúng chưa đến nỗi hư lắm đâu, nhưng khi vào tù rồi, lại là thứ tù không biết ngày về, chúng không còn trông đợi ở cái gì nữa, chúng hư thật lực, hư cho bõ, đứa nọ truyền cái hư cho đứa kia, càng hư thêm. Nhà tù là một trường đại học đào tạo những công dân mất dạy”.
Ông ta nhận xét đúng. Hoàn toàn đúng.
Với bi kịch Cải cách ruộng đất Trường Chinh là một người cộng sản sai lầm. Với chữ ký đặt dưới Nghị quyết của Ban thường vụ Quốc Hội để đưa công dân vào tù không cần xét xử Trường Chinh là một tên phát-xít.
(1) Tội chống Nghị quyết 9 được ghi: “Ðến Hội nghị Trung ương lần thứ 9 thì hoạt động chống đối có tổ chức của họ bộc lộ rõ: Ðặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh đã phân công nhau để vận động một số cán bộ, đảng viên viết kiến nghị gửi Trung ương, đồng thời in sao tán phát đến tận nhiều người”. Cũng theo Ban bảo vệ chính trị nội bộ thì Hoàng Minh Chính sau khi chuyển các bí mật nhà nước cho nước ngoài (Liên Xô) đã gửi đơn xin cư trú chính trị tại nước ngoài (Liên Xô) và “chúng ta đã biết được điện của lãnh đạo nước ngoài gửi cho sứ quán của họ ở Hà Nội dặn trả lời thận trọng cho Hoàng Minh Chính nếu họ và gia đình tìm được cách nào rời khỏi Việt Nam tới được Liên Xô thì họ sẽ được sống và làm việc tại Liên Xô (!)”(VTH gạch dưới). Ðiều bịa đặt này trái hẳn với báo cáo của nhân viên KGB tại Hà Nội báo cáo về cho điện Kremli rằng “dường như có một âm mưu đảo chính đã bị phát giác tại Hà Nội”.
(2) Luật kích thích sự chú ý (tiếng Pháp), một thủ pháp trong kịch nghệ.
(3) Theo tài liệu lưu hành nội bộ của Ban tư tưởng-văn hóa Trung ương, đề ngày 20 tháng 3 năm 1994 thì “Do những tội nạn đã rõ ràng của Hoàng Minh Chính, ngày 18 tháng 10 năm 1971 Bộ Chính trị và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quyết định xử trí đối với Hoàng Minh Chính: “Khai trừ khỏi Ðảng, cách chức viện trưởng Viện Triết học, ủy ban Khoa học Nhà nước, tập trung và cải tạo”. Lệnh tập trung cải tạo được tuyên bố cho tôi và Phùng Mỹ có trước tháng 9 năm 1971, tức là trước cả quyết định của Bộ Chính trị với tên đầu vụ Hoàng Minh Chính. Anh Trần Thư cho biết khi được thả, người ta đọc cho anh nghe một lúc ba lệnh: lệnh tạm giam 3 năm ký tháng 12.1967 (khi bị bắt), lại tạm giam 3 năm lần thứ hai ký tháng 12.1970, và lệnh tạm tha ký tháng 6.1973. Anh có cảm tưởng cả ba lệnh được ký cùng một ngày, nhưng đề ngày tháng khác nhau.
(4) Tiếng lóng của lưu manh: tóe me = làm đổ máu, chỉ sự đâm, chém.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:38:47 GMT -6
Chương 36
Sau cuộc nói chuyện với Hán Còi trong khu kỷ luật, tôi không thiết làm việc gì nữa. Trong việc bắt tôi, chính quyền có thể sai lầm, hãy độ lượng thêm một lần để cho rằng như thế. Nhưng trong việc tước bỏ quyền được luật pháp bảo hộ của công dân, chính quyền chứng tỏ nó không phải chính quyền của dân nữa. Nó không vì dân, nó không bảo vệ dân. Nó chỉ vì nó, nó chỉ bảo vệ chính nó.
Trong Hỏa Lò tôi chỉ nghĩ về nỗi đau của mình, về số phận mình. Tôi là nạn nhân của nền độc tài, là điều rõ ràng. Ðiều không rõ ràng là trong khi phục vụ chính quyền chuyên chế tôi còn là thủ phạm. Trước tòa án lương tâm, tôi là kẻ có tội. Sự phạm tội trong tình trạng vô thức được coi như tình tiết giảm nhẹ, nhưng không phải là cái để cãi trắng, để được tha bổng.
Ðồng ý rằng những đứa trẻ hư như Hán Còi cần được giáo dục. Ðó là nhiệm vụ của bất kỳ xã hội nào. Nhưng giáo dục trẻ em bằng nhà tù không phải là giáo dục. Chức năng của nhà tù xưa nay chỉ là trừng phạt và cách ly. Chức năng giáo dục không được đặt ra. Nó rất tốt với tư cách một mục đích. Nhưng đính nó vào nhà tù một cách máy móc, như thể nó là đặc tính sẵn có của nhà tù là sai lầm.
Qua việc nhốt các công dân vào tù không cần xét xử, chỉ cần một nghị quyết chứ không cần tới một pháp lệnh, ta thấy rõ một điều. Rằng với bộ máy chính quyền nào cũng vậy, phải có một chốt hãm cho nó. Không có chốt hãm nó sẽ lồng lên trong xu hướng tự tung tự tác.
Tình thế một đảng độc tôn không có đối lập trong chính quyền là sự không có cái chốt hãm đó. Nó tất yếu sinh ra những hành động tùy tiện. Sự thay đổi lãnh tụ, thay đổi chính phủ không giải quyết được vấn đề. Thể chế, đó mới là cái cần phải thay đổi. Ðến bây giờ thì ai cũng thấy chuyên chính vô sản chỉ là cái mặt nạ che giấu quyền lực vô biên của một số kẻ nắm quyền. Những người vô sản, những công nhân công nghiệp được Mác trao cho sứ mạng kẻ đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, chẳng sơ múi gì trong cái nền chuyên chính mang danh họ. Họ có chung số phận với nhân dân bị đặt dưới chân các lãnh tụ. Chẳng có gì nữa để mà trông chờ. Chẳng lẽ không phải cái Quốc Hội được gọi là của giai cấp vô sản đã ra một nghị quyết chống lại thậm chí những đứa trẻ như Hán Còi?
Hán Còi còn gọi chúng tôi vài lần nữa, nhưng sau vài câu đối đáp đồng cảm chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với nó. Hán Còi là một thằng bé hiếu động. Cứ mỗi khi quản giáo không có mặt, không rình rập, là Hán Còi đã lên tiếng gọi các bạn tù xà lim bên cạnh.
Chắp nối những mẩu chuyện lại với nhau tôi hình dung ra cuộc đời Hán Còi. Con một cô giáo nghèo dạy phổ thông trung học, suốt ngày bận bịu với việc đan len thêm để kiếm sống, không có thời giờ dạy dỗ con cái, Hán Còi trở thành đứa con của hè phố. Biệt hiệu Hán Còi được bè bạn đặt cho do khổ người bé quắt vì suy dinh dưỡng từ nhỏ. Cuộc sống lang thang lôi cuốn thằng bé. Nó dạt vòm, trở thành lính đú, theo các đàn anh đàn chị đi mổ(1). Khờ khạo, ngây thơ, nó chỉ được phân công tăm, ngánh, hoặc cản địa. Ðể trở thành lính mổ, lính đột, hoặc lính cắc cùng kinh(2), thì Hán Còi quá vụng. Bị bắt trong một đợt càn quét trước ngày lễ lớn, Hán Còi bị đưa thẳng lên trại, được Nhà nước dí cho một lệnh(3). Trong trại Hán Còi bị bắt nạt đủ điều: giặt quần áo, sột sệt(4), rửa bát, đun nước pha trà, tẩm quất cho các đàn anh…Trái ý chúng một chút là ăn đòn. Trong đám sĩ quan(5) Tín Lác hành Hán Còi nhiều nhất. Hán Còi thù lắm. Nhân đợt chuyển trại, Hán Còi giấu trong tay áo một con dao rựa dài mài rất sắc, chờ đúng lúc Tín Lác lúng túng đỡ cái hòm do đàn em Hán Còi nâng lên thùng xe cho y, vung dao chém tới tấp. Tín Lác ngã gục trên vũng máu.
Sau trận trả thù oanh liệt Hán Còi trở thành sĩ quan. Trong nhà tù sự liều lĩnh được đánh giá như một phẩm chất đàn ông. Kẻ dám chọi với đàn anh là kẻ có tư cách đàn anh.
Ra khỏi xà lim kỷ luật Hán Còi vẫn liên lạc với chúng tôi. Nghe lời khuyên, nó xin đi học văn hóa. Trại có mấy lớp bổ túc văn hóa dành cho trại viên. Thỉnh thoảng nó lại lẻn đến gần khu biệt giam, tay giơ cao cuốn vở:
– Cháu vẫn đi học đây này!
Trời rét, Hán Còi phong phanh mấy tấm áo tù, mặt xám ngoét.
Tôi hỏi:
– Cháu không có áo ấm à?
Nó lắc đầu.
– Phải kiếm áo ấm mà mặc kẻo sưng phổi.
– Cháu không có tiền.
– Nếu có thì mua được không?
– Giá có ken tẩy(6) đem chác(7) thì có ngay, cơ mà cháu không có.
Chúng tôi ném ra ngoài cho Hán Còi hai bao Tam Ðảo. Hôm sau Hán Còi tới, rạng rỡ trong cái áo bông thùng thình.
– Nó hét ba bao. Cháu mà cả xuống hai bao rưỡi. Thiếu mất mười đồi(8).
Chúng tôi ném ra thêm một bao nữa. Cho Hán Còi, chúng tôi phải hạ mức hút xuống. Mỗi ngày mỗi người chỉ được một điếu chính phẩm. Còn lại là thuốc vê, bằng lá thuốc chúng tôi tự trồng khi còn ở trại A.
Chúng tôi vui, cảm thấy mình vẫn còn có ích cho ai đó.
Một hôm cục trưởng Cục chấp pháp tới, theo sau là cả bộ sậu thuộc hạ – người Cục chấp pháp, người Ban Giám thị. Số người đi theo đông đến nỗi một số phải đứng ở ngoài cửa.
Tôi không thích anh chàng cục trưởng. Không phải vì tôi đang ở tù. Nếu tôi có ở ngoài đi chăng nữa thì cái bản mặt của y vẫn cứ gây cho tôi cảm giác khó chịu. Ðó là một thứ phản ứng sinh vật, bản năng.
Y bước vào, vừa đi vừa lơ đãng quan sát nơi ở của chúng tôi. Phùng Mỹ đang đọc sách, đứng dậy tiếp khách. Tôi không thích lịch sự với tên hãnh tiến, tôi ngồi yên tại chỗ. Trúc giấu vẻ khó chịu, cười bả lả:
– Anh Hiên có dễ ở đây lâu đâm ra quên mất phép lịch sự, có khách đến chơi nhà mà cũng không mời ngồi.
Tôi thản nhiên:
– Anh sai rồi. Trước hết, đây không phải nhà tôi. Vì thế tôi không cần lịch sự với các anh. Sau, nếu là nhà tôi thì cũng không phải ai tôi cũng mời vào nhà, đừng nói gì tới mời ngồi, anh trách tôi là vô duyên.
Trúc ngượng, quay sang hỏi chuyện Phùng Mỹ. Rồi không lẽ không nói gì với tôi, y hỏi:
– Lâu nay anh vẫn nhận được thư nhà đều đặn chứ? Chị với các cháu vẫn được khỏe chứ?
Tôi nhếch mép cười:
– Tôi không hiểu câu hỏi. Thư nhà của chúng tôi các anh duyệt rồi mới cho chúng tôi nhận, gia đình chúng tôi ở ngoài ra sao các anh còn biết hơn chúng tôi. Tôi không hiểu các anh đạo đức giả để làm gì?
Trúc không chịu được sự mất mặt với thuộc hạ. Y quắc mắt:
– Này, anh phải biết: chừng nào còn nằm trong tay chúng tôi các anh hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo vạ vào thân…
Tôi cũng nóng mặt:
– Bây giờ mà còn dọa dẫm tôi nữa thì thật là buồn cười. Cái vạ lớn nhất tôi đã được biết, anh còn muốn mang cái vạ nào tới để dọa tôi nữa đây?
– Anh tưởng Ðảng phạt anh thế này là nhiều rồi à? Anh sẽ còn được biết cái hơn nữa, nếu anh muốn…
– Thế thì hãy đưa cái đó ra đây coi.
– Ðược, hãy chờ đấy!
Y vùng vằng quay ra. Thuộc hạ im thin thít, lục tục theo sau. Khi y tới cửa, tôi gọi với:
– Này, anh kia! Về bảo với cái anh Lê Ðức Thọ nhà anh, hoặc Trần Quốc Hoàn cũng được, rằng hãy chịu khó đọc lấy vài cuốn của Mác rồi hãy xưng mác-xít. Bảo họ rằng chính Mác lên án chế độ giam người lâu ngày trong xà lim là hết sức vô nhân đạo đấy!
Y cười gằn:
– Ðược rồi, Ðảng rộng lòng đối xử tử tế với các anh, cho các anh được giam riêng, sướng như ông hoàng không muốn, lại muốn lao động khổ sai. Muốn thế thì được thế… Hừm, đồ…
– Ði đi! Hãy nói với Ðảng của anh rằng tôi không cần cái sự rộng lòng nào hết! Và anh, với lối ăn nói vô lễ của anh, đừng vác mặt đến gặp chúng tôi nữa…
Nhưng y đã ra tới sân.
Phùng Mỹ bảo tôi:
– Cậu phải bình tĩnh. Ðừng sa vào âm mưu khiêu khích.
Tôi cười nhạt:
– Có lẽ cậu muốn khuyên mình đừng khiêu khích chúng nó? Thằng này đâu có định khiêu khích mình. Không hiểu hôm nay nó tới để làm gì?
– Vì thế mới phải bình tĩnh để cho nó nói hết xem nó muốn gì, chúng nó có âm mưu gì? Cậu nóng như lửa ấy.
Tôi nhận lỗi. Tôi nóng. Nhưng người tù vốn thế – thỉnh thoảng nó lại bị một cơn giận bùng lên, không kìm giữ được.
Vài ngày sau, tôi được gọi ra gặp vợ.
Nhìn thấy tôi, vợ tôi òa khóc. Tôi xúc động, vừa ôm lấy vợ tôi thì vợ tôi hét lên vì đau đớn. Thì ra tôi chạm phải bên vai đang sưng tấy vì gánh đồ tiếp tế cho tôi. Tội nghiệp, vợ tôi có quen gánh gồng bao giờ đâu.
– Em gánh nặng quá! – vợ tôi nói – Mà đường thì xa.
Vợ tôi gày, xanh lướt. Trên mặt đầy những tàn hương. Khi nào vợ tôi yếu thì những vết tàn hương lại hiện lên. Chưa bao giờ tôi thấy vợ tôi yếu đến như thế. Gánh đời cũng quá nặng rồi, vợ tôi đuối sức rồi.
– Tình hình chưa có gì tốt đâu anh ạ. – nhân lúc tên quản giáo coi tù gặp gia đình bước ra ngoài, vợ tôi nói với tôi – Mẹ gặp bác Cả mấy lần, có em đi cùng, nhưng bác ấy sợ lắm, chẳng dám giúp gì mình đâu. Cán bộ cũng chỉ dám thì thào với nhau về vụ các anh, chứ không ai dám thắc mắc. Nghe nói còn nhiều người bị bắt lắm.
Tôi muốn nói với vợ tôi đừng chờ đợi tôi nữa, ngày trở về quá xa, mà cũng có thể sẽ chẳng bao giờ có, nhưng tôi không nỡ. Thôi được, tôi sẽ viết điều đó trong một bức thư gửi sau vậy.
– Anh tiếc số sách. Nhiều cuốn quý lắm. Sưu tầm nhiều năm mới được bằng ấy, đến nhà xuất bản Sự Thật(9) còn phải mượn, chưa nói gì các nhà xuất bản khác. Nếu có ai sử dụng được thì đem cho người ta khỏi phí.. Nhà mình ẩm, mối xông mất. Cả quần áo của anh nữa, đem cho đi, năm năm rồi, vải mục hết.
– Em không cho đâu. Cho như thế cứ như anh chết rồi ấy.
– Anh còn sống chỉ là nỗi khổ cho em…
– Ðừng nói bậy.
Chúng tôi nắm chặt tay nhau.
Phùng Mỹ buồn rượi. Ðã lâu chị Ðào vợ anh không lên thăm anh. Gia đình anh nhà giáo, còn nghèo hơn gia đình tôi. Chẳng gì chúng tôi cũng đã từng ra nước ngoài, khi về cũng có một số đồ vặt vãnh có thể bán đi sống qua ngày.
Một hôm chúng tôi đang ngồi đọc sách thì nghe ở đầu hồi bên kia có tiếng cãi nhau ầm ĩ.
Phùng Mỹ ôm đầu rền rĩ:
– Khổ, sao anh em chúng ta lại có thể đối xử với nhau như vậy?!
Tôi cũng đau lòng. Nhưng biết làm thế nào? Nếu anh em không hiểu âm mưu của kẻ thù thì xung đột tất yếu xảy ra, không sớm thì muộn. Nằm nghe anh em mình cãi nhau mãi mà không làm gì được thật khó chịu. Nhìn lên trần, tôi nói:
– Mỹ này, mình sẽ sang bên kia…
– Bằng cách nào?
– Cái trần không thấy có vết đinh, không có ốc vặn, chắc người ta chỉ xếp các rầm gỗ lim đặt lên thôi. Họ không sợ tù trốn theo đường lên trần vì trong các phòng kỷ luật từ giường lên trần khoảng cách quá cao, không trèo lên được. Nhưng ở đây họ cho ta bàn ghế, mình bắc ghế lên bàn rồi tìm cách trèo sang bên kia…
– Sợ rầm gỗ quá nặng, hoặc bên trên người ta còn bắt gông ngang?
– Cứ thử xem sao.
– Chúng nó bắt được thì chết…
– Từ giờ đến tối hiếm khi có người vào. Ðể mình liều một phen.
Rầm trần không đến nỗi quá nặng. Tôi đẩy được nó lên, thở rốc.
– Chúng mình sẽ mang cho anh em một số quà. – tôi quay xuống, nói.
– Phải đấy!
Chúng tôi lấy ra khoảng hai kí khoai lang thu hoạch từ luống khoai trồng được, một ít ớt tươi từ những cây ớt xum xuê, một gói kẹo Hải Châu, một bịch trà và hai bao thuốc lá vừa được tiếp tế.
Tôi đu người chui vào trong cái lỗ tối om trên trần. Ðể sang được hồi bên kia tôi phải bò qua bốn ngăn xà lim kỷ luật. Mặc dầu tôi cố bò thật nhẹ nhàng nhưng ở bên dưới một người tù kỷ luật vẫn gọi sang buồng bên cạnh:
– Hình như có người bò bên trên, mày ạ!
Tôi nín thở.
– Ma đấy!
– Thật mà.
– Con mèo vàng của Ban(10) đấy. – người ở buồng bên trả lời – Tao thấy nó luẩn quẩn ở đây.
– Béo đáo để. Ðược một xoong rựa mận ngon tuyệt.
– Chớ có đụng vào mà chết với Ban.
Sang đến hồi bên kia, tôi nhẹ nhàng nhấc một cái rầm lên, ngó xuống. Hai người bên dưới trợn tròn mắt nhìn tôi.
– Hiên đây! Vũ Thư Hiên đây!
– Trời, sao cậu liều thế?
Anh Lộc nói, vội vã bắc ghế cho tôi tụt xuống.
Trong hai người tôi chỉ biết Lộc, cán bộ Viện Triết học, là bạn của Vũ Huy Cương. Tôi gặp anh vài lần, nhưng không thể nói rằng quen. Huỳnh Ngự cũng vài lần bắt tôi khai về Lộc mà tôi không biết khai gì. Người kia là Ðinh Chân, đại úy, biên tập viên báo Quân đội Nhân dân.
Cả hai đều xanh xao nhưng không đến nỗi gày lắm. Tôi quyết định ngồi lại một lát. Tôi bóc bao thuốc mời hai anh hút. Họ hút say sưa. Rõ ràng từ lâu các anh không có thuốc hút. Tôi kể cho hai anh nghe kinh nghiệm của chúng tôi đối phó với âm mưu ghép hai người khác tính cách để hằn thù nhau, kể chuyện chúng tôi học tập, trồng rau, trồng khoai, trồng ớt và đưa tặng hai anh gói quà. Lộc và Ðinh Chân có vẻ ngượng ngùng.
Tôi quay về, lần này bò cẩn thận từng bước, còn nhẹ nhàng hơn cả con mèo vàng của Ban.
Một tuần sau, tôi đang ngồi nghiền cuốn từ điển tiếng Nga thì cửa xịch mở. Một đám công an xộc vào. Tôi không hiểu vì sao chúng vào đông đến thế, có tới cả chục đứa, đứa nào đứa nấy sát khí đằng đằng. Một tên có vẻ quan trọng hơn cả tiến lên trước, lừ lừ nhìn tôi, sẵng giọng:
– Anh này! Ði!
Tôi chưa gặp tên này lần nào. Y có bộ mặt nhày mỡ và cặp môi dầy như hai miếng chả.
– Có phải mang theo đồ đạc gì không?
Tôi hỏi lại. Phùng Mỹ mặt mày nhợt nhạt. Chúng tôi đều nghĩ đến chuyện sắp phải xa nhau. Mà chúng tôi đã quen sống có nhau rồi.
– Không! – cặp môi dầy nói.
Tôi đi theo y. Ðám công an dãn ra nhường lối rồi rùng rùng theo sau. Chúng tôi không đi xa. Ra khỏi cổng khu biệt giam, chúng quặt ngay vào khu kỷ luật. Tên đi đầu mở cửa, những tên đi sau đẩy tôi vào trong. Chúng đè tôi xuống giường, chụp hai khong cùm sắt vào chân tôi, một tên đẩy suốt cùm vào, rồi khóa lại.
– Anh bị thi hành kỷ luật mười ngày vì tội xúc phạm lãnh tụ. Anh được phép xin ân giảm. Nếu xin, nói với ông quản giáo cho giấy bút.
Y liếc mắt ra hiệu. Một tên chồm tới lấy còng số 8 khóa chặt hai tay tôi. Rồi tất cả rùng rùng kéo đi.
Còn lại một mình, tôi cố nhỏm dậy để quan sát hai cổ chân đau rát như phải bỏng. Khi cái tên công an tống suốt cùm vào, tôi phải nghiến răng lại để chặn một tiếng thét đau đớn. Thì ra cái khong quá chật, suốt cùm sắt lại có những vết chém như răng cưa, làm tôi bị sứt sát một số chỗ ở kheo chân, máu chảy ra tong tỏng. Nhưng đó chưa phải là cái tồi tệ nhất. Khoảng nửa giờ sau tôi thấy cảm giác nặng ở hai bàn chân, sờ thấy chân sưng phồng, da lạnh ngắt. Chân bị tụ máu rồi. Loay hoay một lát, tôi nghĩ ra cách dùng ngón tay đút vào khong cùm để tĩnh mạch không bị chẹn, máu có thể trở về tim. Rồi lại phải thay chỗ chèn cho động mạch đưa được máu xuống. Kế này tốt nhưng rất mệt, tôi không dám nằm xuống sợ ngủ quên.
Phải gày đi thật nhanh thì mới cứu vãn được tình thế, tôi nghĩ. Tuyệt thực lúc này là tốt nhất. Ðàng nào thì cũng phải tỏ thái độ. Tuyệt thực là một trong những hình thức đấu tranh, là sự biểu thị ý chí. Nhưng sự biểu thị cần có người biết, mình thì lại ở một khu cách xa trại, kêu chẳng ai nghe thấy thì tuyệt thực là vô bổ. Mà bó tay mặc cho chúng hành hạ mình thế nào thì hành cũng dở. Tôi quyết định dùng hình thức bán tuyệt thực. Cho tới nay bọn công an ở đây vẫn không trực tiếp quản lý chúng tôi, chúng vẫn phải báo cáo tình hình chúng tôi cho Lê Ðức Thọ. Cần phải cho thằng này biết tôi không phải dễ bị bẻ gãy.
Tôi gõ tường thông báo cho Phùng Mỹ biết quyết định của tôi. Anh gõ lại:
– Cố gắng lên!
Lộc và Ðinh Chân cũng đã biết tôi bị cùm. Các anh cũng nghe được thông báo. Từ phòng hai anh vang lên tiếng gõ:
– Tiên sư chúng nó!
Tôi cảm thấy trong lòng ấm áp khi biết tôi đang ở đây với bạn bè bên cạnh.
Buổi chiều viên quản giáo trông khu kỷ luật, một người đứng tuổi, mặt rỗ hoa, đi cùng một người tù tự giác mang cơm vào. Tôi bảo y:
– Tôi đang bị ốm. Tôi không ăn cơm. Anh cho mang ra. Ngày mai, báo cháo cho tôi.
Y ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì.
Hai chân bị cùm, hai tay bị còng, lại còn phải canh chừng cho chân không bị tụ máu, tôi cứ ngồi suốt buổi chiều và cả đêm, không dám nằm xuống. Hồi ở Hỏa Lò với cái cùm gắn chết vào chân phản tôi cứ nghĩ mãi: không biết khi bị cùm người tù đại tiểu tiện ra sao. Ðến khi mình bị cùm mới biết làm mấy chuyện đó không đến nỗi khó lắm, mặc dầu rất bất tiện. Hai tay tuy bị còng vẫn có thể di chuyển cái bô đặt ngay trên phản, sau đó thì lựa tư thế khi ngồi khi nằm mà giải quyết.
Trong xà lim rất hôi hám, tanh tưởi, muỗi như trấu, lại thêm cái nạn rĩn. Những con vật bé li ti cứ rúc sâu vào trong tóc mà đốt, giết không được, hoặc chúng quá nhiều làm cho tôi có cảm giác như thế. May, ở đây rệp chỉ có ở mức độ vừa phải. Trong bóng tối tôi sờ soạng trên mặt phản thấy những con rệp cộm lên dưới tay. Lẽ ra phải dùng ngón tay giết chúng, nhưng tôi chỉ hất chúng xuống đất, hất thật xa, tính rằng với tốc độ di chuyển chậm chạp, phải cả giờ sau chúng mới bò trở lại được chỗ cũ. Từ nhỏ tôi rất sợ mùi hôi mà con vật kinh tởm tiết ra khi nó bị di bẹp. Nhưng cuộc chống chọi với lũ súc sinh không kéo dài được lâu – chỉ một ngày sau tôi đã hết sức, thôi thì mặc chúng muốn hút bao nhiêu máu tôi thì hút, máu tôi có cả vài lít, tôi không phải kẻ quá keo kiệt, chúng cũng chẳng thù oán gì tôi, chẳng qua chỉ vì để tồn tại mà chúng tìm đến tôi để kiếm ăn mà thôi.
Ngày hôm sau tôi đói cồn cào. Hai bữa sáng và chiều quản giáo cho mang cháo vào tôi chỉ húp mỗi lần một vài thìa trước mặt y rồi bảo mang đi. Tôi biết chắc y sẽ phải báo cáo lên trên về chuyện tôi ăn thế nào. Ngày hôm sau nữa cơn đói còn dữ dội hơn. Lúc nào tôi cũng mơ màng thấy một món ăn ngon miệng nào đó mà khi nghĩ tới nó tức thì nước dãi lại ứa ra.
Cùng với cái đói có một niềm vui bất đắc dĩ: hai chân đã cựa quậy được trong khong cùm. Thế là tôi đã gày đi được một chút. Không còn phải lo cho đôi chân nữa, tôi ngủ ngon lành. Tuyệt thực còn có một ưu điểm là giảm hẳn được đại tiện và tiểu tiện, đỡ phải chịu đựng mùi hôi thối. Ðến chiều ngày thứ ba thì sự lạ xảy ra – cái đói ghê gớm bỗng biến đâu mất, tôi không thấy trong bụng cồn cào như trước mà chỉ thấy một cơn đói dịu dàng không bao giờ tắt. Người nhẹ bỗng. Ðầu óc tỉnh táo. Các giác quan tự nhiên trở nên đặc biệt sắc bén. Trong bóng tối của xà lim tôi nhìn thấy rõ những vết khía trên suốt cùm. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao khoeo chân tôi bị chảy máu – chính là do những vết khía lởm chởm như vảy cá trên bề mặt cái suốt gây ra.
Tôi nằm ngửa, không động đậy, trong cảm giác lâng lâng, nhìn lên những phiến lim trên trần nhà. Như trong một ảo mộng giữa đời thực tôi thấy trước mắt mình hiện lên một cuốn phim thú vị: câu chuyện một cô gái trong trắng đối mặt với cuộc đời xô bồ, bẩn thỉu. Tôi đặt cho nó cái tên “Chuyện phiêu lưu của nàng Liberta qua ba nước – nước Mặt Nạ, nước Mặt Nạ, nước Cùm Vàng và nước Mề Ðay”.
Cô bé Liberta sống sót qua một vụ đắm tàu được đôi vợ chồng già trên hoang đảo cứu sống, lớn lên giữa thiên nhiên và muông thú. Ðến một ngày, cuộc sống hiu quạnh với cha mẹ nuôi làm cho cô buồn, và cô trốn đi, bắt đầu cuộc viễn du tìm hiểu thế giới.
Cô tới nước Mặt Nạ, nơi mỗi cư dân khi trưởng thành đều tự tạo cho mình một cái mặt nạ và sống với nó cho tới chết. Họ làm những việc tồi tệ với nhau, thậm chí hãm hại nhau, nhưng bao giờ cũng dưới những cái mặt nạ tử tế. Vua nước Mặt Nạ là một con cáo thành tinh, một con quỷ đội lốt minh quân, với đám quần thần ranh ma độc ác. Cô bị vua nước Mặt Nạ bắt làm hoàng hậu, nhưng lễ cưới chưa thành thì nước Mặt Nạ bị vua nước Cùm Vàng cất quân sang đánh để giành người con gái xinh đẹp.
Khác với dân Mặt Nạ, dân Cùm Vàng này coi vàng là vật quý nhất trên đời. Nhà nào nhà nấy suốt đời chỉ chăm chăm kiếm cho thật nhiều vàng, ai nhiều vàng hơn thì được trọng, ai ít vàng thì bị coi khinh. Ðể tỏ cho thiên hạ biết uy lực của mình, rằng mình không cần động tay động chân cũng có thể trị vì đất nước, vua nước Cùm Vàng xỏ chân vào một cái cùm nặng chịch bằng vàng, hai tay đặt trong xích vàng, ngồi trên một cái ngai cũng bằng vàng ròng, chung quanh là lũ quần thần đội những chiếc mũ bình thiên bằng vàng.
Quân nước Mặt Nạ đại bại, Liberta bị bắt mang về nước Cùm Vàng. Nhờ con vẹt cụt chân mà nàng có lần cứu sống trên hoang đảo loan báo cho muông thú nước Cùm Vàng, Liberta được đánh tháo.
Nhưng số phận lại run rủi cho nàng rơi vào nước Mề Ðay, nơi từ nhà vua cho chí dân đen đều háo danh hết mức, ai nấy xủng xoảng Mề Ðay đầy người, nhà nào nhà nấy dán la liệt bằng khen, giấy khen, cái nọ đè lên cái kia. Vua nước Mề Ðay sở hữu một cái mề đay to nhất nước, to bằng cái nong, khi thiết triều thì đứng nấp đàng sau nó, chỉ hở có đôi mắt, trong mớ hỗn độn những mề đay đeo từ mũ xuống tới giày, cái nọ móc vào cái kia như vảy cá. Lần này nhờ bà tiên Natura và con trai giúp đỡ, Liberta lại chạy thoát.
Vua ba nước hợp quân lại tiến đánh, hẹn nhau ai chiếm được Liberta thì nàng thuộc về người ấy… Nàng tiên tung mặt nạ mĩ miều cho quân đội Mặt Nạ, tung tiền vàng cho lính Cùm Vàng, tung huân chương huy chương cho lính Mề Ðay. Chúng bỏ mặc ba vua, tranh cướp nhau báu vật…
Tôi hình dung câu chuyện trong hình thức một phim hoạt hình, không ngờ rằng tám năm sau tôi còn cơ hội đặt bút ký hợp đồng làm phim với Xưởng phim Giải Phóng tại Sài Gòn. Giám đốc Mai Lộc và đạo diễn Trương Qua muốn làm phim này. Nhưng cục trưởng Nguyễn Duy Cẩn thẳng tay bác nó vì “tư tưởng kịch bản không trong sáng”. Ông ta nhìn thấy trong câu chuyện dạng cổ tích ý nghĩa đương đại của nó. Mà tôi cũng chẳng giấu giếm điều đó. Tôi mở đầu kịch bản bằng câu dẫn chuyện: “Ngày xửa ngày xưa, cách đây không lâu lắm, ở một vùng đất nọ, cách đây không xa lắm…” Trong đoạn miêu tả triều đình nước Mặt Nạ, các vệ sĩ “vận áo giáp Trung cổ, đầu đội mũ sắt, trước ngực lủng lẳng khẩu tiểu liên cực nhanh, chân đi ủng trận”, lời quần thần tung hô nhà vua là: “Thánh thượng vạn vạn tuế. Người là mặt trời trên hết các mặt trời, vua trên hết các vua, tổng thống trên hết các tổng thống, đồng chí trên hết các đồng chí…”.
Tôi được tin Phạm Viết chết cũng trong những ngày này. Chị Ðào, vợ anh Phùng Mỹ lên thăm đã mang tin buồn cho chúng tôi.
– Chúng ta hãy để một phút mặc niệm Phạm Viết! – Phùng Mỹ gõ cho tôi.
Tôi đấm vào tường ba cái liền, dấu hiệu đồng ý.
Tôi mặc niệm Phạm Viết trong tư thế nằm. Tôi không biết chị Lan, vợ anh, đã được thả ra cho nuôi con sau hai năm rưỡi bị giam cùng với chúng tôi tại Bất Bạt.
Một hôm, ba ngày sau khi tôi bắt đầu cuộc bán tuyệt thực, tên quản giáo rỗ mặt tháo còng tay cho tôi:
– Anh dại lắm! Bướng có được cái gì đâu, mà khổ vợ khổ con… – cho người tù tự giác ra ngoài, y nói với tôi – Tôi vẫn cầm giấy bút cho anh đây, anh nên viết đơn lên trên, hay ngại đơn từ lằng nhằng viết tự kiểm(11) cũng được, để tôi chuyển cho.
Nghe giọng nói của y thì hình như đó là lời khuyên thật lòng. Tôi cảm ơn, nói rằng mỗi người có một cách sống, và tôi thích sống như tôi đã sống, tôi không chọn cách sống khác, cho dù nó hay hơn.
– Anh nên ăn cơm, húp có một ngụm cháo rồi bỏ hại người lắm. Còn phải nghĩ đến ngày về chứ!
Y nói trước khi khóa cửa lại. Thì ra y chuyển lời của người khác.
Tôi vẫn tiếp tục tuyệt thực.
Mấy ngày sau tình hình còn dễ chịu hơn nữa. Dường như dự trữ trong người bắt đầu được huy động từ từ, có tính toán, bù đắp dần cho sự thiếu hụt. Cảm giác đói vẫn còn đó, nhưng hoàn toàn không nặng nề. Tôi cảm thấy mình tồn tại trong một trạng thái lạ lùng: tôi nằm thiêm thiếp nửa mê nửa tỉnh, có vẻ như hơi mệt mỏi, nhưng cơ thể lại nhẹ nhàng.
Sáng ngày thứ bảy, tôi bị đánh thức bởi tiếng ồn ào của nhiều người. Viên quản giáo mặt rỗ mở cửa rồi đứng né sang một bên, nhường lối cho tên mặt nung núc thịt với cặp môi dầy.
– Anh có kêu xin gì không?
– Không!
Tôi đáp và quay mặt đi. Tưởng chúng sẽ bỏ đi, nhưng một tên đi sau tiến lên, mở khóa, tháo cùm cho tôi. Tôi đứng lên, nhưng đôi chân không nghe lời, làm tôi suýt ngã. Y vội đỡ, nhưng tôi gạt ra:
– Tôi tự đi được!
Họ giải tôi về phòng giam. Phùng Mỹ ái ngại nhìn tôi lảo đảo vịn cửa bước vào. Chắc tôi xanh và gày đi nhiều. ấy là người ta đã bớt cho tôi ba ngày cùm, kết quả của việc tôi tuyệt thực. Nghe nói có người bị cùm liền mấy tháng khi ra không đi được, phải bò. Càng phục anh tù tử hình Hỏa Lò, cùm suốt mà không sao cả.
– Thu xếp đồ đoàn!
Anh chàng môi dầy ra lệnh.
Tôi mặc y, đi đến chỗ cái xô đựng nước san ra chậu rửa mặt, cạo râu và gội đầu. Nước mát làm cho tôi tỉnh lại. Chỉ cần nghỉ một lát, vận động qua loa cho máu chạy đều trong huyết quản là đâu sẽ vào đó.
Như vậy, tôi sẽ không được ở với Phùng Mỹ nữa, tôi nghĩ. Không biết người ta định đưa tôi đi đâu? Tôi bắt đầu nhớ anh. Nhớ và thương, bởi vì Phùng Mỹ sẽ phải chịu đựng cuộc sống cô đơn một cách cực nhọc. May, chúng tôi đã tạo được thói quen học tập. Anh ở lại một mình cũng khó khăn, nhưng dễ vượt qua. Chỉ sợ cùng với sự chia lìa chúng tôi bắt đầu một chế độ giam cầm mới, chưa biết là thế nào.
Phùng Mỹ pha trà. Chúng tôi uống và nhìn nhau lưu luyến.
– Nhanh lên! – viên quản giáo ra lệnh.
Tôi đặt chén nước xuống.
– Xong rồi!
Y trợn mắt:
– Anh không mang theo đồ đoàn à?
Tôi lẳng lặng bỏ vào cái túi vải đựng đồ tiếp tế mấy cuốn sách, bàn chải, dao cạo râu, nhét thêm vào đó một bộ quần áo rồi bắt tay Phùng Mỹ. Chúng tôi ôm lấy nhau, từ biệt.
– Có thể đi được rồi! – tôi tiến ra cửa.
– Anh không mang đồ tới chỗ ở mới không có cái mà dùng đâu. Mang hết đi!
Tôi bỏ lại tất: chăn, màn và thức ăn gia đình tiếp tế. Phùng Mỹ sẽ dùng. Anh còn ở lại một mình.
– Tôi yếu, không mang được nặng!
– Ði!
Y dẫn tôi ra khỏi trại. Ban ngày, sân trại vắng ngắt. Xa xa tôi thấy mấy người tù mặc áo chàm xám ngồi trên hè. Ðó là những người tù ốm, không phải đi lao động.
Tôi được giao cho hai công an viên trẻ, mặt lầm lì.
– Ði!
Một trong hai tên hất hàm, lia mũi tiểu liên chỉ ra con đường trước mặt.
Thì đi.
Rời khỏi khu trại chừng một cây số thì hết con đường rộng. Hai tên áp giải chỉ cho tôi đi vào đường rừng.
Ðến đây thì đầu óc tôi căng thẳng. Chúng dẫn tôi đi đâu? Con đường trước mặt thấp thoáng, heo hút. Quanh đây tịnh không một bóng người. Người tôi căng ra như sợi dây đàn.
Làm ra vẻ uể oải bước, tai tôi vẫn bắt được từng tiếng sỏi đá lạo xạo dưới đế giầy vải của hai tên cầm tiểu liên đi sau. Không nhìn lại tôi vẫn cảm thấy hai nòng tiểu liên hướng vào lưng tôi.
Nếu chúng có ý định thủ tiêu tôi thì con đường rừng hoang vắng thích hợp lắm, tôi nghĩ. Hai tên áp giải có thể bất thần nhả đạn vào tôi, rồi hất xác tôi xuống vực. Kịch bản tuyệt vời: tên tù vùng chạy, người áp giải nổ súng.
Không có lẽ tôi sẽ chết ở đây, bên con đường heo hút này?
Không thể chết như thế được! Tôi không chịu được một cái chết thụ động. Dù sao tôi cũng đã là người lính. Người lính không thể chết mà không chống cự, dù trong tình thế hiểm nghèo nhất, tuyệt vọng nhất. Nếu sự xấu đó xảy ra, và viên đạn đầu tiên không trúng tim, tôi sẽ phải nhảy ngược lại, rất nhanh, giật lấy súng mà chiến đấu cho tới hết giây phút cuối cùng của đời mình.
Tôi nhớ tới những miếng võ đoạt súng mà anh Báu, một sĩ quan Nhật, dạy chúng tôi ở Trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng viên sĩ quan này đã không nộp súng cho quân Tưởng mà chạy sang hàng ngũ Việt Nam. Tôi không gặp lại anh sau khi hòa bình lập lại. Không biết giờ anh ở đâu. Có người nói do ngờ vực lòng trung thành của họ, tất cả sĩ quan và hạ sĩ quan Nhật bị tập trung lại trong một lớp rèn cán chỉnh quân, và khi họ xuống suối để rửa ráy sau bữa ăn thì những khẩu trung liên được bố trí sẵn trong rừng nhả đạn vào họ. Không rõ thực hư ra sao.
Có lẽ sự căng thẳng tột độ đã làm cho tôi đi nổi đoạn đường rừng mười cây số sau bảy ngày bị cùm trong phòng kín không ăn uống. Nhớ lại chuyến đi đó tôi gọi nó là “mười cây số đi bên Thần Chết”. Tôi lo lắng vô ích – người ta căm ghét chúng tôi, nhưng chưa đến độ dám làm điều đó!
Khi con đường rừng kết thúc trước mặt tôi hiện lên một ngôi nhà hai tầng mà tầng dưới là cái cổng lớn, với hai bức tường dài hai bên. Tôi không nhận ra cái trại giam tôi bị đưa tới vào ban đêm.
Ðưa tôi vào bên trong cổng, hai tên áp giải bảo tôi ngồi đợi ở đó rồi bỏ đi. Tôi buồn rầu nhìn cái sân trại trắng lốp đất sét, với mấy ngọn cỏ lơ thơ. Xa xa là dãy nhà giam quét vôi trắng, rất đông tù đi đi lại lại. Chủ nhật, họ được nghỉ lao động. Trong mấy nhà giam này có một cái tôi đã ở qua cùng với Phùng Mỹ. Nắng xiên khoai chiếu vào chỗ tôi ngồi, một mình, bên dưới cái ban-công có quả bom chết, tiếng lanh lảnh của nó đã làm khổ tôi và Phùng Mỹ trong những buổi sáng trước đây.
Mải suy nghĩ tôi không thấy một sĩ quan công an đeo quân hàm trung úy đã đến trước mặt tôi:
– Anh là Vũ Thư Hiên, hả?
– Phải.
Tôi lạnh lùng đáp, hơi ngạc nhiên trước giọng nói của viên trung úy. Rất hiếm người Nam Bộ tập kết ra Bắc làm việc trong ngành công an. ớt nhất thì tôi cũng không gặp Nét mặt khắc khổ, người xương xương, anh ta lớn hơn tôi chừng vài tuổi.
– Anh theo tôi!
Tôi nặng nhọc chống tay vào đùi đứng lên, quơ cái túi xách, bước theo.
Viên sĩ quan đưa tôi vào một căn phòng trong tầng dưới ngôi nhà, ngay sát cổng trại. Vừa bước vào nhà, anh ta khóa chặt cửa lại.
Tôi nhìn anh ta, cảnh giác. Tại sao anh ta lại khóa cửa? Ðể làm gì? Ðể đánh tôi chăng? Không phải, để làm việc đó ít nhất phải có vài tên. Công an bao giờ cũng cẩn thận.
Khóa cửa rồi, anh ta quay nhìn tôi trân trân. Thế rồi, dường như không kìm nổi xúc động, anh ta lao tới, ôm chầm lấy tôi. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống vai tôi, thấm qua lần áo mỏng.
– Tôi biết hết những việc xảy ra. Không ngờ chúng nó đối với các anh tàn nhẫn đến thế! Tội nghiệp quá!
Tôi ngượng nghịu gỡ tay anh ta:
– Chuyện thường tình mà! Có gì tội nghiệp đâu.
Tôi không tin cả những giọng nước mắt. Một diễn viên thượng thặng chăng? Anh ta làm thế để làm gì?
– Anh ngồi xuống đây đi!
Anh ta dẫn tôi đến bên bàn, rót trà. Chúng tôi uống trong im lặng. Nhìn tôi đăm đăm một lát, anh ta thở dài, buồn rầu:
– Tôi hiểu, anh hổng tin tôi. Mà cũng phải. Tin sao được khi tôi đang vận bộ quần áo nầy!
Ngừng lại một lát, anh ta cúi xuống, nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống, bùi ngùi:
– Ông già tôi được bác Ung Văn Khiêm giác ngộ cách mạng, là đàn em của bác Khiêm, anh à. Ông già hy sinh lâu rồi. Tôi lớn lên, vô bộ đội, rồi chuyển qua ngành nầy…
– Bác Khiêm có được khỏe không? – tôi ngước mắt nhìn người ngồi trước mặt.
– Nghe nói bác Khiêm vẫn mạnh giỏi.
Anh ta có giọng nói ấm, từ trong ngực. Trực giác mách tôi rằng con người này có thể tin được.
– Tại sao lại nghe nói? Anh không gặp bác Khiêm?
– Không gặp được. – anh ta buồn bã lắc đầu – Bác bị khai trừ Ðảng, không còn chức vụ gì hết, lại bị theo dõi chặt… Tôi là công an, tôi không được phép gặp bác.
Ðến bấy giờ tôi mới biết ông Ung Văn Khiêm bị khai trừ Ðảng.
– Anh em chúng tôi ở cả đây?
– Chỉ một số thôi.
Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa. Hãy tạm tin rằng anh ta không nói dối. Nhưng cho dù những điều anh ta nói là thật thì mình cũng không vội tin được. Mà cũng không thể đòi hỏi ở anh ta những điều không thể nói. Về phía anh ta, anh ta cũng phải giữ gìn.
– Tôi tên là Dứa, làm cán bộ trực trại(12). – anh ta nói và thở dài – Anh tin tôi hay không tin tôi, điều đó không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm bảo vệ anh. Vì, anh biết đấy, những người cách mạng trước đây đối với nhau như thế nào… Tôi là con của ba tôi, là cháu của bác Khiêm, tôi tự hiểu trong trường hợp này tôi phải làm gì cho anh, cho các anh.
– Tôi tin anh.
– Tóm lại, tôi vẫn là người trong gia đình lớn của cách mạng. Khi có việc gì cần đến tôi, hoặc nghi ngờ có sự nguy hiểm xảy ra với anh, anh cứ chạy thẳng ra đây đòi gặp trực trại, đừng ngại. Tôi có trách nhiệm bảo vệ anh, tôi nhắc lại, đó là trách nhiệm của lương tâm. Trong cương vị tôi, tôi có thể làm được việc đó.
Tôi cảm động. Tôi đặt tay mình lên tay anh mà bóp nhẹ để bày tỏ sự cảm thông và lòng biết ơn. Nước mắt tôi ứa ra, không sao giữ được. Tôi mừng biết bao nhiêu – ở chốn tận cùng của cuộc đời tôi vẫn gặp được người anh em của mình. Cách mạng vẫn đẹp lắm. Những người cách mạng vẫn còn đấy.
Dứa đứng lên. Thời gian gặp tôi đã hết.
– Anh sẽ phải ở trong một toán tù chính trị. Hàng ngày phải đi lao động. Nặng nhọc đấy! – Dứa trầm ngâm, cái nhìn mệt mỏi – Ðây là sự hành hạ, người ta chủ trương như thế, cho anh biết thân. Ráng chịu đựng nghen. Khi nào mệt quá, anh báo ốm mà nghỉ lấy một buổi cho lại sức. Tôi sẽ nói trước với y sĩ trại chuyện này…
Tôi lắc đầu:
– Như thế sẽ lộ ra anh có sự đối đãi đặc biệt đối với tôi. Không nên. Tôi đã ở bộ đội, tôi quen lao động. Tôi sẽ chịu đựng được.
Dứa đặt tay lên vai tôi:
– Tôi biết phải làm thế nào. Anh nhớ lấy nghen: mọi sự tới nay chưa phải là đã kết thúc đâu. Vô trại anh sẽ thấy một tên tù săn đón anh – tên hắn là Trần Chấn Hoa. Tên nầy được Ban Giám thị chiêu mộ để theo dõi anh, báo cáo mọi hành động của anh trong trại. Người được Bộ giao trách nhiệm quản lý các anh tên là Thùy, trung úy Nguyễn Huy Thùy, một tên ra đời để làm đầy tớ cho bọn có quyền, anh phải rất cẩn thận với tên này…
Chúng tôi ôm lấy nhau.
Ngày hôm sau Dứa gặp tôi với bộ mặt vô cảm.
(1) Tiếng lóng: dạt vòm (bỏ nhà đi lang thang), lính đú (tên theo đòi, a dua đi ăn cắp ăn trộm), mổ (móc túi).
(2) Tiếng lóng: lính mổ (tên ăn cắp chuyên móc túi), lính đột (tên ăn trộm), lính cắc cùng kinh (tên ăn cắp chuyên lấy củ đèn (dinamo), yên xe đạp.
(3) Cách những người tù gọi tắt một hạn 3 năm của lệnh tập trung cải tạo.
(4) Tiếng lóng: nấu nướng.
(5) Anh chị lưu manh, phân biệt với các đàn em trong trại.
(6) Tiếng lóng: thuốc lá.
(7) Tiếng lóng: đổi.
(8) Tiếng lóng: điếu thuốc lá.
(9) Nhà xuất bản sách chính trị, lý luận của Ðảng.
(10) Ban giám thị.
(11) Tự kiểm thảo, nhận lỗi.
(12) Cán bộ trực trại trong một trại giam làm công việc quản lý số tù xuất nhập trại khi đi lao động hoặc được giữ trong trại ban đêm, cùng công tác an ninh trong khu vực trại giam. Có nơi gọi là đội trưởng. Từ toán trưởng thường được tù chính trị gọi người được Ban Giám thị chọn cho làm công việc cầm đầu một toán tù (hoặc đội tù). Toán là từ được tù chính trị ở Hà Giang chuyển về dùng quen miệng.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:40:51 GMT -6
Chương 37
Tù chính trị ở trại Tân Lập đông chứ không phải ít. Tại nơi tôi được đưa tới, sau mới biết tên là Trại A, có tới trên hai trăm người. Sáng hôm sau, khi người ta chỉ cho tôi ra sân trại để nhập vào cái khối xám xịt lúp xúp nón mê đang ngồi xổm úp mặt vào lưng nhau chờ bị gọi đi lao động, tôi thật sự sửng sốt: “Thế này mà là những người làm chính trị ư?!!”.
Những nhà chính trị bị bỏ tù, chính trị phạm, nay gọi là trại viên số lẻ, sống trong mấy nhà giam. Những ngôi nhà bề ngoài bình thường, hơi dài một chút, tường quét vôi trắng, nền cao, với những cửa sổ lớn. Phân biệt với nhà ở là cái cửa ra vào – nó không có hai cánh mà chỉ có một, nhưng rất dày, chắc nịch, bằng gỗ lim, lốm đốm những bù loong, then, chốt đen xì. Dãy nhà giam thẳng hàng nằm trong một khu đất có tường rào dây thép gai bao quanh làm thành một tứ giác không đều, mỗi góc có một vọng gác.
Tù số lẻ được phân chia thành từng toán, mỗi toán hơn bù kém độ ba chục người do một quản giáo trông coi. Dưới quyền quản giáo là một cai tù, gọi là toán trưởng, được Ban Giám thị lựa chọn trong số tù cải tạo tốt.
– Phải cẩn thận với toán trưởng! – một người nói khẽ trong khi đi ngang – Gia-ve(1) có hạng đấy!
Tôi ngẩn ngơ nhìn anh ta, nhưng anh ta đã đi khuất, nhanh như cắt, lẫn vào trong đám áo xám.
Lát sau, một anh chàng không còn trẻ, nhưng cũng chưa già, ăn vận bảnh bao, tuy vẫn đồ tù đấy nhưng mới và sạch, lại không có hai chữ CT(2) to bằng bàn tay trên lưng áo như những người tù khác, đến trước mặt tôi:
– Tôi là toán trưởng. Anh tên chi?
Tôi nói tên họ. Anh ta giở sổ, hí hoáy ghi.
– Số tù bao nhiêu?
Chưa bao giờ người ta nói với tôi rằng tôi là một con số.
– Tôi không biết!
– Sao lại không biết? – anh ta gắt lên – Mỗi người phải có số của mình. Nó là cái tên của anh trong tù, sao lại không biết? Anh dở người chắc?
Tôi lạnh lùng nhìn thẳng vào mắt y:
– Này, anh hãy ăn nói cho cẩn thận. Tôi nói không biết là không biết. Anh đi mà hỏi Ban Giám thị!
Trên mặt toán trưởng thoáng một nét ngạc nhiên pha lẫn bối rối. Chắc chưa có người tù nào nói với anh ta bằng giọng sẵng như vậy.
Những người tò mò ùa tới, vây quanh chúng tôi. Nhìn họ, tôi biết họ không muốn tôi bị toán trưởng bắt nạt. Họ nhao nhao:
– Anh ta vừa ở biệt giam ra. Có khi chưa có số thật.
– Thì phải từ từ giải thích cho anh ấy.
– Số lẻ với nhau cả. Ðừng làm cái trò ma cũ bắt nạt ma mới.
Toán trưởng phân trần:
– Thì tôi chỉ hỏi số anh ta để ghi vào sổ thôi. Anh ta lại bảo không biết. Biệt giam thì cũng phải có số chứ.
– Có phải thứ biệt giam nào cũng giống thứ biệt giam nào đâu.
– Chưa có số thì cứ tạm ghi tên vào sổ cái đã, hỏi sau. Ði đâu mà vội.
– Mới, ai người ta biết phải làm gì.
Toán trưởng xua xua tay:
– Ðể cho tôi làm việc!
Y muốn lên mặt, rõ ràng thế.
– Tôi khuyên anh hãy để việc đó cho Ban Giám thị. – tôi nói, lạnh lùng – Họ có trách nhiệm, chứ không phải anh.
Toán trưởng bối rối:
– Nhưng tôi là toán trưởng, tôi phải nắm quân số.
– Anh cứ nói toán anh có một người tù không biết số bao nhiêu. Thế là xong!
Mọi người cười ồ.
– Thôi được, lát nữa anh lên Ban Giám thị hỏi số của anh bao nhiêu, nhé! – toán trưởng hạ giọng – Phàm là tù thì phải có số chứ.
Tôi đáp:
– Tôi đã nói rồi – đó là việc của công an. Số tù đối với tôi chẳng để làm gì, tôi không cần đến nó, tôi không xin.
Mọi người lại cười ồ. Toán trưởng phẩy tay, bực dọc bỏ đi,
Trần Chấn Hoa lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu đầu tiên của tôi với toán trưởng, Tôi vừa xách túi quần áo bước vào ngôi nhà ồn ào y đã chạy tới, vồ vập săn đón.
– Anh Hiên, phải không?
– Ai vậy?
– Em nhận ra anh ngay. – Trần Chấn Hoa liến thoắng – Khi còn ở ngoài em đã được tin anh bị bắt. Anh có nhớ gặp em ở đâu không?
Tôi mỉm cười, giả vờ chăm chú nhìn y:
– Chịu, trông thì quen, mà không nhớ ra được.
Y cười hì hì:
– Anh hay quên quá! Ở nhà anh X. phố Y., anh còn nhớ không?
Tôi nhớ Dứa đã cho tôi biết tên chỉ điểm tôi sẽ gặp là Trần Chấn Hoa.
– Ờ, bây giờ nhớ ra rồi. Nhưng nhớ mặt thôi, tên thì quên mất. Chú tên là gì nhỉ?
– Em là Hoa, Trần Chấn Hoa.
Thì ra Hoa là anh chàng này.
Thời gian cuối ở Bất Bạt tôi đã đóng khá đạt vai kịch người tù kém trí nhớ. Trả lời những câu hỏi của chấp pháp, tôi làm ra vẻ thành thật nhưng trong bản khai thì lẫn lộn lung tung, sự kiện này với sự kiện kia, thời điểm này với thời điểm khác. Lợi dụng cái trí nhớ tồi tàn của tôi, người ta cho Trần Chấn Hoa bịa ra cuộc gặp gỡ ở nhà anh X. ở phố Y. Anh X. ở phố Y. là có thật, nhưng dù có muốn tôi cũng không thể nào kiểm tra được.
– Cậu bị bắt hồi nào?
– Sau anh chừng một năm.
– Vì sao mà bị?
Sau một phút ngần ngừ, y ghé vào tai tôi:
– Em là người Hoa.
– Cậu mà là người Hoa?
– Nói chẳng ai tin, em thạo tiếng Việt quá. Nhưng em sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, có khác gì người Việt đâu. Hồi sáu ba sáu tư Hội Tứ Liên phát triển sang bên này. Em gia nhập. Anh biết Hội Tứ Liên chứ? Nó là một tổ chức chống Mao bên Trung Quốc. Việc bại lộ, em với mấy người nữa bị bắt.
– Thế người ta không trả cậu sang Trung Quốc à?
– May, họ không trả về bên ấy. Về bên ấy thì chết.
Câu chuyện có vẻ giống thực. Tôi chẳng biết Hội Tứ Liên Ngũ Liên nào. Người Tàu vốn thích các con số, cái gì tương chúng vào – Bát lộ quân, Tân tứ quân, Tam phản, Ngũ phản…Cái tổ chức Tứ Liên mà Trần Chấn Hoa khoe tôi chưa nghe nói, nó có thật hay không tôi không biết, nhưng tôi gật đại. Ở bên kia biên giới vào thời gian Ðại nhảy vọt nghe nói có một số tổ chức chống Mao. Không có người chống Mao mới là sự lạ.
Trước khi bị bắt tôi gặp Nguyên Hồng ở nhà Bùi Ngọc Tấn. Bùi Ngọc Tấn hồi ấy đang làm trong một xí nghiệp hải sản ở Hải Phòng. Anh đãi chúng tôi một bữa tối rất sang, toàn đồ biển. Ðang thời thực phẩm hiếm hoi, mọi sự phụ thuộc vào tem phiếu, một bữa như thế phải coi bằng đại tiệc. Chị Bích, vợ anh Tấn, lại là tay nấu nướng có hạng.
Tôi thích những cuộc gặp gỡ với Nguyên Hồng. Tác giả Bỉ Vỏ là người uyên bác trong lĩnh vực đời sống dân dã. Lần nào gặp nhau tôi cũng kiếm được ở anh một chút kiến thức thú vị. Nguyên Hồng là người phàm tục. Anh thích nhắm ngon, thích rượu ngon, nhưng thích nhất là khi có những thứ đó mà quanh anh là bè bạn. Nhưng trong bữa ăn khoái khẩu hôm ấy anh chỉ lẳng lặng uống. Sau mỗi miếng nhắm anh chống đũa, tư lự. Có vẻ anh buồn.
– Bên Tàu loạn to. Nhiều người chạy sang ta, chạy loạn hay là chạy chính phủ không biết, trông tội lắm. – anh nói, giọng rầu rầu – Mình ở Hải Phòng lâu, các cậu biết đấy, cả thời trẻ mình sống lẫn với người Hoa, mình có cảm tình đặc biệt với người Hoa. Họ chăm làm, tử tế… Trông những người chạy loạn gày còm, đen đủi, nhếch nhác, mình thương quá. Họ tưởng mình cũng là công an, quỳ xuống mà lạy, nước mắt lã chã. Họ xin đừng đem họ trả Trung Quốc, đem trả họ sẽ bị giết hết, họ nói thế. Mình can mấy cậu công an, bảo từ từ xem thế nào đã, nhưng mấy cậu không nghe, một hai đem trả, nói luật biên giới là thế, không trả không được. Những người Hoa kia lăn lộn, kêu khóc ầm ĩ, phải lôi xềnh xệch… Thảm lắm!
– Rồi sao? – chúng tôi hỏi.
– Ðồn biên phòng ta cách đồn bên kia có một quãng. Lát sau, mình vẫn ngồi đấy, nghe phía bên kia có tiếng súng nổ. Hôm sau, những người khác chạy sang nói mấy người bị trả về bị bắn chết hết, bắn tại trận…
Một giọt nước mắt đục lăn trên má anh.
Trần Chấn Hoa thấy tôi không có chăn màn, rủ tôi nằm chung. Tôi vui vẻ nhận lời. Chăn màn tôi để hết ở trại B rồi. Hoa nhanh nhảu thu xếp việc đổi chỗ cho tôi.
Những người tù số lẻ, kẻ thù của cách mạng, xem ra cũng dễ mến. Bên trong bộ đồng phục tù họ giống hệt nhau khi thoạt nhìn. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi bắt đầu đoán được ai người thành phố, ai người nông thôn. Người thành phố phần nhiều là viên chức, sĩ quan chính quyền Bảo Ðại hoặc từng phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ kháng chiến chín năm. Những người này đông nhất, được gọi chung là “ngụy”. Kế đến những tu sĩ Thiên Chúa giáo, chánh trương, trùm trưởng các họ đạo, các chức sắc đạo Phật, phần lớn là các đại đức và cư sĩ. Họ rơi vào tù không phải do có hành vi chống lại chính quyền mà do những hoạt động tôn giáo đơn thuần nhưng lại không nằm trong khuôn khổ những tổ chức tôn giáo yêu nước do Ðảng nặn ra. Ngoài ra, rất linh tinh, không thuộc về những khối rõ rệt là những người bị bắt vì có chân trong các đảng phái phản động có thật và không có thật, cùng là các thứ phần tử được gọi chung chung là có hại cho an ninh xã hội. Chẳng hạn như Toán Xồm và Lộc Vàng, một cây ghi-ta nổi tiếng và một giọng nam trung nổi tiếng trong lớp thị dân thời ấy ở Hà Nội. Họ bị bắt vì tội hát những lãng mạn thời tiền chiến và những bài “nhạc vàng” lọt ra từ miền Nam. Mà lại không phải boọc, có án hẳn hoi mới lạ.
Những người nói trên mắc vào tội chính trị còn có một cái lý nào đó, còn lên gân lập trường mà giải thích được. Nhưng lẫn vào họ có một số ít tù số lẻ nhà quê chất phác và thực thà đến nỗi không thể tưởng tượng nổi họ có thể mắc một tội gì, đừng nói tội chính trị. Chỉ cần nhìn những gương mặt rất mực hiền lành của họ cũng biết ngay đó là những người dân quê chân lấm tay bùn, mà niềm vui nỗi buồn của họ xưa nay chỉ gắn liền với những vụ mùa được mất và sự vơi đầy của nồi cơm. Hỏi ra mới biết mỗi người trong số họ đều có một thiên ngục sử kỳ lạ, vừa bi lại vừa hài, cái nào cũng xứng đáng với một cuốn tiểu thuyết.
Hầu hết tù số lẻ đều là tù không có án, đều là tù tập trung cải tạo. Những người bị tập trung cải tạo, những trại viên, có số tù, y như tù thật, tức là tù có án, tù chính cống. Mọi tiêu chuẩn ăn, mặc, ở của cả hai loại là y như nhau, trừ một chút khác biệt: tù tập trung cải tạo được lĩnh một khoản tiền hàng tháng tương đương với giá hai phong thuốc lào. Cái sự phân biệt trại giam và trại cải tạo như thể đó là hai thứ trại khác nhau chỉ lừa được những người không biết thực tế Việt Nam, hoặc chỉ biết nó qua sách báo chính thống của nhà nước(3).
Nổi bật lên trong những người nhà quê này một anh chàng mặt dài thượt và rỗ chằng rỗ chịt, tên là Dịp Pún Mằn, người Hoa. Không hiểu sao người Hoa rơi vào tù nhiều thế! Mà lại toàn là tù chính trị.
Người Hoa ở Việt Nam rất đông, là một sắc dân đặc biệt. Có những dòng họ ở Việt Nam lâu đời đến nỗi chỉ có thể nhận ra họ là người Trung Quốc bằng những họ tên không Việt, còn thì về sinh hoạt, ngôn ngữ, thậm chí hình hài, họ chẳng khác gì người bản địa.
Tại Hà Nội trước kia có cả một cộng đồng đông đảo người Hoa, gọi là bang, đứng đầu là một bang trưởng. Nay thay vào tổ chức đó có Hội Hoa Liên (Liên hiệp Hoa kiều). Hội có tờ báo riêng là tờ Tân Việt Hoa. Cả Hội Hoa Liên và báo Tân Việt Hoa đều chịu sự lãnh đạo phối hợp của Ðảng Lao động Việt Nam và đại sứ quán Trung Quốc, theo một thỏa thuận ngầm giữa hai nước. Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, vai trò Trung Quốc quan trọng hẳn lên trong thế giới thứ ba, thì chính sách Hoa kiều vận của Bắc Kinh thay đổi. Ðược Bắc Kinh khích lệ, những ông con giời thế hệ mới liền vênh mặt với chính quyền sở tại. Hội Hoa Liên và tờ Tân Việt Hoa tách hẳn khỏi sự lãnh đạo của Ðảng Lao độngViệt Nam, giao thiệp với chính quyền Việt Nam cũng theo kiểu ngang hàng. Hoa kiều vụ của Trung Quốc chỉ chăm chút đám Hồng vệ binh ở xa Tổ quốc, chứ không phải tất cả đồng bào. Cho nên những người Hoa không dính dáng với các phong trào đấu tranh cách mạng ở quê hương chẳng được Bắc Kinh bảo vệ. Họ rơi vào nhà tù Việt Nam cả đống, không hiểu vì những tội phản cách mạng loại gì.
Anh chàng người Hoa mà tôi nói tới thường qua lại các nhà giam để mua bán đổi chác. Hàng của anh ta là cá, lươn, trạch, còn sống hoặc kho mặn, giá cả phải chăng. Những người tù đói khát chất tươi lấy áo, lấy quần, hoặc phong thuốc lào, bánh xà phòng, tuýp kem răng vv… ra đổi. Ðồ đổi được Dịp Pún Mằn mang ra ngoài trại bán cho dân, giá của anh bao giờ cũng rẻ hơn giá mậu dịch(4). Hiếm khi thấy anh ta dùng thứ gì mới – quần áo thì rách bươm, chân không mang dép, đồ xa xỉ như xà phòng hay bàn chải răng chẳng bao giờ anh ta dùng đến. Không hiểu anh ta để dành tiền kiếm được làm gì?
Bên trong vẻ ngoài xấu xí Dịp Pún Mằn là người rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè cũng như bất cứ ai cần tới anh. Anh sẵn sàng bỏ cả ngày lang thang trong rừng để kiếm lá thuốc cho một người ốm, người Hoa cũng như người Việt. Người như anh khó mà mắc tội gì. Ông bạn mới quen, một công chức ngụy quyền tóc bạc trắng, phong thái ung dung tự tại, không hiểu sao lại thân với Dịp Pún Mằn, giới thiệu về Dịp Pún Mằn:
– Anh ta là gián điệp quốc tế đấy!
Trời hỡi, thế kia mà là gián điệp quốc tế ư? Ông bạn nói đùa, tôi nghĩ.
Hóa ra không phải. Tội danh Dịp Pún Mằn đúng là như thế. Nó được đọc to, rất rõ ràng, trước toàn trại trong một lần tổng điểm danh(5) ít lâu sau.
– Anh là gián điệp quốc tế thật hả?
Tôi hỏi Dịp Pún Mằn nhân một hôm anh rẽ vào chỗ chúng tôi để bán cá. Gương mặt rỗ ngẩng lên nhìn tôi, ngơ ngác một thoáng.
– Thật. – anh nói bằng giọng không thể thật thà hơn.
Trong nhà tù có một quy ước không thành văn: những người tù không hỏi tội danh của nhau. Tôi là lính mới, không biết quy ước đó, và vì tôi không nén nổi tò mò. Nhưng Dịp Pún Mằn không giận. Anh cười, phô những chiếc răng dài.
– Mà làm gián điệp thế nào?
– Là dắn tệp côốc tế.
Tôi lấy làm lạ: là gián điệp quốc tế, nhưng Dịp Pún Mằn không bị Ban giám thị coi là phần tử nguy hiểm, không bị biệt giam, không bị theo dõi từng bước, đã thế lại còn được tín nhiệm cho đi tự giác.
Công việc chính của Dịp Pún Mằn là chăn đàn trâu trại. Những con trâu ngu ngốc quấn lấy anh không rời. Chúng hiểu anh yêu chúng. Mà Dịp Pún Mằn yêu những con vật to kềnh càng và đen trùi trũi đó thực sự, bằng tất cả tình yêu của con người không còn ai để mà yêu. Trong đàn trâu trại có một con nổi tiếng hung dữ. Với cặp sừng dài, nhọn hoắt nó húc lòi ruột một phạm nhân chăn trâu khi anh này dùng roi song trừng phạt nó vì một tội gì đó. Thế mà từ khi vào tay Dịp Pún Mằn chăn dắt nó liền trở thành con trâu rất hiền. Chỉ cần Dịp Pún Mằn huýt một tiếng sáo hoặc gọi tên nó là nó đã tơn tớn chạy lại để được cọ mình vào anh. Xiêu vẹo bởi tình yêu của con vật, Dịp Pún Mằn toác miệng ra cười, cả gương mặt bừng sáng niềm vui. Anh vừa mắng yêu con trâu vừa vuốt ve nó. Con trâu cũng khoái chá lúc lắc cặp sừng kềnh càng mà rên lên khe khẽ. Anh tắm cho những con trâu mà như bà mẹ tắm cho lũ con nhỏ, kỳ cọ cho chúng từng li từng tí, cậy từng chút rử mắt, cọ cả răng cho chúng. Những đứa con to đùng nằm yên, mắt lim dim tận hưởng cái khoái được mẹ chăm sóc. Anh đi trước, cả đàn trâu lững thững theo sau, con nào con nấy béo núc ních, hõng phẳng lì. Trâu có tật mỗi khi gặp bãi nước đái đồng loại thì dừng lại, cúi xuống hít hít ngửi ngửi rồi vươn dài cái cổ, nhe răng ra cười một cách ngây ngô. Dịp Pún Mằn thấy trâu cười thì cũng cười im lặng, không có tiếng, y như trâu vậy.
Trông toán tự giác là một viên quản giáo trẻ tên là Nguyễn Văn Nhẩm. Ðó là một con người nhân hậu lạ thường, hiện tượng dị biệt trong giới cai ngục. Thấp, đậm người, không đẹp giai, nhưng hồn nhiên và dễ tính, Nhẩm thương tù bằng một tình thương bẩm sinh, không phải tình thương chiếu cố. Biết đánh giá tình thương từ trong tim ấy không ai bằng những người tù. Trong toàn trại(6) toán ông Nhẩm nổi tiếng là toán dễ chịu nhất.
– Ai gửi cho tôi vậy?
– Ông Trần mà. Ông ở nhà B. Ông sang chơi chứ?
Nghe giọng anh ta, một người đàn ông dài ngoẵng, gày quắt và đen nhẻm, chẳng cần giới thiệu cũng biết là người Hoa. Tôi đưa bức thư cho ông bạn già vừa đến chơi với tôi. Ông tên là Trúc, làm chức gì đó nghe rất kêu nhưng vô giá trị, từ thời ông Bảo Ðại còn được người Pháp dùng. Cũng là một người tù vì tính cẩn thận của chính quyền, chứ ông không có đảng phái phản động hay làm gì chống nhà nước hết. Ông đã qua vô số trại, biết vô số tù số lẻ, là người có kinh nghiệm sống trong môi trường tù.
Ông nhón tờ thư, đọc lướt qua rồi nói:
– Lão Trần, đại tá đặc vụ. Tôi biết lão từ trại tạm giam Hải Phòng, hơi toqué(7) nhưng là người đàng hoàng. Anh cứ sang chơi.
– Ðược, anh về trước đi. Tôi sẽ sang. – tôi nói với anh chàng đưa thư.
Anh ta vui vẻ chạy đi.
Trần Chấn Hoa nói:
– Ðể em đưa anh đi. Em cũng quen bác Trần.
– Không tiện. Người ta mời một mà mình đi hai là không lịch sự.
Y tiu nghỉu.
Tôi thay quần áo. Không thể không thay quần áo để yết kiến một người già đối xử trịnh trọng với mình như thế. Chúng tôi chẳng có nhiều quần áo để thay đổi. Không kể bộ pi-gia-ma vợ tôi mang lên khi tôi còn ở trại quân pháp đã rách nát tôi có hai bộ đồng phục tù do Trần Chấn Hoa đem thuốc lá đi đổi cho tôi.
Thì ra lão Trần chính là cái ông già lụ khụ, tuổi có dễ suýt soát tám mươi, với gương mặt nhăn nhúm ló ra từ cái mũ len tứ thời. Nặng nề và chậm chạp trong bộ quần áo không giống ai, bó chẽn cả vạt áo lẫn gấu quần, với đôi tất to sù của vận động viên bóng đá, ông được miễn lao động, sáng sáng cầm cái chổi xể cán dài quét xoèn xoẹt trước cửa nhà B. Tôi biết mặt ông, chỉ không biết ông là đại tá đặc vụ.
Lão Trần ở giường trên lập cập trèo xuống, chắp hai tay vái tôi:
– Thỉnh tiên sinh.
Tôi nói:
– Chào bác. Xin miễn lễ.
Chúng tôi theo nhau trèo lên.
– Tiên sinh an vị.
– Ða tạ.
Tôi ngồi vào chỗ lão chỉ, xếp chân bằng tròn.
Anh chàng đưa thư – đệ tử của lão Trần – nhanh nhảu dọn bàn trà. Trong tù mỗi nhân vật khác thường một chút bao giờ cũng có vài đệ tử. Người thì do cao tuổi, tư cách đáng trọng, người thì do giàu có, được người nhà tiếp tế thường xuyên. Lão Trần thuộc loại thứ hai, loại giàu có. Những người tù nghèo, không có đệ tử thì có anh em kết nghĩa, bố con kết nghĩa, tạo thành một gia đình. Thứ gia đình thế phẩm này là biểu hiện của xu hướng quần tụ tự nhiên, nhưng trong nhà tù, đôi khi nó cũng bệnh hoạn lắm. Những vụ đánh ghen xảy ra thường xuyên, có máu chảy.
Ðể tiếp khách quý, lão Trần mua hẳn một lạng trà “tự biên tự diễn” của cánh lâm sản(8). Trên cái đĩa sắt tráng men cóc gặm cả một gói Polyvitamine được đổ ra. Trong tù đây là sự chiêu đãi long trọng.
– Thỉnh tiên sinh khai trà.
Viên đại tá đặc vụ trong bộ quần áo xơ xác, trông như con chuột cống già, giơ bàn tay với những ngón cong queo vì phong thấp kính cẩn mời tôi. Tôi lễ phép nâng chén lên ngang tầng mắt, nhìn ông qua làn hơi nước. Cuộc thưởng trà diễn ra trịnh trọng, giống như trong tuồng cổ.
Không để ý tới đám tù ồn ào nằm ngồi lộn xộn, người chơi cờ, người may vá, người bắt rận, chúng tôi im lặng cạn chén trà đầu tiên. Bằng cách đó chúng tôi đồng tình tạo ra một sự tự kỷ ám thị như thể không phải chúng tôi đang ở trong tù mà ở một nơi nào khác của xã hội văn minh, nơi con người có thể nhẩn nha đàm đạo văn chương.
Sau tuần trà thứ hai buổi chuyện thơ bắt đầu. Lão Trần là một thi sĩ bất phùng thời. Lão yêu thơ và rất thuộc thơ Lý Bạch, Ðỗ Phủ(9) cũng như những nhà thơ danh tiếng khác của nước Trung Hoa cổ. Tôi thì nhớ lõm bõm, câu được câu chăng, luôn nhầm lẫn nhà thơ này với nhà thơ khác. Lão Trần rộng lượng không để ý chuyện đó. Tôi chẳng qua là cái cớ cho cuộc trở về với thơ của lão. Cứ mỗi bài thơ qua lão Trần lại biến đổi trước mắt tôi. Không phải là ông già lẩn thẩn quét rác nữa mà là một lão nho thư thái, ung dung tìm được phút giây hạnh phúc trong những vần thơ bất tử.
Tôi thích cách thưởng thơ của lão Trần. Lão có những lời bình độc đáo cho những vần thơ đa nghĩa khi người đọc chuyển dịch những dấu ngắt câu không có mặt trong thơ Trung Quốc. Sau mỗi bài thơ chúng tôi trịnh trọng mời nhau uống trà đặc sệt và chát xít đựng trong khúc nứa tép cắt ngắn và nhấm nháp mấy viên Polyvitamine vàng khè.
Ðại tá đặc vụ họ Trần thời trẻ là giáo viên dạy văn trung học. Vui chuyện, lão kể cho tôi nghe đời lão. Thì ra lão là nhân viên tình báo Trung Quốc thật.
– Bác công tác trong ngành tình báo được bao lâu?
Lão cười không có tiếng:
– Công tác khỉ gì đâu, thưa tiên sinh. Tôi chỉ ghi tên vào đấy thôi.
– Tức là…
– Có tên ở đấy coi như đã vào lính, hức. – lão bật nấc – Cái nghề tình báo có lợi là thế. Mình vẫn được là mình, hức, mà lại cứ như có mặt trong quân ngũ, Tôi vào được ngành này cũng là nhờ, hức, một người quen thân gia đình giới thiệu…
– Tôi chưa hiểu lắm…
– Thì để trốn lính mà. Tình báo tình biếc gì đâu, hức. Tháng tháng chỉ có việc ký vào giấy nhận lương là xong. Lương tôi đã có người khác lĩnh, hức, ai lĩnh tôi cũng không biết. Thế rồi tuần tự như tiến, hức, tôi được thăng cấp, được lên lương, cấp trên tôi không biết ai, cấp dưới tôi không có, đã bảo hoạt động tình báo mà. Thỉnh thoảng, hức, người ta còn bịa ra thành tích cho tôi nữa, để cho lương tôi tăng nhanh, họ được lĩnh nhiều thêm. Thời bấy giờ lạm phát đại phi mã, chắc tiên sinh còn nhớ…
Anh chàng đệ tử dài ngoẵng vội lết lại đấm lưng cho ông lão.
Tôi nhớ cái sự lạm phát ấy. Năm 1945, quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật bại trận, mang theo hai thứ tiền: Quan kim và Quốc tệ, bắt người Việt phải tiêu. Tiền Quan kim còn có giá chứ tiền Quốc tệ thì chỉ đắt hơn giấy lộn chút ít. Ngày quân Tưởng sắp rút về nước, giá một bát phở gánh tương đương với một bị Quốc tệ. Những ông hàng phở bực dọc với khách Tàu phù(10) liền quẳng luôn vào bếp. Tiền Quan Kim in trên giấy tốt, rất đẹp, nhưng rồi cũng vứt đi. Nhóm bếp không được, nó cháy chậm và dễ tắt, còn kém cả tiền Quốc tệ. Mãi tới năm 1950 ở trong kho ẹy ban Tuyên Quang vẫn còn vài chục bao tải tiền Quan kim không biết dùng làm gì.
– Ðể theo kịp lạm phát, tôi được thăng cấp vèo vèo. Rồi Hoa quân nhập Việt, tôi được lệnh theo sang, ở Hải Phòng, vẫn làm giáo viên dạy văn trong trường trung học Trung Hoa. Tôi lấy vợ Việt Nam. Hoa quân rút, người ta chẳng gọi tôi, họ quên hay là họ mặc kệ không biết. Thế là tôi ở lại hẳn. Người Pháp đến, họ cũng chẳng đụng đến tôi. Người Trung Hoa chúng tôi rất dễ sống trên đất lạ, ông ạ – ở đâu có cỏ mọc, ở đó có người Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam tiếp quản Hải Phòng, tôi vẫn ung dung dạy học. Thế rồi chẳng biết ai báo cáo, tôi bị công an gọi…
– Bác nhận bác là đặc vụ?
– Vâng. Chối sao được khi người ta biết rồi. Tại sao người ta biết được tôi không hiểu. Chắc khi Hoa quân rút đi giấy tờ vương vãi thế nào đấy, một cái bảng lương chẳng hạn. Ông công an hỏi tôi người hiền lành lắm, tử tế lắm. Nghe tôi kể tình đầu ông chỉ cười khà khà rồi khuyên tôi phải khai báo thành khẩn để Ðảng xét. Tôi khai hết, chuyện là như thế như thế. – ông già cười, nhe hai hàm răng thủng lỗ chỗ – Tiên sinh nghĩ, phận mình là dân, cứ thật thà là hơn, người ta hiểu người ta sẽ cho về, giữ mình làm quái gì…
– Bác ở đây mấy năm rồi?
– Mười năm có hơn, thưa tiên sinh.
– Người ta xử bác mấy năm?
– Thiên nả(11)! Nào có được xử. Xử thì phải có tội mới xử được, đàng này tôi chẳng có tội gì…
Lão đại tá thở dài:
– Lẽ ra tôi nhận cái nhiệm vụ ở lại, để làm gì đấy…- ông ngẩn người, nghĩ ra một nhiệm vụ làm thí dụ, nhưng nghĩ không ra – tức là phải có một cái tội bé bé để người ta đưa ra xử. Nhưng tôi không biết, ngu quá! Không có tội ở chế độ ta khổ hơn có tội, tiên sinh ạ.
Tôi bàng hoàng. Chẳng lẽ đó là chuyện có thật? Nhìn vào mắt lão tôi tin lão không nói dối. Mà nói dối tôi phỏng có ích gì?
– Bác phải viết đơn khiếu nại chứ. Người này không tin còn có người khác.
– Tôi viết nhiều nhiều rồi đấy, nhưng chẳng có ai trả lời.
– Phải kiên trì, bác ạ.
– Vô ích mà, tiên sinh.
Lý Bạch, Ðỗ Phủ đã ba chân bốn cẳng chạy xa khỏi những chuyện thế tục kiểu này. Thời các vị luật pháp chắc không thế. Ðến đấy chúng tôi cũng ngừng buổi thưởng thơ.
Tôi đang bùi ngùi cho số phận lão Trần thì Dịp Pún Mằn la đà xách giỏ tới nhà B. Mọi người lập tức bâu quanh anh ta. Lão đại tá đặc vụ cử anh chàng dài ngoẵng leo xuống sàn đi trinh sát. Anh ta lôi Dịp Pún Mằn về. Dịp Pún Mằn leo lên tầng trên, ngồi vào chiếu lão Trần:
– Tài cố, hẩu ma(12)?
– Còn gì không, Dịp đệ?
– Cồn cố cồn cố nhều nhều.
– Bán cho tôi hết.
– Pán thì pán. Kho lồi có, cồn sống có.
– Kho rồi thứ gì?
– Cá trê a! Tố hảo sực(13). Ngôn nhều nhều.
– Tôi đãi khách, Dịp đệ à, không ngon không lấy đâu.
– Ðã pảo ngôn mà. Ngộ ăn cùng, tược chớ?
– Tốt. Biết tiên sinh đây không?
– Pết, pết lắm chớ.
-Tiên sinh ở đây dùng cơm với tôi, chẳng mấy khi. – lão Trần xoa hai tay vào nhau, trịnh trọng. – Chú Dịp kho cá ngon, lại vệ sinh lắm lắm nên mới dám mời tiên sinh.
Cứ như thể lão không biết cơm trại thế nào. Chúng tôi thường xuyên ăn cơm độn sắn với rau muống tần đại dương, thỉnh thoảng được thêm món ca la thầu(14). Ca la thầu do Trung Quốc viện trợ cho quân đội, quân đội không ăn được, mới chuyển cho tù. Một chiếc xe tải quân sự chở ca la thầu đến, thối um cả khu bếp trại. Ca la thầu được đổ vào trong một cái bể lớn, nhà bếp vớt ra cho trại ăn dần. Người nhà bếp không ai đụng đũa vào món ca la thầu. Có người nói rằng trong bể ca la thầu có cả xác chuột, nhưng tù vẫn ăn như thường, còn mút mát đàng khác – nó mặn vô cùng.
Tôi ăn bữa trưa ngon lành cùng với đại tá đặc vụ của một quân đội không tồn tại.
Lão Trần ra dáng phong lưu lắm. Tôi không cần phải quay về đội lĩnh cơm trại. Suất của tôi để cho Cao và Tôn Thất Tần. Ông đại tá sai đệ tử mua thêm ba suất nữa, gọi là ăn đúp. Ðồn rằng lão có hai cô con gái xinh xắn lấy chồng Việt, hai ông chồng lại là cán bộ lương thực thực phẩm, cửa hàng trưởng hay cửa hàng phó chi đó, tiếp tế cho cha khá lắm.
Nhân tiện, tôi hỏi chuyện Dịp Pún Mằn. Lão Trần cười hề hề:
– Dịp đệ kể cho tiên sinh nghe đi!
Dịp Pún Mằn chống đũa nhìn tôi, bẽn lẽn:
– Cố dề mà kể chớ! Hổi lồi mà, kể lồi mà.
– Thì cứ kể lần nữa đi! – lão Trần giục.
Bằng giọng ngọng ngoẹo, chỗ nào khó hiểu quá đã có lão Trần thông ngôn, Dịp Pún Mằn kể cho tôi nghe vụ án của anh.
Số là anh chàng Dịp Pún Mằn làm nghề cu-li bắt-tê(15). Cu-li bắt-tê ở Sáu Kho Hải Phòng toàn người Tàu, cha truyền con nối. Người Việt không làm nghề này, vì không làm nổi chứ không phải vì chê nó hèn. Người Tàu to con hơn, khỏe hơn. Với một cái móc sắt trong tay phu bắt-tê Tàu có thể quật lên lưng cả tạ hàng mà không cần ai giúp đỡ.
Một thủy thủ người Hoa làm việc trên tàu Hi Lạp làm quen với Dịp Pún Mằn trong một lần cập bến ngắn ngủi. Anh ta đưa tiền cho Dịp Pún Mằn, nhờ anh mua báo Việt Nam rồi gửi cho anh ta hàng tuần bằng đường bưu điện theo một địa chỉ ở Hồng Kông.
Dịp Pún Mằn nhận lời liền. Tính Dịp Pún Mằn thế, hay giúp đỡ. Tiền thì người ta đưa trước cả năm, lại đưa thừa chứ không thiếu. Từ cầu cảng về nhà có tới hai ba quầy báo và một trạm bưu điện. Mỗi hôm đi về Dịp Pún Mằn mua một loạt báo, tích lại đến cuối tuần ra bưu điện gửi. Còn có việc gì dễ hơn!
Ba tháng sau cuộc gặp gỡ định mệnh với ông bạn đồng hương, Dịp Pún Mằn bị công an tóm ngay tại trận với bó báo chăng kịp gửi rồi đưa thẳng về nhà giam. Người ta tra hỏi Dịp Pún Mằn: mua báo cho ai? để làm gì? địa chỉ gửi báo là của cơ quan gián điệp nước nào? đã gửi những thông tin gì ra ngoại quốc? bằng hệ thống mật mã nào?
Nói tóm lại, Dịp Pún Mằn hoa mắt trước những câu hỏi anh không hiểu nổi. Vốn tiếng Việt của anh quá nghèo. Họ hỏi anh sáu tháng liền. Câu nào Dịp Pún Mằn không trả lời được thì người ta gà cho anh. Chấp pháp ghi biên bản rồi đưa cho anh ký. Dịp Pún Mằn ký. Anh biết ký tên mình từ đó.
Hoàn cung, anh ra tòa. Bào chữa viên do tòa cử ra không cãi cho anh mà khẳng định ngay tội anh rất nặng – làm tay sai cho bọn đế quốc và bè lũ phản động quốc tế. Sau một hồi ca ngợi Ðảng và lên án bị can đủ điều ông ta mới xin tòa mở lượng khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị can vì bị can “thuộc thành phần nhân dân lao động, do kém giác ngộ nên bị gián điệp nước ngoài dụ dỗ, mua chuộc mà phạm pháp”. Ðược bồi dưỡng đến nơi đến chốn trong trại tạm giam rồi mà trước vành móng ngựa Dịp Pún Mằn vẫn run như cầy sấy. Anh đáp lại những câu hỏi của tòa bằng những câu trả lời đã thuộc lòng:
– Dà, túng thế (đúng thế)!
– Dà, khôông cốô sai!
– Dà, túng là dắn tệp cốôc tế lồi (đúng là gián điệp quốc tế rồi)! Túng lắm (đúng lắm)! Túng lắm!
Tòa thương tình ban cho Dịp Pún Mằn, người con của nhân dân lao động, mười lăm năm tù. Dịp Pún Mằn rưng rưng nước mắt chắp hai tay vái bào chữa viên rồi phát biểu trước tòa, bày tỏ lòng biết ơn của anh:
– Cấy Tảng Duỵt Nàn tốt nhều nhều (cái Ðảng Việt Nam tốt nhiều nhiều) lớ!
Khi tôi lên trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn đã ở được chín năm. Do an tâm cải tạo và chăm chỉ lao động anh được giảm án hai lần, chắc chỉ một hai năm nữa là được tha.
– Anh sắp về rồi, vui hả? – tôi hỏi Dịp Pún Mằn.
– Cố dề mà vui? Mềnh ở tâu cũng làm vệc, ổ Hẩy Phoòng cũng lầm vệc, ổ tây cũng lầm vệc à.
– Nhưng ở nhà thích hơn chứ.
– Khôông thếch tâu. Pá pá chếch lồi (chết rồi), má má dà nhều nhều (già lắm), lói khôông tược, khôông vui tâu. Mà ổ tây nhàn hơn nhều nhều…
Khi tôi sắp rời trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn được giảm án thêm một lần nữa. Mọi người xúm đến chúc mừng, còn anh thì lầu bầu:
– Về dà làm dề (về nhà làm gì), ổ tây cố pạn (có bạn) nhều nhều, về dà pây dờ ổ vấy ai? Má má mình sắp chếch lồi. Êm cấy (em gái) lấy chồông ổ nhà chồông, không ổ tược vấy ló tâu…
Có những con người như vậy: họ ra đời để chịu lầm than. Họ sống trong lầm than như trong lẽ tự nhiên của trời đất, chẳng kêu ca, chẳng phàn nàn. Cái số nó vậy, biết làm sao, họ nói. Trong đời tù của tôi không phải Dịp Pún Mằn là người duy nhất có thái độ dửng dưng đối với sự tù oan. Có người còn oan hơn anh nhiều. Anh có thể là gián điệp quốc tế lắm trong sự hình dung nghèo nàn của những cái đầu ngốc nghếch với tinh thần cảnh giác cách mạng quá cao.
Một số người được tha không về nữa mà xin ở lại trại. Ðó là những người không có đâu để mà về, những người đã chán ngán đến tột độ cuộc đời cũ. Không có “tiêu chuẩn” được ở trong trại nữa, họ xin đất trại dựng nhà để sống cuộc sống đã trở thành quen thuộc, thỉnh thoảng lân la tới khu vực trại để mua bán đổi chác với tù tự giác.
Buổi chiều trước hôm tôi bị chuyển đi trại Phong Quang, Dịp Pún Mằn tìm tôi, giúi cho tôi một lạng trà tự biên tự diễn:
– Mai chuển trại tấy! Chắc chắn mà! Anh cầm xà lày (trà này) mà ôống. Lênh chỗ mới, khôông kếm tợc xà ngay tâu. Hôm lay các ôông cán pộ xếp hồ sơ nhều nhều, là ti tấy…
– Anh ở lại mạnh khỏe nhé!
– Anh nhớ trôông pác Trần. Pác ấy íu (yếu) lắm, khôông pết cồn sống tược pao lâu.
– Tôi sẽ săn sóc bác ấy!
– Hảo lớ!
Nhưng đại tá tình báo gặp may. Ông không bị chuyển đi cùng với chúng tôi. Ông được ở lại với gián điệp quốc tế.
(1) Chỉ điểm, mật thám. Từ tên một nhân vật phản diện trong cuốn Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo.
(2) Trên lưng áo của người tù người ta in hai chữ CT (Cải Tạo) bằng hắc ín. Áo của toán trưởng cũng bị in chữ nhưng anh ta tẩy đi, để phân biệt mình với tù thường. Cán bộ biết nhưng không khiển trách, coi đó là đặc ân dành cho anh ta.
(3) Trại tập trung với 3 đặc điểm: 1/ người bị giam không được xét xử, 2/ thời hạn giam giữ là tùy tiện, 3/ chế độ giam giữ, trừng phạt là tùy tiện, xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ 19. Người Tây-ban-nha đã lập các trại tập trung tại Cuba từ năm 1898, người Anh đã lập các trại tập trung giam 20.000 người mà đa số là đàn bà và trẻ em tại Nam Phi. Tại Mỹ 70.000 công dân Hoa Kỳ gốc Nhật và 42.000 người Nhật định cư tại Mỹ bị dồn vào những trại tái định cư trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II… Tại Liên Xô, trại tập trung được lập ra từ năm 1918 để giam giữ những “kẻ thù bên trong”, hệ thống trại tập trung này đặc biệt phát triển trong thập niên 30-40. Tại Ðức, nhà nước Quốc Xã sau khi giành được chính quyền năm 1933 lập tức thiết lập hệ thống trại tập trung với chế độ giam giữ hà khắc và sự thủ tiêu tàn bạo nổi tiếng thế giới.
(4) Trong nghĩa cửa hàng tạp hóa quốc doanh.
(5) Thường mỗi năm một lần trại tổng điểm danh tù để kiểm tra lại hồ sơ.
(6) Khi nói toàn trại, tôi gộp cả các phân trại khác vào đấy.
(7) Gàn, khùng,dở người (tiếng Pháp).
(8) Tù tự giác chuyên hái lượm lâm thổ sản và trông đồi chè của trại. Trà “tự biên tự diễn” có nghĩa không phải trà do quốc doanh sản xuất mà do tù hái và sao thủ công.
(9) Lý Bạch (chết năm 762), Ðỗ Phủ ((712-70), hai nhà thơ lớn của Trung Hoa cổ đại.
(10) Gọi là Tàu phù vì quân đội Tưởng vào Việt Nam gồm dân đói ở Lưỡng Quảng, lê lết vì phù thũng.
(11) Trời ơi! (tiếng Trung Quốc).
(12) Ðại ca, khỏe chứ? (Tiếng Trung Quốc).
(13) Rất ngon (tiếng Trung Quốc)
(14) Xu hào muối, tên gọi Trung Quốc đã Việt hóa.
(15) Phu khuân vác.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:42:41 GMT -6
Chương 38
Ở Hỏa Lò tôi đã được nghe Thành kể về con người huyền thoại đã ở liền một mạch hai mươi hai năm trong tù. Anh nói có lần chưa hoàn cung anh bị đưa đi trại chung, tôi không nhớ trại nào, tại đây anh gặp những người đã ở chung với một tù nhân có thâm niên cao nhất: tù suốt từ 1946 cho tới tận bây giờ (tức năm 1968). Kỷ lục ấy chưa có ai vượt qua. Vì sự chịu đựng ghê gớm ông ta được mệnh danh là “Jean Valjean(1) gọi bằng cụ”.
Tôi nghe, nhưng không tin. Tin làm sao được chuyện tào lao đến thế! Chúng tôi đang sống giữa thế kỷ XX, chứ đâu phải thời Trung cổ.
Không ngờ chuyện đó có thật và rồi tôi được gặp “Jean Valjean gọi bằng cụ” bằng xương bằng thịt ở trại A Tân Lập.
Một hôm Trần Chấn Hoa dẫn tôi sang nhà C, nơi có đám số tù số lẻ ở trại Vĩnh Quang (tỉnh Vĩnh Phú) vừa chuyển lên, chưa phân vào các toán. Trần Chấn Hoa cũng đã ở Vĩnh Quang vài năm, y có nhiều người quen. Nghe Trần Chấn Hoa tả thì trại nằm dưới chân Tam Ðảo, một bình nguyên rộng ngút tầm mắt, nơi trâu ấn Ðộ và cừu Mông Cổ được nuôi thí nghiệm để nhân giống. Cuộc thí nghiệm không thành công. Những con trâu to kềnh không cho sữa, cừu thay nhau lăn ra chết. Tôi đã đến đây làm phóng sự, nhưng không thành. Người ta chỉ in các phóng sự về thành công thôi. Bù lại, tôi được ăn thỏa thích thịt cừu hoi rình trong những món chém to kho nhừ của bếp nông trường. Thịt cừu nấu plow (pilaw) hoặc súp kharcho(2) rất tuyệt, nhưng không ai biết làm.
Trần Chấn Hoa số chẵn, nhưng ở trại A Tân Lập y lại nằm trong số lẻ. Xem ra cái việc cài chỉ điểm của công an thật vô nguyên tắc. Người ta sẽ làm gì với những báo cáo về tôi của một tên ba hoa?
– Ta đến xem “Jean Valjean gọi bằng cụ” đi. – y nói.
– “Jean Valjean gọi bằng cụ” là ai?
Y giải thích. Tôi nghe, làm ra vẻ chăm chú.
– Ông này quán quân ở tù cơ anh ơi! Hai mươi sáu năm liền tù tì.
– Làm gì có chuyện! Bịa.
– Anh gặp khắc biết, em không bịa đâu. Kia, cái ông gày gày khoác áo bông ngồi đàng kia kìa!
Theo tay Trần Chấn Hoa chỉ tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi, gày và xanh, đang ngồi chăm chú đọc sách. Hôm ấy chủ nhật, tù được nghỉ, không đi lao động.
Tôi đến, ngồi xổm trước mặt ông:
– Chào bác!
– Chào anh! – ông ta ngẩng lên, không vồn vã.
Người tù ngồi liền tù tì hai mươi sáu năm trông chẳng khác gì mọi người ở đây. Tôi hình dung ông phải già lắm kia, phải lụ khụ lắm kia, hóa ra không phải. Bề ngoài ông còn trẻ, thậm chí trông không già hơn tôi bao nhiêu.
– Có phải bác là “Jean Valjean gọi bằng cụ” không?
– Ai bảo anh rứa?
– Những người tù ở đây.
Ông mỉm cười hiền lành:
– Hay nhỉ? Rứa mà tui không biết.
– Bác là nhân vật nổi tiếng. Người như bác hiếm.
– Còn anh?
– Tôi chẳng là gì sất. Tôi chỉ là một người tò mò.
“Jean Valjean gọi bằng cụ” nhìn lên trời, cười không có tiếng. Im lặng một lát, ông nói khẽ:
– Anh là Vũ Thư Hiên, phải không? Tui cũng đã nghe nói về anh…
Tôi sửng sốt. Tù Vĩnh Quang mới lên hôm qua. Ai đã kể cho ông nghe về tôi?
– Trong đám tui ở Vĩnh Quang có người đã gặp anh ở ngoài. Anh ta nhận ra.
– Ai nhỉ?
– Anh không biết anh ta. Nhưng anh ta biết anh.
Người biết tôi là một nhà thơ địa phương, theo sự tự giới thiệu của anh ta sau này. Tôi không nhớ đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Những nhà thơ dân gian với những bài thơ xỏ xiên, châm chọc chính quyền rơi vào tù khá nhiều. Cả những nhà văn dân gian chuyên sáng tác chuyện tiếu lâm cũng vậy. Ba Giai, Tú Xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ được phép sống trong nhà tù.
Ngày hôm sau “Jean Valjean gọi bằng cụ” được nhập vào toán tôi. Theo sự điều đình của Trần Chấn Hoa, người tù nằm bên cạnh chúng tôi dọn đi nơi khác, nhường chỗ cho “Jean Valjean gọi bằng cụ”.
– Tui tên Tôn Thất Tần. – ông ta nói.
Nể tôi lắm Trần Chấn Hoa mới làm theo ý tôi. “Ông ta bị lao đấy”, y thì thào. Nhưng tôi biết – y phải chiều tôi. Không chiều tôi thì y không thực hiện được trọng trách mà Ban giám thị trao cho. Cho nên tôi có thể bắt bí.
Tôi thích chơi với “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Ðó là người tù trí thức đầu tiên mà tôi gặp ở Tân Lập. Tôn Thất Tần thỉnh thoảng có húng hắng ho thật, nhưng dấu hiệu khác của bệnh lao không thấy. Ông gày nhẳng, da xạm, nhưng tù đều gày và xanh, chẳng có ai béo tốt. Hồng hào nhất ở đây có lẽ là Trần Chấn Hoa. Y được gia đình tiếp tế thường xuyên. Tù số lẻ phần nhiều là tù lưu niên, trên dưới mười năm cả. Những người tù ở lâu ít được tiếp tế: người thì cha mẹ quy tiên, người thì vợ đi lấy chồng, con cái còn nhỏ dại. Nguyên nhân là tù lâu quá, gia đình nào rồi cũng mệt mỏi, cũng phát chán.
Tôi không sợ lây bệnh Tôn Thất Tần, nếu như ông lao thật. Tôi đã bị lao trong kháng chiến chống Pháp, hậu quả lần chấn thương phổi do pháo bầy trong trận chống càn Bretagne năm 1952. Bác sĩ Hoàng Ðình Cầu(3) hồi ấy ở Nông Cống khám cho tôi, tiên đoán tôi sẽ chết. Nhưng tôi vẫn sống để đi đón anh ở ga Iaroslavsky tại Moskva khi anh sang Liên Xô bổ túc nghiệp vụ. Không hiểu sao, nhưng tôi đinh ninh tôi chết không dễ dàng.
– Anh nên thận trọng trong khi giao thiệp với Trần Chấn Hoa. Tui muốn nói không nên gần gụi anh ta nhiều quá! – Tôn Thất Tần dặn tôi. – Khi gần gụi nhiều người ta sẽ tin những lời anh ta nói về mình là đúng. Nói chung, ở trong tù anh nên cẩn thận. Giao thiệp với bất cứ ai cũng vậy, có khi mình sơ suất gây ra những hậu quả rất xấu.
Tôi trân trọng lời khuyên của bậc đại trưởng lão trong bộ lạc tù. Không nghe lời ông thì còn nghe ai? Ông có đàng sau lưng một thâm niên tù không ai sánh bằng, kinh nghiệm đời tù ông tích lũy đủ cho mấy thế hệ đi sau.
– Cả với bác nữa chứ? – tôi nói đùa.
– Tất nhiên. – ông trả lời ráo hoảnh – Trong tù có quá nhiều điều bất ngờ, đến nỗi lắm lúc mình chỉ còn biết trợn mắt lên mà ngạc nhiên, anh ạ. Thật vậy, con người ta lạ lắm, thay đổi nhanh lắm! Người mình ngỡ trung thành khi lâm sự hóa ra tên phản bội. Kẻ hôm qua bị cả trại chê hèn nhát thì hôm nay bỗng làm mọi người kinh ngạc vì một hành động anh hùng xuất chúng. Cuộc đời, nó lạ lắm! Nói bất ngờ là nói quen miệng, chớ mọi tính cách có sẵn trong con người ta hết, tốt có, xấu có, gặp dịp là bùng ra, là nổi lên…
– Bác không cho rằng có người tốt, người xấu?
– Có chớ. Người tốt là người biết phân biệt cái xấu và cái tốt, điều nên làm và điều không nên làm, là người có ý chí mạnh mẽ đè nén được cái xấu, không cho phép nó hoành hành… Người tốt là người sống thật thà với mọi người cũng như với chính mình, tức là tui muốn nói những người không đạo đức giả, làm ra vẻ tốt nhưng trong lòng xấu xa…
Hoàng hôn ở Tân Lập ngắn ngủi. Khi mặt trời vừa khuất sau những rặng núi xa thì bóng tối liền đổ ập xuống. Tù xếp hàng điểm danh khi những tia nắng cuối cùng chưa tắt trên những ngọn cây. Ðiểm danh xong là tối. Chúng tôi bị lùa vào phòng, khóa cửa lại.
Câu chuyện được tiếp tục bên trong song sắt.
– May một cái là ở trong tù mình mau chóng nhận ra người tốt người xấu. Nhà tù không có chỗ cho những âm mưu lâu dài. Người tù không biết mình sẽ ở địa điểm nào vào ngày mai, hắn đểu cũng vội vàng đểu, cũng hấp tấp đểu, sợ không kịp…
Tôn Thất Tần chỉ sống với quá khứ, bằng quá khứ. Mà quá khứ cũng chỉ được tính từ năm 1946 trở về trước. Những sự kiện sau đó, cho dù chúng lớn tới mấy, ông không tính, không nhớ, hoặc không thèm nhớ.
– Tui đã có vợ con.
Ông bắt đầu câu chuyện, rồi im bặt.
– Bác có được tin của bác gái không?
– Không. Từ năm 1946 tui không còn được tin gì của nhà tui nữa.
– Bác có biết mặt con chứ?
– Biết. Nó là con gái.
Người ta kể Tôn Thất Tần đã tham gia cuộc nổi loạn của tù nhân ở chiến khu Bình-Trị-Thiên. Những người tù phá trại, giết lính gác rồi bỏ trốn vào rừng. Họ lần lượt bị bắt lại hết, không sót một ai. Hai người bị kết án tử hình. Tôn Thất Tần lĩnh án chung thân, sau được giảm xuống 20 năm. Về chuyện này dường như Tôn Thất Tần không muốn nhắc lại, không muốn nói tới, mặc dầu tôi có vài lần hỏi ông. Mãi một năm sau ông mới kể cho tôi nghe, nhân câu chuyện tình báo Việt Nam đánh đắm một thông báo hạm của Pháp tại vùng biển Sầm Sơn năm 1950, tôi nhắc tên Hoàng Ðạo.
– Anh biết hắn ta à?
– Chúng tôi quen nhau khá lâu.
Ông cúi xuống, lầm rầm câu gì nghe không rõ. Hình như ông văng tục. Bình thường không bao giờ Tôn Thất Tần văng tục hoặc chửi bậy, cho nên tôi nghĩ tôi nghe nhầm.
– Bác bảo sao?
– Tui nói hắn là thằng chó đẻ!
Tôi thấy mếch lòng. Dù sao Hoàng Ðạo cũng là người quen của tôi.
– Tại sao bác lại gọi anh ấy là thằng chó đẻ?
– Bởi vì hắn là một thằng như rứa.
Tôn Thất Tần nói như gắt.
Thì ra chính Hoàng Ðạo là nguyên nhân, hay nói cho đúng, là khởi điểm cho đời tù lê thê của Tôn Thất Tần.
Hai người vốn là bạn bè. Khi Tôn Thất Tần rời Huế đi học Trường thể thao Phan Thiết thì Hoàng Ðạo hoạt động cách mạng. Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở Huế, Hoàng Ðạo trở thành giám đốc công an thành phố. Tôn Thất Tần trở về, họ vẫn chơi với nhau.
Cho tới khi chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp ước 6-3 năm 1946, cho quân Pháp quay lại Ðông Dương thay quân đội Ðồng Minh làm nốt việc giải giáp quân đội Nhật Bản và giữ trật tự trên lãnh thổ do Nhật chiếm đóng, thì ở Huế một số chính khách xa-lông bất bình. Họ nói Hồ Chí Minh bán nước. Tôn Thất Tần ở trong số thanh niên phản đối Hiệp ước.
– Bây giờ bác có còn nghĩ rằng lúc ấy bác đúng không?
– Không. Tui sai. Cụ Hồ đã đi một nước cờ cao. Nếu quân Tưởng ở lại cái họa còn lớn hơn. Bọn Pháp ở xa chính quốc, quân số không nhiều, quân Tưởng có hậu cứ sát nách ta, lại ô hợp, chơi nhau với nó mệt lắm…
Tôn Thất Tần tìm Hoàng Ðạo nhờ Hoàng Ðạo in truyền đơn chống chính phủ Hồ Chí Minh. Hoàng Ðạo không nhận lời, một hai khuyên can Tôn Thất Tần đừng làm chuyện thọc gậy bánh xe, nhưng Tôn Thất Tần không nghe. Không nhờ được Hoàng Ðạo, ông đưa in nơi khác. Tờ truyền đơn chưa kịp in thì Tôn Thất Tần bị bắt. Người ra lệnh bắt Tôn Thất Tần chính là Hoàng Ðạo.
– Sau, hắn có cho người gặp tui, biểu chỉ cần tui chịu xin gặp hắn nhận có lầm lỡ thì hắn tha… Tui tống cái thằng đến phủ dụ ra khỏi xà lim. Sau đó thì… không biết Hoàng Ðạo đi đâu, hay là hắn tránh mặt tui, nhưng không thấy vân mòng chi nữa. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tù ở lao Thừa Phủ bị tống lên chiến khu.
– Hồi đó anh Hoàng Ðạo bị gọi ra Hà Nội. – tôi nói – Anh ấy không trở về Huế, mà làm trưởng ty công an Thanh Hóa. Ðến lúc đó Hoàng Ðạo có muốn thả bác cũng đã muộn. Liên lạc giữa các địa phương trong thời kỳ đầu kháng chiến rất khó khăn…
Tôi muốn an ủi Tôn Thất Tần. Chứ nếu Hoàng Ðạo muốn, anh vẫn tìm được cách để thả bạn mình. Anh đã quên bạn, hoặc anh muốn cho người ta thấy trong anh ngoài lợi ích của cách mạng ra không còn có chỗ cho cái gì khác.
– Từ đó, ở trong tù, tui cũng không nghe ai nói tới Hoàng Ðạo nữa…
– Rồi bác tham gia cuộc nổi loạn phá trại?
Tôn Thất Tần cười, vẻ cay đắng.
Dần dà, chắp nối những mẩu chuyện rời rạc của ông lại với nhau tôi mới biết Tôn Thất Tần rơi vào trong số những người cầm đầu cuộc nổi loạn như thế nào. Người cầm đầu thật sự là Bửu Viên (có thể tôi nhớ tên không được chính xác), sau bị xử tử, từ lâu đã ngấm ngầm chuẩn bị vượt ngục. Trong số người cùng đồng tâm với ông ta không có Tôn Thất Tần. Khi những người vượt ngục lọt ra ngoài nhà giam, họ gọi Tôn Thất Tần đi theo. Lính canh phát hiện, nổ súng. Những người vượt ngục chống lại. Cuộc vượt ngục biến thành cuộc nổi loạn phá ngục có đổ máu, có người chết, người bị thương cả ở hai phía. Sau nhiều ngày lẩn quất trong rừng tất cả lần lượt bị bắt lại. Công an cho rằng không có lý nào hai người trong hoàng tộc, một Bửu một Tôn Thất, mà không bàn bạc với nhau. Không thể nào cãi lại những ông chấp pháp dai hoi, Tôn Thất Tần nhận đại cái tội mà ông không có.
Một cuộc đời tan nát bắt đầu từ một chuyện không đâu.
Chúng tôi chơi thân với nhau, mặc dầu đứng giữa tôi và Tôn Thất Tần là Mác. Ðược cái Tôn Thất Tần không quan tâm tôi cộng sản hay không cộng sản như những người tù số lẻ khác. Người như tôi dễ được Ban Giám thị chọn làm ăng-ten lắm, bọn họ nghĩ thế và có thái độ lạnh nhạt hoặc xa lánh tôi. Có người còn xưng xưng rằng đúng thế. Tôi kệ. Dù sao thì tôi vẫn là kẻ tình cờ rơi vào hàng ngũ họ từ phía bên kia. Tôi không phải người của họ.
Tôn Thất Tần ham hiểu biết. Ông còn bắt tôi nói cho ông nghe lý thuyết chủ nghĩa Mác, là cái ông không hề được đọc. Những bài giảng chính trị của các ông cán bộ dĩ nhiên không phải chủ nghĩa Mác rồi. Các chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa Mác, theo quan niệm thông thường, không cần đi cặp kè với còng tay và cùm sắt. Tôi nói lại cho ông nghe những điều tôi biết, một cách hờ hững. Tôi đã ngán mọi thứ chủ nghĩa mà vì chúng người ta thịt nhau.
– Như vậy, anh cho rằng nó không hiện thực?
– Tất cả đều mò mẫm. Mác mò mẫm trong lý thuyết, các nhà mác-xít mò mẫm trong thực hành. Cái khác nhau là trong một lý thuyết sai lầm chỉ có chữ nghĩa là bị xây xát chút ít, còn trong thực hành là những số phận người, sai lầm gây ra bi kịch.
Tôn Thất Tần thở dài.
– Vậy cái gì còn lại trong chủ nghĩa Mác sau khi anh thất vọng với nó?
– Phần nhân bản của nó, đấy là tất cả những gì còn trong tôi. Tôi thích mục đích của cái xã hội mà Mác tưởng tượng ra: “Ðưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do” Con người chỉ được tự do thật sự khi nó thoát khỏi sự ràng buộc của những cái tất yếu…
– Tất yếu là cái gì trong khái niệm của Mác?
Tôi giải thích. Tôn Thất Tần chăm chú nghe. Trong nhà tù không có sách, không có báo, thảng hoặc có chút gì thuộc nền văn minh ấn loát lọt được vào đây thì đó lại là sản phẩm của ngành tuyên giáo(4), mang theo những ngôn từ, những khái niệm hoàn toàn xa lạ với những gì mà chàng trai hai mươi ba tuổi vào năm 1946 giữ lại từ một thời đã mất.
– Như vậy Mác là người tìm tòi, còn những đệ tử của Mác thì kiếm chác.
– Có thể hiểu như vậy.
– Cái xã hội cộng sản mà Mác mơ tưởng có khác gì thiên đường của Thiên Chúa giáo hay Nirvana của Phật giáo? Tại sao cộng sản các anh lại chống các tôn giáo?
– Tôi không chống.
– Vậy anh không phải là cộng sản rồi.
Nói chuyện chủ nghĩa Mác trong tù thật vô duyên. Ngán lắm. Tôi đề nghị dẹp nó qua một bên để chơi cờ. Tôn Thất Tần chiều tôi. Ông chơi cờ vào loại giỏi trong trại. Tôi không thể là đối thủ của ông. Ðối thủ của ông chỉ có hai: Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần, hai ông nông dân người Hoa ở Lạng Sơn.
Tôi lấy làm thú vị cách phiên âm Hán-Việt những cái tên dân dã của người Tàu. Dịp Pún Mằn nghe xấu xí là thế mà khi phiên thành Diệp Bản Minh nghe thật đẹp, sướng cái tai. Phún Nàng Cái nghe chẳng ra gì, nhưng thử đọc theo cách phiên âm Hán Việt mà xem. Nó sẽ thành Phan Hành Giai, tuyệt. Phún Nàng Cái có ông bạn không lúc nào rời là Lầm Xì Lần, hình như đọc theo âm Hán Việt là Lâm Sĩ Liên thì phải.
Hai ông nông dân ở một làng biên giới Việt-Trung trở thành tù số lẻ vì một nguyên nhân lăng nhăng. Theo các bạn tù thì đâu như chỉ vì một câu nói không đẹp đối với lãnh tụ họ Mao trong một bữa rượu, thậm chí tỉnh dậy hai ông chẳng nhớ họ đã nói gì. Cũng như trường hợp Dip Pún Mằn, tuy là phản động chống chế độ, nhưng Ban Giám thị trại biết rõ họ là ai. Ðã không sợ hai tên phản cách mạng kích động tù nổi loạn hoặc làm chuyện tầm bậy nào khác trong trại, họ còn cho hai ông vào toán tự giác chuyên về nông nghiệp. Ngoài cái sự phải xa vợ xa con và buổi tối phải vào nhà giam có khóa ngoài, hai ông nông dân vẫn i xì là hai ông nông dân cày sâu cuốc bẫm. Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần đã ở tròm trèm hai lệnh, có triển vọng được thêm một lệnh thứ ba, nhưng xem ra họ yên tâm lắm. Là dân của cái nhà nước này tốt nhất là yên tâm. Không yên tâm cũng chẳng được. Nó cho sống được sống, bắt chết phải chết, suy nghĩ mà làm gì! Mà họ cũng chẳng buồn trốn. Ngoài cái làng quê chôn nhau cắt rốn ra mãi tận Lạng Sơn, hai ông chẳng biết nơi nào khác, kể cả nước Tàu, từ đó các cụ tổ của hai ông đã tới đây. Ngoài giờ làm việc Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần bầy bàn cờ ra, dìm mọi sự đời trong những trận chiến ác liệt không có tiếng súng.
Cờ tướng ở trong tù là thú vui duy nhất của những ông già. Nhìn họ tập trung tư tưởng vào những nước cờ hiểm hóc để giành chiến thắng thì biết. Không có gì làm cho những con người đau khổ quên đi được thực tại tàn nhẫn bằng cái bàn cờ bằng giấy và những quân cờ cũng bằng giấy bồi, hoặc bằng gỗ tự gọt lấy. Nhờ bàn cờ họ đặt cuộc sống đáng nguyền rủa xuống chân để thoát tục.
– Ông Hồ cũng là một tay cờ giỏi. – Tôn Thất Tần nói.
– Sao bác biết?
– “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”. – ông trích dẫn – Không giỏi cờ không thể đúc kết chân lý nhẹ nhàng như rứa được.
– Bác có nghĩ tới một ngày bác sẽ ra khỏi đây không?
– Anh muốn nói tới cái thời sẽ khác đi?
– Cho dù cái thời có không khác đi thì người ta cũng không thể giam một con người mãi mãi.
– Tại sao lại không thể? Anh quên anh đã nói với tui về chuyên chính vô sản ở Liên Xô ra răng rồi sao? ê Việt Nam mình còn may, người ta không giết. Người châu Âu thẳng ruột ngựa, chứ người Việt mình thâm. Nuôi thằng tù chẳng hết bao nhiêu mà lại thu về được rất nhiều…
Nhìn con người gày còm xanh xao ngồi trước mặt mà thương. Tôn Thất Tần sau khi được giảm án xuống hai mươi năm còn được giảm nhiều lần nữa. Cho tới khi sạch án. Tính ra tới nay ông đã ngồi hết nợ nhà nước từ lâu. Thế nhưng ông vẫn không được tha, vẫn cứ ở tù. Không còn án thì có lệnh.
– Người ta không thả tui là do hoàn cảnh. – Tôn Thất Tần giải thích – Ðất nước bị chia cắt. Gia đình tui ở phía bên kia, chẳng lẽ họ thả tui về Nam à? Còn thả ở miền Bắc thì biết thả tui về đâu?
– Về đâu là chuyện của bác. Hết hạn thì phải tha.
– Ðâu có rứa được. Thả ra để tui đi lang thang tuyên truyền phản động à?
Cứ như thể tôi đang nói chuyện với một cán bộ tuyên huấn vậy.
Tôn Thất Tần không nghĩ tới ngày về. Ông sống bởi vì ông chưa chết.
– Có số cả đấy anh ạ! – ông nói khi ngồi bên cạnh tôi đang thoi thóp trong một trận dịch kiết lỵ làm chết cả chục tù trong trại. – Xem ra số anh số tui còn sống dai lắm.
Trận dịch bắt đầu từ chuyến tù hình sự được chuyển bằng xe ca từ trại Hà-Nam-Ninh(5) lên. Trong đám tù nhét chặt cứng trong xe có một người đang hấp hối vì bệnh kiết lỵ. Người hấp hối thì để cho họ được chết yên, còn chuyển lên làm gì, tôi không hiểu. Chắc hẳn người ta muốn tống khứ tất tật đám tù cũ đi để giải phóng mặt bằng đón tù mới. Anh tù hấp hối không phải nhập trại, mà được đưa thẳng vào nhà xác. Ðàng nào thì y cũng không trốn được nữa rồi. Ði còn chẳng nổi, nói gì trốn.
Ban đêm người hấp hối tỉnh lại, kêu gào thảm thiết. Nằm trong nhà giam tôi nghe tiếng y kêu khàn khàn yếu ớt như tiếng mèo. Chẳng có ai trong số lính gác rẽ vào xem y làm sao. Sáng ngày ra không thấy y trong nhà xác, mới đi tìm thì thấy y nổi lềnh bềnh trong bể nước. Thì ra y khát, gào mãi chẳng thấy ai đến. Y liền bò ra ngã xuống bể nước và chết chìm trong đó. Những người tù nói lính gác sợ cái nhà xác. Ðồn rằng ở đó có ma. Những con ma tù không giống các loại ma khác, chết rồi chúng vẫn cứ luẩn quẩn ở nơi chúng qua đời. Tại sao không còn gì kiềm tỏa mà chúng không về nhà thì không ai giải thích được. Vào những buổi mơ thâm tối trời hay là sáng trăng suông lại hiện lên dọa lính, lính sợ bỏ chạy thì chúng cười khanh khách.
Trong trại Tân Lập có một số bể chứa nước cho trại viên dùng. Nước được bơm từ trạm thủy điện đặt bên ngoài trại vào trong các bể trong một hệ thống bình thông nhau.
Buổi sáng bắt đầu trận dịch: toàn trại ngã bệnh. Không có thuốc, hết người này đến người khác theo nhau ra bãi tha ma dành cho tù.
Thêm một lần tôi được mục kích sức đề kháng mãnh liệt của cơ thể Việt Nam. Những người tù ốm vốn đã gày còm vì thiếu ăn vật vờ ngoài sân trại như những bộ xương biết đi, chẳng được chữa chạy gì, chẳng có thuốc gì để uống, mà không chết.
Khi dịch tắt thì đến lượt tôi bị bệnh. Trong thời gian có dịch tôi rất giữ gìn, không dám dùng một chút nước lã nào, đến cả nước rửa mặt đánh răng cũng dùng nước đã đun sôi. Nhà bếp ưu ái tôi, tôi muốn xin bao nhiêu nước chín cũng được.
Kiết lỵ là một bệnh rất khó chịu. Sức khỏe xuống rất nhanh cùng với những cơn đau quằn quại. Diệp Bản Minh, Tôn Thất Tần, cả hai ông nông dân phản cách mạng Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần đều lo cho tôi. Chốc chốc mở mắt ra tôi lại thấy hoặc người này hoặc người kia ở bên mình. Trần Chấn Hoa những ngày ấy chuyển đi chỗ khác – y sợ lây. Vả lại, y cũng chán. Tôi kín như bưng. Chẳng có thể gợi ở tôi câu gì. Ðôi khi, sốt ruột, y hỏi thẳng vào chuyện vụ án. Tôi bảo công an dặn đây là bí mật của Ðảng không được nói với ai, thế là xong.
Một đêm tôi thức giấc vì nghe mơ hồ có tiếng người gọi.
– Ai đấy?
– Em đây, Cao đây!
Trong bóng đêm tôi thấy một bóng người lờ mờ cúi xuống. Cái bóng ghé sát tai tôi:
– Anh ơi, anh đừng chết!
Tôi bật cười. Làm sao có thể đừng chết được? Chết là cái không thể đừng. Sức mạnh của cái chết là không thể ngăn cản.
Cao ghé người nằm xuống. Ðó là một thanh niên nhỏ bé, nhưng rất nhanh nhẹn, bị tập trung cải tạo với tội danh biệt kích. Tôi không hiểu tại sao Cao bị tập trung cải tạo. Nhưng tôi cũng chẳng buồn tìm hiểu. Trong nhà tù có quá thừa những điều làm tôi ngạc nhiên. Ðây là nơi tập trung những điều phi lý nhất nhưng có thật. Nói theo cách Descartes(6), chúng tồn tại chỉ vì chúng hữu hình.
– Trong trại chỉ có hai người cộng sản là anh và em. – tôi nghe tiếng Cao thì thào bên tai – Em có trách nhiệm bảo vệ anh.
Tôi cố cựa quậy cánh tay nặng như chì để nắm lấy tay Cao:
– Cảm ơn em.
– Em đã bàn với bác Tần. Bác với em sẽ cố gắng chăm nom anh để anh chóng khỏe…
Tôi cười cay đắng. Giờ đây tôi có hai người đang ra sức giúp tôi chống lại cái chết: một phản cách mạng và một cộng sản.
Sáng hôm sau, theo lời khuyên của Cao, tôi viết một bức thư gửi về cho gia đình để gia đình xin thăm đột xuất, mang thuốc cho tôi. Tôi viết, không mấy tin tưởng ở kết quả bức thư. Nó đến được hay không là một chuyện. Nhà cầm quyền có cho gia đình lên thăm tôi hay không là chuyện khác. Bức thư đã đến. Vợ tôi tức tốc lên ngay. Bằng cách nào Cao gửi được bức thư tôi không biết. Chắc Cao bàn với Dịp Pún Mằn và gián điệp quốc tế đã liều mạng để cứu tôi.
Từ hôm đó hàng ngày đi làm về là Cao đến giặt giũ quần áo cho tôi, lo lắng cơm nước cho tôi, mặc dầu Cao ở một toán khác. Tôi được ăn nhiều rau hơn, thức ăn ngon hơn, cơm cũng nhiều hơn, có hôm là ngô tươi. Thức ăn của trại được hâm lại, nóng hổi. Trong bữa ăn, Tôn Thất Tần và Cao ngồi bên, khuyến khích tôi ăn từng miếng.
Tôn Thất Tần mách tôi:
– Anh phải ngăn thằng Cao. Ai lại nó leo vào cả vào trong kho của Ban lấy cắp mì chính, muối, cả ngô nữa. Họ mà bắt được thì chết!
Cao nghe tôi trách, cười hì hì:
– Nghề em mà, anh đừng lo.
Lúc ấy tôi chưa biết Cao là chiến sĩ đặc công.
Cũng trong những ngày này Cao kể cho tôi nghe vì sao cậu ta mang tội danh biệt kích.
Hai năm trước, tại vùng chiến thuật 1(7), tiểu đội trinh sát của đơn vị đặc công mà Cao là tiểu đội trưởng đang len lỏi trong rừng thì gặp một trung đội thám báo địch từ trực thăng đổ xuống. Một trận tao ngộ chiến dữ dội nổ ra. Kém hẳn đối phương về quân số và trang bị, các chiến sĩ trong tiểu đội Cao lần lượt ngã xuống. Còn lại một mình Cao và một đồng đội bị thương nặng. Cao bắn trả cho tới khi khẩu AR15 hết đạn. Ðúng lúc Cao đập khẩu súng, cõng đồng đội xông ra để cướp khẩu súng khác quyết tử với địch thì viên sĩ quan phía bên kia kêu lên: “Không được bắn! Phải bắt sống!”
Ðưa Cao về vị trí đổ quân, viên sĩ quan ra lệnh cởi trói cho Cao, rồi rót rượu mời Cao: “Tôi hân hạnh được mời rượu một người anh hùng! Hãy bỏ qua một bên những bất đồng chính kiến, chuyện bên này bên kia, để uống với tôi, một người Việt, đồng bào anh!”. Cao uống. Theo yêu cầu của Cao viên sĩ quan chôn cất cẩn thận các bạn đồng đội của Cao trước mặt Cao, rồi gửi trực thăng đưa Cao về Sài Gòn.
Cao bằng lòng chiêu hồi. Quân đội Sài Gòn cho Cao đi học tại khu biệt kích Long Thành. “Không dễ dàng gì mà vào trinh sát trong một trường huấn luyện biệt kích của địch, Cao nghĩ. Mình tương kế tựu kế vào trong đó tìm hiểu rồi trở về báo cáo với trên, hóa hay!”. Xong lớp huấn luyện Cao được ném ra miền Bắc, xuống khu vực Yên Bái. Sau khi giết toán trưởng biệt kích, Cao ôm điện đài chạy ra quốc lộ, giơ súng chặn một chiếc xe tải, bắt chở thẳng về Hà Nội.
Cao được đón tiếp tử tế, được nuôi nấng chu đáo, sang trọng nữa là khác, trong suốt thời gian ngồi ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Người ta bảo Cao viết lại toàn bộ những gì cậu ta trinh sát được tại khu Long Thành. Viết xong thì cán bộ quân pháp tới bắt đi giao cho bên công an. Ðó là lý do vì sao Cao có tội danh biệt kích mà không có án hình.
Tôn Thất Tần biết chuyện, lắc đầu:
– Người ta đối với cậu rứa tệ quá!
– Thế người ta đối với bác không tệ à?
– Tui khác, cậu khác. Tui là phản cách mạng. Cậu là cách mạng.
Sau khi bị tôi trách, Cao không dám leo vào kho công an ăn trộm nữa. Có vẻ cậu ta coi ý kiến của tôi là mệnh lệnh cấp trên, không thể cưỡng.
Cơn bệnh qua, tôi ăn giả bữa, lúc nào cũng thấy đói. Tôi không nghĩ tới cái gì khác ngoài miếng ăn. Thèm đủ thứ. Thậm chí nghĩ tới một miếng cháy nước dãi đã ứa ra.
Còn nhớ một hôm toán tôi được lệnh đi chữa nhà cho Ban Giám thị, mấy ông bạn tù già mừng rơn khám phá ra lu nước gạo của Ban đầy cơm thừa đổ đi lẫn lộn với trăm thứ bà dằn khác. Tôi được phân công ở trên mái để dặm lại mấy chỗ tranh mục, đồng thời canh chừng cho các bạn tù xột xệt(8) bên dưới. Tôi vờ cặm cụi làm, nhưng mắt vẫn bao quát một vùng chung quanh. Chỗ cơm thừa trong phút chốc đã trở thành nồi cháo ngon lành, tuy phảng phất mùi chua của dấm bỗng.
Ở bên dưới người ta gọi lên:
– Bác Hiên ơi! Bác xuống ăn với chúng tôi.
Tôi cảm thấy ruột gan cồn cào, nhưng tôi rùng mình khi nghĩ tới lu nước gạo.
– Cảm ơn các bác. Các bác cứ ăn đi. Ðể tôi gác cho.
– Chúng tôi sẽ để phần bác.
– Tôi không ăn đâu. Mấy bữa nay bụng dạ tôi không tốt.
– Vậy cũng được. Chúng tôi ăn hết nhá?
Trong nhà tù cuộc đánh nhau với bản thân không bao giờ kết thúc. Chỉ có thể thắng từng trận một. Câu chuyện năm xưa với ông Ðặng Xuân Thiều trở về trong trí nhớ. Biết ông được các đồng chí gọi là “anh hùng thành Ký Con(9)”, vì ông đã chịu đựng được hai mươi bảy trận đòn tra liên tục, tôi hỏi ông:
– Chú ơi, làm thế nào mà chú chịu đựng giỏi thế?
Ông cười hà hà:
– Giỏi gì! Tao cứ cố chịu từng trận một, Chịu được đến đâu biết đến đấy. Có thể trận thứ hai mươi tám thì tao gãy, biết đâu đấy, ai dám nói chắc, nhưng chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc thì tao được anh em bốc lên tôn làm anh hùng, chứ anh hùng cái gì đâu…
Ông không khiêm tốn giả vờ. Ông nói sự thật “chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc”, nhưng chất anh hùng thật lại ở chính trong lời thú nhận “biết đâu đấy, ai dám nói chắc”. Cái chất ấy ông vẫn giữ được khi cách mạng thành công rồi, có thể nhân danh những hy sinh để đòi hỏi đãi ngộ. Là anh em với tổng bí thư Trường Chinh, ông có thể kiếm được một chức to hơn chức vụ trưởng, nhưng ông thích làm vụ trưởng Bảo tồn bảo tàng để chăm lo cho những gì tổ tiên để lại không bị mai một. “Thấy đền chùa bị phá nhiều quá, tao sót, ông nói. Hết Bắc thuộc lần thứ nhất đến Bắc thuộc lần thứ hai, rồi trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh khác, các công trình kiến trúc của các cụ có còn được là mấy. Phải có người giữ gìn chứ!”
Những tấm gương của thế hệ đi trước nâng đỡ tôi rất nhiều trong những năm tù, từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng. Khi bị những cơn đói dày vò tôi thường nhớ tới các bậc tiền bối cách mạng đã chịu đựng thế nào trong nhà tù đế quốc để động viên mình vượt qua sự khốn khó.
Những cơn đói cồn cào vào cái đận giả bữa bớt hành hạ tôi còn nhờ những ván cờ của Tôn Thất Tần. Về cờ tướng tôi không đáng học trò ông. Nhiều hôm, mải đánh cờ, tôi quên cả ăn. Tôi quên thì đã có Cao nhớ. Thấy chúng tôi đang mê mải chơi cờ cậu ta vác bát ra lĩnh cả cho tôi lẫn Tôn Thất Tần.
Tôi cũng thích để Cao nhận phần cơm cho chúng tôi. Tuy việc chia cơm trong các toán số lẻ có tiếng là công bằng, nhưng không phải vì thế mà được phép lơ là. Cao không hổ danh chiến sĩ trinh sát. Mắt cậu ta tinh như mắt mèo, không cho phép ai qua mặt.
Tù số lẻ chia cơm bằng cân. Người ta làm lấy một cái cân thô sơ để cân cơm. Cái cân tự tạo giống như cân tiểu ly, chỉ cần thêm hoặc bớt một chút xíu cơm bằng đầu ngón tay là nó đã mất thăng bằng. Tù số chẵn, dù boọc, dù có án, đều nhìn cái cân bên số lẻ bằng con mắt khinh bỉ. Quen ăn tiêu về nhiều ngoài xã hội, họ coi cái sự cân cơm là ti tiện. Tù số chẵn dùng bát để đong khi chia cơm, bát vục mạnh thì cơm được nêm chặt, vục yếu thì cơm xốp, cho nên suất cơm của các sĩ quan bao giờ cũng lớn hơn suất cơm lính.
Về chuyện chia thịt thì cả số lẻ lẫn số chẵn đều chia như nhau, theo cùng một cách. Tù sắp bát thành hàng, người chia thịt chọn từng miếng đều nhau gắp vào mỗi bát. Chia cho thật đều rất khó vì nhà bếp chặt miếng to miếng nhỏ, miếng nạc miếng xương, không bằng nhau. Người ta giải quyết chia cho công bằng bằng cách viết tên cả toán vào một mảnh giấy, một người cầm mảnh giấy quay lưng lại những bát thịt đã được chia, một người khác gõ bất ưng vào một cái bát nào đó, người cầm giấy xướng lên một cái tên, thế là người có tên lĩnh phần thịt mang đi. Cách này gọi là quay mặt đặt tên. Như thế, mỗi lần trại cho ăn thịt là mỗi lần mình phải nhận phần trong bát người khác. Có những cái bát cóc cáy, nhìn mà ghê, lúc đầu tôi rất sợ, mãi mới quen. Mọi người đều cho rằng Tôn Thất Tần bị lao phổi, nhưng đến bữa có thịt, người nào vớ phải bát của Tôn Thất Tần cũng vẫn ăn ngon lành như thường. ê trong tù mà khắt khe chuyện vệ sinh cũng chẳng được. Ðã ở tù thì phải chịu ở lẫn với đủ thứ bệnh tật. Trong trại có cả người hủi. Anh ta ở chung với mọi người, nhưng chưa thấy ai bị lây. Về sau, gặp được viên giám thị tốt bụng, anh ta được ở cách ly trong một phòng con tí xíu ở đầu hồi trạm xá(10) và từ đó thôi không phải đi lao động hàng ngày nữa.
Trong trại giam dù anh có án hay anh boọc, dù anh mang số lẻ hay số chẵn, dù anh là tù thường hay tù binh, đều là tù tuốt. Tù thì phải lao động. Nhưng nếu lao động để mà sống thì chuyện dễ hiểu. Khó hiểu ở chỗ lao động cải tạo kia.
Người nước ngoài thường có sự hiểu lầm cụm từ lao động cải tạo. Họ tưởng chỉ có tù mới phải lao động cải tạo. Hoàn toàn không phải thế. Sau năm 1950, biên giới Việt – Trung thông thương, khái niệm lao động cải tạo được du nhập vào Việt Nam lần đầu. Nó tới cùng với sự học tập giáo trình Lịch Sử Tiến Hóa Nhân Loại, trong đó Charles Darwin(11) được nhắc đến một chút, Mác và Engels một chút, còn lại là sự phát triển tư duy của Mao Trạch-đông và các lý thuyết gia nội hóa. Chúng tôi, con cháu loài khỉ(12), phải biết ơn lao động, mà là lao động chân tay kia, chứ lao động trí óc không được tính đến, nhờ có nó mà tổ tiên chúng tôi mới thành người.
Câu nói “Trí thức mà không có thực hành giá trị không bằng cục phân” của Mao chủ tịch được nhắc đi nhắc lại là trong thời kỳ này. Người mác-xít chỉ biết có một thứ trí thức ứng dụng, trí thức lý thuyết là đồ bỏ. Trong chính sách cán bộ, khi xem xét khả năng cán bộ để cất nhắc, để điều động, tiêu chuẩn lao động chân tay được coi như một thử thách không thể thay thế. Nói cách khác, người ta thành tín cho rằng có thể cải tạo con người bằng lao động. Thành thử cán bộ bên ngoài cũng phải đi lao động chân tay thường xuyên, gọi theo cách Trung Quốc là hạ phóng. Tôi đã hạ phóng một lần về mấy xã huyện Ðông Quan tỉnh Thái Bình với ông Nguyễn Ðức Quỳ, thứ trưởng Bộ Văn Hóa. Chúng tôi đi cầy, đi cấy, be bờ, tát nước cùng với nông dân. Tôi làm giỏi hơn các cán bộ thành phố nhờ những năm ở làng với bà cô trọn đời đồng trinh. Nhưng cả tôi, cả ông thứ trưởng có học đều không tin lao động có thể làm cho chúng tôi người hơn con người chúng tôi hiện có. Cứ tới thứ bẩy, chủ nhật là chúng tôi lấy cớ đi họp trên tỉnh để lên thị xã Thái Bình tắm nước nóng.
Người tù, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo, lại càng cần phải cải tạo bằng lao động. Họ cho rằng người tù bị tù là do có những tư tưởng xấu, tư tưởng địch, nếu chịu khó lao động, anh ta có thể tự cải tạo mình để trở thành người tốt. Những người tù chăm chỉ lao động được giảm án nhiều hơn những người tù lười lao động. Những người yếu đuối không có khả năng lao động cũng bị coi là lười, đâm ra bị thiệt.
Toán tôi là toán tạp dịch, nay đi nhổ cỏ lúa, mai đi cuốc ruộng. Từ trong xà lim ra, bốn năm có lẻ không đụng tay đụng chân đến việc gì, nay cầm cuốc cầm cày, tôi rất mệt. Nhưng tôi cố gắng để không kém mọi người, bởi vì công việc được khoán theo tổ (nhóm nhỏ), mình làm ít thì người khác làm nhiều. Hơn nữa tôi không muốn để cho những kẻ muốn hành hạ tôi được thấy tôi khổ sở vì lao động vất vả. Tôn Thất Tần biết ý, nói nhỏ với anh em bên cạnh chỉ làm túc tắc thôi, đạt mức thì tốt, không đạt thì thôi, cho tôi nương vào. Ðược cái người ta chỉ có thể quở trách một cá nhân làm không đạt mức, chứ khi cả tập thể không đạt thì huề, bao giờ cũng có cả đống lý do để mà biện bạch.
Một hôm toán được phân công cuốc đồi trồng sắn. Trời nắng chang chang, quanh chỗ làm không một bóng râm, đồi lại toàn sỏi lổn nhổn, tôi vừa làm vừa thở hồng hộc. Quản giáo ngồi nấp dưới một cây sắn còn sót lại, phanh áo ra mà quạt, mặt đỏ lựng. Khi được lệnh nghỉ, tôi nằm vật ngay ra chỗ đất vừa cuốc, thiếp đi. Tôi mơ thấy mình đang nằm bên một dòng sông trong vắt, nước ụp oạp mênh mông, cái transistor đặt trên bụng. Từ trong máy phát ra bản Concerto Số Một của Tsaikovsky(13) do Van Klibern chơi. Tôi đang sung sướng tận hưởng khúc nhạc tuyệt vời, nhờ nó Van Klibern được giải thưởng quốc tế về dương cầm năm 1956, được nước Mỹ trải thảm đón mừng, được tổng thống Mỹ đích thân tiếp, thì nó nhỏ dần rồi mất hẳn, như thể sóng điện bị lạc. Tôi cuống quít vặn núm đài nhưng không tìm ra. Tỉnh dậy, thấy tay mình vẫn còn đang loay hoay cái núm vô hình, trên đầu mắt trời chói lòa.
– Anh ngủ tài thiệt! – Tôn Thất Tần nói – Ðược một giấc rồi đấy.
Tôi đứng lên, bàng hoàng. Dưới chân tôi là một hình người in rõ nét trên mặt đất lổn nhổn.
– Tôi được một giấc mơ đẹp.- tôi nói – Hoài của, có một bản nhạc hay ơi là hay mà không nghe được hết. Bác không chợp mắt một chút à?
– Chợp răng được. Nắng rọi vào mắt như ri. Tui đang mải ngắm con trâu.
Chênh chếch dưới chân chúng tôi một con trâu đang lười biếng vặt từng nạm cỏ hiếm hoi. Cái đuôi trần trụi với túm lông thưa quật đi quật lại không mệt mỏi.
– Nó có gì lạ?
– Tui ghen với nó. Nó sướng quá!
– Sướng cái gì chứ?
Một nụ cười chua chát thoảng bay trên khóe miệng “Jean Valjean gọi bằng cụ”:
– Nó không bao giờ phải cải tạo. Ra đời đã lao động rồi. Ðỉnh cao của vinh quang(14)! Loài người từ khỉ mà lên nhờ lao động. Chúng mình lao động mãi như ri rồi sẽ tiến lên loài chi nhỉ?
(1) Nhân vật chính trong cuốn Những Người Khốn Khổ (xuất bản năm 1862) của đại văn hào Pháp Victor Huygo (1802-1885).
(2) Món ăn vùng Trung Á
(3) Nguyên thứ trưởng Bộ Y tế nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
(4) Việc không cho tù được đọc sách còn lại cho tới bây giờ. Năm 1995, khi Hoàng Minh Chính bị bỏ tù (xã hội chủ nghĩa) lần thứ ba, ông muốn đọc các sách về luật pháp để tự bào chữa khi ra tòa người ta cũng không cho. Kể cả đến cuốn sách về luật Việt Nam do Nhà xuất bản Pháp lý (của Nhà nước) ấn hành ông cũng không được nhận.
(5) Một tỉnh gồm Nam Ðịnh, Ninh Bình và Hà Nam nhập lại dưới thời Lê Duẩn.
(6) René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.
(7) Vùng từ Quảng Trị – Thừa Thiên kéo dài tới Ðà Nẵng.
(8) Tiếng lóng trong nhà tù = nấu nướng.
(9) Tên thành phố Hải Phòng do những nhà cách mạng tiền bối đặt.
(10) Nơi chữa bệnh cho tù, bệnh xá.
(11) Charles Robert Darwin (1809-1882), nhà cách mạng trong sinh vật học, giải thích sự tiến hóa của nhân loại theo quan điểm duy vật.
(12) Vì nghe thế nó… khỉ quá, nên ông Trần Văn Giàu đã sửa lại trong giáo trình Duy Vật Lịch Sử của ông thành hầu nhân.
(13) Tchaikovsky Piotr Ilich (1840-1893), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga
(14) Khẩu hiệu của Ðảng: “Lao dộng là vinh quang!”.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:44:21 GMT -6
Chương 39
Nguyễn Xuân Cao được ra trại bất thình lình.
Một sáng, toàn trại đang ngồi ngoài sân chờ đi lao động thì phó giám thị kiêm cán bộ phụ trách giáo dục gọi tên Cao.
Cao lững thững đi lên trước hàng. Bao giờ cậu ta cũng lững thững như thế. mặc dầu cán bộ trại uốn nắn nhiều lần. Cái dáng đi ngang tàng như có ý nói: “Tao đây! Chúng mày muốn gì?”
Tôi ngồi ở hàng không nghe được họ nói gì với nhau. Chỉ thấy Cao quay lại nhìn tôi rồi đi theo cán bộ giáo dục. Lát sau, từ phía nhà giam Cao cắp quần áo chạy như bay về phía tôi. Một quản giáo chặn Cao lại.
– Em đi nhááá! – Cao kêu lên từ xa.
– Ði đâu? – tôi hỏi với.
– Em được thaaa…!
Viên quản giáo nắm lấy tay Cao lôi tuột về phía cổng.
Từ đó tôi không gặp lại chàng trai đáng mến nữa.
Tôn Thất Tần trở nên đăm chiêu.
– Tui không tin cậu ta được tha. – ông nói, mấy hôm sau – Anh có nghĩ rứa không?
Tôi hơi ngạc nhiên trước ý nghĩ của ông.
– Tha là chuyện bình thường. có gì lạ đâu? Cậu ta có thể bị oan, hoặc có những tình tiết giảm nhẹ…
– Tha chi mà mần rứa. – ông nhăn trán – Cao lại chưa hết một lệnh. Cũng không tha theo đợt, mà gọi ra một mình. Có khi nó bị chuyển đi trại khác cũng nên.
Tôi thì tôi tin Cao được tha. Có gì lại đâu, người ta xác minh xong rồi thì người ta tha. Chuyện xác minh kéo dài hàng nhiều năm là chuyện thường. Ðã từng có những chiến sĩ cách mạng bị vu oan có khai báo bị ngồi chơi xơi nước cả chục năm. Giờ đây người ta đã biết chiến sĩ trinh sát Nguyễn Xuân Cao đúng là đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi bị bắt, trên lưng cõng đồng đội bị thương. Báo cáo tỉ mỉ của Cao về khu biệt kích Long Thành cũng chính xác. Nó rõ ràng là một chiến tích. Chẳng lẽ một việc dễ như vậy mà lại không xác minh được? Với tất cả sự giỏi giang của ngành quân báo.
Cách tha kỳ cục, không dám cho người được tha tiếp xúc với ai, không làm tôi ngạc nhiên. Trong một xã hội mắc bệnh sân khấu cuồng thì mọi sự đều có thể. Chẳng qua người ta thấy Cao thân với tôi, không muốn trước khi Cao ra về tôi nhắn Cao làm hộ việc gì đó, chuyển lời tới ai chẳng hạn. Có thể là như thế.
Cao để lại tất cả tài sản: hai cái tô men, thìa, đũa. Tôi đem cho một bạn tù nghèo. Anh chàng gày còm da bọc xương có cái bát men đại lại thủng lỗ chỗ. Ngày nào tôi cũng thấy anh ta hàn vá bằng nhựa PE đốt cháy thành những giọt đen như nhựa đường. Có hôm được xuất canh trại nấu xương bò, vừa được chia nước đã chảy tong tong. Canh nấu xương là quý lắm, anh ta húp vội húp vàng nhưng không kịp, nước canh chảy ướt cả ngực áo. Vả lại, tôi không muốn nhìn thấy những kỷ vật gợi nhớ tới chú em đã chăm chút tôi trong những ngày tôi tưởng là cuối cùng của đời mình.
-Tui e thằng Cao bị đưa lên Cổng Trời. – Tôn Thất Tần buồn rầu – Dễ rứa lắm!
Tội nghiệp, nếu Cao bị đưa lên đó.
Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của tù. Những người đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải chỉ vì sợ công an trừng phạt (nghiêm cấm nói tới bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe ngỡ mình bịa đặt. Dường như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai. Không giống những trại khác, Cổng Trời là nơi chỉ có tù số lẻ, và là tù đặc biệt quan trọng, đặc biệt nặng. Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị khóa cánh tiên, bị hạ huyệt, còn nếu bị cùm hộp thì coi như đời đi tong.
Khóa cánh tiên là thế nào thì khi chuyển tới trại Phong Quang ở Lao Cai tôi mới được biết. Người tù bị khóa cánh tiên phải dang hai tay ra, lòng bàn tay mở ngang với ngực, sau đó hai tay sẽ bị kéo vào từ từ cho tới khi cổ tay sát nhau, lúc bấy giờ mới bập khóa số 8 lại. Với cách khóa này, lồng ngực người tù bị căng ra hết mức, rất đau đớn. Có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, nhưng cũng có những người chịu được hàng tiếng đồng hồ liền.
Hạ huyệt thì mắt tôi chưa thấy. Mà hạ huyệt hoặc cùm hộp cũng chỉ có ở một trại Cổng Trời mà thôi. Hạ huyệt, theo người ta kể, là thế này: người tù nằm vào một mảnh ván, bị cùm, mảnh ván được hạ xuống một hố sâu như cái huyệt, sau đó nắp được đậy lại. Trong huyệt ngộp lắm, không khí chỉ rỉ vào qua những lỗ nhỏ, người tù ở dưới phải há mồm như cá ngão để đớp từng ngụm không khí.
Kinh khủng nhất là cùm hộp. Ðó là hai thớt gỗ to được khoét lõm theo hình hai cẳng chân người. Người tù bị cùm hộp là chắc chết, bởi vì chỗ lõm vào rất nhỏ, khi thớt gỗ trên hạ xuống cũng là lúc người tù chỉ kịp hét lên một tiếng rồi ngất liền – xương cẳng chân đã vỡ vụn. Bị cùm hộp người tù sẽ chết sau một hai ngày, giỏi lắm thì được một tuần. Nhưng đã có người chịu được tới hơn hai chục ngày, làm cho Ban Giám thị phải báo cáo trước toàn trại: “Tên X. sau hai mươi ba ngày chịu kỷ luật đã đền tội”. Trong ngôn ngữ công an, đền tội có nghĩa là chết. Xác tù chết bị vùi nông trong các hố, đàn lợn trại thường ra nghĩa trang lấy mõm cầy lên, nhai rau ráu.
Tôi xếp những chuyện kinh khủng đó vào lĩnh vực huyền thoại. Tôi không tin những người mà trước đây tôi gọi bằng đồng chí lại có thể tàn ác đến thế. Tôi ghi lại chuyện này để sau có ai nghiên cứu chế độ nhà tù Việt Nam thì tìm hiểu thêm – không có lửa sao có khói? Mặt khác, tôi cũng không nghĩ những người tù bịa chuyện.
“Jean Valjean gọi bằng cụ” yên trí với sự ở tù. Ông coi tù là nhà.
– Tui sẽ ở nơi ni cho tới chết! – ông nói.
– Bậy nào. Rồi cũng có lúc bác phải ra khỏi chốn này chứ! Nó đâu phải chốn vĩnh cửu cho con người.
– Ðó là karma(1) của tui.
Mùa đông đến, gió bấc thổi ù ù, mặt người nào người nấy tím tái, nhưng chúng tôi vẫn phải ra đồng từ sớm. Cực hơn cả là đúng vào lúc giấc ngủ say sưa nhất thì quả bom chết treo trên cổng trại bỗng đùng đùng thét lên làm chúng tôi giật bắn mình. Lồm cồm bò dậy, những người tù ngơ ngác nhìn cảnh thực tại – những bóng người lồm cồm bò dậy từ những manh chiếu trải sát nhau trên hai tầng giường, khói thuốc lào khét lẹt.
Giấc mơ về cuộc sống khác đã rời xa. Tôi bất giác nhớ tới bài thơ Kèn La-Vầy(2) Ở Ngục Kontum của Hà Phú Hương(3):
Kèn ai đó! Linh hồn đang cơn say đắm. Kèn kêu, cố bừng mắt ngay, Ðể cùng sắn tay, khúc đường chờ đây!
Bài này được in trong nhiều tập tuyển thơ ca cách mạng. Tác giả đọc nó cho tôi, một thằng bé con mặc áo lính, trong một đêm lạnh giữa rừng Việt Bắc.
Nhà thơ cách mạng cao ngồng, gày nhẳng, đung đưa trong ánh sáng lay động của đĩa đèn dầu lạc, mái tóc bạc xõa xuống trán, ngẩng cao đầu bắt chước điệu kèn Tây: “Tò te tí, te tò te te te tí! Tò te, tí tò tí te, tí tó tí te, tí tò tò te…” Nhìn ông hào hứng cất giọng trầm bổng “Nó rung lên gắt gỏng bỏ vào tai. Hơn cả tiếng mẹ chồng đay lúc dỗi. Trời chưa sáng, đây phòng lan bóng tối…”, tôi hình dung những bậc tiền bối cách mạng chân xiềng tay xích bừng tỉnh giấc nồng giữa một banh tù chật ních mà rùng mình. Tôi nghĩ mình mà phải ở tù thì eo ơi, chết mất, không sống nổi.
Nghe tiếng kẻng báo thức đinh tai, xoáy vào óc như một mũi khoan, làm sởn gai ốc tôi muốn bắt chước Hà Phú Hương làm một bài thơ về nó lắm. Phùng Mỹ nói đùa: “Âm mưu đế quốc gớm thật. Này nhé, đế quốc Mỹ làm bom. Ðế quốc Pháp ném. Bom từ đại chiến thế giới lần thứ hai để lại quả nổ quả tịt. Quả này tịt hẳn rồi mà vẫn tiếp tục giết, không giết người được nữa thì nó giết tế bào não của người! Thù này muôn đời muôn kiếp không phai: “. Một tứ thơ vui, đầy ngạo nghễ. Nhưng không được như tiếng kèn, quả bom chỉ phát ra một âm điệu đều đều. Nếu lúc đầu nó la hét thì ở đoạn cuối nó thở rốc vì mệt mỏi. Hoặc vì chán ngán. Bài thơ không thành. Nó cần âm điệu. Âm điệu lại không có.
Tiếng Việt có những từ “đói” và “rét”, “đói” và “rách” hay đi liền với nhau thành cặp. Cái sự liên kết xem ra có lý lắm. Người tù rét vì đói. Chúng tôi người nào cũng gày, chẳng ai có lấy một lớp mỡ mỏng dưới da để ngăn cái lạnh luồn vào sâu trong cơ thể. Những ván cờ không làm chúng tôi quên được cái đói cồn cào. Tôi kiên trì tập lại hatha yoga mỗi đêm, trước khung cửa sổ mở toang, trong tiếng ngáy rầm rĩ của một trăm cuống họng.
Cái đói làm cho con người mụ mẫm đi, sinh ra những quái tượng. Chẳng hạn, ở bên số chẵn tù thường bắt chuột, nghóe, chão chàng, thằn lằn, nướng qua quít ăn tại trận. Có lần tôi thấy một anh tù bắt được ổ chuột con chưa mở mắt. Lại đúng vào lúc kẻng hết giờ làm, củi lửa phải rập hết, không nướng được nữa. Thế là anh ta nhai sống luôn mấy con chuột con, máu chuột chảy ròng ròng xuống mép.
Lại có anh chàng mỗi ngày ăn hết hai tờ Nhân dân. Nếu không thấy tận mắt chắc tôi cũng không tin. Anh chàng này thấy ai có tiếp tế là sà đến xin. Không phải xin tiền, xin ăn, nghề hành khất không tồn tại trong trại, mà là xin giấy gói. Xin được rồi, bất kể giấy gì, phần nhiều là báo Ðảng, anh ta ăn tại chỗ trước con mắt kinh hoàng của mọi người.
– Anh chàng ni mới là tay có lập trường cao nhứt trong chúng ta! – Tôn Thất Tần bình luận – Chúng ta năm thì mười họa mới được nghe cán bộ giảng giải đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước. Nghe thời cũng câu được câu chăng, tam sao thất bản. Hắn ta nuốt chửng lời của Ðảng vào bụng, phỏng có ai bằng?
Ai cũng biết dạ dày không tiêu hóa được vỏ khoai lang. Thế nhưng đám lính vét bên số chẵn, vật vờ như những cô hồn, cứ đến bữa cơm lại mò sang các nhà số lẻ nhặt nhạnh bằng hết những vỏ khoai ở dưới đất. Tù số lẻ cũng đói, nhưng phần lớn đã đứng tuổi, giữ được sự tỉnh táo. Ðám trẻ khi đói thì rơi vào cơn hôn mê.
Trong đám tù số lẻ có một nhân vật đặc biệt, người miền Nam tập kết. Anh ta có một bộ mặt kỳ dị. Tôi chưa từng gặp bộ mặt nào kỳ dị như thế. Nếu nhìn anh ta từ bên trái trong tư thế nghiêng ta sẽ thấy một con người hiền lành, phúc hậu, nhưng chỉ cần bước một bước sang bên phải thì ta sẽ rùng mình thấy trước mắt mình một quái vật, một con quỷ. Tôi không nói ngoa: một cái sẹo lớn chạy từ đỉnh đầu xuống trán, bạt đi một nửa lông mày, kéo xệch mi mắt lên trên để lộ một con ngươi trợn trừng, lòng trắng nhằng nhịt những tia máu đỏ. Một cái sẹo khác trên má chạy xuống tới tận cổ, kéo khóe miệng bất động về phía mang tai, phô ra nửa hàm răng lởm chởm. Bên dưới cái vai lẹm vì một vết chém thứ ba là cánh tay cụt tới cùi chỏ.
Anh Nguyễn Hữu Muôn, cũng dân tập kết, nhà báo, bị tập trung cải tạo (vì một cuốn tiểu thuyết chưa kịp viết, theo anh kể, hoặc do dám nói xấu lãnh tụ, theo những người khác) cho biết Dần Cụt tham gia cách mạng suốt từ tổng khởi nghĩa cho tới khi tập kết. Hồi mới đầu anh ta làm đao phủ, nghe nói chém nhiều người lắm. Những vết sẹo trên mặt Dần Cụt là do một tội nhân chết hụt ném lựu đạn để trả thù. Một người Nam bộ khác, anh Thạch Mười, tín đồ Hòa Hảo, làm nghề đánh xe trâu trong trại, nói rằng Dần Cụt bị tù là do các oan hồn báo oán. Chứ anh ta nông dân, trình độ chính trị thấp tè, văn hóa mới thoát nạn mù chữ, chẳng có lý do gì để trở thành số lẻ cả.
Tôi ngạc nhiên gặp quá nhiều người Nam bộ tập kết trong tù. Cái đó giống như một điều vô lý: họ trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, là những cán bộ, chiến sĩ cách mạng, tập kết ra Bắc theo Hiệp nghị Genève. Có ai bỏ quê hương ra Bắc để vào tù đâu? Tiểu sử của Thạch Mười có tính chất đại diện cho nhiều người tù gốc Nam bộ. Anh cho rằng anh bị bắt là phải – người ta nghi anh chạy theo địch. Hai năm sau đã trôi qua, chẳng thấy có tổng tuyển cử như Hiệp nghị Genève quy định, nhớ nhà quá, anh tự động bỏ về Nam, bị bắt khi vượt vĩ tuyến 17. Xử tù anh không được, người ta cho anh tập trung cải tạo. Dần Cụt chắc cũng mắc tội tương tự, nhưng khi tôi hỏi thì nửa mặt bên trái anh ta nở nụ cười trừ, nửa bên phải căng ra, nhâng nháo, đầy vẻ khiêu khích.
Dần Cụt thuộc toán lâm sản chuyên khai thác nứa. Mất một tay nhưng sức vóc anh ta hơn bất cứ ai lành lặn trong toán. Và ăn khỏe vô cùng. Có lần anh em tù đố Dần Cụt ăn hết một thùng cháo sắn (nghĩa là lưng thùng sắn, còn lại là nước). Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, kể cả cán bộ quản giáo, Dần Cụt điềm nhiên ăn từ từ cho tới khi cái thùng gánh nước còn trơ đáy. Sức khỏe kỳ lạ của Dần Cụt chỉ mất đi sau một tai nạn lao động. Anh ta thường bó nứa lại thành bè rồi ngồi lên trên cho trượt dốc, chứ không lao nứa xuống rồi bó lại dưới chân dốc như người khác. Cái bè lần ấy không tuân theo tay lái của Dần Cụt. Nó băng băng theo lối mòn rồi bất thình lình chồm lên, bay qua một hướng khác, nơi dốc núi dựng đứng vách thành, quăng Dần Cụt từ trên cao xuống đất. Anh ta ngất đi, người đẫm máu. Khi Dần Cụt được khiêng về trạm xá, mọi người đổ đến xem, ai cũng cho rằng anh ta khó qua khỏi. Thế mà Dần Cụt vẫn sống cho mọi người được thêm một lần ngạc nhiên.
Trong những ngày Dần Cụt lâm nạn Tôn Thất Tần thường đến thăm anh cựu đao phủ Việt Minh. Thấy ông năng lui tới trạm xá để theo dõi diễn biến bệnh tình Dần Cụt tôi nói đùa: “Bác Tần không bao giờ vào Ðảng được. Bác có khuyết điểm rất lớn là không có lập trường bạn thù rõ rệt”. Không hiểu Tôn Thất Tần kiếm đâu ra những kiến thức y học trong đời tù, nhưng ông góp được nhiều ý kiến hay cho anh y sĩ nửa mùa rất lóng ngóng trong việc điều trị không riêng cho Dần Cụt mà cả cho những người tù khác. Anh y sĩ tù rất khâm phục “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Gặp ca hiểm nghèo bao giờ anh cũng hỏi ý kiến ông. Những người tù cũng vậy, họ thường tìm đến “Jean Valjean gọi bằng cụ” trước khi trao mình cho y sĩ.
Cái đói cũng đẻ ra những phát hiện, tốt có xấu có. Nguyễn Xuân Cao tìm ra rau cần dại mọc ven suối. Cần dại cũng có mùi cần, nhưng kém hăng. Khi đi làm ngoài trại thể nào anh biệt kích của chúng tôi cũng tha về khi rổ rau má, khi vài bó cần. Rau má, rau xương cá, rau muối, rau tàu bay chỉ còn ở những nơi xa trại, những cây mọc gần bị tù vặt sạch, không kịp mọc lại. Chỉ từ ngày Cao được tha, những rổ rau cải thiện mới vắng bóng trong bữa cơm của chúng tôi.
Một hôm người ta khiêng về trạm xá hai anh tù số chẵn bị ngộ độc. Ðược đi tự giác hai tay lang thang trong rừng gặp một cây vải dại, quả giống quả chôm chôm hơn là quả vải, lông tua tủa, ăn ngọt lịm. Chẳng hiểu thứ vải có độc tố gì hay hai người ăn quá nhiều, chỉ biết đến giờ không thấy họ trở về, công an đi tìm thì thấy cả hai nằm dưới gốc cây, bọt mép sùi ra.
Mùa đông đến. Tôi biếu Tôn Thất Tần đôi bát-kết vợ tôi mang cho. Không thể đành lòng nhìn ông bạn già mặt xám ngoét run rẩy trong cái áo bông mỏng với sợi dây chuối thắt ngang lưng cho gió rét và sắc như dao khỏi luồn vào trong. Tôi vẫn giữ đôi giày da Mông Cổ. Ðã mấy lần toan quẳng đi cho nhẹ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại: quẳng làm gì, cứ để đấy có lúc dùng đến, biết tương lai thế nào? Không được đánh xi một lần trong bốn năm, da giày cứng như mo nang, nhưng đi vào chân một lát nó vẫn mềm ra. Tôi chỉ dùng giày vào mùa đông. Mùa hè tôi có đôi dép lốp chác được bằng hai bao Tam Ðảo. Thời gian cuối vợ tôi không mang cho tôi Ðiện Biên. Nhìn những bao Tam Ðảo tôi biết gia đình tôi còn khốn khó hơn trước – vợ tôi phải tiết kiệm không phải từng đồng mà từng hào.
Người duy nhất trong trại không bao giờ có tắc là Tôn Thất Tần. Nhưng ông quen rồi. Hai mươi bốn năm không có tắc ông chịu được. Những thứ ông có mà không phải do trại phát đều là của anh em tù cho. Nhưng ông là người khí khái, không phải bất cứ ai cho ông cũng nhận. Nhớ hồi mới gặp nhau, nhân gia đình tiếp tế, tôi mời ông ăn một bữa tươi cùng tôi (xôi gà, bánh xốp, bánh quy…) nhưng ông nhất định từ chối, làm tôi phát giận.
Ông nhận đôi bát-kết với vẻ cảm động. Thường các bạn tù cho ông đồ dùng rồi, gia đình họ nghèo, cũng chẳng có đồ mới để gửi cho người trong tù. Còn đây là đôi bát-kết mới tinh, thơm mùi cao su lưu hóa. Thế nhưng đến một hôm trời rét lắm, rét căm căm, mọi người có gì đều đắp lên người hết mà ông vẫn cứ diễn đôi dép cao su muôn thuở, lỗ xỏ rộng hoác, quai luôn tụt. Tôi trách ông sao có giày không dùng thì Tôn Thất Tần nói:
– Tui biết anh thương tui. Nhưng đôi giày quý lắm. Bây chừ tui còn khỏe, còn chịu được. Thôi thì để đấy, dành cho một mùa đông nào tui không còn sức…
Chao ôi, ông còn nghĩ tới những năm nào nữa, những mùa đông nào nữa khi sau lưng ông đã có một phần tư thế kỷ bên trong song sắt!
Năm 1976, tôi ra tù, Tôn Thất Tần vẫn chưa dùng tới đôi bát-kết.
Những năm tù cho tôi một nhận xét là không có sự cân bằng giữa số tù được tha và số tù nhập trại – những đợt tha lẻ tẻ, thường chỉ vài chục người, đa số là tù có án, thoảng hoặc mới có vài dân boọc, số tù bổ xung thì ngày một đông. Lâu lâu lại có một cuộc chuyển trại, tù cũ đi, được chở tới trại khác hoặc trại mới xây dựng, nhường chỗ cho tù mới bị bắt. Ngay ở những trại tù cũng thấy có sự xây dựng thêm, hết phân trại này tới phân trại khác. Nếu có một biểu đồ thì đường biểu diễn số lượng tù chắc chắn ngày một cao.
Người ta cũng không để tù ở lâu một chỗ, như thế tù ít trốn trại. Ở lâu thì quen nơi chốn, thuộc địa hình địa vật chỗ bị giam, mới tính kế trốn được, những người tù lâu năm giải thích như vậy.
Tôi được biết vài cuộc trốn tù của dân số chẵn, số lẻ thì chưa thấy lần nào. Những người tù số lẻ thuộc dân boọc không trốn bởi họ chẳng có nhu cầu ra ngoài xã hội để tiếp tục làm chuyện số lẻ của họ, nói cách khác phần đông họ chẳng hề là phạm nhân chính trị, họ bị vào tù chẳng qua vì tính cẩn thận của chính quyền mà thôi. Những người số lẻ không phải boọc, mà được xử án hẳn hoi như phạm nhân một số vụ nổi dậy của tín đồ Thiên Chúa giáo cũng không trốn vì nhiều người trong đám họ, các ông chánh trương trùm trưởng các họ đạo xứ đạo, là những người đã có tuổi, có muốn trốn cũng không trốn nổi. Những người trẻ tuổi trước theo chân các vị trong cuộc nổi dậy thì nay phải ở lại trại để trông nom các bậc trưởng lão gần đất xa trời. Những người Hoa dù có mở cổng trại cho họ trốn họ cũng không trốn. Trốn về Tàu thà ở tù Việt Nam còn hơn.
Tù trốn cũng nhiều kiểu kỳ lạ. Chẳng hạn, một tên số chẵn đã lách được qua một thanh gỗ chắn ở đầu hồi nhà giam ra ngoài. Lúc đầu, người ta không hiểu y trốn bằng đường nào. Cứ như thể tên tù đã thăng thiên hoặc độn thổ vậy. Sau chính tù phát hiện ra đường trốn, thấy kẽ hở giữa hai thanh chắn lớn hơn bình thường. Công an cho mấy người tù gày nhất lên thử, nhưng không ai chui lọt. Tù số chẵn còn kể có tên trộm trèo tường theo cách của thạch sùng, cứ ép cả người vào tường mà bò lên, không biết có thật hay không?
Vụ vượt ngục của Thắng Hòa cũng đáng được kể lại vì tính chất bi hài của nó. Hơn nữa, một nhân vật trong cuộc vượt ngục về sau này lại có liên quan tới Hán Còi đã được nói tới ở trên.
Thắng Hòa là một lính đột có tên tuổi. Tầm thước, ít nói, lễ độ, y có tính cách khá độc đáo trong đám số chẵn. Là dân boọc không biết ngày về, Thắng Hòa âm thầm chuẩn bị cuộc vượt ngục, không cho ai biết. Bằng cách cổ điển dùng muối trộn nước tiểu mà Thành đã kể cho tôi nghe, y kiên trì đợi cho đến khi chân chấn song mục ruỗng – mất tháng rưỡi hai tháng gì đấy. Biết đã chắc ăn, một hôm vào nửa đêm, đợi cho các bạn tù ngủ thật say y mới bẻ cong chấn song trườn ra. Ðúng lúc y sắp chui cả người ra khỏi thì có đứa nào nắm lấy chân. Ngoảnh lại thì ra Nhân, một lính vét. “Anh ơi, cho em đi với!”, Nhân khẩn khoản.
Thắng Hòa ngán quá, nhưng trong trường hợp đó thì không thể từ chối được nữa rồi, đành cho Nhân theo. Bẻ chấn song lại nguyên như cũ, lấy cơm nguội trộn với bột tro bịt vào chỗ đứt để cho nó trông hệt như chấn song bình thường, hai tên tù vượt ngục bò ra ngoài tường rào. Thắng Hòa đã để sẵn ở chân tường một thanh tre đực dài. Hôm trước trại sửa nhà, chẳng ai chú ý tới mấy thanh tre lăn lóc ở đó – tù làm việc có bao giờ gọn gàng đâu. Uốn thanh tre lại, buộc hai đầu với nhau, Thắng Hòa được một cái vòng dẻo, quăng lên cột dây thép gai là đã có thể bám vào nó mà đạp chân vào tường leo lên.
Ði bộ dọc theo đường sắt cách trại được một quãng xa, Nhân mỏi chân, kêu đói. Gần đấy có một thị trấn nhỏ, Thắng Hòa sai Nhân đi kiếm cái ăn và quần áo. Nhân mò vào một quán phở, lấy được hai bộ. Nhân thể quơ thêm một con gà và một chai rượu nịnh ông anh, nhưng lại quên khuấy không lấy muối, không lấy nước mắm. Hai đứa đành nhắm rượu với thịt gà nhạt. Rượu vào, đâm buồn ngủ. Nhân nằm ngay trên đường sắt đánh một giấc say sưa. Tàu chạy tới, Thắng Hòa tỉnh thức hơn, chỉ còn kịp lăn Nhân ra ngoài, chính y lại bị chắn sốc của đầu tàu chạm phải. Nhân không bỏ bạn, cõng Thắng Hòa vào bệnh viện tỉnh. Không hỏi giấy tờ lôi thôi, người ta cấp cứu cho y. Sau cơn choáng vì say rượu bị tàu húc, Thắng Hòa tỉnh dậy trong bệnh viện, nhưng y vờ mê man, cho tới khi đột được quần áo, tiền nong, cả một cái đồng hồ báo thức của bệnh nhân cùng phòng, nó mới đào tẩu đi tìm Nhân. Hai đứa nhảy tàu về Hà Nội.
Ðến Gia Lâm, chúng xuống. Nhân lên cơn nhớ mẹ, nằng nặc đòi về nhà. Thắng Hòa can không được, nhằm hướng Vinh đi tiếp.
Về tới nhà Nhân được chỉ nhìn thấy mẹ sau khi bị còng tay. Một quản giáo trại đã phục sẵn ở trong nhà. Bà mẹ lạy van anh công an, xin cho con ăn cùng một bữa cũng không được, khóc ngất nhìn theo bóng con bị giải đi.
Thắng Hòa bị bắt ở một nhà ga. Cái mũ cối vừa đột(4) được úp trên mặt, y đang ngủ vùi trên ghế dài dành cho khách đợi tàu thì có ai đó càu nhàu bảo y nằm dịch vào dẹp chỗ cho người khác. Thắng Hòa gầm lên:
– Ði chỗ khác! Có muốn ông xin tí tiết không thì bảo?
Vùng dậy, y thấy trước mặt mình là… quản giáo coi đội.
Hai tên tù vượt ngục lập tức được giải về trại cho chúng tù thấy: đã bảo mà, lưới công an lồng lộng, thưa mà chẳng lọt, có đứa nào vượt mà thoát đâu!
Tôi bị chuyển từ biệt giam ra trại chung ít lâu thì Hán Còi cũng được chuyển từ trại B qua trại A.
Tôi đến chỗ tù vừa được chuyển tới, tìm Hán Còi. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ nó ở khoảng cách gần. Ðó là một thằng bé còi cọc, đúng với biệt hiệu bè bạn đặt cho. Nó đi qua mặt tôi, không biết tôi là ai. Mấy ngày sau, tôi tới gần nó khi nó đứng một mình.
– Hán Còi phải không?
Nó ngẩng lên, gườm gườm nhìn tôi:
– Chào anh giề(5). Anh giề cần gì? Ken tẩy (6)hở?
Tôi im lặng.
– Ờ, anh giề hỏi choáng(7). Ðẩy mẹ nó hôm qua rồi, còn đâu.
Tôi mỉm cười. Thì ra thằng bé còn kiêm mua bán đổi chác nữa.
– Chào cháu!
Nó giương mắt nhìn tôi.
– Cháu chưa nhìn thấy chú. Chú thì thấy cháu rồi. Cháu vẫn đi học đấy chứ?
Nó reo lên:
– Chú đấy ư? Cháu tưởng các chú đi hết rồi.
– Không, chú ở đây.
– Chú kia đi sau chú độ nửa tháng.
Như vậy Phùng Mỹ không còn ở đây nữa. Không biết anh bị chuyển đi đâu? Sau mới biết anh bị đưa đi một trại khác ở ít ngày rồi được thả ra, nhưng phải đi lao động ở một hợp tác xã. Hình thức lưu đầy này được áp dụng cho tất cả tù trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”, trừ tôi.
Thằng bé có vẻ thất vọng. Nó thích tôi là con người bí ẩn nằm trong biệt giam hơn một người tù thường, trong bộ quần áo giống nó. Khi ở biệt giam tôi có nhiều thứ để cho nó, ở đây tôi chẳng có gì. Tuy nhiên, nó cũng quyến luyến tôi, như thể tôi là một người thân tình cờ gặp trong tù. Sau vụ chém Tín Lác, Hán Còi được nhập bọn với đám sĩ quan, không được ngang hàng cho lắm, nhưng cũng không đến nỗi kém vế. Trong vai trò tên liều mạng, tên không sợ cho tóe me bất cứ đứa nào, Hán Còi luôn phải lên gân cho đúng vai, và sự lên gân thường trực làm nó mệt. Những lúc mệt nó chạy sang chỗ tôi, nằm bên tôi mà nỉ non chuyện này chuyện nọ. Trong nó còn một đứa trẻ, con người thật của nó.
Hán Còi rất thương mẹ. Mọi câu chuyện giữa hai chú cháu có lan man tới đâu rồi cũng quay về với mẹ Hán Còi. Trước mắt tôi hiện lên hình ảnh một cô giáo hiền lành, có gương mặt cam phận, vừa buông bút chấm bài đã cặm cụi đan len để kiếm thêm vào đồng lương còm cõi. Không hiểu sao Hán Còi không nhắc tới bố, như thể ngoài mẹ ra nó không còn ai nữa. Chắc bố mẹ nó bỏ nhau, hoặc bố Hán Còi đã bỏ mẹ nó một cách thế nào đấy làm cho nó hận. Chứ những đứa khác bằng tuổi Hán Còi thì nói khoác lác về bố mẹ dữ lắm – nghe chúng nói thì nhà đứa nào cũng giàu có, bố mẹ đều làm chức to. Cũng có trường hợp như thế thật, nhưng rất hãn hữu, con cái các ông to được nuông chiều hư hỏng nhiều lắm, nhưng chúng ít bị rơi vào tù, – thường chúng được gia đình xin cho về giáo dục tại gia đình.
– Anh không nên cho bọn số chẵn lên nằm chơi trên chỗ anh! – Tôn Thất Tần khuyên – Trong toán người ta không thích!
– Tại sao họ không thích?
– Bọn lưu manh trước sau vẫn là lưu manh. Xểnh ra, chúng nẫng liền.
– Nó là cháu tôi.
– Rứa thời khác!
Ðến chơi với tôi không phải chỉ có Hán Còi. Ðám sĩ quan bên số chẵn thỉnh thoảng cũng đáo qua, nhưng không lên chỗ tôi nằm tán gẫu mà để mời tôi qua uống trà (nhặm xà, bắt chước lối nói của người Quảng Ðông hoặc Phúc Kiến, dấu ấn cuộc sống chung với họ). Bắt đầu bằng một sĩ quan có học, từng đọc tôi, sau đó tới các sĩ quan khác. Thành thử tôi quen được khá nhiều nhân vật trong giới giang hồ. Về những nhân vật này, rất thú vị, nếu kể ra phải được một cuốn sách dày.
Ðến với tôi có cả những dũng sĩ diệt Mỹ từ miền Nam ra Bắc. Ðó là những cháu trẻ măng nhưng đã chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm, được ban chỉ huy chiến trường tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Trung úy Dứa, với tư cách cán bộ miền Nam tập kết, được phân công phụ trách các cháu. Một hôm Dứa sai trật tự trại(8), một anh trung úy biên phòng phạm tội giết vợ vì ghen tuông, nhắn tôi đi khám bệnh lấy một ngày nghỉ để tới gặp anh.
– Tội nghiệp sắp nhỏ. Chúng ra Bắc, đứa gặp công an nạt nộ nổi xung lên uýnh liền, đứa đi học chịu cực không thấu tìm đường chuồn về trỏng, bi bắt lại… – Dứa nói – Cũng là dòng cách mạng cả…
Tôi hiểu anh muốn gì ở tôi:
– Tôi có thể làm gì được cho các cháu?
– Anh qua chơi với các cháu luôn, giúp các cháu học.
– Biết chúng nó có chịu học không?
– Nhiệm vụ chung mà, anh Hiên. Chẳng lẽ khoanh tay nhìn các cháu biến thành những tên đầu trộm đuôi cướp.
Tôi nhận lời. Chiến tranh đã làm hư lũ trẻ – chúng không thích học nữa, chúng quậy trong trại giam, theo đòi đám lưu manh.
– Học làm chi, chú ơi. – các cháu nói với tôi – Chúng cháu đi đánh Mỹ, ra ngoài nầy tưởng ngon lắm, đứa nào cũng háo hức, hóa không phải. Chúng cháu chỉ muốn về thôi.
– Trước khi về các cháu phải sống ở đây một thời gian đã. Trong thời gian đó các cháu nên tiếp tục học văn hóa để trở thành người hiểu biết.
– Người ta boọc chúng cháu, chứ chúng cháu đâu có khoái ở đây. Ðể coi, nếu không cho chúng cháu ra, chúng cháu sẽ tự ra. Ba cái hàng rào kẽm gai đối với chúng cháu có nhằm nhò chi…
Tôi không dạy được chúng học, nhưng vài ngày một lần sang chỗ chúng chơi, kể chuyện cho chúng nghe. Những câu chuyện có tính chất giáo dục của tôi có tác dụng phần nào ngăn các dũng sĩ diệt Mỹ không trốn trại, ít nhất thì cũng trong thời gian tôi còn ở đó. Sau số phận các cháu thế nào tôi không rõ. Ðó là những đứa trẻ trong sáng, rất đáng yêu. Tôi thương chúng vô cùng. Chúng cũng quấn quít tôi.
Một lần cháu Ðiền, người Thừa Thiên, bị bí đái, lăn lộn kêu khóc. Y sĩ trại chữa không khỏi. Tôi nhắn Dứa:
– Anh xin Ban Giám thị cho áp giải tôi lên núi kiếm thuốc. May chăng chữa được.
Dứa đề nghị Ban Giám thị. Ban Giám thị đồng ý. Không những không cần Dứa áp giải mà cho tôi đi một mình, không có sự áp giải nào.
Tôi trèo lên mấy ngọn đồi gần đấy đào rễ cỏ tranh, lấy cỏ thài lài, cây cúc áo. Trở về trại, đi ngang suối tôi xuống tắm một bữa thỏa thích. Cả ba thứ sao vàng sắc đặc lên cho cháu uống. Một tiếng đồng hồ sau, Ðiền chạy sang, bẽn lẽn:
– Chú ơi, cháu đái được rồi!
Sau vụ chữa cho cháu Ðiền tôi cũng nổi tiếng biết chữa bệnh.
Hán Còi không thích các dũng sĩ diệt Mỹ. Nó ghen. Thấy tôi hay qua với lũ trẻ từ miền Nam ra, nó tỏ ra không bằng lòng. Về sau. khi các dũng sĩ diệt Mỹ đã hòa nhập với đám lưu manh, được bọn đầu gấu kính nể sau vài lần đụng độ, chính Hán Còi lại chơi với chúng.
Ðứng bên ngoài những mối quan hệ này là một thằng bé đen đủi, cóc cáy, đi theo Hán Còi như một đệ tử tự nguyện. Khi nào Hán Còi lên chỗ tôi, nó không dám lên theo, mà lảng vảng bên ngoài.
– Cháu với nó là thế nào? – tôi hỏi Hán Còi.
– Thằng vét đĩa í mà. Nó bị đánh quá, cháu bênh nó một lần, thế là nó theo cháu. Bây giờ cháu lại đánh nó.
– Chết, đánh nó làm gì?
– Cháu đánh nó là cháu dạy nó. Yêu cho vọt, ghét cho chơi. Thằng này ngu lắm!
– Thì lựa lời mà dạy.
– Ở đây khác, cứ phải tiu(9) mới xong.
– Nó có gia đình không?
– Không. Tội nghiệp, đã vét đĩa còn dạt vòm.
Ðùng một cái, thằng bé có người nhà lên thăm. Quả tắc không lớn, nhưng sự kiện lớn – đã năm năm có lẻ, nó bị coi là thằng sống vô gia cư chết vô địa táng, bị dày đạp, bị khinh rẻ, bây giờ nó là thằng có gia đình hẳn hoi, như mọi người.
Tôi được thằng bé mời ăn bánh chưng, bánh rán, bánh quy, nhặm xà và hút ken tẩy. Hai món sau không phải gia đình mang cho. Nó lấy bánh đem chác. Ðàng hoàng lắm. Trong bữa ăn ngoài Hán Còi còn có Châu Bún, Ba Xuyên, Quang Coóng. Châu Bún cũng là thiếu nhi miền Nam ra Bắc tập kết năm 1954, một thứ dũng sĩ diệt Tây, vào thời kỳ chưa có danh hiệu đó. Ba Xuyên và Quang Coóng là đàn anh lừng danh đất Cảng.
– Anh cháu lên thăm cháu. – thằng bé nói.
– Anh cháu làm gì?
– Anh cháu nhà báo. – nó ngẩng nhìn mọi người, giọng tự hào.
– Thật đấy! – Hán Còi nói.
Thằng bé đưa ra một tờ giấy bẩn thỉu. Tôi đỡ lấy, trải xuống chiếu. Ðó là một bài báo với một tên ký không quen. Bài báo chán ngắt, loại văn hàng loạt, nhưng đúng anh nó là nhà báo thật.
– Thế tại sao bằng ấy năm anh cháu không thăm cháu?
Nó nhoẻn cười rất tươi:
– Anh cháu nỏ biết! Cháu ở đây nhà cháu nỏ ai biết!
Nó kể cho tôi nghe tường tận chuyện nó đi tù thế nào.
Thằng bé từ một làng heo hút ở Nghệ An ra Hà Nội. Nó nghe nói thủ đô đẹp lắm, có Hồ Hoàn Kiếm, có Tháp Rùa, tàu điện chạy leng keng, ô tô đầy đường. người đi lại như nêm cối, sắp tới là lễ Quốc Khánh còn đẹp hơn, đêm đến đèn điện lung linh, phố xá sáng như ban ngày, đánh rơi cái kim cũng thấy. Bèn ăn cắp tiền của bố đi ra Vinh, mua vé leo lên tàu hỏa.
Hà Nội đẹp thật. Ðúng như thiên hạ đồn. Nhưng Quốc Khánh đông người quá, nó lạc lung tung, thành thử không được nhìn thấy Bác Hồ.
– Hoài! – Hán Còi nói – Năm í tao cũng đi theo anh Thiện Bò với anh Lộc Tàu, cả chị Huyền Rô nữa thì phải. Tao được nhìn thấy Bác Hồ hẳn hoi. Mít-tinh đông, tụi tao đá mấy quả đẹp lắm, hôm í dầm láng(10). Anh Châu Bún ơi, hồi í có ở Hà Nội không?
– Không! Hồi ấy tao đi bè dài(11) với Bút Miền.
Thằng bé kể tiếp. Nó tiêu hết tiền. Ðói quá, liều vào một hàng bún riêu. Ăn một bát, vẫn thòm thèm, ăn hai. Ðứng dậy, vờ móc túi trả tiền, móc hết túi này đến túi khác, mếu máo nói mất sạch tiền rồi, xin bà hàng cho gán đôi dép. Gặp phải bà hàng đanh đá, bà ta chu chéo lên, nắm chặt lấy thằng bé, rêu rao nó ăn cắp. Người đi đường ùa lại. Công an thổi còi chạy tới, giải luôn về đồn.
Thằng bé sợ mất mật. Nó sợ nhất là bị trả lại gia đình. Bố nó sẽ đánh chết vì cái tội ăn cắp tiền của nhà. Nó khóc thút thít. Một đàn anh ngồi bên cạnh thương tình dạy nó cách khai. Nó bèn khai bịa tên Mỗ, quê quán Lông bông tỉnh, Lang bang huyện, Lung tung xã, Linh tinh thôn. Tra không ra nơi ở của thằng bé, công an kết luận nó là lưu manh chuyên nghiệp, không nơi cư trú nhất định, cho đi boọc.
Vốn không hề là lưu manh, thằng bé trở thành lính vét. Năm đầu nó còn ngồi khóc ti tỉ. Năm sau nó quen. Cuộc sống trong tù đối với nó cũng chịu được. So với cuộc sống ở nông thôn có khi còn khá hơn, nhất là mặt ăn uống. Chỉ khổ nỗi bị bọn đàn anh bắt nạt, bắt giặt quần áo hầu chúng, bắt tẩm quất cho chúng mỗi tối. Nhưng nó chẳng sá chi mấy chuyện vặt, ở đâu mà chẳng phải làm. Cuối năm thứ ba, xảy ra một vụ ẩu đả. Một tên đầu gấu hành nó quá, nó nổi khùng, đánh lại. Nó bị tên đầu gấu cho một trận nhừ tử. Hán Còi can, rồi bao bọc nó, cho làm đệ tử.
Hết một lệnh nó không được tha. Không ai tha một tên tù không biết quê quán ở đâu, đã thế còn cải tạo không tốt. Tha cho nó ra ngoài xã hội để ngựa quen đường cũ à?
Cho đến một ngày kia, nó bắt gặp một mảnh báo có tên anh nó. Nó mang mảnh báo đi khoe. Bọn lưu manh cười ha hả: “Mày mà có anh là nhà báo!! Ðừng có bốc láo”. Nó tức lắm, nhưng không biết làm thế nào. Nó khóc tức tưởi. Bọn lưu manh lại càng cười.
Ông quản giáo trông đội nó đã học hết trung học. Thấy nó khóc, ông hỏi chuyện, cầm bài báo đọc. Nhân dịp nghỉ phép ông tìm đến tòa soạn, gặp tác giả. Hóa ra đúng – chính là anh ruột thằng bé. Gia đình tưởng nó chết đường chết chợ đâu rồi, được tin nó còn sống, mừng quá, vồ lấy người báo tin, coi như ân nhân cứu tử. Người anh vội vã mang giấy chứng nhận cơ quan lên trại xin nhận em về. Mấy lần đi lại chưa được. Lần thì người ta đòi giấy xác nhận của địa phương, kèm theo hình chụp thằng bé khi nó còn ở nhà. Lần thì Cục chưa xác minh xong. Lần thì xác minh xong rồi nhưng chưa hết lệnh, chưa tới kỳ xét tha. Là người hiểu biết, anh nhà báo không bao giờ dám cãi lại chính quyền. Anh cảm ơn Ðảng và Nhà nước, yên tâm chờ đợi. Lần này anh lên thăm em với một quả tắc dầm.
Chiến tranh ngày một ác liệt. Trên bầu trời Tân Lập vốn yên tĩnh bắt đầu xuất hiện những máy bay tiêm kích Mỹ, phần lớn là loại Thunderchief và Phantom. Nhiều đêm chúng vọt qua rất thấp. Tôi và Tôn Thất Tần nằm yên ở tầng trên, tiếp tục ngủ. Quản giáo soi đèn pin thấy chúng tôi không chịu xuống đất như những người tù khác, càu nhàu:
– Quy định có máy bay phải xuống đất sao hai anh không xuống?
Tôn Thất Tần lễ phép:
– Thưa ông cán bộ, máy bay chi mà bay nhanh rứa không biết, vừa nghe kẻng báo động chúng hắn đã tới rồi. Già cả như chúng tôi, vội vàng quá có khi lợi bất cập hại, lập cập leo trèo có khi ngã gãy tay gãy chân, lại phiền cán bộ phải thuốc men…
Ban Giám thị quyết định để tránh địch oanh tạc, hàng ngày tù phải dậy sớm, đi ra khỏi trại, làm lao động rồi nghỉ trưa tại chỗ, tối mịt mới được về. Thời gian này gần như cả trại đan tranh nứa, kể cả mấy toán số lẻ. Không hiểu người ta cần tranh làm gì mà nhiều thế?
Một buổi trưa, tôi nằm trên đống tranh vừa đan, đang thiu thiu ngủ thì bị Tôn Thất Tần lay dậy:
– Anh Hiên! Thằng Hán Còi chết rồi!
Tôi bật dậy:
– Sao? Hán Còi sao?
Mặt tái mét, ông thông báo:
– Thằng Hán Còi bị chém chết rồi!
– Ai chém nó?
– Không biết. Nhưng đúng là Hán Còi! Ông cán bộ vừa từ đàng nớ về nói rứa!
Từ đàng xa, trong rừng cây, những bóng áo vàng thấp thoáng. Mấy anh bộ đội gác cũng bỏ toán chạy đi xem đã trở về. Tôi nghe họ loáng thoáng:
– Thằng này chắc chết. Máu chảy một vũng, khiếp quá!
– Ðứt động mạch ở cổ là dứt khoát toi.
– Gọi là động mạch cảnh…
– Không biết. Toán ông Thạch. Thằng chém tên chi, há?
– Nó ác thật! Mà trông hiền như đất!
– Thằng mô trông hiền, nổi nóng lên là cục lắm!
Tôi muốn chạy ngay tới với Hán Còi. Nhưng làm sao đi được. Hán Còi ơi, chú thương cháu lắm, chú muốn biết cháu bị làm sao, may chăng có giúp được cháu chút gì, nhưng thân chú cũng là thân tù, biết làm thế nào.
Về sau tôi ân hận mãi đã không xin phép quản giáo chạy tới đó. Có khi anh ta cho phép cũng nên.
Câu chuyện xảy ra như sau:
Sau vụ vượt ngục với Thắng Hòa bị bắt trở lại, Nhân bị cùm một tháng. Ở kỷ luật ra, Nhân sống vật vờ trong đời lính vét. Thắng Hòa cũng trở nên nhũn nhặn, mặc dầu trước nó từng nổi danh đầu gấu. Trong cộng đồng tù kẻ vượt ngục không thành lập tức bị xuống giá.
Một hôm Nhân nhặt được một con gà chết. Các gia đình cán bộ đều nuôi gà tăng gia. Gặp trận dịch Tân Thành, gà chết la liệt, ăn không kịp. Những con gà rù đi lang thang, chết rụi ở mọi xó xỉnh. Con gà mà Nhân nhặt được là một con gà chết như thế. Nó đã hơi trương, nhưng với miệng người tù đói, con gà vẫn là con gà, dù nó có bốc mùi thum thủm. Nhân vặt lông, xé con gà ra ấn vào hăng-gô nổi lửa lên sột sệt.
Hán Còi đi qua:
– Người lính (12)! Sột sệt gì đấy?
Nhân cười:
– Em nhặt được con qué.
– Nhặt gì? Bắt của Ban hả?
– Em không dám. Nó chết toi trong bụi nứa.
– Thối chưa?
– Chưa, còn tốt.
– Thế à?
Hán Còi bỏ đi, huýt sáo miệng.
Hán Còi chuyện trò với đám sĩ quan một lát rồi quay lại:
– Ðược chưa, người lính?
– Sắp được rồi, anh Hán ạ.
Hán Còi mở nắp hăng-gô ra xem, giật cái que trong tay Nhân chọc thử:
– Ðược rồi đấy!
Nói rồi cầm lấy quai hăng-gô xách đi:
– Tụi tao đang có liên hoan, người lính sẽ được tính bốn suất cơm lấy sau, bở nhá!
Nhân bầm gan tím ruột, nhưng gượng cười:
– Hôm nay hai nhớ?
– Hai có hai. Ðến thằng Bình thọt, bảo anh Hán đòi. Nó còn nợ tao hai chục suất.
Bình thọt là một con ma đói. Khi nào đói quá nó sẵn sàng chịu nợ một gấp đôi, gấp ba, miễn lấp được cái dạ dày trống rỗng. Cả tuần nay nó bị cúp cơm, đang nằm ép rệp, làm sao đòi được nó. Có thể giã cho nó một trận, nhưng cái đó phỏng có ích gì?
Nhân mài con dao chẻ tranh cho tới khi nó sắc như nước. Hán Còi đang ngủ trưa. Nhân đến, xoạc chân trên ngực kẻ thù:
– Hán Còi!
Hán Còi choàng tỉnh.
– Nhìn tao trả thù này!
Nhân chém một nhát, như bổ củi. Ðó là nhát quyết định.
Hán Còi bật dậy, ôm lấy cổ:
– Ối Nhân ơi, sao mày ác thế?
– Ác này!
Nhân gầm lên, bổ tiếp nhát thứ hai vào bàn tay ôm cổ của Hán Còi.
Người ta xô tới, giằng lấy dao. Bộ đội gác khóa tay Nhân. Nó ngồi ở gần đấy, mặt bất động, không nhìn đám đông vây quanh kẻ thù của nó đang hấp hối.
Hán Còi nằm trên vũng máu, da trắng bệch. Nó không nói được. Từ vết thương máu phun ra từng tia theo mạch đập. Y sĩ trại chạy tới, lấy khăn mặt bông áp vào chỗ bị chém, băng bó mấy ngón tay gần đứt lìa. Chẳng mấy chốc cái khăn mặt băng cổ Hán Còi đã ướt đẫm. Ban Giám thị điều ngay một xe com-măng-ca đưa nạn nhân đi cấp cứu. Bệnh viện huyện cách đó chừng mươi cây. Chưa tới nơi Hán Còi đã trút hơi cuối cùng.
– Trường hợp ni phải lấy miếng ni-lông mà bịt, lấy tay khum khum mà giữ. – Tôn Thất Tần giảng giải cho tôi về cái chết của Hán Còi – Máu phun ra sẽ đông lại, làm thành một màng bùng nhùng nhưng ở bên trong máu vẫn đưa được lên óc, vẫn nuôi được óc. Ðể cái khăn bông thấm máu là nhà quê. Máu con người có được là bao nhiêu, thấm hết vô đó còn lấy chi nuôi óc. úc chết là sự sống không còn.
Sau vụ hạ sát Hán Còi, Nhân bị xử hai mươi năm. Nó rời hàng lính vét để trở thành một sĩ quan.
Tôi nhìn thấy thằng bé em ông nhà báo. Nó đi lủi thủi trong sân trại, mặt mũi phờ phạc. Nó trở thành đưa bé mồ côi.
Từ trong xà lim kỷ luật Nhân nhắn ra:
– Ông đã cho tóe me một thằng, ông không ngán thằng nào hết!
Nó nói, y như Hán Còi đã nói.
(1) “Nghiệp”, theo khái niệm Phật giáo.
(2) Kèn báo thức, la-vầy là tiếng Tây bồi từ réveille của tiếng Pháp.
(3) Nhà cách mạng thuộc thế hệ 30, sau cách mạng giữ một chức vụ nhỏ bé, không ai biết đến, rồi chìm trong quên lãng.
(4) Tiếng lóng: ăn trộm, ăn cắp.
(5) Tiếng lóng: già.
(6) Tiếng lóng: thuốc lá.
(7) Tiếng lóng: kính.
(8) Tù được Ban Giám thị chọn cho trông nom trật tự bên trong trại. Thường là những người có án, nhưng đứng đắn, hoặc có thân thuộc ở ngoài bằng con đường quen biết với người trong ngành quản lý trại giam lo lót xin cho làm. Cũng có nơi Ban Giám thị chọn trong đám đầu gấu (tù hung hãn) để trị bọn đầu gấu khác. Nói chung, trật tự trại là tay sai cho Ban Giám thị.
(9) Tiếng lóng: đánh, đấm.
(10) Nhiều tiền (tiếng lóng).
(11) Ðường dài, đi tàu hỏa (tiếng lóng).
(12) Cách bọn lưu manh gọi nhau.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:46:15 GMT -6
Chương 40
So với mấy cuộc chuyển trại trước, cuộc chuyển trại cuối năm 1973 đến với tôi hoàn toàn không bất ngờ.
Từ mấy hôm trước tôi trong trại đã có tiếng xì xào về một sự kiện không bình thường. Trên văn phòng Ban Giám thị người ta khuân ra khuân vào những chồng hồ sơ cao ngất. Việc rõ ràng bí mật, cho nên công an tự làm lấy. Mấy cái máy chữ gõ rào rào không nghỉ.
Những người tù là những người mơ mộng cực kỳ. Có khi chuyến này đại xá, họ thì thào, mặt tươi nở. Tại sao lại không thể có đại xá trong khi những chiến thắng giòn giã cứ theo nhau mà phơi phới mà tưng bừng trên mặt báo? Hội nghị bốn bên ở Paris (1973) đã buộc người Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc, phải rút quân Mỹ về từ mấy tháng trước. Ðã lâu, năm nào Nhà nước cũng có đặc xá, thì nay có đại xá cũng không phải là điều không thể xảy ra. Ðã đến lúc rồi.
Nhưng chiều hôm trước cuộc chuyển trại tất cả tù nhân, số chẵn cũng như số lẻ, mới ngã ngửa người ra rằng than ôi, chẳng có đại xá đại xiếc gì hết, mà chỉ có một cuộc đại tan đàn xẻ nghé đến với họ mà thôi. Tin tức lọt ra từ những cán bộ có quan hệ thân tình với mấy anh tù tự giác. Cả trại nháo lên. Người ta chạy ầm ầm từ nhà này qua nhà khác, chia cho nhau thứ nọ thứ kia kẻo đến lúc hấp tấp kẻ ở người đi lại không kịp.
Những người tù không bao giờ thích chuyển trại, cho dù cái trại họ đang ở là tồi tệ. Cái tồi tệ đã biết rồi bao giờ cũng dễ chịu đựng hơn cái tồi tệ chưa biết. Sau, những người đã kịp thân thiết với nhau trong cảnh tù đầy, đã hợp thành một gia đình để nương tựa vào nhau, an ủi nhau, nay lo lắng lắm trước cảnh mỗi người một nẻo. Họ ngồi ăn với nhau đấy, cười nói như thường đấy, nhưng nước mắt đang chảy vào trong. Ngày mai chưa biết rồi ai ở ai đi. Ðêm hôm ấy hầu hết tù không ngủ. Nhìn qua song sắt thấy ánh lửa bập bùng ở các cửa sổ nhà giam gần bên thì biết tù đang sột sệt – nấu cháo sắn hoặc đun nước pha trà, bất kể kỷ luật trại. Từ một ngôi nhà nào đó bên số chẵn suốt đêm vẳng ra tiếng ghi-ta chơi mãi một câu trong bản Nhạc Rừng “tình tinh tinh, tinh tình tinh tinh, tinh…tình!”.
Ðêm đó cả trại thức trắng.
Ðến sáng bạch mới thấy cán bộ xủng xoảng chìa khóa đi vào trại. Tù đã mừng. Thường người ta chuyển tù đi vào ban đêm. Khéo mà tin đồn kia là nhảm cũng nên. Nhưng cán bộ chỉ mở một số nhà giam tù số lẻ. Người ta gọi tên. ền ào. Nhốn nháo. Ði thật rồi. Nhưng tù số lẻ không đi hết. Những người ra đi hối hả sắp xếp đồ đoàn.
Tôi ném cái túi đồ lên xe tải, leo lên theo. Que sera sera, tôi nghĩ! Tôn Thất Tần leo lên theo, ngồi bên tôi, mặt bất động. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu trong đời ông, hay đời tù thì cũng thế, ông đã lắc lư trên xe như thế này?
Tôi bắt đầu già. Khi anh không muốn có sự biến đổi nào nữa, khi anh chỉ muốn sống với những thói quen là anh bắt đầu già đấy. Bao giờ mình mới ra khỏi đây? Bao giờ cũng được, nhưng cúi đầu thì không. Mình có sống được hai lần đâu. Thế giới rồi sẽ thay đổi chứ. Nó không thể không thay đổi khi trên mình nó còn những quốc gia kiểu thế này.
Trước ngày chuyển trại mấy hôm, Nhân tới gặp tôi. Nó chỉ bị cùm một tháng rồi được ra. Tòa xử vụ giết Hán còi được thiết lập trong trại. Nhân bị xử hai mươi năm.
– Hán Còi là cháu chú thật à? – Nhân nói, ngồi xuống bên tôi.
– Thì sao?
Nó buồn rầu:
– Cháu xin lỗi chú. Cháu không định thế.
Tôi nhìn bộ mặt non choẹt, mới lún phún những sợi ria như những lông tơ của tên giết người:
– Chú hiểu.
– Cháu đâu có định làm thế. Nhưng nó làm cháu tức quá!
Thế đấy, một nỗi tức giận, một mạng người.
Trước đấy vài tháng tôi được gặp gia đình. Chính sách đối xử với tôi bây giờ rộng rãi hơn, tôi được ở với vợ một ngày đêm. Cùng ở trong nhà khách của trại có một người đàn bà đi tiếp tế gày tong teo, âm thầm như một cái bóng. Vợ tôi làm cơm, mời bà ta ăn cùng.
Thì ra đấy là mẹ của Nhân. Bà kể mọi sự khốn khó trong gia đình bà đều do ông chồng gây ra hết. Ông là đảng viên, làm giám đốc một xí nghiệp đồ điện. Họp suốt, chẳng quan tâm gì con cái. Bố mẹ không giáo dục chúng nó thì hè phố giáo dục. Nhân trở nên hư hỏng. Bị công an bắt mấy lần, bà lạy lục xin tha, nó được ra. Nhưng chứng nào tật ấy, không chừa. Rồi đến một ngày ông bố không chịu nổi nữa, ông điệu nó lên đồn: “Nhờ Ðảng và Chính phủ, nhờ các đồng chí giáo dục”. Bà khóc lóc, ông không chuyển lòng. Ông chịu đựng được tiếng khóc của bà một tháng. Lại lên đồn: “Xin cảm ơn các đồng chí, chắc một tháng qua cháu nó đã biết sợ, xin các đồng chí cho cháu về, kẻo mẹ cháu khóc quá”. Công an bảo: “Ơ hay, về là thế nào? Ðâu có thế được! Ðồng chí xin chính quyền giáo dục cháu, chúng tôi cho cháu đi trại”. “Thì các đồng chí thông cảm cho, cấp cho tôi cái giấy, tôi lên trại đưa cháu về”. “Ðưa về là làm sao? Cháu đã được thành phố cho một lệnh tập trung cải tạo rồi. Hết ba năm nó mới về được”.
Hết lệnh, thằng bé được một lệnh tiếp. Người ta bảo: nó cải tạo chưa tốt. Sau đấy nó trốn trại, rồi trở thành tên giết người.
Cùng đi chuyến này với tôi còn có những người bạn mới từ Vĩnh Quang vừa chuyển lên Tân Lập. Phần lớn, đó là những sĩ quan trong quân đội Pháp và quân đội Bảo Ðại. Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ (8.1964) hầu hết những ai đã ở trong quân ngũ phía bên kia trong chiến tranh Việt-Pháp đều bị gom vào các trại tập trung(1). Người ta sợ Mỹ tấn công ra miền Bắc thì những người này sẽ theo Mỹ.
Cựu đại úy quân đội viễn chinh Pháp Kiều Duy Vĩnh là người đối với tôi thân tình hơn cả. Anh không nhìn tôi như người của cái chính quyền đưa anh đi tù. Hình như cái sự tù không gây ra cho anh nhiều phiền nhiễu lắm. Anh ta ít có vẻ tù nhất trong những người tù, “Jean Valjean gọi bằng cụ” nhận xét. Kiều Duy Vĩnh thản nhiên đối với số phận, như thể anh chỉ đến thăm thú trại tù ít lâu rồi đi, chứ không có ý định ở lại.
Vĩnh tâm sự: “Các anh ở ngoài kháng chiến không hiểu tâm trạng tụi tôi, chứ trong lòng địch chúng tôi đâu có thích cầm súng cho Pháp. Trong đám chúng tôi hiện ở đây ít người theo Pháp thực lòng lắm. Người thì bị bắt lính, người thì thất nghiệp phải đăng lính để kiếm cơm, chứ đều hướng về kháng chiến đấy. Phàm người Việt Nam, ai không muốn độc lập, tự do? Thế rồi kháng chiến thành công, chúng tôi ở lại. Chúng tôi vui lắm chứ! Chúng tôi tin các anh không trả thù, các anh hứa thế mà. Qua cuộc bắt bớ này mới thấy – các anh là những con người quay quắt, tiền hậu bất nhất”. Kiều Duy Vĩnh kể trong trận càn Mandarine ở Thái Bình, lính của anh bắt được một cán bộ Việt Minh, anh đã giả lệnh trên đưa về khai thác rồi bỏ lên xe chở đi. Giữa đường, anh dừng xe, mở khóa cho anh cán bộ: “Tới lũy tre kia là vùng các anh rồi, chạy đi!” Anh ta chạy, vừa chạy vừa ngoái lại, sợ bị bắn sau lưng. Vĩnh nói thêm: “Nếu anh ta đừng quá sợ, nếu anh ta can đảm một chút, dừng lại thêm vài giây bảo tôi đi theo có dễ hôm đó tôi đã theo các anh rồi!”
– Ðáng tiếc! – tôi nói.
Vĩnh nhún vai:
– Không biết có đáng tiếc hay không, nhưng trong chín năm chống Pháp các anh luôn luôn là hình mẫu lý tưởng của chúng tôi, chúng tôi nhìn các anh trong ánh hào quang rực rỡ của những nhà ái quốc.
Cựu trung úy Lê Trình, tức Trình Hàng Vải, kể cho tôi nghe một lần anh thấy tên lính lấy báng súng đánh tù binh, anh đã nện cho nó một trận trước mặt đồng ngũ rồi bắt nó đi khuân những thùng casse-croute về cho tù binh ăn. Một trong những tù binh gặp anh sau hòa bình đã mời anh đi ăn một bữa tái ngộ rất vui vẻ. “Tách từng người ra, các anh dễ thương lắm. Nhưng gộp lại, các anh có nhiều chất quái vật”.
Kể cho tôi những chuyện đó chẳng phải các anh muốn kể công với tôi. Tôi có là cái gì để mà họ kể công. Tôi cũng tù như họ. Cũng chẳng phải họ nói tốt để tôi báo cáo với Ban Giám thị – họ thừa biết tôi không phải chỉ điểm. Ðáng lẽ họ còn phải trút lên đầu tôi nỗi căm giận chất chứa trong lòng nữa kia. Gì thì gì, tôi đã là một cán bộ cộng sản. Tôi cho rằng họ kể những chuyện đó cho tôi nghe vì trong những ngày ấy lòng họ vẫn còn một chút gì ấm áp dành cho những người cộng sản thật tâm vì đồng bào, vì đất nước. Tôi hiểu thế nên không cãi, không trần tình. Tôi cười.
Chúng tôi trở thành bạn của nhau, những người đã từng ở hai bên chiến tuyến. Những viên đạn của chúng tôi đã bay vèo vèo sang nhau, nhưng may mắn, hay không may mắn, đã không trúng.
Cùng nhóm với các anh còn có anh Văn Thợ Mộc, tôi không nhớ họ anh, cũng chẳng nhớ anh cấp bậc gì, cũng trung úy đại úy chi đó, không hơn. Anh cực kỳ hiền lành, tính lại hay giúp đỡ người, được cả trại mến, từ người tù cho tới viên quản giáo coi đội. Anh ngồi lắc lư trên xe, trong một góc khuất, chẳng buồn ngó nghiêng ra ngoài. Cuộc chuyển trại này làm anh khổ tâm lắm – anh phải xa thằng con nuôi. Ðó là một thằng bé có gương mặt thông minh, và cũng hiền lắm, chẳng hiểu sao lại rơi vào đám số chẵn. Trong đám lưu manh, nó không ở trong hàng sĩ quan, cũng không phải lính vét, một thằng bé rất trì, nghĩa là lì lợm, cứng đầu, không chịu một ai. Bọn sĩ quan vẫn phải kiềng nó ra. Bạn tù nói nó là con người tình năm xưa của anh. Anh chăm sóc nó bằng tấm lòng của người cha, nhường nhịn mọi thứ hiếm hoi trong tù cho nó. Bù lại, thằng bé cứng đầu mềm nhũn ra bên cạnh cha nuôi, như một con mèo con.
Phổ Gián Ðiệp lầm lì ngồi bên Văn Thợ Mộc. Anh sống trong tù như một ốc đảo, không dính dáng với ai, không chơi với ai. Có người nói anh trước hoạt động trong nội thành, sau mất liên lạc với cấp chỉ huy. Một hôm thợ sửa mái phát hiện trên trần có một máy phát tin, thế là anh bị bắt, bị buộc tội làm gián điệp. Những người hoạt động cùng với anh đã đi Nam, xác minh không được vì trước anh chỉ liên lạc với họ bằng mật danh, mật hiệu bây giờ không dùng nữa…
Khi qua thị xã Yên Bái, xe dừng, tôi được thiếu úy Nhẩm rủ xuống đi xem phố. Trong chuyến đi này những người tù số lẻ không bị khóa tay. Trên xe chỉ có hai công an đeo tiểu liên canh chừng với tinh thần cảnh giác không sắc bén. Những người tù bị bắt vì cẩn thận không bao giờ trốn. Họ đã đứng tuổi, hoặc đã già, không thích hợp với sự phiêu lưu.
Tôi đi lang thang dọc phố ngắm cảnh. Không giống như khi vừa từ xà lim ra, tôi không còn háo hức muốn nhìn ngó. Thị xã là một dãy nhà thấp tè, ám khói nằm ven đường ô tô. Một cửa hàng ăn mậu dịch đông đúc bán cơm phiếu, phở không người lái. Một cửa hàng bách hóa lèo tèo. Còn lại là những ngôi nhà xiêu vẹo, tạm bợ. Từ những mái tranh xập xệ mùi mốc thếch của cái nghèo phả ra đường. Lác đác mấy cái máy khâu im lìm chõ ra mặt phố, mấy ông thợ cạo ngẩn ngơ bên những cái ghế không khách. Những tấm biển gày còm: Ở Ðây Lộn Cổ Lộn Gối, Vá Chữa Quần Áo Lấy Ngay, Cắt Tóc, CắTóc.. Cứ như thể người ở đây ra đời chỉ để cắt tóc, đem sơ mi đi lộn cổ, đem quần đi lộn gối, vá mông rồi chết.
– Nước mình nghèo quá, phải không anh? – Nhẩm đi bên tôi, nói. – Khác Liên Xô quá, phải không?
Tôi cười thay lời đáp.
Nhẩm rủ tôi vào quán. Tất nhiên, anh ta muốn chiêu đãi tôi. Nhưng tôi từ chối. Cái việc tôi được đặc cách xuống xe đi lông nhông cũng đã làm các bạn tù ngứa mắt rồi.
Trại Phong Quang nằm trong một lòng chảo sát biên giới Việt-Trung, cách đường Hữu Nghị là con đường do nước bạn Cuba mới xây dựng giúp khoảng hơn chục cây số. Ðó là theo những gì người ta kể, một hình dung địa lý mờ mịt được chắp vá bởi những câu nói không rõ ràng của những người đi tiếp tế và dân địa phương, chứ tù thường bị chuyển tới nơi ở mới vào ban đêm không bao giờ biết chính xác nơi mình đến là đâu.
Khi tôi vừa tới, những câu chuyện về khí hậu độc địa của vùng này làm tôi phát ớn. Trước hết là sự vắng bóng chim sẻ, được những người tù có học giải thích bằng bản năng trời cho của loài vật – chúng mẫn cảm với tai họa nên tránh xa những vùng nguy hiểm. Thật vậy, chim sẻ có mặt khắp nơi, nhưng ở Phong Quang tịnh không thấy chúng. Các giống chim khác cũng không. Chỉ đêm đến mới nghe văng vẳng tiếng từ quy khắc khoải gọi nhau. Nước Phong Quang có độc hay không, độc đến mức nào, không ai biết, nhưng tù ở các đội nông nghiệp nói rằng ở đây có những khu ruộng sình mà lội xuống bước lên đã thấy lông chân tuột hết không còn cái nào.
Trong các trại tôi đã qua, Phong Quang bị liệt vào loại trại khắc nghiệt. Không người tù nào muốn bị chuyển tới trại này. Những người tù lâu năm an ủi những người tù ít năm rằng dù sao Phong Quang cũng chưa phải trại dữ nhất. Dữ nhất, theo họ, vẫn là Cổng Trời mà tôi đã nói tới ở trên.
Xe tù vừa tới Phong Quang tôi đã thấy ngay trại này khác hẳn trại Tân Lập. Cán bộ công an ở đây sát khí đằng đằng, đi lại hùng hổ, luôn miệng quát tháo. Ðập vào mắt tôi là cảnh mấy người tù bị khóa cánh tiên, lồng ngực căng ra hết mức, mặt đỏ bừng, lử lả ngoài cổng trại. Sau mới biết người bị khóa cánh tiên bao giờ cũng bị khóa ở đấy, nơi mọi người tù đều thấy rõ, một kiểu triển lãm ngoài trời. Thảo nào, khi chia tay với tôi, Nhẩm tần ngần: “Thôi, tôi về nhá, anh Hiên nhá! Anh ở đây cố gắng mà chịu đựng. Tôi đã bàn giao với cán bộ ở đây cẩn thận về trường hợp của anh rồi. Nhưng dù sao thì đây cũng không phải Tân Lập. Mong anh chóng được ra. Cơn bĩ cực nào rồi mà chẳng có lúc hết”.
Cơn bĩ cực của tôi xem ra còn dài.
Trời bù cho tôi. Trại Phong Quang thú vị bởi những nhân vật đặc sắc. Tôi gặp ở đây một bộ sưu tập tù độc đáo. Không kể tín đồ các đạo và các bậc chức sắc của họ, các thứ đảng phái tôi chưa một lần nghe tên, tôi còn gặp một người Âu, mấy anh Lào, mấy anh Miên, cả những anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Lại có cả hai anh xét lại chẳng dính dáng gì tới vụ chúng tôi. Tôi nhớ tới Paustovsky: “Nhà văn cứ thản nhiên mà sống. Chẳng có gì của cuộc đời đi qua mà không để lại dấu vết, không trở thành tài liệu văn học”. Ông đúng. Những bức chân dung không cố ý giữ lại trong trí nhớ mà cứ còn mãi, như thể chúng được khắc sâu bằng dao, xù xì, góc cạnh, không thể tẩy xóa.
Nghe nói có tù xét lại ở đây tôi vội vã bổ đi làm quen.
Thì ra có thật. Một người là sinh viên du học ở Hungari, yêu một cô gái Budapest, bị sứ quán quyết định đuổi về nước. Anh ta trốn ở lại với người yêu thì bị Công an Hungari bắt trao trả theo yêu cầu của sứ quán(2). Bị áp giải về Việt Nam, anh này ở Hỏa Lò một thời gian rồi lên Phong Quang. Anh thứ hai là một thanh niên đã học ở Nga, về ngôn ngữ hay văn học gì đó tôi không nhớ. Hỏi làm sao anh bị bắt thì anh ấp úng, nói có lẽ do anh có qua lại với mấy người Nga dạy học ở Hà Nội. Cả hai đều bị gọi là xét lại, ít nhất thì cũng là cách gọi của công an. Không rõ trong hồ sơ tập trung cải tạo của hai anh người ta ghi tội danh gì, nhưng rõ ràng họ không thuộc vụ chúng tôi.
Thế là vẫn như trước, ở đây tôi chỉ có một mình.
Trong những người tù Phong Quang mà tôi quen đầu tiên, tôi đặc biệt nhớ một thanh niên Trung Quốc bởi ý chí kiên cường của anh ta. Theo anh ta tự giới thiệu thì ở Trung Quốc anh ta trước kia là sinh viên một trường đại học Vũ Hán. Mấy ông già biết phiên âm Hán Việt gọi anh ta là Lý Phương, phiên âm từ tên Trung Quốc Li Fen hay Li Feng, không biết có đúng hay không. Những người Trung Quốc mới sang trong đợt chạy cách mạng văn hóa vô sản đều không có tên gọi theo âm Hán Việt. Không hiểu nghe ai nói tôi là nhà báo nhà văn, Lý Phương tự tìm tới tôi:
– Tôi có việc muốn nhờ anh. – Lý Phương nói bằng tiếng Việt, rất rõ ràng, quá chuẩn, do đó không được Việt lắm.
– Có chuyện gì vậy?
– Tôi muốn anh giúp tôi trong việc tìm cách la-tinh hóa tiếng Trung Quốc.
Tôi ngần ngừ:
– Tôi không biết tiếng Trung Quốc, không biết những đặc điểm của cách phát âm Trung Quốc, làm sao giúp anh được?
– Anh giúp được. Tôi chỉ hỏi anh khi cần thôi. Tự tôi nghiên cứu là chính. Anh người Hà Nội, phát âm tiếng Việt chuẩn, lại có hiểu biết về ngôn ngữ, thế là tốt cho tôi lắm rồi. Anh biết không, tôi thấy tiếng Việt được la-tinh hóa rất hay. Cần phải bắt chước cách la-tinh hóa tiếng Việt để ký âm tiếng Trung Quốc, la-tinh hóa nó…
Không một lời nào nói tới cuộc sống tù tội, không một câu hỏi thăm về án hình, vốn là đề tài muôn thuở trong những cuộc làm quen ở chốn này.
Trung Quốc không bao giờ hết những con người vĩ đại.
Cho đến lúc rời Phong Quang tôi vẫn không biết chính xác lý do Lý Phương rơi vào nhà tù Việt Nam. Có người nói anh ta ở trong một tổ chức chống Mao. Trong cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản, Lý Phương bị bắt, vượt ngục chạy sang Việt Nam. Trong trường hợp một người ở nước mình nhân thân bị đe dọa vì nguyên nhân chính trị đến xin tá túc một nước khác, gọi là xin cư trú chính trị, thì nước nọ thường cho phép anh ta cư trú, thậm chí còn giúp đỡ điều kiện sinh sống. Trừ Việt Nam.
Lý Phương không bị bắt trả về Trung Quốc là may. Nhưng có thật anh ta chống Mao không thì tôi không biết. Chỉ biết trong trại Phong Quang Lý Phương kết nghĩa anh em với một người tù, cũng rất đặc biệt, là Lý Cà Sa.
Về Lý Cà Sa tôi đã được nghe từ Tân Lập. Người tù này đã qua nhiều trại, do đó anh em tù biết nhiều. Anh ta hình như mang tội danh thổ phỉ thì phải. Tôi nói hình như vì chính tai tôi chưa nghe Lý Cà Sa nói về tội trạng mình lần nào, cũng không nghe cán bộ trại giam nói, hoặc nghe người ta đọc tội danh trong khi kiểm kê tù hàng năm. Anh ta, theo tôi, có vẻ giống tù số lẻ hơn tù số chẵn. Ðó là một người Trung Quốc hoàn toàn, nhưng không phải một người Trung Quốc hiện đại, mà từ thời hòa thượng Lỗ Trí Thâm, ít nhất thì cũng từ thời đề mục Lâm Xung, lạc vào đây. Cao, to, nhưng cân đối, gương mặt sáng sủa, với đường nét ngay thẳng, trông thoáng cũng thấy là người trung thực, Lý Cà Sa nổi tiếng là người có sức khoẻ kỳ lạ. Tám người tù lẻo khuẻo ì ạch kéo một cái xe bò lên dốc không nổi, Lý Cà Sa chạy lại giúp, lôi nó đi băng băng bằng một tay. Hơn một chục tù tát từ sáng tới trưa không cạn một cái giếng, Lý Cà Sa xua họ đi, một mình một gầu thau xong giếng trước khi trời tối. Vì sức khỏe, và vì cả nết chăm làm của anh, Ban giám thị các trại đều trọng nể anh. Họ cho anh một đặc ân không người tù nào có được là suất ăn hàng ngày gấp đôi tù thường. Có điều, với sức khoẻ của Lý Cà Sa, suất ăn như thế chẳng đi đến đâu, theo tôi nghĩ.
Lý Cà Sa rất thương Lý Phương. Kiếm được cái gì anh cũng nhường cho Lý Phương. Lý Phương nhận sự nhường nhịn của đàn anh như lẽ đương nhiên, suốt ngày chỉ chăm chú vào việc cải tiến chữ Trung Quốc. Trông cách làm việc của Lý Phương thì có thể nghĩ rằng anh thanh niên này không phải bị tù, mà anh ta sang Việt Nam để có điều kiện nghiên cứu cho việc hoàn tất một công trình ngôn ngữ học rất quan trọng.
Không biết rồi công trình của nhà ái quốc Lý Phương có giúp ích gì cho ngôn ngữ Trung Hoa hay không, nhưng anh ta đã làm việc, như chúng ta thường nói, quên mình.
Về sau tôi có điều kiện giúp Lý Phương được nhiều hơn nữa nhờ ông Lê Hữu Qua, cục trưởng Cục quản lý trại giam. Sau đợt lên thanh tra trại của ông cục trưởng, trung úy Bưởi, cán bộ phụ trách giáo dục, người Hà Tĩnh, một thanh niên trẻ và đẹp trai, gọi tôi lên:
– Ban giám thị có ý để anh làm văn hóa trại, ý anh thế nào?
– Tôi muốn biết công việc gồm có những gì?
– Cũng chẳng có chi mô. Rất đơn giản. Ðại khái là thông báo cho phạm biết những quyết định của Ban(3), kiểm tra vệ sinh, nếp sống văn hóa mới, thỉnh thoảng phát tin trong báo Ðảng cho phạm nghe, trong trại có hiện tượng gì thì báo cáo cho Ban biết…
– Tôi nhận công việc này, trừ hai việc.
– Việc chi?
– Tôi không báo cáo về những việc xảy ra trong trại. Tôi không làm công việc chỉ điểm.
Bưởi cau mặt lại.
– Nhưng nếu trong trại có một âm mưu giết nhau, chẳng lẽ anh cũng không báo cáo để chúng ta cùng nhau ngăn chặn?
– Những chuyện như thế tôi sẽ báo cáo.
– Còn việc thứ hai?
– Tôi sẽ không khóa cánh tiên các trại viên khi cán bộ hạ lệnh.
Bưởi ngần ngừ:
– Anh cho đó là nhục hình?
– Hơn thế, nó còn hạ thấp nhân phẩm của người bị khóa lẫn người hạ lệnh khóa.
– Anh sẽ không phải làm việc đó. – Bưởi nói – Công việc của anh trực thuộc Ban giáo dục trại. Có chi anh cứ trực tiếp gặp tôi để giải quyết.
Anh ta đã giữ đúng lời hứa. Tôi được tự do trong công việc của mình. Tôi xin phép tổ chức một trường bổ túc văn hóa trong trại, bố trí giáo viên, khuyến khích trại viên đi học. Kỳ thi tốt nghiệp cấp hai được tổ chức ngay trong trại, do các giám thị ở ngoài đưa vào coi, rất có kỷ luật, sĩ số đủ điểm tốt nghiệp thuộc loại cao nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trại Phong Quang được coi là lá cờ đầu về bổ túc văn hóa trong khu vực các trại giam. Bưởi ngày một gần tôi hơn.
Tôi phải mà cả rõ ràng vì tôi không muốn các bạn tù hiểu nhầm tôi làm tay sai cho công an. Ở trại Phong Quang có một anh cán bộ Bộ Ngoại giao, cũng bị bắt về tội liên lạc với người nước ngoài, trong đó có cả tội giao thiệp với sứ quán Liên Xô, cũng là một dạng xét lại, mặc dầu anh không được hân hạnh nằm trong sự quản lý của Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ. Anh ở trại này trước tôi, được Ban giám thị trại cho làm trật tự. Nếu như họ cho tôi làm cái chân này, chắc chắn tôi chối từ. Nhưng anh bạn đã nhận, vì anh em yêu cầu, như anh kể. Trong số lẻ có người làm trật tự thì vẫn hơn trật tự toàn số chẵn. Nhưng làm trật tự có nghĩa là làm tay sai trực tiếp của đủ mọi loại cán bộ, kể từ Ban giám thị trở xuống. Họ bắt lấy roi quất anh em thì phải quất, bắt khóa cánh tiên anh em thì phải khóa. Theo sự thỏa thuận giữa tôi và trung úy Bưởi, các quản giáo sai tôi khóa cánh tiên tù, tôi từ chối thẳng. Họ giận dữ, kiện lên Ban giám thị, nhưng không thấy ai khiển trách tôi cả. Tôi sẵn sàng trở lại đội thợ xẻ chứ kiên quyết không làm chuyện bất nhân đó. Vả lại, tôi hiểu rằng nếu có lệnh của cục trưởng Ban giám thị trại mới cho tôi làm văn hóa trại, không cho tôi làm nữa cũng phải có ý kiến của cục trưởng(4).
Trung úy Bưởi là người nhân hậu. Tôi chưa thấy anh hạ lệnh khóa tay một người tù nào. Anh băn khoăn rất nhiều khi phải cho một phạm nhân đi cùm. Còn nhớ một hôm có anh chàng số chẵn tên Lộc, biệt hiệu Lộc Ca-lô-ba, đến giờ đi lao động cứ nằm ì, nhất định không chịu đi. Bưởi hỏi tại sao không chịu đi, Lộc Ca-lô-ba chỉ khóc, rồi nói “việc của tôi ông không giải quyết được, chỉ có chú Hiên mới giải quyết được thôi”. Bưởi gọi tôi. Thì ra anh chàng này, ở ngoài là một võ sĩ quyền Anh hạng ruồi, vào tù đói quá, thế là vay nợ lung tung. Lệ trong tù vay một trả hai, vay một cái bánh mì hôm nay, mai phải trả bằng hai suất cơm, không trả được thì hôm sau nợ nhân lên gấp đôi. Lộc Ca-lô-ba vay bừa, trả thì bữa đực bữa cái, nợ cứ thế tăng lên, cho tới hôm đó đã là một trăm bốn mươi suất. Lộc đói lả do bị chủ nợ cúp cơm liên tục. Y xin tôi giúp đỡ.
– Anh mần răng giúp hắn? – Bưởi hỏi.
– Tôi đang nghĩ. Nhưng phải giúp. Cứ đà này hắn sẽ chết đói.
– Ðể tôi cho lũ chủ nợ đi cùm. Chúng nó làm loạn quá!
– Không được đâu. Ðây là quy ước hai bên thỏa thuận. Không ai bắt buộc Lộc Ca-lô-ba phải vay nợ. Anh làm thế, người ta cho là bất công.
– Rứa thì chịu à?
Tôi gọi các chủ nợ đến:
– Hôm nọ chúng mày có thấy mẹ thằng Lộc Ca-lô-ba không?
– Có. Quả tắc của nó còm lắm.
– Chúng mày siết cả rồi, phải không?
– Nó nợ chúng em nhiều lắm.
– Tao có gặp bà ta. Mới biết nó là con một. Bà lão già rồi, chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ nó ra.
Các chủ nợ đoán được tôi định dẫn câu chuyện tới đâu.
Tôi nói tiếp:
– Mấy hôm nay thằng Lộc Ca-lô-ba xem ra yếu lắm rồi. Cứ bị cúp cơm thế này nó sẽ chết.
– Chúng em không bắt nó vay. Nợ thì phải trả.
– Ðành là thế. Nhưng nếu nó chết, mẹ nó sẽ không còn nơi nương tựa trong tuổi già. Vậy thì thế này. Anh, chúng mày biết đấy, vẫn tập yoga. Mà người tập yoga ngày ăn một bữa là chuyện thường. Anh thương bà lão, chứ không thương thằng Lộc, anh đề nghị chúng mày cho anh trả thay cho nó, với điều kiện là số nợ đến đây là dừng, không tính thêm nữa.
– Không được. – các chủ nợ phản đối – Chúng em mà lại cúp cơm anh sao được!
– Cứ bữa chiều chúng mày lên lấy. Anh chịu được mà.
– Không.
– Vậy thì cho anh xin chúng mày số nợ ấy. Vì mẹ thằng Lộc. Nhưng thằng này thì phải trừng trị cho sáng mắt ra, để từ sau nó chừa, không dám thế nữa… Chúng mày cho anh chứ?
– Vâng. Nhưng anh phải để chúng em cho nó một trận.
– Thì anh vừa nói rồi, thằng ấy không tha được. Nhưng nó yếu quá rồi, chúng mày được phép đánh nó, nhưng anh sẽ giám sát, chỉ được đánh nó bằng bàn tay xòe, thằng nào nắm tay đừng trách…
Sáng hôm sau Lộc Ca-lô-ba bị một trận tơi bời. Những bàn tay xòe không làm cho võ sĩ hạng ruồi bị đo ván. Nhưng mặt y sưng lên như cái bị.
Bưởi quan sát cách giải quyết của tôi, cười tủm tỉm:
– Hay thật đấy! Tôi được một bài học: phải tôn trọng những quy ước, dù chúng là thế nào.
Bưởi cũng nương nhẹ đối với những người cộng sản Trung Quốc thuộc “vụ Quảng Ninh”.
– Họ vẫn giữ tư cách đàng hoàng lắm – Bưởi nhận xét – Ðáng phục.
– Căn cứ tuổi họ thì đây là những người đã tham gia giải phóng Trung Quốc. – tôi nói – Vào thời gian đó chỉ những người có tư cách mới lãnh đạo được quần chúng.
Những người cộng sản này đến Việt Nam bằng con đường khá vòng vèo. Khoảng đầu thập niên 60, tôi không còn nhớ rõ năm nào, vùng Hoa Nam bị lâm vào nạn đói khủng khiếp. Dân đói ùn ùn kéo đi Hồng Kông, nghe nói cả triệu người. Dưới chế độ kiểm soát ngặt nghèo của chính quyền Trung Hoa lục địa, một cuộc di dân ồ ạt như thế không thể xảy ra được nếu không có lãnh đạo. Chính những người cộng sản địa phương đã tổ chức cuộc chạy trốn. Chính quyền Hồng Kông giam dân di tản lại rồi báo cho Bắc Kinh biết. Bắc Kinh tuyên bố: “Không hề có chuyện các công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bỏ chạy tới Hồng Kông”. Ðảo quốc Ðài Loan giang tay đón những đứa con đói khát của tổ quốc, nhưng không phải chỉ vì tình thương, mà còn vì những mục đích chính trị – họ nghĩ tới những đội biệt kích sẽ phái về “giải phóng tổ quốc”. Những người cộng sản được lọc ra, được huấn luyện, rồi được bỏ lên những con thuyền buồm, nhằm hướng Hoa lục. Không hiểu la bàn hỏng, thuyền trưởng tồi, hay vì trục trặc nào khác, nhưng họ lại cập bến Quảng Ninh sau một cơn bão, tưởng mình đã ở trên đất đai của tổ tiên.
Tôi hỏi một cựu bí thư huyện ủy (huyện của Trung Quốc to bằng tỉnh của ta):
– Anh thất vọng về chủ nghĩa cộng sản, và chống lại nó?
– Ðâu có. Tôi vẫn thích chủ nghĩa cộng sản. Tôi vẫn tin chỉ có nó mới mang lại cho chúng tôi công bằng và hạnh phúc.
– Thế mà anh đã ra đi khỏi nơi đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tại sao?
– Mao Trạch-đông không phải cộng sản. Tôi có trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo. Họ đói. Ðã có những người chết. Chủ nghĩa cộng sản thì xa. Nồi cơm gần hơn.
Anh Nguyễn Chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi:
– Các anh nói thối bỏ mẹ: “trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo”. Dân chúng chẳng cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói. Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, im lặng.
Những người cộng sản Trung Quốc trong nhà tù Việt Nam như khách. Họ chỉ quan tâm tới tình hình Việt Nam trong chừng mực những gì liên quan tới họ. Họ không quỵ lụy cán bộ trại, cũng không hòa nhập với cộng đồng tù Việt. Cán bộ có quát nạt họ cũng giả vờ điếc, không nghe thấy, không hiểu. Thỉnh thoảng hứng lên họ hát đồng ca những bài hát cách mạng của Trung Quốc, như bài “Xì lai (5)!” mà chúng tôi cũng biết. Hoặc “Quốc tế ca”. Nhưng không bao giờ họ hát bài “Ðông phương hồng, mặt trời lên. Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch-đông!”.
– Nạn đói là kinh niên đối với một nước như Trung Quốc. – tôi nói với Thiện -Không phải những người cộng sản là nguyên nhân duy nhất. Thời Tưởng, tôi biết, nạn đói còn xảy ra nhiều hơn. Hãy nhớ lại bọn Tàu phù sang ta năm 1945. Không phải chỉ đói, mà còn man rợ nữa…
Thiện trợn mắt nhìn tôi. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu, là tồi tệ, là kinh tởm, chấm hết. Không một cái gì của cộng sản có thể là tốt. Cái cách tôi đánh đồng loạt chính quyền Tưởng Giới-thạch với chính quyền Mao Trạch-đông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn Chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần… kẻ đứng người ngồi trong ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh vẽ Những Người Tháng Chạp(6) trong cảnh lưu đầy ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhớ:
Không có chỗ trên con tàu Trái đất Tôi là người hành khách bơ vơ. Lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt, Cái toa đen dành cho súc vật.
hoặc:
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương… Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương…
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn Chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác. Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sửa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là một người tù không thể bẻ gãy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn Chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ cách trí – lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
– Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện.
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ: chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều Duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng cực đoan dành cho tôi:
– Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà cũng trọng anh lắm đấy! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi. Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn Chí Thiện có ảnh hưởng tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều Duy Vĩnh thì Nguyễn Chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten. Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy.
Nguyễn Chí Thiện có trọng tôi hay không là chuyện không quan trọng. Trong tù tôi học được cách sống tự tại, mặc kệ người ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là tôi, không phụ thuộc vào sự đánh giá của bất kỳ ai.
Vả lại, tôi chẳng việc gì phải đấm ngực trước Nguyễn Chí Thiện hay người tù chống cộng nào khác chỉ vì tôi đã chân thành đi theo sự vẫy gọi của niềm tin mang tên chủ nghĩa cộng sản.
(1) Trừ một số đã chứng minh được lòng trung thành với chính quyền cách mạng.
(2) Chuyện nghiêm cấm sinh viên Việt Nam yêu người nước ngoài cũng là chuyện có thật. Người ta nói rằng chính ông Hồ Chí Minh ra lệnh này từ năm 1953, khi những sinh viên của nước Việt Nam kháng chiến lần đầu tiên được xuất ngoại. Người phá rào cấm của ông Hồ năm 1957 là một nữ sinh viên. Sau này chị mang quốc tịch Ba Lan, trở thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành kiến trúc. Vào cuối thập niên 60, khi con gái Lê Duẩn ngang nhiên lấy chồng người nước ngoài thì lệnh này hoàn toàn mất hiệu lực.
(3) Các Ban giám thị cũng xưng Ban với tù.
(4) Sau khi ra tù tôi mới biết ông Lê Giản đã nói với cục trưởng Lê Hữu Qua tìm cách giúp tôi. Lê Hữu Qua là cán bộ dưới quyền ông Lê Giản khi ông còn là Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Ông Qua là một trong số ít cán bộ công an có học cũ còn được giữ lại làm việc khi thủ trưởng ra đi. Vừa nhậm chức Trần Quốc Hoàn đã gạt hết các cán bộ của Lê Giản ra ngoài.
(5) Vùng lên! Bài hát cách mạng phổ biến ở Trung Quốc, mở đầu bằng câu: “Vùng lên, không cam tâm làm ngựa trâu ngu dân!”
(6) Các sĩ quan trong trào lưu đấu tranh cho tự do đã nổi dậy chống lại Nga hoàng Nicolai Ðệ nhất vào năm 1825. Cuộc nổi dậy bị đè bẹp, Những Người Tháng Chạp bị đầy đi Sibir. Những người vợ dũng cảm của họ đã đi theo chồng tới tận nơi lưu đầy, nêu một tấm gương sáng cho phụ nữ Nga.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:48:08 GMT -6
Chương 41
– Malêlết ló mốn cặp (gặp) mày! – Cố Thủ Chẩu đứng trước mặt tôi, ngúc ngắc cái đầu húi cua, nói bằng giọng khàn khàn.
– Có chuyện gì thế? – tôi nhìn đôi mắt một mí không chớp của anh ta.
– Khôông pết! – Cố Thủ Chẩu nói.
– Sao lại không biết?
– Ló bảo ngộ tến lói.
– Sao anh ta không tự đến?
Cố Thủ Chẩu nhăn nhó:
– Mà mày pằng lòng chớ, có không?
Cố Thủ Chẩu dặng hắng, đôi mắt tròn xoe đã bắt đầu mờ đục buồn rầu nhìn tôi. Tôi kiên nhẫn chờ, nhưng mãi vẫn chẳng thấy anh ta nói gì. “Rõ ngốc!” Tôi rủa thầm tôi ngu. Ai cũng biết Cố Thủ Chẩu nói tiếng Việt không sõi. Mỗi lần phải dùng đến tiếng Việt là một lần anh ta mệt. Chỉ nghĩ đến phải nói tiếng Việt là anh ta đã muốn thở rốc, gương mặt đặc Tàu đờ đẫn hẳn ra trên cái cổ bạnh như cổ trâu. Trong đám tù chính trị họ Cố nổi tiếng hà tiện lời vì lẽ đó. Ngay cả với cán bộ trại anh ta cũng chẳng buồn trả lời khi họ hỏi. Lúc đầu họ còn nổi sùng, riết rồi quen.
– Thì ít nhất cũng phải cho tôi biết có chuyện gì chứ. – tôi nói.
Tôi vừa viết vội cho xong bản báo cáo hình thức hàng tháng về lớp bổ túc văn hóa trại để nộp lên Ban giáo dục trại vừa cố đoán tiếp lý do khiến Marinết muốn gặp tôi. Trong trại mấy ngày qua mọi chuyện đều bình thường. Cả tuần chẳng có sự cố gì đặc biệt. Mà Marinết muốn gặp tôi theo kiểu này, có hỏi trước, nghĩa là phải có vấn đề. Từ khi tôi được Ban Giám thị cử làm chân văn hóa thì, theo một thỏa thuận không thành văn được toàn thể tù nhân tán thành, những người tù có chuyện lủng củng với nhau không báo cáo vụ việc thẳng với cán bộ như trước nữa mà đến bàn với tôi để tìm cách giải quyết nội bộ.
Cố Thủ Chẩu cụp mắt xuống, chân nọ gãi chân kia:
– Malêlết pảo thế! Ló mốn nhều.
Tôi gật đầu:
– Ðược, tôi sẽ đến.
– Tố hảo a!
Cố Thủ Chẩu nhe răng cười hài lòng, bỏ đi.
Tù ở trại A Phong Quang không đông, lối năm trăm nhân mạng là cùng, phần lớn là số lẻ. Như ở bất cứ trại nào, những người tù ít khi chơi thân với nhau. Người ta sợ, cái sợ cố hữu bám theo họ từ bên ngoài xã hội vào, cộng thêm cái sợ có sẵn trong tù sinh ra bởi hệ thống ăng-ten dày đặc và thói quen bẩm báo để kiếm chác trong cảnh thiếu thốn. Ðể tạo ra những ốc đảo an toàn, những người tù họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ, gồm những người đã quen biết nhau ở ngoài hoặc những người đã được quan sát kỹ, thậm chí đã được thử thách trong cuộc sống giam cầm. Thường mỗi nhóm như thế chỉ hai người một, ba người một, gọi là gia đình, hiếm khi đông hơn. Tuy không giao du với nhau, nhưng cùng trong một trại, ra đụng vào chạm chan chát, mọi người đều nhẵn mặt nhau, thậm chí quen nhau tuốt tuột, có thể nói như thế. Chẳng hạn, tôi không phải bạn Cố Thủ Chẩu, ấy thế mà gặp nhau chúng tôi bao giờ cũng vồn vã chào hỏi xã giao như những người quen lâu ngày, dù sau đó chỉ nói với nhau đôi ba câu bâng quơ.
Marinết, hay Malêlết theo cách phát âm của Cố Thủ Chẩu, là một cái lạ của trại Phong Quang. Lần đầu tiên tôi gặp trong bộ lạc tù số lẻ một người Âu. Một người Âu trăm phần trăm, Âu hoàn toàn, mũi lõ tóc vàng, mắt xanh, da trắng. Không phải tây lai. Không phải phi công Mỹ. Không phải tù binh còn sót lại của chiến tranh Ðông Dương. Nghĩa là không thể nào giải thích được vì sao anh ta lại có mặt giữa vùng lam sơn chướng khí chỉ dành cho bọn tù số lẻ, lũ kẻ thù giai cấp của chính quyền vô sản. Mà khốn nạn làm sao, anh chàng lại không biết tiếng Việt để có thể trò chuyện với bạn tù, để cảm thấy đỡ cô đơn trong cảnh sống bị trói buộc. Cán bộ trại gọi tên anh ta theo hồ sơ hay anh ta tự xưng không biết, nhưng mọi người đều gọi anh ta là Marinết. Chắc là tên chứ không phải họ.
Lầm lũi như một cái bóng, cao lênh khênh, nước da xanh xao, cái nhìn bất động, Marinết ngồi yên lặng xếp hàng trên sân trại mỗi buổi sáng chờ đi lao động. Khi đội anh ta được gọi tới, anh ta lẳng lặng đứng lên cùng với các bạn tù, như một Gulliver nhẫn nhục, lẳng lặng đi, lẳng lặng làm.
Theo lời kể của những người tù, thường tò mò và thích ngồi lê đôi mách, thì Marinết là một thương gia Hà Lan chuyên buôn bán mễ cốc trong vùng Thái Bình Dương. Sự có mặt của anh ta ở đây được giải thích bằng một nguyên nhân không cần tới lô-gích – do Chúa trừng phạt. Họ kể do Marinết quá sốt ruột muốn hưởng ngay lập tức phần gia tài kếch sù được ghi trong di chúc của ông nhạc, đã mưu mô với vợ đầu độc ông ta. Cái chết của ông già không bị phát giác. Nhưng trong một chuyến đi áp tải hàng Marinết say túy lúy trong bữa rượu mừng sinh nhật đã rơi tõm xuống biển mà không ai biết rồi dạt vào Việt Nam. Chắc hẳn Marinết có kể cho ai đó, cho nên người ta mới biết chuyện này. Mà chẳng cứ bạn tù, các cán bộ trại cũng tin câu chuyện đó. Hẳn Marinết đã khai với công an như vậy. Mà cũng có thể Marinết kể cho Cố Thủ Chẩu nghe, rồi Cố Thủ Chẩu kể lại cho người khác. Trong trại Marinết chẳng chơi với một ai trừ Cố Thủ Chẩu.
Cố Thủ Chẩu là thổ phỉ. Nhưng trông họ Cố lại chẳng có thớ ăn cướp tẹo nào. Ðậm người, đi đứng chậm chạp, tay chân vụng về, da mặt bóng nhẫy, trông Cố Thủ Chẩu có vẻ một ông chủ tiệm chạp phô thị trấn biên giới. Ðể làm một tên cướp họ Cố lù đù quá, khờ khạo quá, trong đối nhân xử thế thì lại tử tế quá, ân nghĩa quá. Cố Thủ Chẩu cũng dân boọc, cũng án tù mù. Từ bên Lào sang họ Cố được phiên vào một toán số lẻ, mặc dầu thổ phỉ là tội thuộc số chẵn.
Làm xong công việc hàng ngày của anh văn hóa trại, nghĩa là có mặt trong giờ điểm danh, đi kiểm tra vệ sinh lán trại, treo báo luân phiên trong các khu cho anh em tù đọc, tôi lững thững đi gặp Marinết.
– Chào đồng chí!
Ðôi mắt xanh biếc của Marinết cười rộng, bàn tay to và xương xẩu xiết chặt tay tôi.
– Chào anh Marinết!
Chúng tôi theo nhau trèo lên tầng trên cái giường chạy dài suốt năm gian nhà. Giang sơn của Marinết là một manh chiếu, sát vách là khối chăn màn vuông vức, kể cả tay nải. Marinết nghèo, anh không có cái hòm gỗ mộc như những dân boọc số lẻ khác (là những người ít tin ở ngày về hơn bất cứ thứ tù nào). Cũng khác với tất cả, bên trên vách, ở đầu chỗ nằm của anh, có một thập giá tết bằng lá cọ non, khô cứng và xám xịt vì lâu ngày. Theo nguyên tắc trại giam, những người tù theo đạo Thiên Chúa không được phép treo thập giá ở đầu giường, nhưng Marinết được hưởng ngoại lệ. Dù sao anh cũng là người nước ngoài.
Không vội vã Marinết châm đóm. Lửa bùng lên trong bóng tối ẩm ướt buổi sáng đầu đông có sương mù, tạo ra không khí ấm cúng. Tay phải Marinết cầm đóm huơ những vòng lửa nhỏ dưới trôn cái ống bơ cầm chắc trong tay trái, nước trong ống bơ chẳng mấy chốc đã sôi sùng sục. Trong tù thủ tục tiếp khách bao giờ cũng trang trọng. Cái bát men thủng làm bếp, ống bơ sữa bò làm ấm đun, cái ca men sứt sẹo thay ấm pha, chén đựng trà làm bằng nứa tép cắt ngắn – bộ đồ trà của tù là thế.
– Mời! – Marinết đưa cho tôi một chén trà nóng bỏng bằng hai tay.
– Mời! – tôi nâng chén, cũng bằng hai tay.
Chúng tôi lẳng lặng thưởng trà như hai nhà ngoại giao đại diện cho hai dân tộc Âu- ỏ trong một cuộc gặp gỡ vào đầu thế kỷ trước.
– Anh không lấy làm lạ thấy tôi gọi anh bằng đồng chí sao?
Marinết nheo mắt cười qua hơi nước sôi nghi ngút. Hóa ra anh ta biết tiếng Việt.
– Thú thật, tôi lấy làm lạ. Ở trong tù người ta không gọi nhau như thế. Tôi nghĩ anh chưa rành tiếng Việt.
– Tôi cố ý. Tôi nói có cân nhắc – Marinết nói.
– Thật vậy à?
– Tôi quan sát anh từ khi anh vừa tới trại này. Mọi việc anh làm, nhân cách của anh, kể từ khi anh làm văn hóa trại, đều được chúng tôi theo dõi. – Marinết nhẩn nha giải thích – Và tôi kết luận: anh là một người cộng sản.
Một kết luận kỳ cục, tôi nghĩ.
– Vâng, một người cộng sản. – Marinết nói thêm – Như tôi.
Tôi nhìn Marinết, không nói được lời nào.
– Anh còn ngạc nhiên hơn nữa khi nghe điều tôi sẽ nói đây: tôi là đảng viên Ðảng cộng sản Trung Quốc.
Tôi còn sửng sốt hơi nữa.
– Anh? Là đảng viên Ðảng cộng sản… Trung Quốc?
– Vâng.
– Cả Cố Thủ Chẩu?
– Không, Cố Thủ Chẩu khác. – Marinết cười khe khẽ, lắc đầu – Anh ta là người của Khun Sa(1).
– Tôi lại càng không hiểu… – tôi nói.
– Người ta nói anh còn là nhà văn, phải vậy không?
– Trước kia tôi có làm công việc viết lách.
Marinết pha tuần trà thứ hai.
– Hôm nay tôi muốn gặp anh chính là để kể cho anh về những cái tôi vừa nói, về cuộc đời tôi… Nếu anh muốn nghe…
– Tất nhiên, tôi muốn nghe.
Marinết cười:
– Tôi biết mà, tôi không lầm khi chọn anh để nói về những bí mật của đời tôi. Mà cuộc đời tôi đáng được kể lại… Nó không giống những gì anh đã nghe đâu. Ðó là chuyện bịa. Gặp anh tôi mừng lắm. Không phải ai cũng may mắn được gặp một nhà văn ở trong tù.
Chao ôi, cuộc đời tôi mới kỳ cục làm sao! Cứ như thể tôi sinh ra chỉ để làm một việc duy nhất là làm nhân chứng cho những sự kiện không bình thường. Mà những sự kiện không bình thường thì ở trong nhà tù vô số kể. Chẳng hạn như Marinết đây.
Mà anh cũng chẳng phải là người nước ngoài đầu tiên tôi gặp trong tù. Trước Marinết tôi đã gặp một người khác – một thanh niên Triều Tiên. Tôi gặp anh chàng họ Kim này tại Tân Lập, mùa thu năm 1971. Cũng là một dân số lẻ, cũng boọc. Lạ lắm. Mà cũng bi thảm lắm. Tôi sẽ kể về anh chàng này sau.
Marinết nói tiếng Việt còn kém, nhưng hiểu tốt. Anh sợ người ta tò mò về anh, thành thử anh chỉ chăm chú nghe mọi người nói rồi quay mặt vào vách mà lẩm bẩm những lời học được ban ngày, người không biết tưởng anh cầu nguyện Chúa. Gặp những từ anh chưa biết, hoặc quên mất, Marinết chêm tiếng Pháp, tiếng Anh vào. Cuộc đối thoại lúc đầu có trục trặc chút ít, nhưng chúng tôi mau chóng tìm được cách hiểu nhau.
Câu chuyện Marinết kể như sau:
Anh là người Trung Quốc tính theo quốc tịch. Nhưng về dòng máu, Marinết là người Hà Lan. Cha của Marinết, một bác sĩ, là con một gia đình trí thức nghèo ở Amsterdam. Ông học nghề thày thuốc theo truyền thống gia đình – cụ nội Marinết làm nghề cứu nhân độ thế, ông nội Marinết nối nghiệp. Có một con trai, cụ cho vào trường y. Ngay sau khi ra trường, cha của Marinết đã xin đi thực tập tại Trung Quốc. Sở dĩ ông chọn nước này vì ở đây có điều kiện tốt cho một bác sĩ trẻ trưởng thành, có thể mau chóng trở thành bác sĩ lành nghề. Trung Quốc vào đầu thế kỷ là một nước lạc hậu, nghèo nàn, luôn có dịch bệnh. Người thày thuốc được điều trị nhiều thì chóng giỏi. Hơn nữa, lương trả cho bác sĩ thực tập ở một bệnh viện Hà Lan tại Thượng Hải, nơi ông phải tới, cũng cao hơn ở các nước khác. Mẹ Marinết người Trung Quốc chính gốc, cũng sinh viên ngành y. Là một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng, bà lôi kéo người bạn Hà Lan vào những hoạt động của lớp thanh niên thiên tả thuộc thế hệ bà. Họ yêu nhau, rồi cả hai cùng gia nhập Ðảng cộng sản. Khi lực lượng cách mạng rời các thành phố duyên hải chuyển vào sâu nội địa, tiếp đến cuộc Vạn lý Trường Chinh lên phía Bắc, đôi vợ chồng trẻ với đứa con năm tuổi đã cùng Mao Trạch-đông, Bành Ðức Hoài, Chu Ðức vượt qua những gian khổ không kể xiết lên tới tận căn cứ địa Diên An.
Marinết lớn lên trong lòng cuộc cách mạng Trung Quốc. Mẹ anh qua đời vì một cơn bạo bệnh thiếu thuốc chữa. Cha anh suy sụp hẳn sau cái chết của bà. Ông làm việc như một cái xác không hồn. Sau này, lớn lên, Marinết mới biết ông không bao giờ tha thứ cho Ðảng của ông về cái chết của vợ ông. Dường như thuốc để chữa cho mẹ anh lúc bấy giờ có, nhưng nó đã được dùng một cách vô ích cho một trường hợp khác, chỉ vì Mao Trạch-đông muốn biểu diễn sự quan tâm của ông ta tới một đối thủ chính trị.
Marinết trở thành chiến sĩ Hồng quân rất sớm, anh vào Ðảng cộng sản Trung Quốc ngay từ khi 17 tuổi. Trung Hoa lục địa hoàn toàn giải phóng, anh được cử đi học một lớp huấn luyện công an và chuyển hẳn sang ngành này. Học xong anh được điều về Quảng Châu, địa đầu của nhiều ngả thông thương giữa Trung Quốc và nước ngoài, phụ trách công tác phản gián. Chính ở đây Marinết gặp Cố Thủ Chẩu.
– Anh ta người Quảng Châu?
– Không phải. Chính anh ta cũng chẳng biết mình quê ở đâu. Họ Cố là một tay mất gốc. Trông lù đù thế mà, anh biết không, Cố Thủ Chẩu đã lê gót khắp thế giới rồi đấy. Anh ta đã ở trong những khách sạn sang nhất của Washington, New York, Paris…
– Cố Thủ Chẩu làm nghề gì?
– Cố Thủ Chẩu không có nghề. Anh ta là một trong những boss(2) của Tam Giác Vàng, vựa thuốc phiện của thế giới…
– Anh quen Cố Thủ Chẩu ở Quảng Châu?
Marinết chưa kịp trả lời thì Cố Thủ Chẩu trở về. Anh ta cười hể hả, lồm cồm leo lên nhậm xà(3) cùng chúng tôi.
Cố Thủ Chẩu được coi là một người tù cải tạo tốt nhờ tính tình hiền lành và đức cần mẫn. Ðã hơn một năm nay anh được Ban Giám thị cho tự giác, trông nom trạm thủy điện. Công việc này nhàn lắm. Trạm thủy điện nhỏ dùng dòng chảy chạy suốt ngày đêm. Người trông trạm chỉ phải đóng mở mấy cái cầu dao cho dòng điện lúc thì chạy máy bơm nước, lúc thì thắp sáng. Trong những ngày nước lũ thì vất vả hơn một chút, phải thức khuya dậy sớm trông nom cái tua-bin và máy phát điện, không để chúng bị trôi đi.
– Tang lói chuện dề? – Cố Thủ Chẩu khề khà hỏi. Anh đặt lên chiếu trước mặt chúng tôi một gói trà tự biên tự diễn, có tới ba lạng. – Hôm lay ngộ hên lắm, vớt lờ ngoài suối tược cả kí lô cá, mới sang pên lâm sản tổi xà (đổi trà) ngon về cho các pạn…
– Ðang hỏi chuyện hai anh quen nhau thế nào? – tôi nói.
– Quen quen cấy chi! – Cố Thủ Chẩu ngửa mặt cười hắc hắc – Malêlết ló pắt ngộ chớ. Chính cấy thằng lày lày. Pỏ tù a. Hổi cung a. Tủ cả. Malêlết pắn chếch ngộ lồi lếu ngộ không có cấy hộ chếu Mỹ, phảy thế khôông?
– Bậy nào. Bắn là bắn làm sao!
– Thì pắn pằng cấy tạn (cái đạn) tùng tùng chớ pằng cấy chi. Trung Cộng cố tạn nhều nhều. Người cũng nhều nhều. Pắn không cố tếc.
Marinết ở Quảng Châu được ít lâu thì xảy ra tam phản hay ngũ phản chi chi đó, anh kể nhưng tôi không nhớ. Trong những cuộc phản thường trực như vậy cán bộ cách mạng đều lần lượt bị dính, hết người này tới người khác đi tù, đi học “trường thất ngũ”, một thứ trại cải tạo. Marinết gặp may – anh không hề hấn gì. Ðùng một cái, các bạn đồng đội từ thời Diên An đang đêm bí mật đến lôi anh khỏi nhà, bỏ anh lên một chiếc thuyền nhỏ, dùng ca nô hải quân kéo ra hải phận quốc tế. “Ðồng chí thấy có tàu thuyền treo cờ nước ngoài thì vẫy họ xin cứu, họ dặn anh. Còn hơn chết trong trại tập trung, mà đồng chí thì chắc chắn bị bắt nếu chúng tôi không đến kịp. Thôi, vĩnh biệt Marinết!”
Lênh đênh trên biển hai tuần liền, Marinết không gọi được một chiếc tàu nước ngoài nào. Anh có nhìn thấy chúng trên đường chân trời, nhưng con thuyền nhỏ bé của anh chỉ là một chấm đen trên mặt biển mênh mông, người ta đã không thấy anh. Nắng như đổ lửa trên đại dương vô vọng. Nhờ những đồng đội thông minh, anh đã không chết khát sau khi lượng nước ngọt dự trữ cạn – trong đám lương khô anh tìm thấy cả một bao tải khoai lang, thứ khoai ngoài tinh bột còn chứa rất nhiều nước trong củ.
Thế rồi bão nổi, tung lên dìm xuống con thuyền của anh. Nó tơi tả bay lượn trên những ngọn sóng như một cọng rơm. Marinết tỉnh dậy khi chân anh đụng thềm cát của đất liền. Trong cơn u mê anh vẫn còn đủ tỉnh trí để trút bỏ bộ quần áo. Không thể để cho người ta biết anh từ đâu tới trước khi anh biết những người cứu anh là ai. Những người du kích Việt Nam tìm thấy Marinết trong trạng thái bất tỉnh trên bờ biển. Họ đưa anh về trụ sở ủy ban xã. Marinết nhận ra chân dung ông Hồ Chí Minh, anh hiểu anh đang ở đâu. Biết chắc nếu khai thật anh sẽ bị chính quyền Việt Nam trả cho Trung Quốc, anh trút nốt cái quần lót trong nhà vệ sinh khi xin đi đại tiện. Nó là vật chứng duy nhất tố cáo anh là người Trung Quốc. Sau đó anh sáng tác ra chuyện anh đầu độc bố vợ và bị Chúa phạt.
Anh không ngờ lại gặp Cố Thủ Chẩu trong nhà tù Việt Nam.
– Tôi ngẩn người, không nói được câu nào khi thấy Cố Thủ Chẩu trước cổng trại, đang chăn mấy con trâu.
– Ngộ cũng thế. Ngộ há cấy mồm.
Cố Thủ Chẩu kể anh đi ăn cưới em gái một người anh em kết nghĩa ở Thượng Lào. Không thể nào từ chối người anh em thân thiết cho được. Họ uống say bí tỉ. Tỉnh dậy Cố Thủ Chẩu thấy mình bị trói gô. Người anh em kết nghĩa bị bắt về tội làm thổ phỉ. Không biết Cố Thủ Chẩu là ai, người ta buộc anh là thổ phỉ nốt. Cho tiện. Sau đó là các nhà tù Lào, rồi nhà tù Việt Nam.
– Tôi dặn Cố Thủ Chẩu chớ nói với công an Việt Nam tôi là ai.
– Ngộ cũng pảo ló thế. – Cố Thủ Chẩu nói – Công an Vệt Lam ló pết mềnh ở Tam Dác Vàng thì lôi thôi lắm, rách vệệc lắm.
Tôi hỏi Marinết:
– Công an Việt Nam hoàn toàn không biết tí gì về anh?
– Không. Nếu họ biết tôi đã không còn ngồi đây nói chuyện với anh.
– Và anh dám tin tôi?
Marinết nhún vai.
– Tại sao lại không tin?
– Cảm ơn anh đã tin.
– Tôi phải cảm ơn Chúa đã cho tôi được gặp anh để mà tin.
Marinết ngước mắt nhìn lên cái thập giá và tôi hiểu: người cộng sản Marinết bây giờ tin thật có Chúa Trời.
– Vì sao anh muốn kể cho tôi nghe cuộc đời anh?
Trên mặt Marinết thoảng qua một nụ cười cay đắng.
– Bởi vì tôi biết tôi không còn sống lâu nữa. Anh là nhà văn, tôi kể cho anh nghe cuộc đời tôi để một lúc nào đó anh kể lại cho người khác.
– Anh nghĩ rằng tôi còn cơ hội để kể lại?
Tới năm thứ tám của đời tù tôi gần như không tin mình sẽ còn sống cho tới ngày trở về. Thời hạn ba năm cho một lệnh tập trung cải tạo là thời hạn hình thức, nó chẳng được ai tính đến, trừ thói quen của guồng máy quan liêu, đến ngày thì cho đánh máy thêm một lệnh mới, kéo dài thêm cái lệnh cũ. Tôi là tên tù xử lý nội bộ, tức là số phận tôi do Ðảng quyết định, nếu tin vào lời người đứng đầu Ban bảo vệ Ðảng. Mặt khác tôi lại là tên tù tập trung cải tạo, tức là tên tù-không-phải-tù có hạn ba năm một, nếu tin lời phổ biến của tên đại úy công an.
– Tại sao lại không tin? – Marinết phản bác – Anh còn trẻ mà.
– Chúng ta đều còn trẻ. Có điều chúng ta đang già đi ở đây…
– Nhưng anh sẽ còn sống.
– Anh cũng vậy.
– Không, tôi sẽ không còn sống đến ngày ra khỏi đây đâu, tôi biết. Anh xem này.
Marinết lê ra gần cửa sổ, húng hắng ho rồi khạc vào một tờ giấy. Anh vẫy tôi lại gần. Trên tờ giấy, lẫn trong đờm là những tia máu kéo dài. Anh gập tờ giấy vứt ra ngoài cửa sổ.
– Anh bị lao?
– Rõ ràng là thế.
– Cần phải chữa.
Nghe tôi nói Cố Thủ Chẩu kêu lên bằng một thổ ngữ Trung Quốc lạ tai, nhưng tôi hiểu – anh ta chửi thề. Marinết lườm bạn:
– Này, đừng nói bậy nhá!
– Chỡ, chỡ cấy…tỉu na má(4)! Khám lồi, khám nhều nhều lồi, thằng ê sĩ cho mấy vên thốc ho lồi pảo ti về, ti về.
Marinết cười hiền lành:
– Nhà tù chứ có phải an dưỡng đường đâu. Nơi này là nơi để chết chớ không phải nơi để sống…
Anh chàng Triều Tiên họ Kim mà tôi nhắc tới ở trên chắc đã chết. Tôi vẫn quan tâm tới anh ta, nhưng không nghe ai nói tới một người Triều Tiên ở trại nào nữa, mặc dầu ở Phong Quang có đủ mặt tù từ các trại khác tới.
Kim đến Tân Lập trong một chuyến tù từ Hà Nội. Những người tù mới chỉ trỏ anh ta cho chúng tôi thấy, khoe với chúng tôi của lạ trong đám họ. Anh chàng Triều Tiên đứng ngẩn ngơ một mình, không biết nói chuyện với ai. Tôi nỉ hảo(5) với anh ta bằng tiếng Trung Quốc rồi hỏi có phải anh ta là người Triều Tiên không?
– Hẩn tuây(6)!
Nhưng vốn liếng tiếng Trung Quốc của tôi chỉ có thế. May, Kim biết tiếng Nga. Tôi hỏi vì sao anh bị bắt.
– Tôi không hiểu. – Kim nói, mặt ngây độn – Tôi không hiểu gì cả. Tại sao người ta lại bắt tôi? Tôi là sinh viên Triều Tiên học ở Bắc Kinh. Tôi yêu Việt Nam. Tôi tình nguyện đi kháng Mỹ viện Việt, chẳng ai nhận tôi cả. Tôi mới đáp tàu hỏa xuống phía Nam, ở đó chắc chắn có đường qua Việt Nam. Tới Ping Seng, tôi thấy hàng dãy xe tải chở những ống lớn chờ qua biên giới. Mới chui vào một ống, quả nhiên sang được. Ðó là những ống dẫn dầu viện trợ cho Việt Nam. Ðến Bắc Giang, tôi chui ra. Tôi đi tìm chính quyền Việt Nam xin chiến đấu chống Mỹ thì bị bắt…
– Người ta không tin?
– Họ chẳng nói gì hết. Cho ăn uống. Bảo sẽ kiểm tra việc này. Họ hỏi sứ quán nước tôi tại Hà Nội…
– Sứ quán trả lời ra sao?
– Qua lời anh phiên dịch thì hình như sứ quán nói: ở Triều Tiên không có những công dân vô kỷ luật, tùy các đồng chí Việt Nam xử lý. Tôi bị tù.
– Anh phản đối chứ?
– Tôi phản đối. Họ bảo: hãy yên tâm, cứ ở tạm đây đã để người ta còn điều tra thêm.
Kim thở dài.
Không hiểu sao lúc ấy trong tôi lại nảy ra một ý nghĩ đùa cợt, bây giờ nghĩ lại thấy thật là ác.
– Anh Kim à, – tôi nói – tôi nghĩ anh bị tình nghi về một tội khác… Mà người ta không nói ra với anh.
– Tội gì? Tôi đã khai thực với họ: tôi chỉ muốn tham gia chống Mỹ cùng với nhân dân Việt Nam.
Tôi làm bộ suy nghĩ một lát.
– Có thể, người ta nghi anh là gián điệp.
– Bôgiê môi(7)! Tại sao người ta có thể nghĩ bậy thế được! Tôi mà làm gián điệp cho Mỹ sao?
– Chắc anh biết một trong những thế mạnh của nền xuất khẩu Triều Tiên là nhân sâm, jinseng…
– Ðúng!
– Việt Nam cũng có một thứ jinseng. Chỉ có nó mới cạnh tranh được với jinseng Triều Tiên, và nhà nước Việt Nam rất bảo vệ bí mật ginseng của mình…
– Chà!
– Có phải jinseng Triều Tiên to chừng này không? – tôi chìa ngón tay cái – ớt có củ to hơn.
– Phải. Một củ và hai hoặc ba chẽ.
– Anh chờ một lát sẽ thấy jinseng Việt Nam lớn đến thế nào!
Khi những đội nông nghiệp kìn kìn gánh sắn thu hoạch về cho nhà bếp thì Kim trợn tròn mắt, kêu lên mấy thán từ bằng tiếng Triều Tiên mà tôi không hiểu.
Tối hôm đó, tôi tưởng anh chàng Triều Tiên sau khi đã được đứng lẫn với tù Việt Nam thì sẽ được đưa vào một toán số lẻ nào đó, nhưng không phải. Anh ta bị biệt giam trong một xà lim kỷ luật. Ban đêm tôi nghe tiếng Kim đập phá, la hét cho tới tận sáng. Mấy ngày kế tiếp cũng vậy. Rồi khu biệt giam im lặng hoàn toàn – anh ta đã được đưa đi nơi khác, hoặc còn sống hoặc đã chết.
Marinết nói:
– Anh hứa sẽ viết về cuộc đời tôi chứ?
– Nếu tôi còn sống.
Marinết đưa tay ra, buộc tôi phải ký kết giao ước vừa thỏa thuận với nhau bằng cái bắt tay chặt.
– Chủ nghĩa lãng mạn giết chết con người chẳng kém gì dịch hạch. – Marinết trầm ngâm – Anh thử nghĩ mà xem: có biết bao nhiêu người đã thành tâm đi theo chủ nghĩa cộng sản và trở thành nạn nhân của nó?
Tôi nghĩ tới Kim. Trường hợp của Marinết, của tôi, còn phải lý giải dài dài, nhưng trường hợp của Kim thật rõ ràng.
Chủ nghĩa lãng mạn không phải chỉ có mặt trong những bi kịch có dính líu tới chủ nghĩa cộng sản. Một tù nhân chính trị mà tôi gặp ở Phong Quang còn làm cho tôi sửng sốt hơn bởi lòng yêu nước kỳ lạ trong anh ta. Là một thanh niên nông dân, trình độ học vấn chỉ khoảng lớp bốn lớp năm, Phong rơi vào tù (cũng không có án xử) do những bức thư gửi cho Trung ương Ðảng, trong đó anh ta lên án các bậc chèo lái quốc gia mời quân Trung Quốc vào Việt Nam là “cõng rắn cắn gà nhà”. Ðể bàn về chuyện đúng sai trong việc này còn phải mất nhiều giấy mực, nhưng điều không phải bàn là lòng yêu nước trong anh ta.
Phong không có chân trong bất kỳ đảng phái “phản động” nào, cũng không giáo điều hoặc xét lại – anh ta chỉ có trần trụi một lòng yêu nước chẳng cần biết đến đúng sai.
Lòng yêu nước này có thể gọi là cực đoan hay mù quáng là tùy ở mỗi người, nhưng nó gợi lên trong tôi sự kính trọng. Mà không phải chỉ trong tôi.
Một hôm trung úy Bưởi mời tôi tới phòng giáo dục rồi đưa cho tôi một tập hồ sơ.
– Anh đọc đi.
Ðó là những bức thư Phong gửi Trung ương Ðảng. Không phải những bức thư đã đưa anh ta vào tù, mà những bức thư kế tiếp, vừa mới viết, những bức thư nằm trong tiêu chuẩn hiếm hoi mà người tù được phép gửi ra ngoài. “Tôi kêu gọi các người hãy tỉnh lại, đừng mơ hồ với mưu toan bành trướng của Trung Quốc. – một bức thư viết – Tham vọng mở mang bờ cõi của họ tổ tiên ta đã biết từ lâu. Nếu con cháu không nghe lời để chúng xâm lấn đất đai tổ tiên một lần nữa thì tội ấy ngàn đời không rửa sạch…” Trong một bức thư khác Phong dọa Trung ương Ðảng rằng lịch sử sẽ không tha thứ cho họ, nếu như họ ngoan cố kết liên với kẻ thù truyền kiếp để mang họa cho đất nước.
– Anh này thậm chí nhịn đói chứ không ăn cơm nấu bằng gạo Trung Quốc viện trợ.
– Tôi cũng có nghe chuyện này. Những ngày trại ăn gạo Trung Quốc anh ta ăn sắn mót trên nương.
Bưởi lắc đầu buồn bã.
– Anh muốn nghe ý kiến gì ở tôi? – tôi hỏi Bưởi.
– Tôi muốn hỏi anh: nếu ở địa vị tôi anh sẽ xử trí với những bức thư này như thế nào?
– Tôi có thể không đồng ý cách nhìn bất biến của anh ta với Trung Quốc cũng như với bất cứ kẻ thù cũ nào. – tôi nói chậm, tìm những lời lẽ không thể bắt bẻ được – Lịch sử là lịch sử. Nếu dân tộc Chàm nhìn người Kinh hiện nay như kẻ thù thì sẽ ra sao(8)? Tôi không nói anh ta sai trong cách nhìn nhận cụ thể đối với Trung Quốc hiện tại. Hình như cách nhìn Trung Quốc của Ðảng năm nay, 1974, cũng đã thay đổi so với năm 1964…
Trung thành với nghề nghiệp, Bưởi nín lặng. Qua báo Nhân dân là tờ báo duy nhất tù được đọc, tôi nhận thấy giọng tờ báo không còn nồng nàn đối với Trung Quốc như hồi ban lãnh đạo Ðảng còn hào hứng thấy “trung tâm cách mạng đã chuyển về phương Ðông”.
– Ðiều rõ ràng là những bức thư này được viết ra dưới sự thôi thúc của lòng yêu nước, – tôi kết luận – còn yêu theo cách nào là chuyện khác, tôi không bàn đến.
– Nếu những bức thư này được đính thêm vào hồ sơ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ còn ở tù còn lâu… – Bưởi nói – Theo anh, ta nên làm gì với những bức thư này?
– Tôi nghĩ chúng chẳng có ích gì, tức là tôi muốn nói, chẳng thay đổi được gì trong đường lối của Ðảng nếu nó được gửi tới đúng địa chỉ…
– Chính vì vậy mà tôi đã không gửi.
– Anh nên đốt đi. – tôi khuyên Bưởi – Ðó có lẽ là cách tốt nhất, nếu ta còn biết kính trọng lòng yêu nước của một con người.
Bưởi đưa cho tôi cái bật lửa.
– Anh đốt hộ tôi.
Tôi ra đầu hồi châm lửa vào mấy bức thư. Chúng cháy cong queo, tàn bay lả tả trong gió. Tôi hiểu vì sao Bưởi không tự tay đốt những bức thư. Chẳng phải Bưởi sợ cái gì. Chẳng qua anh ta muốn tôi thấy anh ta tin tôi tới mức nào.
Marinết mỗi ngày một yếu. Tôi không có cách nào cứu anh. Tôi viết một bức thư về cho vợ tôi, bảo vợ tôi tới bác sĩ Phan nhờ anh kiếm thuốc chữa lao gửi lên cho tôi. Tôi hơi ngần ngại khi viết bức thư này, sợ vợ tôi tưởng tôi bị lao. Nhưng bức thư không có hồi âm. Người đi tiếp tế mà Cố Thủ Chẩu nhờ chuyển thư đã không chuyển.
Marinết bảo tôi:
– Ðừng lo lắng cho tôi, đồng chí! Tôi đã cố gắng vật lộn với cái bệnh khốn kiếp này, nhưng xem ra không ăn thua. Tôi đã nuốt cả những con thạch thùng sống theo lời khuyên của những người tù già, họ nói đó là bài thuốc dân gian cổ truyền. Tôi đã ăn những con giun, nghe nói chúng làm tăng sức đề kháng. Có người còn bảo tôi nướng những con gì giống con cóc nhưng bụng rất to mà da nhẵn thín, tôi ăn và nôn mửa gần chết… Tất cả đều vô ích. Tốt nhất là thỉnh thoảng chúng ta kiếm cách gặp nhau để tôi có thể kể thêm cho đồng chí về cuộc đời tôi và về số phận những người cộng sản Trung Quốc. Biết đâu đấy, đồng chí lại chẳng cho người đọc biết thêm một chút gì bên trong bức màn sắt của Trung Quốc bao la đầy bi kịch…
Tôi đã không viết gì hết sau khi ra khỏi nhà tù. Tôi sợ. Và tôi không thích sự nửa vời. Nếu tôi viết tôi phải viết tất cả những gì tôi nghĩ. Những người Trung Quốc dũng cảm đã làm việc đó hơn người Việt Nam. Thế giới được biết những việc xảy ra ở Trung Quốc nhiều hơn những gì xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam, xét cho cùng, là một quốc gia nhỏ bé. Người ta không biết đến cũng phải.
Tôi cũng đã không viết về cuộc đời của ông già Bát(9). Ông ở cùng đội với tôi, nhưng giống như những người tù số lẻ khác, ông lầm lì và không thích nói tới nguyên nhân dẫn ông vào tù. Cái sự vào tù một cách dớ dẩn, chẳng ra đâu vào đâu, tưởng chừng chỉ riêng kẻ bắt người bỏ tù oan phải xấu hổ, hóa ra nó còn làm cho cả người bị tù oan cũng cảm thấy ngượng ngùng mới lạ. Cứ như thể họ không xứng đáng với danh hiệu tù chính trị bị khoác cho một cách bất đắc dĩ, như thể họ là kẻ nhận vơ, mà nhận vơ cái không phải của mình là sự rất đáng chê cười.
Tôi thường chọn một góc vắng ngồi đan tranh cùng ông trong thời kỳ trại sơ tán vào rừng để tránh máy bay Mỹ. Ngồi với ông thú vị ở chỗ mình có thể tha hồ suy nghĩ mà không bị cản trở – ông lão cậy miệng cũng chẳng nói một câu. Tán lá rừng xòe ra, đan kết với nhau, làm thành một tấm che khổng lồ, chỉ ở phía dưới là thoáng đãng, lác đác từng nhóm tù ngồi cặm cụi đan lát. Một anh lính canh ôm súng nhìn bao quát tất cả, canh chừng. Những người tù số lẻ hiền lành, chẳng bao giờ trốn, đôi khi anh lính tự cho phép mình gà gật một lát hoặc cặm cụi viết thư về nhà. Cái đời lính đóng trên vùng sơn cước chẳng khác đời tù là mấy. Cũng sáng dậy đi làm, tối về chui vào màn, không vợ con, không bếp lửa gia đình.
Một hôm, ông Bát đang làm, bỗng nổi khùng, vứt toẹt con dao xuống đất, ngồi thừ ra, không thèm đan nữa. Rồi hai hàng nước mắt lã chã, ông vật vã ngiêng ngả như lên đồng, miệng lẩm bẩm xuýt xoa những tiếng vừa run rẩy vừa luống cuống, nghe não lòng lắm, như trong một cơn đau vật vã. Tôi cuống lên, chồm tới bên ông:
– Bác làm sao thế?
Ông không trả lời mà chỉ rền rĩ:
– Ốii giời cao đất dày ôi! Tôi đau quá, đau quá, ông ơi! Sao cái số kiếp tôi khổ thế này hả trời?!
Tôi hiểu. Ông không lên cơn đau bệnh, mà lên cơn đau lòng. Tôi đã vài lần chứng kiến cảnh tượng tương tự. Những người tù đang yên lành bỗng nổi cơn điên khùng, chửi bới, đập phá lung tung. Công an sầm sập chạy vào, trói tay trói chân, nhét giẻ vào miệng, sai trật tự(10) khiêng đi. Sau mấy ngày nằm xà lim kỷ luật họ trở ra, mặt mũi phờ phạc, cái nhìn vô cảm, bước chân đờ đẫn, đi mà như không đi.
Anh lính canh khoác súng lên vai đủng đỉnh bước lại:
– Ê, hai anh kia, mần đi chớ!
– Bác ấy bị trúng gió. – tôi nói.
Anh lính nheo mắt nhìn ông già vật vã trên đống tranh, nói nhẹ nhàng:
– Rứa nghỉ đi chút. Tôi có hộp dầu xoa đây.
Anh lục túi, đưa cho tôi hộp dầu cao.
Tôi đỡ lấy, cảm ơn anh lính tốt bụng. Không phải anh lính canh nào cũng được như anh. Nhưng có thứ dầu nào xoa dịu được nỗi đau trong lòng ông bạn già của tôi lúc này. Tôi ôm lấy ông Bát trong vòng tay, đung đưa ông như ru đứa trẻ. Ông nhẹ bỗng, không thể tưởng tượng nổi ông già có thể nhẹ như thế. Trông bề ngoài ông cũng không đến nỗi nào. Có lẽ những tấm áo bông mặc đắp lên nhau làm cho tôi có cảm giác ông to hơn, nặng hơn.
Ông choàng tay ôm lấy tôi:
– Ðời tôi khổ lắm, ông ơi!
– Chúng mình ở đây có ai sướng đâu!
– Nhưng tôi khổ hơn cả. Người ta còn có tội, chứ tôi thì tội tình gì đâu!
– Cũng nhiều người không có tội đấy.
– Ông nghe tôi nói này. – ông thì thào – Ông chớ có tin chúng nó. Ðám số lẻ này toàn chống chế độ cả đấy! Chúng nó phản động cả đấy. Không oan đâu. Tôi ở tù lâu, tôi biết. ông thì không, ông cũng như tôi…
Tôi cười buồn:
– Tôi cũng chống chế độ đấy chứ. Người ta bảo thế.
– Người ta nói mặc người ta! Mình biết mình – không là không!
– Bác làm sao bị bắt?
Ông già nấc lên từng chặp.
– Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp… Tôi theo cụ Hồ, sao, ông không tin hở?
– Tôi tin chứ.
– Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Mọi sự khốn khó bắt đầu từ đấy.
– Người ta bảo bác bất mãn?
– Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đủ đường, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không?
– Không cần.
– Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bộ đội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Ðảng(11)…
– Tiến bộ quá!
– Tiến bộ gì. Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột.
Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt.
– Cô ấy làm sao?
– Chẳng làm sao cả. – ông mếu máo – Thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng…Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra.
-…
– Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi chửi cha chúng nó, chửi cả lò nhà chúng nó…
– Chết thật!
– Ðến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Ðảng của chúng nó…
– Chậc chậc, khiếp quá! Sao bác dại thế?
– Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à? Ðảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng đảng viên mới gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à?!
Rác tai quá, bí thư xã, chủ tịch xã cho con gái ông đi dự lớp huấn luyện, kỳ thực là đi phá thai. Ông biết, ông cấm con gái ông phá. Cái thai nó tội tình gì? Nó cũng là một con người chứ. Nó chưa ra đời. Nó chưa làm hại ai. Nó không như cái quân chó dái chạy nhông, quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào. Không được phá thai, cứ đẻ ra tao nuôi, giết cái thai là bất nhân, là vô đạo, ông trói con và chân giường mà dạy. Nhưng con ông xấu hổ, không nghe ông, cứ đi phá thai. Ông uống rượu nhiều hơn nữa, chửi dữ hơn nữa.
Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, mỗi lần báo cáo được gửi lên là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta bắt ông đi cải tạo về tội “tuyên truyền phản động, chống Ðảng, chống chế độ”.
Tôi dửng dưng nghe ông kể. Những câu chuyện tương tự nghe nhiều rồi, đâm ra ngán.
– Tôi kể cho ông nghe để ông là nhà văn ông nhớ lấy, ông kể cho mọi người biết. Ðừng nói đến tên tôi là được rồi, kẻo tội cháu. Nó còn lấy chồng.
Ông Bát dặn tôi thế. Tôi ậm ừ:
– Nhà văn gì tôi! Ở nước ta cứ viết dăm bài báo là người ta bốc nhau lên, gọi là nhà văn rồi.
– Thì ông đưa lên báo cũng được.
– Biết bao giờ tôi về? Tôi cũng như bác thôi, cũng án cao su cả…
Ông thở dài:
– Ừ nhẩy!
– Mà giá có ra được, viết thế lại đi tù nữa, tôi ngán lắm rồi!
Ông không nói gì nữa.
Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm. Ông đã ốm liệt trước đó gần một tháng, được trại cho đi nằm bệnh xá. Nằm được một ruần ông nằng nặc đòi về đội. Người ông phù thũng, trong ra như một con búp bê chứa đầy nước. Trại cũng không bắt ông đi làm lao động nữa, cho ông ở nhà. Hàng ngày ông ra đầu hè bắt rận.
Hai ngày trước khi chết ông không dậy, cứ nằm thiêm thiếp. Ông chỉ tỉnh lại khi nghe tiếng dao thớt ầm ĩ phía nhà bếp vọng lại. Ông mở mắt ra, vẫy tôi lại gần rồi thều thào bảo tôi:
– Ông xem giúp chúng nó chia có đều không?
Tôi nể ông, giả vờ ra ngoài, chỗ tù đang xúm đông xúm đỏ chia thịt. Nhưng tôi chỉ đứng đó, chứ chẳng buồn nhìn. Tôi biết ông Bát chẳng còn sống được bao lâu. Không hiểu sao ông còn quan tâm tới suất thịt đến thế? Mà có theo dõi hộ ông cũng vô ích. Tôi đã kể, tù số lẻ chia theo kiểu quay mặt đặt tên, nói chung là công bằng, hơn kém nhau không đáng kể. Vả lại, cảnh tượng những con người đói khổ hau háu theo dõi những miếng thịt tí xíu được đặt vào những cái bát sứt sẹo trông thảm lắm, tôi không muốn nhìn.
Cuộc chia thịt đã xong, ông bạn nằm cạnh ông Bát mang cái tô tráng men có ba miếng thịt to bằng ba quân cờ với bát canh sắn – khẩu phần của ông Bát – đến bên ông. Ông Bát đang khò khè, ngửi thấy hơi thịt là tỉnh hẳn.
– Phần ông đây! – ông bạn ông Bát nói – Dậy mà ăn đi. Ngon lắm!
– Tôi xem cho bác rồi. Chia đều. – tôi nói – Suất của bác có phần còn nhỉnh hơn các suất khác kia đấy. Bác cố dậy mà ăn kẻo nguội.
Ông gật đầu, hoặc tôi nghĩ rằng ông gật đầu. Cố gắng một lát để ngồi lên, nhưng ngồi không được, ông ngã xuống. Cố thêm một lần nữa, ông nghển lên được, ngó vào bát thịt một cái rồi nói:
– Thịt rang à? Tí nữa tôi ăn.
Ông nằm xuống và đi ngay, theo mọi người nhận xét. Tôi không có mặt lúc ông Bát đi.
Anh em tù ăn xong, vào tận chỗ ngó ông, mặt buồn rầu. Không ai nói câu nào. Như thế gọi là viếng.
Suất cơm của ông để chỏng chơ. Mọi người bảo cứ để đó, khi chôn thì đặt nó lên mộ ông thay cho bát cơm quả trứng.
Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.
Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên – dấu chấm hết cho một kiếp người. Rồi quan tài được khiêng ra dưới ánh sáng của một bó đuốc. Ði lững thững sau quan tài là một anh công an mang AK.
Không thấy suất ăn tươi của ông đâu. Chắc hẳn ai đó tiếc của giời đã ăn rồi. Còn hai cái bát họ sẽ đánh bóng mạ kền rồi đem chác cho tù mới.
(1) Người dứng đầu các lực lượng vũ trang sản xuất và buôn bán ma túy ở Tam Giác Vàng.
(2) Ông chủ (tiếng Anh).
(3) Uống trà, thưởng trà (tiếng Trung Quốc miền Nam).
(4) Tiếng chửi bậy.
(5) Chào! (tiếng Trung Quốc).
(6) Ðúng thế! (tiếng Trung Quốc).
(7) Trời hỡi! (tiếng Nga).
(8) Vương quốc Chàm (Champa) nằm ở vùng Trung-Nam Việt Nam hiện nay, là một bộ lạc đi biển cùng nguồn gốc với dòng Indonesia, đã cát cứ tại đây từ thời kỳ đồ đá. Thủ đô là Indrapura Khoảng năm 1470 nước Việt Nam đã chiếm hoàn toàn vương quốc này.
(9) Tên đã thay đổi vì lý do tế nhị.
(10) Thường một trại có vài trật tự, lấy trong tù số chẵn và cả trong tù số lẻ. Có trại không một người tù số lẻ nào chịu làm trật tự, chỉ có trật tự số chẵn.
(11) Nghĩa là được Ðảng chú ý tới để bồi dưỡng thành đảng viên.
|
|
|
Post by sheen on Nov 18, 2023 8:53:52 GMT -6
Chương kết
Chương này gồm những ghi chép lộn xộn về số phận những nhân vật được nói tới ở trên. Nó được viết thêm do yêu cầu của những bạn đã đọc bản thảo muốn biết đoạn tiếp nằm ngoài những hồi tưởng.
Tôi rời Phong Quang ngày 7 tháng Chín năm 1976.
Cuộc giã biệt đời tù của tôi, trái với hình dung thông thường, diễn ra không được êm ả. Chuyện thế này. Theo lệ, người tù ra trại (tức là được tha, mãn hạn hoặc không có hạn để mà mãn) phải viết một bản nhận tội, một bản cam đoan không tái phạm, không tiết lộ bí mật của trại giam. Bản nhận tội, bản cam đoan đã được soạn sẵn thành mẫu, chỉ việc chép lại, ký tên, là xong. Tù được tha làm cái roẹt, nộp Ban Giám thị rồi cuốn xéo. Không ai nấn ná thêm một phút.
Không hiểu sao, vào đúng cái thời khắc sung sướng nhất đời tù tôi lại nổi điên, nhất định không chịu làm cái việc đối với mọi người chỉ có giá trị hình thức ấy. Tôi tuyên bố sẵn sàng ở tù thêm, ở bao lâu nữa cũng được, nhưng tôi sẽ chờ cho tới khi việc giam giữ tôi được làm cho sáng tỏ. Tôi nói: tôi không có tội. Mà đã không có tội thì không thể nhận tội được.
Nhùng nhằng một hồi, phó giám thị kéo tôi về phòng anh uống trà. Ðó là một anh công an đã đứng tuổi, tính tình nhân hậu, dễ thương, được tù nhân mến.” Chúng tôi chẳng qua chỉ là một thứ thủ kho thôi, anh ạ. Lệnh trên bảo nhập thì chúng tôi cho hàng vào, lệnh trên bảo xuất thì cho hàng ra, – anh phân trần – Trên lệnh xuống bảo xuất mà anh không chịu ra thì chỉ khổ mấy thằng tôi, rồi hỏi han kiểm điểm rắc rối lắm”. Mấy hôm trước chính anh chạy vào trại vui vẻ gọi tôi ra một chỗ rồi thì thào báo cho tôi biết có tin đồn Mao sắp chết: “Anh được về đến nơi rồi! Mao chết là xong hết”. Tôi bảo anh: “Chớ vội mừng. Con cháu Mao đông lắm!”. Trà thuốc xong chúng tôi thỏa thuận mỗi bên nhân nhượng một ít. Tôi ra về không viết bản nhận tội nữa, anh làm thế nào thì làm, tự xoay xỏa, chống đỡ với trên. Nhưng đổi lại, tôi phải nhận tờ Lệnh Tạm Tha, trong đó tội của tôi được ghi rõ rành rành là “phản động chống chế độ”.
Cái Lệnh Tạm Tha tôi giữ được hơn một tuần. Anh công an khu vực, lại cũng một chàng trai dễ thương nốt, đến hỏi thăm tôi, đòi xem, xem xong nhét luôn vào xà-cột, bảo để làm chứng từ gốc cho việc nhập hộ khẩu sau này.
Anh Hoàng Minh Chính tiếc mãi: “Bằng ấy anh em, mỗi mình cậu nắm được tờ giấy quý như thế làm bằng mà để xổng mất. Tài liệu lịch sử đấy!”.
Ðúng là chỉ mình tôi có tờ giấy như thế, anh em khác chỉ được công an đọc cho nghe chứ không cho giữ. Tiếc thật! Nhưng nếu nhà cầm quyền đã quyết không thích chúng tôi giữ nó thì họ chẳng thiếu gì cách, tôi nghĩ. Mà đúng thế. Lũ đệ tử của Duẩn-Thọ, những Trần Trọng Tân, Ðào Duy Tùng, Nguyễn Ðức Bình về sau này, khi Duẩn-Thọ băng hà hết cả rồi, vẫn lấp liếm vụ án chúng tôi bằng đủ mọi giọng lưỡi trí trá, thiên hạ đều biết. Tôi có giữ được tờ giấy ấy cho tới bây giờ thì đám ấy cũng chẳng ngại. Ai chứ họ dám xưng xưng bảo rằng giấy giả lắm. Tôi cũng không nghĩ ra phải giữ nó làm bằng cớ, hoặc làm kỷ niệm. Hồi ấy Hà Nội chưa có tiệm photocopy nào. Chụp ảnh cũng nhiêu khê. Chưa chắc tiệm ảnh nào đã dám chụp thứ giấy tờ kiểu như thế, với tinh thần cảnh giác bảo vệ nồi cơm họ sẽ lễ phép hỏi chụp để làm gì, nhằm mục đích gì?
Thế là vật chứng cuối cùng và duy nhất về vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” mất tăm.
Giờ thậm chí người ta có chối băng rằng chúng tôi không hề bị giam giữ cũng được. Có lệnh tống giam tống giếc gì đâu. Ðược cái nhà cầm quyền của chúng ta không đến nỗi mặt trơ trán bóng quá. Họ tránh không nói tới chuyện họ đã bỏ tù chúng tôi, quả có vậy, nhưng họ cũng không chối rằng không. Khi cần dằn mặt, họ khéo léo nhắc chúng tôi chớ quên chúng tôi là kẻ đã có tiền sự(1).
Ngày rằm Tháng Tám năm ấy gia đình chúng tôi ăn bữa cơm đoàn tụ đầu tiên sau chín năm mỗi người mỗi ngả. Cha tôi cũng đã được trở về Hà Nội sau ba năm lưu đầy ở Nam Ðịnh. Ông già xọm, da bọc xương. Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh, Trần Quốc Hoàn nhìn thấy ông như thế chắc hả dạ. Mẹ tôi vẫn lúc trên nhà lúc dưới bếp, tất tả đủ việc, y như trong ngôi nhà chưa hề có bão táp đi qua. Con gái út tôi đứng từ xa quan sát tôi, chào tôi bằng chú. Sau khi so kỹ bức ảnh tôi chụp với vợ con trước khi bị bắt với người vừa từ nhà tù trở về nó mới ngượng nghịu gọi tôi bằng bố. Vợ tôi gày còm, xanh xao, các con tôi võ vàng trong quần áo vá chằng vá đụp.
Tôi được tha có điều kiện: Bộ Nội Vụ báo cho gia đình tôi biết Ðảng chủ trương tha tôi rồi, nhưng phải có một cơ quan nhận tôi vào làm thì tôi mới được về. Mẹ tôi, vợ tôi, cả nhà tôi nhờ hết người này tới người khác, chạy vạy khắp nơi để kiếm cho tôi một chỗ làm. Cái điều kiện Ðảng ra khó quá, oái oăm quá – chẳng ai dại gì nhận một nhân vật chống Ðảng về cơ quan, xí nghiệp mình. Rách việc lắm. Không dưng lại bị công an theo dõi. Thời buổi thì khó khăn, ai cũng phải sai một tí để mà sống, cái gì cũng đúng nguyên tắc thì chết nhăn răng. Thế mà rồi cũng có người dám nhận, mới kỳ, mới quý. Tôi được thả ra, nhưng không phải thả về nguyên quán, mà về Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà-Sơn-Bình(2). Tiếng là tôi được nhận về công ty làm chân bốc vác (cái hợp đồng tạm tuyển làm công nhân bốc vác đến nay tôi còn giữ được), nhưng các anh lãnh đạo công ty không cho tôi đi bốc vác lấy một buổi, giữ tôi ở văn phòng công ty gọi là để giúp việc ban giám đốc.
Trong chín năm tù, xã hội thay đổi nhiều. Bạn bè người mất người còn. Nhiều cháu khi tôi ở ngoài còn đánh khăng đánh đáo nay đã thành liệt sĩ, đến thăm gia đình bạn chỉ thấy cháu từ trên ban thờ ngó mình hờ hững.
Anh Nguyễn Trọng Luật đã qua đời mấy năm trước, không ai báo nên tôi không được tin. Thành thử cái dự định ôm ấp trong tù rằng khi trở về thể nào cũng phải đến thăm anh ngay không thành. Chị và các cháu vẫn ở ngõ Chân Cầm, cuộc sống vẫn đạm bạc như khi anh còn sống. Chị nói anh chẳng để lại gì cho vợ con. Tôi an ủi chị, rằng theo chỗ tôi biết thì những người cách mạng chân chính đều chẳng để lại gì cho những người thân. Trừ lòng kính trọng của người đời. Thế đã là nhiều lắm rồi, đã quý lắm rồi. Tôi đạp xe đi Văn Ðiển thăm mộ anh, cùng với bác sĩ Phan. Bác sĩ Phan nói trước khi chết anh thường nhắc tôi. Anh buồn, nói rằng anh là người thua cuộc, nhưng thua trong canh bạc bịp vĩ đại với một bande des salauds(3) thì cũng chẳng xấu hổ cho lắm. Anh được chôn ở Khu A, khu “vĩnh viễn”, là khu không phải cải táng để rời đi nơi khác. Chúng tôi thắp hương cho anh và cho những ngôi mộ gần đấy, của những người đáng kính và của cả những người không đáng kính bao nhiêu.
Tôi được bác sĩ Phan, anh Ðích nhiệt tình giúp đỡ trong việc điều trị cấp tốc những bệnh mạn tính đeo đẳng theo tôi từ nhà tù. Anh Ðích không trách tôi một câu về vụ tôi khuyên anh trở lại công tác để bị thải hồi. Bạn bè mang tới cho tôi số quần áo đủ dùng ít nhất cũng hai mươi năm, đến nỗi tôi phải mang cho bớt các bạn nghèo hơn. Tuy tôi vừa ở tù ra, nhưng số bạn còn nghèo hơn tôi trong tình trạng đó hóa ra cũng không ít.
Hà Nội còn tiêu điều hơn khi tôi chưa bị bắt. Người ta vẫn nháo nhác đi Nam, “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Nhà tôi đã có vô tuyến truyền hình, cũng quà của họ hàng miền Nam cho. Tối đến cả nhà quây quần xem phim tình báo Bungari Trên Từng Cây Số. Cơm độn mì sợi, mì bột, bo bo, ngô, cái gì cũng có mùi bao tải. Một lần, mẹ tôi hớt hải từ dưới bếp chạy lên: “Sao, có phát thêm phiếu sa-tanh à?”. Cả nhà cười ầm. Mẹ tôi lầm – đó là phát thanh viên báo trên tivi chương trình chiếu phim sắp tới: “Miếu Sa-tăng”.
Dương Tường tất tả kiếm việc cho tôi làm. Công việc đầu tiên tôi có được là dịch các bài báo khoa học và làm tổng thuật các sách nước ngoài cho Viện thông tin khoa học xã hội. Trong sự cấp việc cho tôi làm chị Ðỗ Thúy Hà, cán bộ của Viện, là người đỡ đầu hăng hái. Tình hình chính trị tuy có khác trước, nhưng khác không nhiều lắm, ai giúp đỡ tôi người đó phải bỏ ra nếu không nhiều thì cũng một ít tinh thần dũng cảm.
Anh Lê Sĩ Thiện, giảng viên thông tin thời trường Lục quân, tìm được tôi trong lúc tôi đang lúc túng quẫn. Cũng như Trần Quốc Thành, trong anh có một anh bộ đội sống dai. Anh thương tôi lắm. Anh khuyến khích tôi mạnh dạn bước vào những công việc trước kia nằm mơ cũng không thấy để kiếm sống. Tôi đi làm thợ cán cao su, đúc tay phanh xe đạp, đùn đồ nhựa, nấu gang dẻo, làm “ve” quét tường, làm bột nở cho các bà bán cháo quẩy… Cái gì không hiểu anh giảng cho cặn kẽ. Tôi cũng cố học các nghề anh dạy để kiếm sống. Vất vả rất nhiều, nhưng tôi cảm thấy sung sướng vì mình được là mình. Giá họ có cho tôi trở về với nghề báo chắc tôi cũng nghĩ cách chối từ.
Có hôm đi làm ở xưởng cao su về qua Yết Kiêu tôi rẽ vào thăm Văn Cao. Nhìn tôi gày còm lam lũ, Văn Cao để rơi nước mắt xuống chén rượu.
Những công việc phải làm ở chỗ khác thì thôi, chứ công việc nào làm ở nhà đều có bàn tay vợ tôi tham gia. Nhất là hồi tôi làm nhuộm mạ kim loại, chốc lại rửa, nhát lại rửa, vợ tôi chạy trên gác xuống nhà, dưới nhà lên gác, cứ như đèn cù, da tay ngâm nước nhiều bợt ra, trông mà thương. Ðược cái có công việc thì có tiền, vợ con tôi dần có da có thịt, không đến nỗi gày còm như trước, là điều phấn khởi nhất cho tôi. Có tiền rồi, tôi mua cái tủ lạnh trước tiên, sau mua xe máy, tivi. Hồi đó ở Hà Nội có câu: “Tivi, tủ lạnh, Honda. Có ba thứ ấy mới ra con người”. Lại nhớ tới Huỳnh Ngự và câu nói của anh ta “Ðảng nuôi dạy anh nên người. Không có Ðảng ấy à, có mà rã họng!”. Thời đại bắt đầu đổi thay. Người ta cảm thấy hoàn toàn có thể làm người được mà không cần có Ðảng, nhất là cái Ðảng lúc nào cũng bù lu bù loa kể công với những kẻ gắn bó với Ðảng bằng sợi xích.
Trong thời gian còn ở Hà Nội tôi muốn tìm anh Trần Quốc Thành lắm, nhưng không sao tìm được. Vụ của anh người nói có xử, người nói không xử. Cũng như vụ xét lại Ðảng quyết định chỉ xử lý nội bộ để tránh tiếng. Không biết nên tin ai. Có người nói anh đã vào Sài Gòn, nhưng ở trong Sài Gòn mấy năm, tôi hỏi thăm đã nhiều mà cũng không tìm thấy anh. Nếu tình cờ cuốn sách tới tay anh, xin anh tin cho tôi biết anh ở đâu.
Trung úy Dứa cũng biệt tăm. Nghe nói anh về Mỹ Tho. Thế mà mấy lần đi Mỹ Tho tôi hỏi thăm bất kỳ ai có thể cho tôi biết tin anh, vào Ty Công an để hỏi cũng chẳng ai biết anh ở đâu. Thế mới biết “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, không phải cứ muốn mà được.
Bận kiếm sống, khi ở Hà Nội mấy lần tôi định đi Vĩnh Phú tìm Nguyễn Xuân Cao nhưng rồi lại không đi được. Vả lại, tôi chỉ nhớ được một cái tên làng là Ðình Chu. Làng này nằm ở huyện nào trong tỉnh Vĩnh Phú tôi không biết. Cứ chần chừ mãi. Ðến khi vào Sài Gòn rồi thì lại ít khi ra. Nhưng nỗi nhớ Cao vẫn canh cánh bên lòng.
Trung úy Bưởi đi học đại học công an. Tôi đến anh em làm công tác nghiên cứu xin họ sách và tài liệu cho Bưởi. Phan Kế Hoành là người cho nhiều nhất: “Nếu có một cậu công an tốt thì phải giúp cho cậu ta nên người”. Ðưa sách cho Bưởi, tôi nói: “Ðây không có tài liệu chống chế độ đâu, toàn sách nhà nước cả, đừng sợ”. Bưởi bùi ngùi: “Bằng ấy thời gian em ở bên anh, em không hiểu anh sao. Em không tin những gì người ta nói về anh đâu. Cũng mong anh đừng vì bộ quần áo em mặc mà hiểu sai về em”. Tôi tin Bưởi sẽ trở thành một cán bộ công an tốt. Chế độ nào cũng cần tới công an, nhưng phải là công an tốt.
Marinết chết ở trong tù, như anh tiên đoán về cuộc đời mình. Chẳng bao giờ có ai tới để đặt lên mồ anh một nhành hoa, thắp cho anh một nén hương. Rồi thời gian sẽ xóa nhòa mọi dấu tích của một con người đã từng sống, đã từng chiến đấu và mơ ước về một thế giới đại đồng, bốn biển là anh em. Hôm đặt nhành hoa lên lò thiêu người ở Katowicze để tưởng niệm những nạn nhân đã chết trong trại tập trung Auschwitz-Birkenau, tôi nhớ anh nhiều quá, Marinết ạ.
Lại có tin khi mối tình Trung-Việt “vừa là đồng chí vừa là anh em” tan vỡ, cuộc xung đột biên giới trở nên gay gắt, “đồng chí” Ðặng Tiểu Bình đòi “dạy cho Việt Nam một bài học” bằng súng và tên lửa, chứ không phải chỉ “tỉu na má” không thôi, thì bất ngờ Huỳnh Ngự bị phát hiện là người Việt gốc Hoa, bị buộc phải về hưu. Không biết tin có đúng không, tôi nghe mà thương Huỳnh Ngự quá! Mới biết cái kiếp đảng viên thèo đảnh lắm, mong manh lắm. Nếu đúng thế thì lần này Ðảng lại nhầm mất rồi – Huỳnh Ngự là người rất mực trung thành với Ðảng, cho dù có gốc gì đi chăng nữa.
Lại cũng có tin đồn Lý Cà Sa, lúc ấy đã được tha ra một nông trường, được quân đội Trung Quốc vượt biên giới đón về. ớt lâu sau mấy người tù cũ đi lang thang bị quân Trung Quốc bắt. Họ nhận ra tướng chỉ huy của phía bên kia chính là Lý Cà Sa. Lý Cà Sa cũng nhận ra bạn tù cũ, hồ hởi đón tiếp họ, mở tiệc chiêu đãi nồng hậu rồi tha về. Những người này có lẽ không biết quân hàm Trung Quốc thế nào, cho nên người nói họ Lý đeo lon trung tướng, người nói không phải, lon thượng tướng. Nếu tin này đúng thì cái huyền thoại về đạo quân thứ năm của Trung Quốc có cơ sở lắm.
Một buổi tối tôi ngồi uống chè chén trong một quán ở phố Hàm Long thì nghe người ta đùa cợt chuyện anh chàng Căn bị bắn hụt. Anh ta cũng ngồi đấy, béo tròn, cười hi hí. Tôi cũng tham gia câu chuyện, như một khách qua đường. Căn chăm chú nhìn tôi. Dường như anh ta nhận ra giọng tôi. Nhưng tôi tảng lờ không biết. Anh ta rồi nghĩ mình nhận nhầm, không để ý đến tôi nữa. Thế là anh ta đã được ra. Kiếp người thế vẫn còn may.
Việt Hùng vẫn làm công an. Anh đối với tôi mặn mà hơn trước, bè bạn hơn trước nhiều. Anh cũng nhiệt tình giúp tôi trong sự quan hệ với nhà cầm quyền. Chắc chắn họ hỏi anh về tôi và anh đã nói những lời trung thực.
Tôi có hỏi Việt Hùng về Hoàng. Thì ra họ biết nhau cả. Việt Hùng khen Hoàng là người có học, tử tế, có tư cách. Ðến giai đoạn này những khái niệm đúng – sai, phải – trái không còn được đương nhiên là khái niệm thống trị nữa. Người ta bỗng nói nhiều tới những cặp khái niệm đối xứng bị bỏ quên như tử tế – ba que, đứng đắn – vô lại, quân tử – tiểu nhân. Nghe nói sau khi làm việc với đám tù xử lý nội bộ Hoàng bị điều động vào công tác ở Huế. Tôi tính có dịp qua Huế thể nào cũng phải ghé thăm anh, nhưng rồi chưa đến Huế được lần nào, trừ nửa giờ phơi nắng trên sân bay Phú Bài trong một lần hạ cánh bắt buộc. Bây giờ chắc Hoàng cũng đã về hưu. Tôi vẫn còn để đấy một chai rượu cho buổi tái ngộ.
Trước khi qua đời ít lâu Nguyễn Tuân một hôm đùng đùng kéo tôi đi ăn chả cá Lã Vọng. Ngồi vào bàn ông rút trong túi vải ra một chai rượu. “Rượu bộ, thưa bác?”, tôi hỏi ông. “Không phải, rượu bộ hết rồi, ông nói, cả cái thời rượu bộ cũng hết rồi!”. Chúng tôi uống. Tôi xin lỗi, nói tôi xa ông gần chục năm là tại tôi không thuộc cái véc-bờ sợ mà ông dạy. Ông lắc đầu nói: thời này lẽ ra mình không nên làm văn. Làm văn mà sợ, mà lấm lét, mà run rẩy thì còn ra cái văn quái gì! Nhưng thôi, cái gì đã qua thì nó cũng qua rồi, ông nói tiếp trong hơi rượu, tôi bây giờ đếch thèm sợ nữa, thì đã muộn. Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác: Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó…, thế mới phải, hà hà!
Gần bốn chục năm đã qua, tôi đã ở nước ngoài, ông bạn họa sĩ đã đánh cắp cuốn nhật ký của tôi theo lệnh đại sứ Nguyễn Văn Kỉnh để cho Kỉnh nộp công an, nhờ con rể tôi nhắn lời cho tôi rằng ông xin lỗi tôi vì hành động hèn mạt nọ. Tôi nhắn lại rằng chuyện cũ quá rồi, tôi đã quên. Mà Kỉnh thì cũng đã chết rồi. Trước khi Kỉnh chết, công an bắt được mấy tên lưu manh mang kim cương đi bán; chúng khai lấy ở nhà Kỉnh, nhưng hỏi Kỉnh thì Kỉnh không nhận. Dù sao thì việc này cũng làm cho Kỉnh không được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch, theo lời bình của anh bạn công an kể cho tôi nghe câu chuyện trên. Thì ra hồi ấy tôi đoán đúng: cái sự lập công, ra cái điều trung thành với Ðảng thường được dùng để che giấu những việc làm tồi tệ, và ngài đại sứ trung thành với Ðảng không quên bỏ lỡ dịp may buôn lậu.
Bùi Xuân Phái thết tôi một chầu cà phê nhân dịp tôi ra tù. Anh vẫn trung thành với chủ nghĩa sợ. “Tôi là thằng nhát nhất thế giới!”, anh nhỏ nhẻ tuyên bố. Nguyễn Sáng lầm lì cấm cung trong căn phòng của anh, bên cạnh con nghê vỡ trán đựng gạo, vẫn vẽ những bức tranh không bán được, vẫn nghèo. Cách phòng anh mấy bước Trần Ðông Lương sống sung túc nhờ vẽ bưu thiếp lụa, sáng tác mẫu rồi cho gia công, theo cách hiện đại. Kiếm được tiền rồi, anh mới vẽ tranh cho mình. Nguyễn Sáng biết thế, nhưng theo không được.
Ông Lâm toét tiếp tục cho các họa sĩ ăn chịu, uống chịu. Phòng tranh của ông ngày một phong phú. Nguyễn Sáng rủ tôi “đi Lâm đi”. Gặp tôi ông Lâm vồn vã lắm. Chúng tôi lại có dịp ngồi với nhau trên gác, phòng triển lãm tranh của riêng ông, được ông đãi rượu, thuốc lá thơm và thưởng tranh. Nếu ông Lâm giàu hơn, ông có thể trở thành một Mạnh Thường quân cho nền hội họa Việt Nam lắm. Kém gì đại phú gia Tretiakov của nước Nga. Ông rất tế nhị, không hỏi tôi một câu rằng mấy năm nay tôi đi đâu, ở đâu. Cứ như thể ông không biết rằng từ cuộc gặp gỡ lần trước tới giờ đã có chín năm nước chảy qua cầu.
Về chuyện “nhóm xét lại chống Ðảng”, tôi luôn luôn gặp những câu hỏi khó trả lời. Bộ máy tuyên truyền của Ðảng làm việc theo kiểu Goebbels(4): “nói mãi, nói mãi, thì sự giả cũng thành sự thật”, làm cho nhiều người cứ ngẩn ngơ không biết có nên tin tôi hay không khi tôi nói rằng tôi chưa hề ở trong một nhóm nào như thế, rằng theo tôi thì chẳng hề có một nhóm nào như thế. Chẳng cứ người ngoài, ngay khi tôi vừa được thả, Huy Vân ra tù trước tôi ba năm còn hỏi: “Cậu có ở trong tổ chức chống Ðảng nào không?”. Tôi cười: “Chắc chắn không ở trong tổ chức chống Ðảng của cậu rồi. Nếu có chắc cậu với mình phải sinh hoạt cùng trong một tiểu tổ hoặc một chi bộ”.
Hẳn anh cho rằng có “nhóm xét lại chống Ðảng” thật, và anh bị bắt oan vào nhóm đó. Ðến khi biết chắc chẳng có “nhóm xét lại chống Ðảng” nào hết thì anh tức lắm, anh nói anh sẽ làm cho ra nhẽ. Cách anh sẽ làm cho ra nhẽ thế nào thì chẳng ai biết, anh cũng không nói cho tôi nghe. Anh yêu nghề điện ảnh lắm, vì nó anh đã bỏ phứt cái hoạn lộ thênh thang của anh. Huy Vân là một trong những người biết tiếng Nga đầu tiên ở Việt Nam. Anh học tiếng Nga ở Trung Quốc cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, bộ trưởng Bộ Ngoại giao sau này. Anh đã chạy chọt, xin xỏ, nhưng chẳng ai dám liều mạng nhận anh trở lại Xưởng phim. Năm 1977, anh lại bị bắt, lần này vì tội ăn cắp xe đạp. Người ta kể anh cứ lừng lững dắt khỏi cổng cơ quan một cái xe đạp không khóa và cũng chẳng buồn bỏ chạy khi bị công an đuổi bắt. Anh ra tù, tôi hỏi tại sao lại làm chuyện bậy bạ thế thì Huy Vân trả lời: “Mình cần được ra tòa để nói lại chuyện trước, nhưng cả lần này nữa chúng nó cũng không chịu xử”. Anh bị bắt lần thứ ba trên một ngọn đồi giáp biên giới Trung Quốc cùng với một nữ biên tập viên báo Phụ Nữ hay Nhà xuất bản Phụ Nữ, tôi không rõ. Người ta buộc anh tội vượt biên. Tôi không tin anh có ý định vượt biên sang Trung Quốc – anh sang đấy làm gì? Huy Vân bị đưa về Hỏa Lò Hà Nội, sau chết trong tù, không rõ ở nhà tù nào, Hỏa Lò hay một trại Trung ương. Có người nói anh chết ở Sơn La. Chuyện Huy Vân ăn cắp xe đạp chứng tỏ những năm dài ở xà lim đã làm cho anh thành một bệnh nhân tâm thần mà không ai biết.
Anh là người thứ ba qua đời trong số những người thuộc “nhóm xét lại chống Ðảng”. Người thứ hai là ông Bùi Công Trừng, một trong những tên “xét lại hiện đại” là ủy viên Trung ương nên được Ðảng xử lý nhẹ nhàng, chỉ khai trừ Ðảng chứ không tống vào Hỏa Lò. Ông mất sau khi tôi được tha ít lâu. Trước khi chết ông nói với tôi: “Bác thương nước quá!”. Người thứ tư là Trần Minh Việt, nhà lý luận của “nhóm xét lại chống Ðảng”, theo sự phong chức hào phóng của những người tự xưng bảo vệ Ðảng. Anh từ giã cuộc đời bình thản, hiền lành, nho nhã, chẳng giống bất cứ thứ kẻ thù nào của bất cứ ai. Tôi đi theo linh cữu, đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau anh đến lượt tướng Ðặng Kim Giang, rồi cha tôi, rồi tướng Lê Liêm, rồi ông Ung Văn Khiêm.
Nguyễn Lộc không trở lại với triết học và mỹ học nữa. Anh không viết gì, làm nghề dịch thuê để nuôi vợ con. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Trong những lần gặp ấy Lộc chỉ cười hiền lành, anh chán chính trị đến tận cổ, thứ chính trị “lăn tròn trên mọi lưỡi”. Tôi được tin anh chết trong cảnh nghèo khổ khi tôi đã không còn ở Việt Nam. Anh mới đích thực là người thua cháy túi trong canh bạc bịp vĩ đại.
Phùng Mỹ làm kế toán cho một lò gốm Bát Tràng. Năm thì mười họa anh tạt qua Hà Nội. Gày và già đi rất nhanh, Phùng Mỹ nhìn đời bằng cặp mắt hờ hững. Anh chán ngán tất cả, thậm chí không buồn phục hồi kinh tế gia đình như một số anh em khác, cho rằng đó là sự bon chen. Anh chỉ vui ở chỗ được chia tay một lần cho mãi mãi với Ðảng của anh.
Vũ Huy Cương tiếp tục cuộc sống độc thân trong căn phòng nhỏ xíu nằm sâu sau mặt đường Bà Triệu. Tôi giục anh lấy vợ. Cương cười méo mó: “Cô nào lấy mình bây giờ là phải lấy kèm mấy anh công an mật, mấy anh cán bộ tổ chức, như thế nhiều quá, vất vả quá!” Anh là người quảng giao. Nhờ bạn bè giúp đỡ, anh làm công việc in ấn trăm thứ bà dằn, nghe nói cũng sống được. Cho tới khi tôi viết những dòng này Vũ Huy Cương vẫn chưa lấy vợ. Bây giờ anh nói: “Ai lấy mà lấy? Lấy nhau bây giờ để dắt díu nhau đi Hoàn Vũ(5) à?”
Vợ Trần Châu đi lấy chồng, anh trở về sống cô độc mấy năm rồi gá nghĩa với vợ một liệt sĩ thời chống Mỹ, hai vợ chồng mở một quán tạp hóa trong làng bán vở và kẹo bột cho học sinh, nước mắm và mì ăn liền cho người lớn, nghe nói sống cũng được.
Hoàng Thế Dũng điếc đặc sau những năm tù, lẽo đẽo theo tôi làm ve quét tường, buổi tối trở về mặt xanh lè bột màu phtalocyanine, nhưng không để mất nụ cười yêu đời. Anh làm hợp đồng cho tờ Lịch Sử Quân Sự, viết được nhiều tài liệu tổng kết các chiến dịch, trong đó có mấy bài hay về cuộc vượt biên giới của quân đội Việt Nam giải phóng vùng Thập Vạn Ðại Sơn cho Trung Quốc. Hoàng Thế Dũng có kể cho tôi nghe một câu chuyện cảm động. Một hôm anh đi cùng một phái đoàn quân sự tới thăm một quân khu, việc của anh là thu thập các tài liệu lịch sử của quân khu này cho Tập san, thì tư lệnh trưởng quân khu, một thiếu tướng chạy tới trước mặt anh rập gót, đưa tay lên vành mũ chào anh theo đúng quân phong: “Chào thủ trưởng!”. Thì ra đó là một cán bộ cấp dưới của anh từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau khi chào phái đoàn, tư lệnh trưởng mời thủ trưởng cũ ngồi bên cạnh mình, điềm nhiên như không hề biết chuyện gì xảy ra với anh những năm qua.
Lê Trọng Nghĩa thỉnh thoảng lại vào Sài Gòn. Chị Thảo, vợ anh, công tác tại đây lâu, có một chỗ ở trên đường Võ Thị Sáu. Nhà lãnh đạo ngành tình báo quân đội trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp già đi nhanh, nhưng minh mẫn. Những nhận định thời cuộc của anh vẫn sắc sảo như khi anh còn trẻ. Tôi uống trà với anh, nghe anh kể chuyện bằng cách nào Cục 2 đã phát hiện người Pháp chuẩn bị mặt trận Ðiện Biên Phủ, chuyện cán bộ Cục 2 đi vào Nam ngay từ khi Hiệp nghị Genève về Ðông Dương vừa được ký kết. Chị Thảo kể khi đại tướng Hoàng Văn Thái sắp nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông mời chị tới nhờ chị nói với anh hãy bỏ qua chuyện cũ để trở lại công tác. Nhưng nói chuyện với chị hôm trước thì hôm sau ông đột tử. Hà Nội đồn cái chết của ông do Lê Ðức Thọ gây ra. Tiếp đến cái chết của đại tướng Lê Trọng Tấn. Ông cũng sửa soạn nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì lại đột tử. Cái chết của ông cũng được buộc cho Lê Ðức Thọ. Ðúng là một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến.
Trần Thư bắt đầu cuộc sống ngoài biên chế bằng cách chữa nước mắm thối, làm nước mắm từ cá khô, in nhãn hương và dịch sách. Mấy năm nay anh mang một khối ung thư trong bụng. Cuốn Chuyện Người Tù “Xử Lý Nội Bộ” của anh, mới xong phần đầu, đã được in ở nước ngoài, hé mở một phần vụ án được Ðảng giữ bí mật. Nguyễn Kiến Giang cũng ra được một tuyển tập những bài viết về chủ nghĩa Mác thời hiện đại trong mối quan hệ với vận mệnh đất nước, được người đọc chú ý. Cũng như phần lớn anh em trong vụ án, anh sống bằng nghề dịch – sách văn học, sách chính trị, sách triết học, tài liệu thương mại, đủ thứ.
Lưu Ðộng vẫn ầm ầm chửi “bọn tiếm quyền khốn nạn”, nhưng Lê Ðức Thọ trước khi chết đã ngán Lưu Ðộng lắm, giả vờ điếc không nghe thấy. Không thể bắt Lưu Ðộng một lần nữa. Lại càng không thể bắt Lưu Ðộng câm mồm. Thấy quan thầy không dám động tới Lưu Ðộng, lũ đệ tử cũng đành làm ngơ. Khi tôi rời Việt Nam, nghe sức khoẻ anh đã kém lắm, nhưng vẫn còn minh mẫn.
Ðược biết nhiều trường hợp oan ức xảy ra với dân chúng trong những nhà tù mà tôi đi qua, vừa từ nhà tù về tới nhà tôi viết ngay một bức thư cho ông Nguyễn Lương Bằng: “Chuyện của cháu hãy để đấy cho lịch sử. Nhưng nỗi oan của dân thì phải giải quyết ngay. Cháu đề nghị bác hãy tới các nhà tù để nghe dân khiếu oan. Cháu tình nguyện làm người dẫn đường cho bác…”. Ông Nguyễn Lương Bằng không trả lời. Ông im lặng như một lãnh tụ chính cống. Tôi hoàn toàn thất vọng về người anh hùng cách mạng trong thuở ấu thơ của mình. Lúc đó tôi cũng còn chưa được biết về ông khi đi tìm tư liệu cho cuốn sách này, tôi chưa biết rằng ông rồi nhảy vào Ban chuyên án vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”, trở thành cai ngục của tôi. Tôi tiếc đã viết bức thư nọ – cái hi vọng mới hão huyền làm sao! Hôm đưa tang ông, cha tôi rủ tôi cùng đi. Tôi từ chối. Tôi không có mối quan hệ thân thiết trong quá khứ với Nguyễn Lương Bằng như cha tôi. Tôi không rộng lượng như cha tôi. Tôi cũng không thừa thời giờ cho một con người đã bán mình cho danh vọng.
Trường Chinh sau khi rút lui khỏi cuộc đọ sức với Lê Ðức Thọ vào chân tổng bí thư, buồn bã ngồi nhà. Ông qua đời vì chấn thương não trong một cú ngã ở cầu thang. Có tin ông bị Lê Ðức Thọ sai tên bảo vệ ông, người của Trần Quốc Hoàn, hạ sát. Tên này lẽ ra phải đi sát ông từng bước, nhưng đã để ông ngã khi có một mình. Vết thương ở gáy có thể do mép bậc thang gây ra, mà cũng có thể do một vật bằng gỗ khác đập vào. Việt Nam nghèo cái gì thì nghèo nhưng không nghèo tin đồn. Chẳng biết hư thực ra sao.
Hoàng Minh Chính tiếp tục cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do. Anh bị bắt lần thứ ba(6), năm 1995, lần này bị xử án hẳn hoi, vì tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”. Trước tòa anh bình thản nhận bản án một năm tù, không khiếu nại, đơn giản vì “tôi không công nhận cái bản án xử tôi”, như anh phát biểu. Hoàng Minh Chính không công nhận bản án là phải. Nó không những vô lý mà còn vô đạo.
Cùng với vụ xử Hoàng Minh Chính bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cuộc đổi mới cài số lùi, thời kỳ ông Ðỗ Mười hạ lệnh cho các quan tòa xử lấy được, bất chấp đúng sai. Với cách giải thích luật pháp của Ðảng không ai có thể biết cái lằn ranh các quyền tự do dân chủ được Ðảng đặt ở đâu, cho nên công dân nào đi luạng quạng đều có cơ may bị các cảnh sát viên mác-xít thổi còi tống vào bót. Lê Ðức Thọ chết rồi, nhưng hồn ma của Thọ vẫn lởn vởn trên cung đình.
Nhưng khác với thời trấn áp “nhóm chống Ðảng”, vụ bắt Hoàng Minh Chính lần này dấy lên cả một làn sóng phản đối, âm ỉ ở trong nước, ồn ào trên thế giới. Có cả một ủy ban bảo vệ Hoàng Minh Chính và Ðỗ Trung Hiếu được thành lập ở Paris gồm những trí thức đã từng ủng hộ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Một luật sư Pháp gửi đơn xin chiếu khán đi Việt Nam để bảo vệ Hoàng Minh Chính, nhưng đại sứ quán Việt Nam, theo truyền thống ngoại giao lì lợm, không thèm trả lời.
Những người nào cổ không đúng cỡ “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” thì đã có cái tròng khác, đại loại như “chiếm đoạt bí mật nhà nước” như trường hợp xảy ra với Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang… Những người này bị trấn áp, nhưng, vẫn như thường lệ, không được xử đúng cái tội mà chính quyền chuyên chính vô sản muốn trị, mà vì một cớ khác, được bịa ra một cách ngớ ngẩn, như mọi người đều biết. Vở kịch xử án họ do chính Bộ Chính trị Trung ương Ðảng đạo diễn không được hưởng dù chỉ vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt ngay trong đám khán giả được Ðảng cử tới.
Cũng khác với “nhóm xét lại chống Ðảng” những người đối lập mới không còn đòi xét lại chủ nghĩa Mác nữa, mà thẳng thắn bác bỏ nó. Nền tảng của cái gọi là nhà nước vô sản chuyên chính bị xói mòn bởi trào lưu dân chủ trên thế giới, bởi nền kinh tế thị trường, cho nên cái cùm của nó cũng rệu rã, lỏng lẻo hơn trước nhiều. Với cuốn sách nổi tiếng Từ Bỏ Ý Thức Hệ, Hà Sĩ Phu kêu gọi sự tống tiễn ôn hòa có tình có nghĩa đối với chủ nghĩa Mác ngoại lai ra khỏi Việt Nam, đặt tên cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là triều đại phong kiến cuối cùng. Ngang tàng là thế, ngạo ngược là thế mà tác giả chỉ bị có một năm tù.
Một buổi tối năm 1983 Hoàng Ðạo đến thăm tôi. Anh vừa biết địa chỉ tôi là tới liền, rủ tôi đi nhậu. Tác giả vụ điệp báo lừng danh một thời già xọm, người như thấp đi, cặp mắt đã mờ, cái nhìn buồn bã. Tôi nhắc chuyện “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Anh nói suốt từ năm 1946 anh không nghe nói tới Tôn Thất Tần nữa, nhưng “chuyện anh ấy kể là có thật”. Tối đó tôi có cái hẹn không thể bỏ, đành hẹn anh bữa khác. Bữa khác ấy rồi không có. Người nói anh đã bỏ đi Ðồng Nai, người nói anh ở trong rừng Ðồng Tháp. Năm 1995 tôi thấy hình anh trên một tờ báo công an. Người ta kỷ niệm vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d’Inville và nhắc đến cái chết của chị Lộc. Trước đây, trong một thời gian dài người ta không nói tới cái chết cảm tử của chị. Có người có chức quyền hẳn hoi còn nói chị mang va li thuốc nổ lên chiến hạm để tự sát – chị bị lao nặng đã hết cách chữa. Vì thế mà Trung ương không phong cho chị danh hiệu anh hùng. Cũng có thể ngày ấy người ta còn sợ uy Trường Chinh. Danh hiệu này chỉ được truy tặng cho người nữ anh hùng khi ở Việt Nam bắt đầu có “đổi mới”.
Nguyễn Chí Thiện được thả ra năm 1977. Từ ga Trần Quý Cáp anh tới thẳng nhà tôi, ăn với tôi bữa cơm rồi mới về Hải Phòng. Thỉnh thoảng anh lên Hà Nội chơi lại rẽ vào thăm tôi. Vẫn ngơ ngác nhìn đời qua cặp kính trắng, ít nói hơn cả trong khi ở tù, còn ít cười hơn nữa, Nguyễn Chí Thiện hoàn toàn thu mình vào nội tâm. Tôi giao cho anh bột nở về bán cho các hàng cháo quẩy của thành phố cảng. Khi tôi chế bột nở cho cao su, anh cũng bán được một ít cho những người buôn hàng vào Nam. Nhưng anh không có khiếu thương mại. Tôi vào Sài Gòn hẳn từ năm 1983. Năm 1988 tôi ra chơi, Lê Trình báo tin Nguyễn Chí Thiện đã bị bắt lại. Anh chạy vào sứ quán Anh ở Hà Nội, trao cho họ tập thơ anh làm trong tù rồi bước ra để vào Hỏa Lò, ở thêm mấy năm nữa. Trình kêu gọi anh em bạn tù góp tiền cho gia đình Nguyễn Chí Thiện tiếp tế cho anh. Năm 1994 Nguyễn Chí Thiện sang Mỹ, từ đó anh đi khắp thế giới để chửi chính quyền Hà Nội. Tôi đọc báo và buồn lòng thấy anh chống cộng vung vít, chống luôn cả những hành động cứu trợ nhân đạo cho đồng bào, chỉ vì những khoản cứu trợ, theo anh nói, nuôi béo chính quyền cộng sản. Tôi biết có những vụ tham ô hàng và tiền cứu trợ, nhưng không phải tất cả đều thế. Anh còn nói rằng không thể tin được bọn cộng sản ly khai, quên khuấy rằng họ cũng là những người yêu nước không kém gì anh, ít nhất là như thế. Nhưng nghĩ tới những gì Nguyễn Chí Thiện đã trải qua, tôi hiểu nỗi căm giận của anh. Có điều, như các cụ nói, no mất ngon, giận mất khôn, nên anh mới khai trừ thẳng cánh những người trước kia là cộng sản ra khỏi đám con cháu Lạc Hồng, vĩnh viễn tước của họ cái quyền yêu nước.
Sau khi ra khỏi nhà tù, khoảng năm 1977, Kiều Duy Vĩnh và tôi gặp nhau luôn. Anh sảng khoái hơn bao giờ hết vì chuyến viễn du bất đắc dĩ cuối cùng rồi cũng đã kết thúc. Chúng tôi kéo nhau lên Hàng Vải Thâm rủ Lê Trình đi uống cà phê. Ðôi khi có cả Văn Thợ Mộc, Phổ Gián Ðiệp. Vĩnh giàu nhất trong bọn chúng tôi, vì chị Vĩnh có sạp bán trà ở chợ Bắc Qua. Nhưng Trình Hàng Vải, cao niên hơn cả, bao giờ cũng tranh trả tiền. Có thể nói đây là hạt nhân của Hội Cựu Tù Nhân Việt Nam, nếu như một ngày nào đó nó ra đời.
Phổ Gián Ðiệp được các đồng chí cũ thanh minh, được thả ra, nhưng gia đình đã tan nát, ngôi nhà bị thu vẫn chưa lấy lại được.
Văn Thợ Mộc đã lấy vợ. Cuộc hôn nhân bắt nguồn từ việc ông thợ mộc hiền lành của chúng tôi đi đóng giường thuê cho vợ một liệt sĩ. Chị kể với anh chị ước mong có một ban thờ tử tế để thờ chồng mà mãi chưa thực hiện được. Ðúng ngày 27.7(7) anh xuất hiện ở nhà chị, hì hục đóng cho chị cái ban thờ mà chị muốn có, không lấy tiền. Chị xúc động trước tấm lòng cởi mở của anh. Hai người trở thành bạn. Rồi anh trở thành chồng chị, chăm nom những đứa con của người mà lẽ ra anh phải coi là kẻ thù. Những đứa con của người đã khuất rất yêu quý anh.
“Jean Valjean gọi bằng cụ” cũng đã ra khỏi nhà tù. Như tôi đã kể, thật ra chính quyền cũng không có ý định nâng cao kỷ lục tù cho ông, nhưng vì lúng túng không biết thả ông thế nào, nên đành để ông đó cái đã. Tiễn tôi ra trại, trung úy Bưởi hứa với tôi sẽ giúp đỡ “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Anh cho tôi biết nếu bây giờ có người nhận, ông sẽ được về ngay. Tôi tới gặp nhà sử học Chiêm Tế, cũng là người trong hoàng tộc, đề nghị anh bảo lãnh cho Tôn Thất Tần thì Chiêm Tế kêu lên: “Anh bị chín năm chưa chán sao mà còn dây vào những chuyện này! Tôi sợ lắm!”. Chỉ có Bửu Tiến là hăng hái giúp. Anh vào Nam, tìm được con gái Tôn Thất Tần. Cô làm đơn xin bảo lãnh cho người cha chưa biết mặt. Qua nhà thơ Trần Mạnh Hảo tôi mới gặp lại Tôn Thất Tần. Hóa ra anh là con rể người tù vĩ đại.
Một hôm tôi đang phóng xe máy trên đường Thụy Khê thì bị một công an viên nhảy ra giơ hai tay chặn lại. Thì ra thiếu úy Nguyễn Văn Nhẩm.
– Anh còn nhớ em không?
– Nhớ chứ! – tôi ôm lấy anh – Tôi quên những tên khốn nạn, nhưng nhớ rất lâu những con người tốt bụng.
Nhẩm khoe với tôi anh đã ra khỏi ngành quản lý trại giam, bây giờ làm công an đường phố. Chúng tôi kéo nhau vào một quán bia gần đấy, uống bia Thanh Ðảo và ôn lại chuyện những ngày ở Tân Lập. Nhẩm hẹn tôi một bữa ăn trên nhà hàng nổi Hồ Tây.
Tôi hỏi Nhẩm về số phận của gián điệp quốc tế Dịp Pún Mằn. Nhẩm cho biết anh ta đã được tha ra một nông trường gồm những tù nhân không nơi nương tựa ở gần trại. Sau anh ta có về Hải Phòng không thì Nhẩm không biết. Tôi hỏi Nhẩm đã gặp bao nhiêu gián điệp quốc tế kiểu như Diệp Bản Minh thì Nhẩm nói mới gặp có một. Tôi nói thế thì hồng phúc cho nước nhà.
Kể từ khi tôi ra tù, sự kiện ồn ào nhất về vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” là vụ Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ Bảo vệ Ðảng, cánh tay phải của Lê Ðức Thọ trong thời kỳ chúng tôi bị trấn áp, bỗng dưng đùng đùng lên tiếng đòi xét lại vụ án. Ông tuyên bố chúng tôi hoàn toàn vô tội. Ông nói việc tham gia vụ án này làm cho ông bị lương tâm cắn rứt ngày đêm. Ðã đến lúc ông không còn có thể im lặng.
Bức thư gửi Ban chấp hành Trung ương Ðảng đề ngày 3.2.1995 là một tiếng sét giữa trời quang, làm sửng sốt không phải chỉ các nhà lãnh đạo mà cả chúng tôi. Có ai ngờ một người như ông mà lại đủ can đảm làm một việc tầy trời như thế – trước hết là lòng dũng cảm phủ định chính mình, sau là sự dấn thân vào một việc khó khăn, vô vọng mà hậu quả có thể rất nặng nề.
Nguyên vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ vào thời gian nói trên là ông Lê Hồng Hà, cũng có dính líu với vụ án của chúng tôi, đã nhiệt tình ủng hộ ông Nguyễn Trung Thành trong việc lập lại lẽ công bằng cho những người cộng sản bị đàn áp.
Tổng bí thư Ðỗ Mười nổi giận. Ông gặp Nguyễn Trung Thành, trách móc, khuyên can, dọa nạt. Nhưng Nguyễn Trung Thành vẫn trơ trơ.
Lê Hồng Hà còn đi xa hơn. Nhân dịp này ông rà soát lại nhận thức của mình, rồi thẳng thắn vạch ra rằng mọi điều tồi tệ xảy ra là hậu quả sự du nhập chủ nghĩa Mác ngoại lai vào Việt Nam, sự áp dụng những nguyên tắc “dân chủ tập trung” và “chuyên chính vô sản”, về thực chất là nền tảng của thói chuyên quyền, độc đoán.
Không làm gì được hai nhân vật phản tỉnh, Ðỗ Mười ra lệnh khai trừ họ khỏi Ðảng. Chưa đủ. Lê Hồng Hà bị bắt, cùng một lượt với Hà Sĩ Phu, bị tòa xử hai năm tù giam, nhưng không phải vì lập trường chống chủ nghĩa Mác, vì thái độ phản kháng sự bạo hành của chính quyền đối với nhân dân, mà vì… “có hành vi chiếm đoạt bí mật nhà nước”. Mà bí mật nhà nước ở đây là cái gì? Là bức thư của đảng viên Võ Văn Kiệt gửi các đồng chí của ông trong Bộ Chính trị, mà đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đã được biết từ lâu.
Sau khi biết việc ông Nguyễn Trung Thành gửi thư cho Trung ương Ðảng, mẹ tôi đi xích-lô lên tận nhà ông ở Ngọc Hà để nói với ông:
– Trước kia, tôi căm thù anh không kém gì căm thù Lê Ðức Thọ. Nhưng nay tôi lại thấy ở anh một đồng chí, hay nếu ta không dùng cái chữ ấy nữa vì nó bị người ta làm cho ô uế rồi thì ta dùng chữ khác vậy, anh là một người tử tế…
– Cảm ơn chị.
– Mà này, tuổi đời cũng như tuổi cách mạng anh đều kém tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng chú cho thân mật.
– Thưa chị, – ông Nguyễn Trung Thành nói – chị đã tha tội cho em, lại còn nhận em làm em nữa thì lòng chị thật là rộng rãi, thật là bao dung! Em rất biết ơn chị.
Mẹ tôi cười vui vẻ:
– Ðã coi là em rồi thì mọi sự là tình nghĩa chị em, đâu còn chuyện ai rộng rãi với ai, ai bao dung với ai?
– Nhưng nếu em rồi cũng bị bắt, thì chị lại đi tiếp tế cho em nhá?
– Chú yên tâm. – mẹ tôi nói – Cái việc này chị quen rồi. Thời Pháp chị đã đi tiếp tế, thời Nhật chị đã đi tiếp tế, thời ta lại được đi tiếp tế cả cho chồng lẫn cho con, như thế gọi là có thâm niên đấy. Chị sẽ đi tiếp tế cho chú…
(1) Khái niệm tư pháp của Việt Nam về chuyện này như sau: người có tiền án là người phạm tội, bị đưa ra tòa xử, có án hình rõ ràng, người có tiền sự là người phạm tội nhưng xét chưa tới mức phải đưa ra xử, chỉ bị đưa đi giáo dục cải tạo, trong lý lịch tư pháp được coi như chưa can án lần nào. Thành thử có thứ tiền án 3 tháng tù treo, có thứ tiền sự thôi mà người được hưởng nó phải ở hàng chục năm (tù) cải tạo.
(2) Ðã có một cái tỉnh như vậy theo sáng kiến của Lê Duẩn.
(3) Một băng đểu cáng (tiếng Pháp).
(4) Paul Joseph Goebbels (1897-1945), bộ trưởng Bộ Tuyên truyền của nước Ðức phát-xít.
(5) Lò thiêu xác ở Hà Nội.
(6) Mãi gần đây, cuối năm 1996, Hoàng Minh Chính mới biết lý do thật khiến anh bị vào tù lần chót. Số là vào tháng 5 năm 1995 anh và một số cựu đảng viên Ðảng dân chủ Việt Nam, là những đảng viên đầu tiên của đảng này trước khi nó trở thành một đảng bù nhìn, có gặp nhau trong một bữa trà dư tửu hậu tại nhà anh. Trong cuộc gặp gỡ này có người nêu ý kiến nên có một cuộc họp mặt rộng hơn nhân ngày kỷ niệm Ðảng dân chủ Việt Nam ra đời, vào giữa tháng 6. Cuộc nói chuyện bị ghi âm trộm. Thế là người ta tá hỏa, nghĩ rằng Hoàng Minh Chính và các cựu đảng viên Ðảng dân chủ Việt Nam có ý tái lập đảng, do đó vội vã bắt ngay Hoàng Minh Chính. Lý do thì không có, người ta viện cớ Hoàng Minh Chính dám gửi hộ Ðỗ Trung Hiếu những kiến nghị của ông tới địa chỉ các vị lãnh đạo, là hành động tán phát những tài liệu chống nhà nước và chủ nghĩa xã hội, để buộc tội. Thế là ông Ðỗ Trung Hiếu trở thành đầu vụ một cách oan uổng.
(7) Ngày thương binh liệt sĩ Việt Nam. Vũ Thư Hiên (1993-1997: Hà Nội – Sài Gòn – Moskva – Warszawa – Paris)
|
|