|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:45:16 GMT -6
Phần I => Chương 16
Đối với cơ quan phản tình báo Anh thì chiếc tầu hàng Karpathos cũ kỹ thường lang thang trên biển Egée, là chỗ không lạ gì đối với họ kể từ ngày các cán bộ của Mossad mua nó trong một góc ở hải cảng Salonique, nơi có tám trăm tấn sắt và gỗ cũ với một cầu tầu điêu tàn. Người Anh theo dõi dễ dàng việc di chuyển chậm chạp của tầu, mới đầu là Pirée nơi thủy thủ đoàn Hy Lạp trao lại tầu một thủy thủ đoàn Do Thái Mỹ, rồi tới Gênes là nơi tầu được tân trang lại. Họ cũng biết chính xác lúc nào tầu nhổ neo đi về phía vịnh Lyon, ở Pháp.
Ngay lập tức, hàng chục tình báo viên ào vào duyên hải Địa trung hải của Pháp. Một hệ thống coi chừng hai mươi bốn trên hai bốn giờ được thiết lập quanh La Ciotat, khoảng một chục viên chức cao cấp Pháp cùng hai hay ba viên chức cấp nhỏ hơn được gởi tặng những "món quà" vừa đáng kể vừa bất ngờ. Đồng thời Whitehall gây một áp lực mạnh nhưng kín đáo đối với Quai D’orsay 1 để nước Pháp cấm không cho tầu Karpathos vào hải phận mình. Nhưng Luân Đôn đã bực tức vì áp lực này không đi đến kết quả nào: Paris vẫn giữ nguyên liên kết với Mossad và tầu Karpathos đi dọc bờ biển không cách quá ba hải lý, đã tới bỏ neo, yên lành trong hải phận bạn.
Đến đây là hồi thứ hai: Neo ở La Ciotat, tầu làm năm hay sáu chuyến ra biển giả vờ để đánh lừa cũng như làm khó nghĩ cho các quan sát viên Anh. Các xe vận tải do các cảm tình viên Pháp cho mượn và các các tài xế người Marseille lái đã nỗ lực tạo ra một sự náo nhiệt vừa hết sức ồn ào vừa nhộn nhịp trong toàn vùng. Sau cùng một khi người ta đã phỏng đoán một cách hợp lý rằng các nhân viên tình báo Anh đang vò đầu bứt tóc không hiểu khi nào, Mossad mới cho bắt đầu hồi thứ ba. Một ngàn sáu trăm người dân trong đó có cả đoàn trẻ của Karen, được đưa trong đêm đến một điểm hẹn hò bí mật ở một nơi ven biển. Nhiều đơn vị quân lực Pháp được trải rộng trên nhiều cây số khóa kín vùng bao quanh bãi biển có mấy chục chiếc bè hơi đang chờ sẵn.
Việc chuyển người từ bãi biển ra chiếc Karpathos đậu ngoài khơi thực hiện tương đối nhanh chóng. Những người tỵ nạn chỉ còn một túi đeo lưng, một chai nước và nỗi ám ảnh rời bỏ vĩnh viễn đất Âu châu thù nghịch làm hành trang.
Lũ trẻ của Karen được đưa lên tầu trước tiên, được ở dưới sàn tầu, gần thang chính. May mắn thay đa số chúng quá mệt nhoài nên chìm đắm ngay vào một giấc ngủ say. Chỉ có một vài đứa bé nhất là khóc nức nở, vì sợ hơn là vì muốn được Karen an ủi vỗ về.
Trước bình mình, hầm tầu đã đầy nghẹt người đến nỗi không thể nhúc nhích cử động gì được. Nhưng các ca-nô vẫn chạy đi chạy lại giữa tầu và bờ biển. Bây giờ mọi người nhồi nhét các dân tị nạn ngay trên sàn tầu, ngập lên đến tận đài chỉ huy.
Bill Fry, viên thuyền trưởng Hoa Kỳ, không ngừng xoa râu vừa lầu nhầu vừa cắn một mẩu xì gà:
- Trời! Nếu lính cứu hỏa Boston mà nhìn thấy cảnh này, chắc họ xỉu luôn.
Đột nhiên ông ngửng đầu lên. Ở một nơi nào trong bóng tối, một giọng trong trẻo và dịu dàng cất lên một điệu ru em. Len lõi vào đám đông, ông tới được cầu thang, bước qua thân nhiều người, tuột thang xuống hầm tầu. Quơ chiếc đèn lên soi, sau cùng ông khám phá ra Karen. Nàng ôm một bé trai trong tay vừa đu đưa vừa hát ru cho nó ngủ. Bill mở tròn mắt: ông có cảm tưởng như vừa nhìn thấy một Madone 2 . Karen nhìn ông và bằng một cử chỉ, yêu cầu ông hướng ánh sáng đèn đi phía khác. Bill hắng giọng:
- Này cô bé... Cô bé biết tiếng Anh chứ? - Biết chứ. - Ai chỉ huy lũ nhóc này đây? - Tôi. Xin ông vui lòng nói nhỏ một chút. Tôi vất vả lắm mới làm chúng ngủ đi được đó.
Bill cầu nhầu:
- Tôi sẽ nói lớn theo ý tôi thích. Và xét cho cùng tôi là thuyền trưởng tầu này. Thôi cô bé đừng nói dóc là người chỉ huy trách nhiệm tụi trẻ này. Cô cũng chẳng lớn tuổi hơn nhiều đứa trong bọn.
Karen đáp lời một cách khô khan:
- Nếu ông thuyền trưởng điều khiển được tầu bằng tôi điều khiển các em này, chắc chúng ta sẽ tới được Palestine trong vài giờ nữa.
Bill gãi râu, mỉm cười:
- Cô có vẻ là một cô bé khá đấy. Nếu cô cần cái gì, cứ việc lên đài chỉ huy kiếm tôi. Dĩ nhiên lúc ấy phải nói với tôi bằng một giọng khác nghe. - Xin cám ơn thuyền trưởng. - Á à, được rồi đấy! Rồi, cứ gọi tôi là Bill, như thế tiện hơn. Dẫu sao chúng ta cũng là cùng một gia đình mà.
Ông khẽ chào nàng rồi đi lên. Karen nhìn theo, nhận thấy những ánh sáng đầu tiên của bình minh. Bây giờ tầu Karpathos đã đầy hành khách, với con số cao hơn là những kẻ đã đóng ra tầu này trù liệu. Một ngàn sáu trăm người ép chặt, nhồi nhét như cá hộp. Mái trục neo kêu cót két kéo neo lên, và các động cơ cổ lỗ sau khi khục khặc một hồi, rồi cũng bằng lòng chạy. Nhờ một dải sương mù che chở, chiếc tầu rời xa bờ biển nước Pháp, đạt dần tới vận tốc tối đa là bảy gút một giờ. Tầu đã rời hải phận nước Pháp, phiêu lưu vào đại dương. Mossad đã thắng hiệp thứ nhất! Lá cờ xanh trắng của quốc gia Do Thái tương lai được kéo lên cột và một tấm bạt được đóng lên trên bảng tên cũ: tầu Karpathos đã trở thành Ngôi sao David.
Cuộc viễn hành chưa chi đã cho thấy là vất vả. Chiếc tầu nhỏ lắc lư một cách thảm hại, và trong những khoang tầu đầy người không quạt máy thông hơi, chỉ trông thấy những bộ mặt tái mét. Với sự trợ giúp của toán Palmachnik, Karen phân phát nước chanh và vải lạnh để ngăn ngừa một cơn nôn mửa tập thể. Nàng còn tìm thấy thì giờ để hát, tổ chức các trò chơi, kể chuyện - cách hay nhất để cho các trẻ con khỏi bị cơn sợ xâm chiếm.
Tuy vậy, đến buổi trưa hơi nóng và sự thiếu không khí trở thành không thể chịu nổi nữa. Đàn ông cởi trần, đàn bà chỉ còn mặc nịt vú, và trong bóng tối lờ mờ, các thân thể như được tráng bằng mồ hôi. Có nhiều vụ ngất xỉu, những kẻ nào lâu tỉnh, được di chuyển lên boong tầu, nhưng các kẻ khác phải ở trong hầm tầu nồng nặc: có thể nói là không có đủ chỗ cho tất cả mọi người ở phía trên.
Sau cùng, mặt trời lặn và một cơn gió mát lọt qua các cửa tròn vào tầu. Karen kiệt lực, thiếp vào một giấc ngủ chập chờn những giấc mơ hỗn độn. Một tiếng sấm dữ dội làm nàng giật mình thức dậy. Ngửng đầu lên, nàng ngạc nhiên thấy trời đã sáng. Thèm khát một làn gió trong sạch, nàng len lén tìm đường tới thang và leo lên boong. Hàng trăm tay chỉ lên trời đang có một oanh tạc cơ lớn bốn động cơ bay lượn vòng quanh tầu.
- Phi cơ Anh! Một chiếc Lancaster!
Chưa chi máy phóng thanh đã gào lên:
- Mọi người hãy về chỗ. Giữ bình tĩnh. Không có gì nguy hiểm hết.
Ba giờ sau, một chiếc tuần dương hạm Anh, chiếc Defiance xuất hiện ở chân trời và lao thẳng về phía Ngôi sao David. Tiếp theo, một khu trục hạm hình nét thanh lịch, chiếc Blakeley đến nhập đoàn. Bây giờ hai chiến hạm Anh cặp kè lấy chiếc tầu nhỏ vẫn tiếp tục tiến theo nhịp độ lịch cà lịch kịch. Bill Fry nói mỉa mai qua máy phóng thanh:
- Sau hết chúng ta đã gặp đoàn họ tống Hoàng gia rồi đó.
Theo luật chơi chính thức, ván bài đã kết liễu. Mossad đã cho thêm một chiếc tầu ra khơi và hạm đội Anh đã biết chặn được và theo sát. Ngay khi Ngôi sao David tiến vào hải phận Palestine, người Anh sẽ gửi một toán xung kích chiếm tầu rồi kéo đưa về hải cảng Haifa.
Trên boong tầu Do Thái, các dân chửi rủa hải quân Anh và nguyền rủa Bevin. Họ kéo một băng vải lớn mang hàng chữ sau: HITLER ĐÃ ÁM SÁT CHÚNG TÔI, NHƯNG NGƯỜI ANH KHÔNG CHO PHÉP CHÚNG TÔI ĐƯỢC SỐNG. Như đã chờ đợi sẵn những chuyện như vậy, các chiến hạm coi như không biết tới lời chửi rủa và vẫn tiếp tục lộ trình bao giờ cũng song song với Ngôi sao David.
Sau khi trấn an được các đứa trẻ "của" nàng, Karen leo lên đài chỉ huy. Nàng tìm thấy Bill Fry đang ở trong buồng lái uống cà phê và nghe - bằng một tai - một bài diễn văn hăng hái của thanh niên chỉ huy toán Palmachnik. Đột nhiên, ông đặt ly xuống, la:
- Chúa tôi! Về tài nói, quả thực thiên hạ chỉ đáng xách dép cho dân Do Thái chúng ta thôi. Này, anh chàng trẻ nghe đây: Các lệnh được làm ra không phải để bàn cãi mà là để tuân hành. Các anh làm thế cóc nào đạt đến kết quả khi các anh để tốn bao nhiêu thì giờ bàn cãi như vậy? Dầu sao, có phải tôi là người chỉ huy tầu này hay là không đây!
Thanh niên Palmachnik không hề bối rối vì câu nói ấy. Anh tiếp tục nhắc lại các lý lẽ và khai triển chúng một cách tóm tắt trước khi đi ra. Bill cố nén một tiếng rủa, châm mẫu xì gà và bây giờ chịu để ý tới sự có mặt của Karen.
- Chào cô bé! Một tí cà phê chăng? - Xin vâng. - Trong cô có vẻ mệt đấy. - Với lũ trẻ, tôi ít có dịp được ngủ. Chính vì vấn đề con em mà tôi đến gặp ông. Nhiều đứa bị đau nặng. Cũng có nhiều phụ nữ mang thai ở dưới đó nữa. - Tôi biết, tôi biết. - Tôi cho rằng phải cho họ luân phiên nhau lên trên boong tầu.
Nhăn mặt, Bill chỉ đám đông dầy dặc người dưới chân đài chỉ huy.
- Cô muốn tôi đặt họ vào cái chỗ nào nữa đây? Hả?
Karen năn nỉ:
- Ông có thể tìm thấy hai hay ba trăm người tình nguyện nhận xuống hầm tầu vai giờ. - Nghe đây cô bé. Tôi muốn làm vui lòng cô lắm, nhưng tôi đang có cả triệu mối lo đây. Chắc chắn đây không phải là lúc chuyển chỗ hàng trăm người như thế trên chiếc tầu khốn khổ này.
Karen bình tĩnh nói:
- Tôi sẽ đi xuống đưa các trẻ em lên boong.
Nàng đi ra cửa. Bill đưa các ngón tay vào bộ râu:
- Làm gì vội thế nào! Cô bé sao vậy? Vừa mới ngoan ngoãn như mèo, một lúc sau đã giơ nanh vuốt cọp cái ra rồi. Thôi cô bé đừng có nóng, bọn tôi sẽ thu xếp kiếm chỗ cho lũ nhóc của cô trên boong. Trời! Lại bàn cãi, lại bàn cãi tới lui hoài! Tôi chán ngấy rồi đó!
Một giờ sau Karen đã có thể đưa trẻ con lên ở phần boong tầu mà thuyền trưởng đã cho di tản người đi. Được khí trời tươi mát làm phục hồi, chúng ngủ yên.
Ngày hôm sau, bình minh lên, trên mặt bể nhiều váng dầu. Dĩ nhiên là hai chiếc Defiance và Blakeley vẫn tiếp tục "hộ tống", và nhiều lần, các oanh tạc cơ bay trên bầu trời tươi đẹp. Vào quá trưa một chút, việc loan báo chỉ cách Eretz Israel - xứ của Isral - có hai mươi tư giờ nữa đã tạo sự rùng mình trong đám di dân, từ đài chỉ huy xuống đến hầm tầu. Nhưng trước khi mặt trời lặn, chiếc Blakeley lái nghiêng một chút để lại gần tầu Ngôi sao David. Qua máy phóng thanh của chiến hạm, một giọng nói mạnh, giọng Anh một cách thái quá, gọi chiếc tầu hơi nước nhỏ bé.
- Đây là hạm trưởng Cunnigham của Blakely. Tôi muốn nói với thuyền trưởng tầu chở di dân.
Fry la lên bằng giọng trầm:
- Quý ông muốn gì? - Chúng tôi có ý định gởi một đại diện sang bên đó để trình bày...
Fry ngắt lời:
- Vô ích. Các ông có thể nói ngay bây giờ. Chúng ta anh em bốn biển là nhà cả. Giữa chúng ta, không có gì bí mật hết. - Cũng được nếu ông muốn. Chừng một hay hai giờ sau nửa đêm, các ông sẽ vào hải phận Palestine. Lúc đó chúng tôi sẽ lên tầu ông, móc dây kéo và đưa tầu về Haifa, Chúng tôi muốn được biết các ông nhượng bộ hay là chống lại. - Allo... Cunnigham, ông nghe rõ tôi không! Đây là tình hình tầu tôi: chúng tôi có nhiều người bệnh và đàn bà mang thai. Chúng tôi rất sung sướng nếu các ông lo dùm cho. - Chúng tôi không có chỉ thị về vấn đề này. Tôi nhắc lại câu hỏi: các ông có chịu chúng tôi kéo tầu không có hay không? - Các ông đưa chúng tôi về đâu nhỉ? - Về Haifa. - À há! Đi hướng đó thì hơi lệch lộ trình bọn tôi rồi đó. Nhất là đối với chiếc du thuyền đang rong chơi ngũ hồ này. - Chúng tôi sẽ bắt buộc lên tầu ông bằng vũ lực. - Này ông Cunnigham... Xin ông nói với các sĩ quan và thủy thủ của ông hãy đi chỗ khác chơi cho được việc!
Đêm đến. Không ai nghĩ đến chuyện ngủ. Tất cả mắt đều cố xuyên qua bóng đêm, trong hy vọng thấy bờ biển - miền Đất Hứa. Nhưng sương mù che phủ tầu, các đám mây che khuất mặt trăng và các vì sao.
Vào nửa đêm, một Palmachnik ra dấu gọi Karen vào phòng lái. Dưới ánh sáng xanh nhạt yếu ớt của hộp đựng địa bàn, nàng nhận được ra khoảng hai mươi người, toàn thể thủy thủ đoàn và các cấp chỉ huy của Palmach. Nàng đoán ra đôi vai chắc của Bill Fry gần bánh lái.
Thuyền trưởng cất tiếng:
- Tất cả mọi người có mặt rồi chứ? Tốt. Bây giờ chú ý nghe tôi đây, thời tiết ngoài khơi Palestine đang rất xấu, mù mịt. Chúng ta có sương mù dầy dặc đến độ lấy dao mà cắt ra được. Hơn nữa, chúng ta đã cho đặt thêm trong phòng máy một động cơ phụ cho phép đưa tốc độ tầu lên mười lăm gút. Khoảng hai giờ nữa chúng ta sẽ vào hải phận Palestine. Nếu vào lúc ấy còn sương mù, chúng ta sẽ được ăn cả ngã về không, nghĩa là lao thẳng tầu cho mắc cạn luôn ở ngày phía nam Césarée.
Có tiếng thì thào, kêu lên nho nhỏ.
- Thuyền trưởng có tin là chúng ta thoát được các chiến hạm không? - Tôi tin là thoát. Trong một giờ nữa họ sẽ thấy chúng ta là Chim Xanh. - Còn làm sao thoát radar? Họ theo dõi chúng ta trên các màn radar. - Đó là cái chắc. Nhưng ngược lại, họ không thể theo chúng ta đến cách bờ vài ba sải được. Họ không dám liều để mắc cạn một tuần dương hạm đâu. - Còn các đạo quân Anh đồn trú ở Palestine? - Chúng tôi đã liên lạc vô tuyến được với Palmach. Các đồng đội của các bạn đang chờ chúng ta. Tôi có cảm tưởng là quân Anh đêm nay không thiếu trò giải trí đâu. Các anh, với tư cách các cấp chỉ huy, các anh đã nhận được ở La Ciotat một huấn lệnh đặc biệt về loại đổ bộ này rồi. Còn về cô bé Karen này cùng hai cô nữa chỉ huy các toán, các cô chờ lệnh của tôi. Có thắc mắc gì không?
Không ai trả lời.
- Không có phản đối, khiếu nại gì sao?
Mọi người vẫn im lặng. Fry lầu nhầu kêu lên:
- Các anh chị làm tôi phục nhiều đây! Không có cả một vụ bàn cãi nho nhỏ sao? Thật khó tin quá. Rồi, chúc tất cả may mắn và xin ơn trên che chở cho các anh chị!
-------------------------------- 1 Quai D’orsay: địa danh thường được dùng để chỉ Bộ ngoại giao Pháp. 2 Madone: hình ảnh Đức Mẹ bồng Chúa hài đồng.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:51:24 GMT -6
Phần I => Chương 17
Một cơn gió mạnh làm quay cuồng những đợt sương mù quanh hải cảng cổ xưa Césaráe, ném các nắm cát vào các di tích hoang tàn, quất những đợt sóng vỡ tan trên những khối đá lớn của các kẽ đá đổ nát. Thủ đô của xứ Palestine thời La Mã, do Hérode xây dựng lên để kính mừng cho César, chỉ còn là một đống nhà đổ nát, các bức tường cũ kỹ siêu vẹo. Một thành phố chết nằm giữa biển lãnh đạm và sa mạc thù nghịch.
Tuy thế, cách vài chục thước về phía nam các di tích đổ nát, mọc lên các căn nhà đầu tiên của một làng tập thể của các ngư phủ Do Thái. Đêm nay, không có dân làng nào ngủ hết. Đàn ông đàn bà nằm hay ngồi xổm giữa các di tích của sự huy hoàng xa xưa, nhìn chăm chăm ra biển khuất trong sương mù. Số dân làng vào khoảng hai trăm, tăng cường thêm cũng chừng số đó các chiến binh của Palmach.
Trên đỉnh tháp cổ Drusus xây nhô ra biển sóng vỗ tung tóe, một ngọn đèn pin mạnh lóe sáng rồi tắt ngay. Ở trên đất liền, mọi người chuẩn bị.
Trên tàu, hàm răng Bill Fry xiết chặt lấy mẩu xì-gà không bao giờ rời miệng, tay xiết chặt lấy bánh lái. Từ từ, thận trọng, ông đưa tàu về phía bờ biển theo một lộ trình ngoằn nghoèo có vẻ lung tung nhưng thực ra hết sức chính xác để tàu đi dọc được theo các bờ đá và bãi ngầm. Trên boong, những người di dân tụ họp sau lan can tàu, cứng người chuẩn bị lúc tàu va chạm vào bờ.
Đột nhiên, tàu húc phải một hòn đá lởm chởm. Chiếc tàu nhỏ rung lên, các lỗ mọt kêu rắc rắc. Một hỏa châu cô đơn vọt lên trong đêm tối. Và sau đó là một cuộc hỗn loạn mạnh ai nấy lo.
Hỗn độn chen lấn, những người di dân leo qua thành tàu để buông mình tụt xuống hay nhảy thẳng xuống nước ngập tới ngang vai, chiến đấu từng bước tiến về bờ cách đó khoảng nửa cây số. Trên bãi, ngư phủ và Palmachnik chạy ra khỏi các chỗ nấp để tiến về phía các kẻ di dân. Hai nhóm gặp nhau, nhập làm một, những bàn tay khỏe mạnh của dân Palestine nắm lấy ngang người các di dân để kéo về đất liền.
- Nhanh lên! Cởi quần áo ra, mặc quần áo này vào! Vứt các giấy tờ căn cước đi! Lẹ! Những người nào đã sẵn sàng, theo chúng tôi. Tiến lên, tiến! Nhanh lên! Giữ im lặng! Không được nói một tiếng! Không được bật ánh sáng! Đừng dúm chụm như thế, tản ra, trà trộn vào các ngư phủ?
Sững sờ, run rẩy, xúc động,những kẻ di dân cố tuân theo các mệnh lệnh đưa tới họ qua những lời thì thầm điểm bằng những tiếng "Nhanh! Lẹ!" nhắc đi nhắc lại hoài. Họ không than thở vì bị xô đẩy như thế. Một số người, hoàn toàn choáng váng với ý nghĩ là sau cùng mình đang được đặt chân lên một tổ quốc thực sự đã nằm sấp xuống đất hôn trên cát.
- Thôi nào, tiến lên đi! Các người sẽ có thì giờ để làm việc đó, nhưng đêm nay thì không. Tiến lên, nhanh lên.
Trên boong tàu, Karen chuyển từng đứa bé một cho các Palmachnik đang đi đi lại lại giữa tàu và bãi biển. Cần phải có những người khỏe mạnh để đưa chúng vượt qua vùng sóng dội ngược mạnh này.
- Nhanh lên! Tiến lên! Nhanh nữa lên!
Và họ làm việc thật nhanh! Sau chừng một giờ, trên chiếc tàu bị mắc cạn chỉ còn chừng ba mươi đứa trẻ, các cấp chỉ huy và thuyền trưởng. Bill Fry quay đầu về phía bắc bằng một dáng điệu vừa lo lắng dò hỏi vừa thích thú vì chiến thắng. Phía xa, cách đó chừng bốn mươi cây số, một đơn vị mạnh của Palmach tấn công không ngừng một kho quân dụng của Anh, một trận đánh đánh lạc hướng quân Anh để đừng quá coi chừng tới các bãi biển.
Sau cùng, đứa bé sau chót đã được đưa qua lan can tàu. Bill Fry buông người dựa vào đài chỉ huy và ra lệnh cho các cấp chỉ huy bỏ tàu.
Karen nhắm mắt lại nhảy xuống nước. Co người lại vì nước lạnh, nàng định hướng, bơi vài cái đủ để chân chạm đất. Nàng tới được một hòn đá to, đặt được chân lên đó, leo lên, tiến bằng cách bò. Một đợt sóng dữ lại vứt nàng xuống biển. Nàng lại bơi, lại đặt chân được lên cát, cố tìm đường tiến về đất liền bằng cách chống lại một luồng sóng ngầm kéo nàng ra khơi. Đất lên cao dần, người nàng mỗi lúc nhô cao, rồi lại một khoảng dốc nữa làm nàng lại phải bò...
Từ một nơi nào trong bóng đêm, một tiếng còi rít lên.
Một loạt súng nổ dữ dằn, chói tai.
Trên bãi biển, ngư phủ và di dân phân tán chạy tứ tung.
Thở hổn hển, Karen đứng dậy. Nước chỉ còn lên tới đầu gối nàng. Nhưng cách nàng hai ba bước trước mặt, nhiều người lính Anh cầm dùi cui to lớn chặn mất đường vào. Nàng kêu lên:
- Không! Không! Không!
Nàng cúi đầu lao người một cách dữ tợn vào hàng rào kaki, tay xòe móng ra, đấm đá tứ tung. Một cánh tay nắm lấy phía sau nàng, làm nàng ngã chúi quỳ người lên đầu gối. Một khoảng khắc sau, kẻ đang giữ nàng thét lên một tiếng, vùng vằng cố gỡ tay ra khỏi miệng thiếu nữ đang cắn hết sức mình. Dữ tợn, nàng vùng thoát đứng lên được. Nhưng khi nàng định chồm lên chạy nữa thì một gậy gỗ đã phang vào đầu. Nàng rên lên một tiếng, chân mềm nhũn, nàng ngã gục xuống sóng biển.
Karen mở mắt ra. Những cơn đau còn vang đội trong đầu. Tuy vậy nàng mỉm cười khi nhận ra bộ mặt râu rậm của Bill Fry đang cúi xuống. Đột nhiên trí nhớ trở lại, nàng hét lên, cố gắng đứng dậy:
- Tụi nhỏ!
Bill giữ nàng lại, bắt nàng nằm xuống.
- Đừng có lo, cô bé. Đa số tụi trẻ đã chạy thoát được. Còn các đứa khác đang ở đây với chúng ta.
Yên tâm, nàng thở dài, mắt nhắm lại.
- Chúng ta đang ở đâu đây? - Atlit, một trại giam của quân Anh. Mấy bồ Anh ấy lãnh đủ. Quá một nửa số hành khách của chúng ta đã chạy kịp. Bọn tommy 1 điên lên, điên hẳn hoi ấy. Họ bắt tất cả những ai có mặt ở nơi ấy: thủy thủ đoàn, ngư phủ, di dân. Chút nữa họ thanh lọc, tha hồ mà cười. Cô bé cảm thấy sao? - Cám ơn bác, còn khá đau. Nhưng cháu đã bị cái gì vậy bác? - Một tí dại đột, cô bé đã định choảng nhau, một mình với quân lực Anh. Ta phải ghi nhận rằng ý định ấy hay lắm...
Nàng ngồi xuống, thận trọng sờ đầu. Phía trên thái dương trái, nàng tìm thấy u lên một cục. Nàng nhăn mặt một cái khi nhận thấy quần áo mình vẫn còn ướt. Nghiến răng, nàng đứng dậy đi hơi chệch choạng đến tận cửa lều. Trên một khoảng đất cát cao, hàng trăm lều nằm sau một thứ không thể thiếu được và cũng không thể chấp nhận nổi, đó là hàng rào kẽm gai. Nàng nói nhỏ:
- Cháu không hiểu cái gì đã đến với cháu nữa. Suốt đời, cháu chưa đánh ai một cái bao giờ. Nhưng trông thấy những người lính đứng ngăn cháu nơi bãi biển, và cũng không hiểu một động lực nào, thúc đẩy cháu không sao cưỡng lại được... Cháu hết sức muốn đặt chân lên cát ấy, đất của Israel... cháu có cảm tưởng sẽ chết mất nếu không tới được đó... - Cô bé ăn một cái gì chăng? - Cháu không đói. Bác Bill, nói cho cháu biết họ định làm gì chúng ta?
Bill nhún vai:
- Hãy chờ trời sáng đã. Chắc vẫn cái trò thường lệ, trưa nay họ sẽ thẩm vấn cô, hỏi cả triệu câu hỏi ngốc không chịu được. Hẳn cô bé đã thừa biết cách trả lời rồi. - Cháu không quên đâu. Cứ nói: "Đây là quê tôi, Palestine là đất nước tôi - Tôi ở xứ này, nơi này..." cho tới khi họ phát chán thì thôi. - Đúng đấy. Dầu sao họ chỉ giữ cô bé trong trại này chừng hai ba tháng. Sau đó, họ sẽ thả. Mọi sự như vậy không vui gì đâu, nhưng ít nhất cô đang ở Palestine và sẽ ở lại xứ này. - Thế còn bác? - Qua ấy à? Qua là công dân Hoa Kỳ, cô bé hiểu chứ. Họ sẽ trục xuất qua như lần vừa rồi, thế thôi. Qua lại chỉ huy một tàu khác của Mossad và lại thử phá vòng phong tỏa một lần nữa. Đó là một trò thể thao khá thú vị, hiểu chứ?
Nàng nằm dài ra, hai tay áp vào thái dương để cố làm giảm những đau đớn đang quay lộn trong đầu.
- Bác Bill... bác nói cháu nghe đi... tại sao bác lại làm tất cả những điều đó? Bác là người Hoa Kỳ: Những người Do Thái Hoa Kỳ là những người tự do, đâu phải biết tới thống khổ như chúng cháu. Vậy tại sao bác...? - A, cả cô bé nữa hả? Quả thực là mọi người cứ nhất định gán cho tôi những động lực cao cả.
Lục lọi các túi, ông khám phá ra vài điếu xì gà, và khi nhận ra chúng thấm sủng nước biển ông lấy gót giày nghiền nát.
- Những chú Mossad đã đến gặp qua. Họ kiếm những thủy thủ chuyên nghiệp. Và này, qua là thủy thủ - Qua chưa bao giờ là gì khác. Qua khởi đầu bằng làm chú thủy thủ sai vặt, để rồi sau cùng có được bằng sĩ quan phó thuyền trưởng. Cô bé thấy đó, giản dị lắm. Dĩ nhiên là mọi người trả tiền công cho qua trong các vụ tàu bè này... - Không đâu bác Bill, cháu không tin là thế.
Fry cũng có vẻ không tin ở chính lời mình lắm.
- Này... Kể cũng khó cắt nghĩa đấy. Qua yêu Hoa Kỳ... Qua sẽ không tách cuộc đời qua ra khỏi bên đó, dầu là để đổi lấy năm mươi kiếp ở Palestine.
Ông đứng dậy đi đi lại lại trong lều.
- Phải chúng tôi là người Hoa Kỳ, nhưng dẫu sao vẫn là một loại Hoa Kỳ đặc biệt. Một cái gì khác biệt... Có lẽ vì cách xử sự của chúng tôi khác với mọi người, có thể vì tại mọi người coi chúng tôi khác với họ... qua thì qua không đủ sức cắt nghĩa tại sao hết. Nhưng này, cả đời qua đây, qua đã nghe thấy mọi người bảo qua là một thằng hèn bởi vì tất cả những người Do Thái đều hèn. Bởi thế, mỗi lần Palmach giật nổ tung một kho đạn của quân Anh, hay khện cho tụi Ả Rập một trận đích đáng, qua thấy qua như được tăng thêm giá trị. Những vụ đó đã đính chính rõ ràng cho các truyền thuyết cho rằng tất cả những người Do Thái đều là thỏ đế hết. Qua không hiểu em có hiểu qua không...
- Cháu hiểu bác lắm, bác Bill. - Vậy hả? Thế em may mắn đấy. Bởi vì chính qua..
Ông ngồi xuống cạnh Karen và xem xét vết sưng trên đầu nàng.
- Chắc không chi nặng đâu. Dầu vậy qua đã yêu cầu bọn khốn kiếp đó đưa em đến bệnh viện...
Nàng cười, mặc dù còn đau:
- Khỏi cần, bác. Cháu cảm thay đỡ dần rồi.
Vào lúc trời sắp sáng, Palmach tung ra một trận đột kích vào trại Atlit: Hai trăm di dân đã chạy thoát được qua lỗ hổng do quân Do Thái đục thủng bằng chất nổ trong hàng rào kẽm gai. Nhưng cả Karen lẫn Bill Fry đều không thoát được trong dịp này.
Hai ngày sau, một bản báo cáo đây đủ chi tiết về vụ Ngôi sao David về tới Luân Đôn. Lần này, người Anh ý thức rõ được là họ bắt buộc phải thay đổi chiến thuật! Cho tới giờ, những tàu của Mossad chỉ chở được số lượng hành khách từ hai tới ba trăm di dân một lần. Nhưng chiếc tàu khốn kiếp kia đã mang tới một ngàn sáu trăm người và đa số đã vào lọt được Palestine... Chưa chi một trên sáu người Do Thái đã nhập nội bất hợp pháp vào Palestine.
Đối với người Anh, đó là một hoàn cảnh không có lối thoát. Giải pháp cho vấn đề Palestine vẫn cứ còn xa xôi, mờ mịt. Whitehall quyết định ít nhất cũng đem đầy những kẻ di dân "lậu" mà họ đã bắt được. Nói tóm tắt, các trại ở Chypre là hậu quả trực tiếp do vụ thành công của Ngôi sao David.
Karen Hasnen Clement đi về Chypre trên một chiếc tàu chở tù của Hải quân hoàng gia. Không những không nản lòng, nàng còn sốt ruột mong tới Caraolos để làm việc. Ở Chypre cũng như ở trong các trại khác trên toàn thế giới, vẫn có những đứa trẻ, những trẻ mồ côi cần phải nuôi dạy, giáo huấn mà nàng sẽ dạy chúng cười và vui chơi... Dĩ nhiên trong khi chờ đợi ngày mà nàng sẽ thấy lại Palestine, ngày nàng sẽ được đặt chân lại trên đất lành của Israel.
Karen im tiếng. Đã phải mất nhiều giờ qua mới kể được cho Kitty Fremont nghe hết cuộc đời mình, nhưng Kitty đã ngồi nghe nàng cho hết câu chuyện một cách rất chú ý. Chưa chi một luồng cảm tình và thông cảm đã xuất hiện giữa hai người, mỗi người đều đoán được nỗi cô đơn sâu xa của nhau. Kitty hỏi:
- Từ đó em không có tin tức gì mới về ba em nữa sao! - Không, hoàn toàn không, kể từ La Ciotat, đã sáu tháng nay rồi.
Kitty coi đồng hồ:
- Trời! Quá nửa đêm rồi!
Karen nói nhỏ:
- Thế mà em không hay. - Tôi cũng thế. Bây giờ tôi phải về. Chúc em ngủ ngon, Karen. - Chúc cô yên giấc. Liệu em có còn được gặp lại cô không? - Có thể... tôi cũng chưa biết nữa.
Bên ngoài, bóng đêm và im lặng đang đè nặng lên mấy ngàn chiếc lều của trại. Từ trên tháp canh chính, một luồng đèn pha xanh xám quét không biết mệt trên đợt sóng bất động của các mái lều. Run lên trong gió đầy bụi, Kitty thu hình trong chiếc áo măng-tô. Hình dáng cao lớn của Ari Ben Canaan xuất hiện trong bóng tối để tiến đến gặp nàng. Chàng mời một điếu thuốc, nàng nhận. Không trao đổi với nhau một lời, hai người tiến về lối ra.
Trước cổng chính, Kitty dừng lại nói:
- Tôi sẵn lòng làm việc cho các ông - với một điều kiện: Thiếu nữ này không được tham dự vào vụ đào thoát đang dự trù. Nàng sẽ ở lại trong trại, với tôi. - Đồng ý.
Nàng quay đi, tiến nhanh về phía điếm canh.
-------------------------------- 1 Tommy: tên gọi đùa các lính Anh, tương tự như chữ G.I để chỉ lính Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:53:53 GMT -6
Phần I => Chương 18
Chiến dịch Gédéon", tên thơ mộng do David đề nghị bắt đầu xuất phát. Tại Caraolos, Dov Landau làm việc để chế tạo hàng đống giấy chứng nhận biên nhận cùng các giấy tờ quân sự giả mạo khác. Kitty Fremont lo việc đưa các giấy tờ đó ra ngoài trao lại cho Ben Canaan.
Nhờ các giấy tờ loại thứ nhất, Ari sửa soạn thực hiện giai đoạn đầu của kế hoạch. Trong lần đi thanh tra khắp đảo, anh đã nhận thấy ở gần Caraolos một kho tiếp vận lớn của quân Anh. Trên một khoảng đất rộng nhiều mẫu, nhiều dãy xe vận tải cùng xe chạy xích bao quanh khoảng mười kho hàng lớn. Trong thời chiến, kho này đã từng là một trong những căn cứ tiếp vận chính cho đồng minh Trung Đông. Bây giờ một phần các đồ dự trữ này vẫn được dành cho quân Anh đồn trú ở miền ấy, một phần khác, được xếp loại thặng dư, bán cho người ngoài. Vì vậy nên trong hải cảng Famagouste vẫn thường có một sự náo nhiệt của các xe vận tải từ các kho hàng tới.
Một căn cứ khác, công ty hàng hải của Mandria là đại lý chính thức của quân lực Anh tại Chypre nên Mandria có một bản liệt kê chi tiết về tất cả những gì hiện có trong đó. Trong các ngăn kéo bàn giấy của ông, còn một số giấy trưng mua trưng dụng để trắng.
Sáng thứ năm, đúng 8g, Ari Ben Canaan và mười ba Palmachnik mặc quân phục Anh và mang đủ giấy tờ quân sự hợp lệ "của họ", dừng xe cam-nhông - cũng của Anh trước cổng chính của kho, dĩ nhiên Zev Gilboa, David Ben Ami và Joab Yarkoni đều có mặt trong toán này. Ari Ben Canaan, tức đại úy Caleb Moore, trình cho trưởng kho một danh sách những hàng hóa cùng xe cộ cần trưng dụng.
- Lính của chúng tôi sẽ lo mọi việc và chuyên di chở hàng hóa đến hải cảng Famagouste để cất lên thương thuyền Achan.
Sĩ quan trưởng kho không thấy có lý do nào để khước từ. Các giấy tờ Caleb Moore hoàn toàn hợp lệ, cũng như các sự vụ lệnh cùng giấy tờ trưng dụng. Để bắt đầu, các Pamachnik lấy mười hai cam-nhông và hai jeep rồi đi từ nơi này sang nơi khác lấy đầy xe tất cả những gì cần thiết để tân trang chiếc Exodus. Danh sách do Joab thiết lập làm ta nghĩ đến sự hiện đại hóa một tàu chở hành khách hơn là tân trang chiếc tàu cũ kỹ - Aphrodite: Một máy vô tuyến điện kiểu mới nhất, nhiều máy điều hòa không khí, cả một hệ thống phóng thanh đầy đủ dụng cụ. Dĩ nhiên là chưa kể đến hàng tấn đồ hộp và thuốc men, hàng trăm bình chứa nước uống, chăn mền, đèn pin và cả một số vũ khí cá nhân nữa. Bị kích thích như một đứa bé vừa được cho một bộ đồ người Da Đỏ, Zev Gilboa "sẵn lòng" vét sạch kho vũ khí của Anh. Từ bao nhiêu năm rồi, Palmach kêu gào đòi vũ khí mà không bao giờ nhận được số lượng đủ dùng. Zev tưởng mình sắp mất trí đến nơi khi nhìn thấy nhiều liên thanh, súng cối và carbine như thế. Anh rên rỉ:
- Tôi sẵn lòng sống một năm ở đây để lấy hết các đồ chơi này đi. Đáng lẽ bọn mình nên lấy thêm năm mươi cam nhông nữa mới phải...
Để an ủi anh, David bổ túc thêm vào kho hàng lấy được vài két whisky, vài két brandy, vài két gin. Và thêm cả hai két rượu vang nữa... để dành cho các chiến binh đau ốm và đang hồi sức của "chúng ta".
Vào lúc hai giờ trưa - ê kíp cũng không buồn luân phiên ăn cơm trưa nữa - tất cả xong xuôi. Ari từ giã trưởng kho, và mười hai cam nhông cùng hai jeep mới toanh chở nặng tới mức tối đa, lên đường đi ra hải cảng Famagouste.
Mọi người vui vẻ, mọi mong ước đã đạt được, họ cười phá ra, cất tiếng hát. Ari vội phải dẹp bớt ngay ngọn lửa hăng hái quá đáng nơi họ.
- Các chú đừng có vội yên nghỉ trên vòng hoa chiến thắng vội thế! Tôi hứa với các chú là các chú sẽ còn có ngày vỡ mày vỡ mặt.
Tiên liệu và thận trọng, anh đã tìm ra sẵn một chỗ giấu xe cộ và dụng cụ lý tưởng. Đó là một trại quân mới bỏ không dùng tới ở ven biển Famagouste. Vòng rào còn nguyên vẹn cũng như hai dãy nhà bằng gỗ cùng các cầu tiêu. Mọi người đã quên không nghĩ tới cả chuyện cúp điện nữa.
Đêm hôm đó cũng như hai đêm sau, tất cả các Palmachnik của Caraolos đều vừa làm việc tận lực vừa nguyền rủa tùm lum để dựng lều, làm cỏ, nghĩa là tất cả những gì cần thiết để mang lại cho trại bỏ hoang này vẻ sinh hoạt bình thường của một trại binh. Ngày thứ ba vào buổi sáng Joab Yarkoni vẽ trên các xe cam nhông và jeep một phù hiệu hoàn toàn hợp lệ (hay ít ra thì cũng giống như trăm ngàn phù hiệu thông dụng khác trong quân lực Anh) cũng như chữ ghi tắt sau: Đại đội 23 Vận tải HMJFC. Các Palmachnik, bảnh bao trong các bộ quân phục Anh đẹp đẽ (ăn cắp từ kho), bao quanh các xe và hỏi nhau: HMJFC là cái quái quỷ gì đây?
Joab cắt nghĩa:
- Rất giản dị. HMJFC là His Majesty’s Jewish Forces on Chypre (Lực lượng Do Thái của Đức Vua tại Chypre).
Bây giờ kể như cái khung ngoài của "Chiến dịch Gédéon" đã thực hiện xong. Ari Ben Canaan, với sự táo bạo thường lệ, đào tạo ra một đơn vị mới - đơn vị giã cho quân lực Anh. Diện quân phục sĩ quan Anh vào, chàng lại thiết lập tổng hành dinh của Mossad một cách đường hoàng trên đường đi Famagouste, và chàng nhất quyết thực hiện giai đoạn chót của kế hoạch hoàn toàn bằng quân nhu quân cụ Anh. Nói chung, chàng đã áp dụng một phương lược mà chàng cho là hay nhất: Ngụy trang tốt nhất cho một cán bộ bí mật là sự hoạt động bình thường, ai cũng thấy, không thậm thụt giấu diếm gì cả.
Ngày hôm sau, ba thủy thủ Hoa Kỳ đào nhiệm khỏi một tàu chở hàng vừa mới vào hải cảng Famagouste. Thực ra đó là các cán bộ của Mossad đã nhập ngũ và được huấn luyện trong thời chiến của hải quân Hoa Kỳ. Tăng cường thêm bằng hai người di dân gốc Tây Ban Nha, họ sẽ hợp vào đoàn thủy thủ đoàn Exodus thêm vào đó với David, Ari, Joab và Zev.
Các công việc chỉnh trang trên tàu Exodus đã khởi sự rồi. May thay Larnaca là một cảng khiêm tốn và việc đút lót tiền khéo léo của Mandria đã cho phép kẻ có tính tò mò nhất cũng khỏi phải chú ý đến hoạt động náo nhiệt trên tàu này cũng như vùng phụ cận.
Vấn đề trước hết là phải dọn bỏ tất cả trang bị cũ bên trong: các ngăn xếp hàng hóa, đồ đạc, trang trí. Sau 48g chiếc Exodus chỉ còn là một cái vỏ rỗng. Sau đó mọi người làm trên boong hai nhà gỗ nhỏ: đó là cầu tiêu, buồng tắm một cho con trai, một cho con gái. Phòng ăn của thủy thủ đoàn biến thành bệnh xá. Dẫu thế nào cũng tiết kiệm được một phòng ăn, phòng khách lại càng không cần nữa: các bữa ăn sẽ toàn đồ hộp, luôn cả phòng thủy thủ đoàn cũng bỏ luôn: Các thủy thủ, chuyên nghiệp cũng như tài tử, sẽ ngủ ngay trên đài chỉ huy. Mọi người bắt hệ thống phóng thanh, xét lại toàn diện máy tàu và còn tiên liệu sẵn cả một cột buồm với đầy đủ buồm để phòng ngừa tối đa trường hợp các động cơ có thể phá lủng cũng như hư hỏng.
Có những đứa trẻ thuộc Do Thái chính thống trong ba trăm trẻ được lựa, đã đặt ra cả một vấn đề. Ngoài ra Joab đã phải liên lạc với vị trưởng lão cộng đồng Do Thái ở Chypre để chuẩn bị và đóng hộp các thực phẩm hoàn toàn "kosher" 1 .
Kế đó người ta đo thật đúng dung tích của khoang tàu, cũng như diện tích có thể xử dụng được của boong tàu. Sau đấy người ta chia khoang ra bằng các vách ngăn cách khoảng nhau chừng bốn mươi phân. Những loại hành lang này sẽ được dùng làm chỗ ngủ: Mỗi đứa trẻ sẽ có đủ chỗ để ngủ nằm ngửa hay nằm sấp nhưng quay lại thì không được. Còn về chiều cao, người ta căn cứ lấy trung bình là một thước rưỡi, đánh dấu ngay trên các vách ngăn. Mọi người sẽ có thể nghỉ ngơi được trên tàu Exodus, với điều kiện là không đụng đậy nhiều quá.
Người ta tân trang lại các ca-nô cấp cứu, đục thêm các lỗ ở sườn tàu và đặt cả một hệ thống ống hút không khí vào bằng quạt. Kể cả việc lắp những máy điều hòa không khí được "cung cấp" một cách vui vẻ bởi quân lực Anh. Không có một hệ thống điều hòa không khí tốt trong khoang tàu đầy ngẹt người, dám sẽ có vụ nôn ọe tập thể.
Việc chuyên chở thực phẩm đặt ra một vấn đề khác, Ari không muốn gửi các cam nhông kaki của mình ra đến tận các cầu tàu: sự lãnh đạm và kín đáo của dân cư Larnaca chắc chắn là chỉ có giới hạn, mặc dù các quà cáp do Mandria gởi biếu để duy trì tình thân hữu. Cần phải dùng đến mưu: ngay khi nào các công việc chỉnh trang chính trên tàu đã xong, mỗi đêm chiếc Exodus sẽ lẻn ra ngoài cảng rồi bỏ neo cách đó vài dặm, trong một vùng kín đáo ở phía nam. Trên con đường ven biển, các xe của Đại đội 23 Vận tải HMJFC sẽ đổ sẵn và các ca-nô cao su bơm hơi sẽ đưa các thực phẩm lên tàu.
Đồng thời việc chuẩn bị cho dự án lớn vẫn tiếp tục ở trại Caraolos. Zev Gilboa, sau khi chọn lựa xong ba trăm đứa con trai con gái khỏe mạnh nhất, bắt đầu huấn luyện chúng một cách đặc biệt. Tập hợp tại thao trường thành từng toán năm mươi hay sáu mươi, sau các buổi tập thể dục mạnh mẽ, chúng được học cách đánh dao và đoản côn, xử dụng vũ khí cá nhân cùng ném lựu đạn. Nhiều người canh được đặt chung quanh bãi tập để đề phòng lính gác Anh xuất hiện, và trong trường hợp này, họ sẽ đưa ra mật hiệu để các huấn luyện viên thay thế các trò chiến tranh này bằng những trò chơi rõ rệt là có tính cách hòa bình hơn. Trong khoảng thời gian vài giây, các trẻ sẽ ngừng ngay việc tập chiến đấu để hát một bài ca đại chúng hay để đấu bóng chuyền. Còn về những nhóm không tham dự vào việc huấn luyện, chúng sẽ học trong các lớp địa dư xứ Palestine, nghệ thuật trả lời các câu hỏi của các sĩ quan an ninh quân đội Anh.
Vụ báo động duy nhất trong thời kỳ chuẩn bị này không phải do người Anh mà là do ba phụ tá của Ari: David, Joab và Zev. Được khuyến khích vì sự thành công của vụ đột nhập vào căn cứ tiếp vận vĩ đại ấy, họ cho rằng quả là một trọng tội nếu còn để lại trong đó dù chỉ là một đôi dây giày. Tại sao Đại đội 23 Vận tải lại không dùng các xe cộ đẹp đẽ của mình - nếu cần, làm việc hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ - để vét sạch kho hàng? Trong cơn hăng hái, Zev còn dữ tính ăn cắp luôn cả trọng pháo. Cũng như nhiều kháng chiến quân Palestine khác, họ đã phải "xoay xở" quá lâu với các phương tiện eo hẹp rồi, nên khó mà chống lại được quyến rũ này...
Ari thuyết phục họ nên biết điều nhưng vô ích.
- Tham lam quá, các chú dám làm sập tiệm cả đám. Bọn Anh có thể đang gật gù ngủ nhưng họ chưa có chết đâu. Đánh thức họ dậy là ngu không chịu được. Đại đội 23 Vận tải thỉnh thoảng lại xuất hiện là chuyện thông thường, nhưng ngày nào cũng cho xe lại kho, sau cùng thế nào cũng làm tụi Anh chú ý đến chúng ta, nghĩa là lộ tẩy hết.
Nhưng Ari nói như nói với các người điếc. Các kế hoạch do ba anh chàng bạt mạng này soạn thảo sau các vụ thảo luận thì thào bất tận đã mỗi lúc thêm điên khùng, Joab đã liều tới độ một hôm đi mời nhiều sĩ quan Anh tới dùng bữa "tại câu lạc bộ của Đại đội 23 Vận tải". Để làm giảm bớt hăng hái của họ, Ari đã nổi giận và dọa cho đổi họ về Palestine ngay lập tức.
Sau hai tuần lễ, tất cả mọi chuẩn bị đã xong xuôi. Giai đoạn chót của "chiến dịch Gédéon" - các bài báo Parker phải viết, cũng như vụ đào thoát của ba trăm trẻ để đưa chúng đến Cyrénia có thể phát xuất vào bất cứ ngày nào. Giai đoạn chót này sẽ do chính người Anh phát động mà chính họ làm mà không biết đến. Mọi sự sẽ bắt đầu khi nào quân Anh làm xong trại mới trên con đừờng đi Larnaca và bắt đầu cho chuyển sang đó một phần di dân đang bị giữ ở Caraolos.
-------------------------------- 1 Kosher: thực phẩm ăn riêng theo Do Thái giáo: không thịt heo, thịt các thú vật ăn thịt để sống, các loại cá không vẩy, không trộn thịt với sữa hoặc các sản phẩm của sữa.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:57:35 GMT -6
Phần I => Chương 19
Caldwell, tùy viên của tướng Sutherland, tiến vào văn phòng của thiếu tá Allistair, trưởng phòng phản tình báo Anh tại Chypre. Allistair, bốn mươi tuổi giọng nói dịu dàng, mỉm cười với Caldwell và cầm một xấp giấy trên bàn lên.
- Ta đi chứ?
Hai người xuống tầng dưới nhà và vào văn phòng của Sutherland. Vị tướng mời hai người ngồi rồi ra dấu cho thiếu tá Allistair báo cáo. Ông này gãi mũi và giả vờ như đọc lướt qua những tờ giấy cầm ở tay, rồi nói:
- Chúng ta ghi nhận thấy một hoạt động gia tăng bất thường ở Caraolos, một thứ thì thầm âm mưu. Nhất là trong khu nhi đồng. Theo ý chúng tôi thì đây là chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy hoặc một vụ đào thoát.
Dáng điệu quá khiêm tốn sợ sệt và giọng nói khàn khàn đã làm cho Sutherland bực tức rõ rệt. Ông gần như không buồn nghe viên thiếu tá đang đọc hết trang này sang trang khác về các tin tức thiếu xót, các nhận xét mơ hồ. Khi viên thiếu tá đọc xong, ông nói:
- Ông bạn Allistair ạ, trong mười lăm phút rồi ông đã đọc những gì đấy hay chỉ cốt nói với tôi là ông nghi ngờ dân Do Thái đang bàn tính một âm mưu ghê khiếp nào đó. Trong hai tuần lễ vừa qua, ông đã gởi tám người của ông vào trong trại, trong đó có ba cho riêng khu nhi đồng. Vậy mà lần nào cũng như lần nào các tay săn tin tài ba của ông cũng bị khám phá và bị tống cổ ra trong nội một tiếng đồng hồ. Ông cũng đọc cho tôi nghe hai trang công điện do phòng kiểm soát vô tuyến của ông thu được - tiện đây cũng mở thêm dấu ngoặc là các công điện đó không mở nổi - và vẫn theo ông những công điện ấy đã do một máy vô tuyến bí mật mà ông không sao xác định nổi vị trí.
Allistair và Caldwell liếc nhìn nhau thật nhanh. Họ hoàn toàn hiểu rằng một lần nữa, ông xếp đang ở cơn nóng lạnh. Allistair nghiêng người ra phía trước, nói như thì thào:
- Thưa thiếu tướng cho phép tôi được trình bày: Xin thiếu tướng hãy tin cho rằng những tin tức do chúng tôi thâu nhận đã được kiểm chứng và có giá trị cao. Dẫu sao, chúng ta đã nhiều lần có các dữ kiện cụ thể mà chúng ta đã không có hành động thích ứng nào. Chúng ta biết một cách chắc chắn rằng Caraolos đầy những cán bộ của Palmach đang huấn luyện quân sự cho các thanh thiếu niên tại thao trường của trại. Chúng ta biết, cũng một cách chắc chắn như thế, là dân Palestine đã cho các cán bộ của họ lên đảo ở một bãi biển vắng, gần Salamis. Và chúng ta có rất nhiều lý do để nghi ngờ tên Mandria, chủ hãng đóng tàu người Hy Lạp ấy, đã cộng tác với họ.
Sutherland nói to:
- Thôi! Thiếu tá không cho tôi biết thêm được gì. Chỉ có điều anh và nhân viên của anh đã quên một điểm: chính sự hiện diện của các người Palestine ấy đã ngăn các kẻ bị giam nổi dậy. Chính họ đã điều khiển các trường học, bệnh viện, hỏa đầu vụ, nói tóm lại họ làm cho trại hoạt động. Hơn nữa, họ duy trì một kỷ luật tuyệt hảo, giảm bớt số người đào thoát, chỉ để ra vào một số người nào đó thôi. Bắt giam các người Palestine đó, chúng ta sẽ có một tình hình hết sức gay cấn ngay.
Caldwell nói xen vào:
- Trong trường hợp như vậy, tôi thấy chỉ còn một cách: Làm sao các kẻ cho tin có thể cho chúng ta biết chính xác tụi Do Thái đang am mưu những gì.
Allistair phản đối:
- Điều bất hạnh là chúng ta lại không sao mua nổi một tay chỉ điểm Do Thái. Tụi họ liên kết với nhau trong bất cứ trường hợp nào. Mỗi khi chúng tôi tưởng đã tìm được một người thì tên đó lại chỉ cung cấp cho chúng ta các tin tức bịa đặt không chịu được.
Caldwell kêu lên:
- Nếu thế phải áp dụng biện pháp mạnh vậy. Hãy nghĩ ra các hình phạt làm cho chúng phải suy nghĩ.
Sutherland nói với giọng trách cứ:
- Anh Fred, như thế không nghe được. Những kẻ này không thể làm họ sợ được đâu. Anh đừng quên là họ đã được thực tập trong các trại tập trung của Quốc xã. Anh còn nhớ Bergen-Belsen chứ? Quả thực anh có tin là chúng ta tạo ra nổi cái gì ghê khiếp hơn thế không, Fred?
Thiếu tá Allistair bắt đầu hối tiếc là đã yêu cầu Caldwell đi cùng với mình vào đây. Chàng vội vàng nói:
- Nếu thiếu tướng cho phép, tôi xin được trình bày: Caldwell chỉ nói quá lời vậy thôi, anh ấy cũng là quân nhân như chúng ta. Nhưng tôi sẽ nói dối với thiếu tướng nếu tôi báo cáo là mọi sự yên tĩnh ở Caraolos và chúng ta vẫn tiếp tục có thể khoanh tay ngồi yên.
Sutherland rời khỏi ghế, tay chắp sau lưng, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Trong một thời gian nhiều phút, ông chỉ im lặng hút pipe. Sau cùng ông nói:
- Nhiệm vụ tôi đã được giao phó rất là rõ ràng. Tôi phải duy trì yên tĩnh trong các trại cho tới khi chính phủ quyết định thái độ đối với vấn đề Palestine. Hơn nữa, chúng ta phải tránh tất cả những gì các kẻ địch chúng ta có thể lợi dụng để tuyên truyền chống Anh quốc.
Caldwell thoáng nhăn mặt. Chàng không thể hiểu được tại sao Sutherland lại từ chối hành động, dám để cho các người Do Thái gây rối loạn. Một lòng nhân từ như vậy, khó có thể hiểu nổi.
Còn Allistair thì hiểu những lý do của thiếu tướng nhưng không vì thế mà tán thành. Chàng thích có một phản ứng mạnh và tàn nhẫn có thể làm đảo lộn các dự án của người Do Thái. Tuy thế chàng ý thức rằng ở vị trí của mình, chàng chỉ nên chuyển đến cấp chỉ huy những tin tức thâu thập được. Quyết định sau cùng chỉ có thể thuộc về thiếu tướng. Nhưng dầu sao... Thật bất hạnh khi Sutherland lại kiên nhẫn, khoan dung, khoan dung một cách "ngu" đến như vậy!
Sutherland hỏi: Còn gì nữa không?
- Dạ thưa còn. Một vấn đề mới. Cái cô nữ điều dưỡng Kitty Fremont người Hoa Kỳ ấy, cùng ông bạn ký giả Hoa Kỳ Mark Parker... - Họ liên quan gì đến vụ này? - Dạ có chứ. Chúng tôi không dám chắc hẳn cô ta là tình nhân của Mark Parker nhưng việc cô ta tới làm việc ở Caraolos lại trùng hợp với việc Parker tới Chypre. Vậy... - Vậy sao? - Dạ thưa... Parker chống Anh có phải không ạ?... Chúng ta có nhiệm vụ cần phải biết...
Sutherland la:
- Anh nói những điều xuẩn không à. Đó là ký giả giỏi. Khi hắn nói ra sai lầm để chúng ta trả giá đắt hồi 1944 trên mặt trận Hòa Lan, hắn chỉ hành nghề của hắn mà thôi.
Mặc dù cách giải quyết vấn đề khô khan như vậy của viên tướng, Allistair cũng chưa chịu thua.
- Theo ý thiếu tướng, chúng ta có nên cứu xét tới trường hợp sau không: Bà Fremont, khi nhận làm việc Caraolos, có thể có ý định giúp Parker thu thập tài liệu về trại. Tài liệu mà ký giả này có thể xử dụng để viết một bài báo... - Tội nghiệp ông bạn trẻ của tôi! Nếu ngày nào giả thử anh có bị kết tội là giết người, tôi hy vọng rằng thẩm phán đoàn trước khi treo cổ anh, sẽ đòi hỏi những chứng cớ vững chắc hơn là những giả thuyết tùy hứng mà anh vừa đưa ra đó. - Nhưng, thưa thiếu tướng... - Thôi! Bà Fremont là một trong những nữ điều dưỡng chuyên khoa nhi đồng giỏi vào bậc nhất vùng Trung Đông. Chính quyền Hy Lạp đã chính thức khen ngợi bà về công trình đáng kể bà đã làm trong một cô nhi viện ở Salonique. Ta cũng biết rằng bà này cùng Mark Parker là bạn với nhau từ thời thơ ấu. Sự kiện này chính thiếu tá cũng đã ghi lại trong báo cáo. Cũng như thiếu tá đã viết, cũng trong báo cáo ấy, là chính các tổ chức cứu trợ Do Thái đã yêu cầu bà tới giúp. Này, thiếu tá Allistair... Tôi nghĩ rằng chắc cũng có lúc thiếu tá đọc các báo cáo của chính thiếu tá chứ? - Nhưng thưa... - Tôi chưa nói hết. Bây giờ chúng ta cứ tưởng tượng là những lo ngại ghê gớm nhất của thiếu tá xảy ra đi. Chúng ta tưởng tượng là quả thực bà Fremont tìm tài liệu cho ông bạn Parker để cho đương sự viết một loạt bài về Caraolos. Cứ cho như thế đi thì mọi sự sẽ đưa chúng ta đến đâu? Xin các ông nhớ cho rằng chúng ta đang ở cuối năm 1946... Chiến tranh đã chấm dứt hơn một năm rưỡi rồi. Trên toàn thể thế giới, mọi người đã chán các câu chuyện tị nạn với di dân rồi, những câu chuyện loại này không còn làm ai chú ý nữa. Ngược lại, việc trục xuất hai người Hoa Kỳ có tiếng, một nữ điều dưỡng và một ký giả, sẽ tạo ra một ấn tượng khó chịu. Mọi sự đến thế thì quả thực tùy các ông, chứ tôi không ham rồi.
Mặt đỏ bừng, Allistair vội vã cúi xuống nhặt lại những tờ giấy của bản báo cáo rơi xuống nền gạch, Caldwell đứng nhổm dậy:
- Thưa thiếu tướng điều hay nhất chúng ta có thể làm bây giờ là bắn bỏ vài ba tên Do Thái cho tụi chúng hiểu ai là người chỉ huy ở đây! - Fred! Nếu anh thích bắn người Do Thái như thế, tôi có thể cho anh thuyên chuyển sang Palestine. Ở đó, anh sẽ có cả ngàn ngàn Do Thái, duy chỉ có một điều là những người này lại có võ trang và không hề chịu ngồi chết rục sau hàng rào kẽm gai đâu. Những chú bé mới lớn như anh, họ "ăn" hau háu hai hay ba người vào bữa điểm tâm.
Allistair đề nghị: Vào phòng tôi đi.
Cánh cửa vừa khép lại, Caldwell đã để cho cơn giận tự do bùng nổ.
- Theo ý tôi, ông Già bắt đầu lẩm cẩm rồi. Sao người ta không gắn cho ông ấy cái chức danh dự nào đó rồi cho về hưu cho rồi. - Đúng thế đấy... Từ nhiều tuần nay tôi đã suy nghĩ. Sutherland đã tỏ ra bất lực trong việc kiểm soát tình thế nữa - bất lực một cách thảm hại. Này, tôi sẽ gởi một thư riêng trình tướng Tevor Browne.
Caldwel nhíu mày.
- Làm thế có vẻ liều mạng quá đấy, ông bạn. - Có thể lắm, nhưng chúng ta phải hành động trước khi cái đảo này nổ tung lên. Anh là sĩ quan tùy viên của ông tướng. Nếu anh ủng hộ tôi, tôi nghĩ tôi có thể bảo đảm là không có hậu quả tai hại nào về sau cho anh đâu.
Caldwell cười khẩy nhận lời. Chàng đã mệt với Sutherland cùng các dáng điệu kiểu cách của ông ta rồi. Và cũng vì Allistair là bà con xa gần gì đó với tướng Tevor Browne...
Chàng nói nhỏ: Nếu anh có thể thêm vào thư đó vài lời có lợi cho tôi thì...
Một tiếng gõ cửa ngăn chàng nói hết câu. Một hạ sĩ bước vào, đặt một xấp giấy trên bàn rồi đi ra, Allistair đọc lướt qua rồi thở dài và nói:
- Mọi sự mỗi lúc rắc rối hơn rồi. Đây này, mọi người cho tôi biết là có một bọn ăn cắp tổ chức rất siêu đẳng: một bọn đa mưu túc kế đến nỗi mọi người chưa khám phá ra nổi là chúng ăn cắp của chúng ta cái gì nữa. Ồ, mẹ kiếp!
Vài ngày sau, tướng Tevor Browne đã có một bản báo cáo khẩn và mật của thiếu tá Allistair. Ý tưởng đầu tiên của ông là định cho gọi Allistair và Caldwell về Luân Đôn để nói cho họ biết ông coi phương thế họ đã làm có thể kể gần như là phản loạn. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, ông ý thức rằng Allistair không bao giờ dám liều gởi đi một bản văn như vậy nếu tình hình không quá nghiêm trọng rồi.
Allistair khuyến cáo nên tung ngay ra một cuộc tảo thanh chớp nhoáng ở Caraolos để "làm đảo lộn các kế hoạch mà chắc chắn những người Do Thái đang âm mưu thực hiện", Tevor Browne không thể biết được rằng, ngoại trừ khi hành động thật nhanh, nếu không vụ tảo thanh này sẽ phóng vào khoảng không: Ari Ben Canaan đã ấn định ngày, giờ đến tận cả phút cho vụ đào thoát của ba trăm đứa trẻ.
Người Anh vừa loan báo rằng nhưng căn trại mới ở gần Larnaca đã làm xong. và nhiều di dân trong tại Caraolos sẽ được chuyển sang trại mới. Việc di chuyển các kẻ này sẽ thực hiện bằng cam-nhông, từ bốn đến năm trăm người trong hai mươi tư giờ và trong một thời gian là mười ngày.
Ari Ben Canaan quyết định: Chiến dịch Gédéon sẽ xảy ra vào ngày thứ sáu.
Xử dụng các đường hầm, các thùng hàng, lối thoát qua chỗ đổ rác? Nếu không được, Ari sẽ chỉ việc mang các xe nhà binh của mình lại trại Caraolos, chở trẻ con lên mang đi, trước mũi tất cả mọi người.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:04:53 GMT -6
Phần I => Chương 20
Xin trao tận tay.
Ông Kenneth Bradbury, American News Syndicate,
Văn phòng Luân Đôn.
Brad thân,
Thư này cũng như bản văn đính kèm đây đã được gởi trực tiếp từ Chypre. Tôi đã trao các bản văn này cho một hoa tiêu của hãng British Intercontinental Airways. Chiến dịch Gédéon sẽ bắt đầu trong khoảng năm ngày nữa. Trong chuyện này tôi đã hành động theo sáng kiến riêng, tin cậy vào linh khiếu riêng, bởi vì tôi cảm thấy từ vụ này sẽ xảy ra một cậu chuyện gay cấn bậc nhất. Vào ngày N, tôi sẽ gởi một điện tín. Nếu ký tên Mark, có nghĩa là mọi sự đã xảy ra đúng như dự liệu, và anh có thể cho đăng bài của tôi gởi sẵn. Nếu ký tên Parker, anh hiểu là có trục trặc, án binh bất động. Tôi đã hứa với anh chàng hoa tiêu mang thư này một bồi khoản là năm trăm đô la. Anh vui lòng thanh toán cho chứ?
Chúc anh mạnh
Mark PARKER.
Mark Parker, Khách sạn Dôme
Cyrénia (Chypre) Dì Dorothée đã đến Luân Đôn bình an - STOP - Tất cả đều vui vẻ - STOP - Chờ đợi tin anh.
BRAD,
Vì bây giờ Kitty làm việc trong trại Caraolos, nàng đã rời Cyrenia và khách sạn Dôme để đến Famagouste, ở khách sạn "Vua George". Mark thích ở lại Dôme hơn để có mặt tại chỗ khi chiếc Exodus tiến ra cảng.
Chàng đã đến Famagouste hai lần để thăm Kitty. Cả hai lần chàng đều không gặp: nàng đều ở trong trại, Mandria thố lộ với chàng cái gì ông đã nghi ngờ từ lâu: Kitty đã yêu cầu Karen, cô bé Đan Mạch Đức ấy phụ tá cho nàng, và hai người không bao giờ rời nhau. Mark cảm thấy một lo ngại ngấm ngầm. Khi cố gắng làm sống lại đứa con gái đã chết qua sự hiện diện thường xuyên bên cạnh của Karen, Kitty đã chơi một trò nguy hiểm, và hơi kỳ quái theo ý chàng. Chưa kể những giấy tờ giả nàng chuyển ra khỏi trại nữa.
Ngày N gần đến. Mark càng lúc càng bận, viết thư cho Kitty để hẹn gặp chắc chắn tại khách sạn "Vua George".
Ngày hôm đó vào buổi sáng, khi phóng xe trên đường tới Famagouste, chàng mới ý thức thần kinh mình căng thẳng đến độ nào. Cho tới giờ, mọi sự đã diễn ra cách một dễ dàng hết sức đáng ngạc nhiên. Ben Canaan cùng nhóm người của anh đã làm tất cả những gì họ muốn trước mũi người Anh mà người Anh không hay biết gì cả. Việc thiết lập Đại đội 23 Vận tải, tân trang tàu Exodus, huấn luyện trẻ em, đều đã diễn tiến và hoàn tất không một trục trặc nào. Hiển nhiên là "Chiến dịch Gédéon" sẽ là vụ đẹp nhất trong nghề ký giả của Parker. Nhưng chỉ có điều đáng lẽ ra giữ vai trò nhân chứng khách quan, chàng lại cố giữ vai trò tham dự, ít phù hợp với nguyên tắc của báo chí, và điều này làm chàng thắc mắc nhất.
Kitty đợi chàng ở quán giải khát sân thượng khách sạn "Vua George". Nàng nói tươi cười và chàng ngồi xuống, nàng nghiêng người hôn lên má chàng: Chào anh Mark!
Bực tức, chàng thấy nàng tươi đẹp, như trẻ lại mười tuổi. Nàng thấy nỗi bực dọc ấy.
- Anh Mark ạ, mọi người có thể coi anh lúc này như hiện thân của hạnh phúc đây. Có phải tại vì gần tới ngày đại sự đã làm thần kinh anh bết thế không? - Không, anh như thường!
Kitty đặt ly xuống bàn.
- Vẻ cáu kỉnh của anh cách xa cả kí-lô-mét cũng thấy. Anh nên cắt nghĩa lẹ lên trước khi để cơn giận của anh nổ tung lên bây giờ. - Hình như em là người phải cắt nghĩa mới đúng. Cái gì đã xảy ra vậy? Em giận anh phải không? Em không còn thương mến gì anh nữa hả? - Trời ơi anh Mark.. quả thực tôi không ngờ anh dễ giận đến mức đó. Em bận nhiều việc quá... Vả lại chúng ta đã đồng ý quyết định là nên bớt gặp nhau trong hai tuần lễ vừa qua. Anh còn nhớ chứ? - Anh chỉ nhớ là chúng ta là bạn thân, chúng ta từ xưa vẫn thường nói cho nhau biết mọi chuyện thôi. - Em không hiểu anh định đưa câu chuyện tới đâu. - Nếu em cần được nói rõ mọi sự ra mà chịu nhận, thì này đây... Karen; Karen Clement-Hansen, một cô bé tị nạn Đức Đan Mạch. - Karen liên quan gì tới chuyện chúng ta!
Nàng vội vã ngắt ngang lời Mark.
- Karen là một cô bé dễ thương... Chúng tôi có cảm tình với nhau, chỉ có thế thôi. - Vậy hả? Cô bé của tôi ạ, cô chưa từng bao giờ biết nói dối một cách khéo léo đâu. Cô cho phép tôi được nói rằng trong lúc này, cô đang cố gắng tạo ra cho cô cả đống phiền muộn khó khăn. Lần chót vừa rồi, cô đã từng thấy cô trần truồng trong giường của một thủy thủ không quen biết. Còn lần này, với một chút xíu may mắn thôi, cô dám đi tới chỗ tự tử lắm.
Hai cặp mắt nhìn nhau.. Bối rối, Kitty quay đầu đi, nói nhỏ:
- Thế mà em cứ tưởng em quân bình lắm. Trong suốt đời em... Trừ mấy tuần lễ vừa qua.... - Và bây giờ thì em để em mất quân bình nhanh gấp đôi để bù lại những năm quân bình đã qua phải không, Kitty?
Đột nhiên nàng nắm lấy tay chàng:
- Anh Mark. Em xin anh hãy cố gắng hiểu cho. Em có cảm tưởng đang được hồi sinh. Em biết những chuyện đó rồi sẽ chẳng đưa tới đâu... Nhưng Karen quả thật đáng chú ý. - Em sẽ làm gì một khi nàng Karen ấy xuống tàu Exodus? Em sẽ theo cô bé ấy sang Palestine chăng?
Nàng dụi mạnh điếu thuốc lá, cầm ly lên uống cạn. Mark đang quan sát Kitty, thấy mắt nàng nheo lại, mặt có một vẻ mà chàng rất rõ. Nàng nói:
- Karen sẽ không đi với tàu Exodus. Em đã chỉ nhận làm việc với Ari Ben Canaan với điều kiện như vậy.
Mark tức giận, la lên: Em thật ngốc! Ngốc một cách đáng thương.
Kitty:
- Em xin anh. Xin anh thôi đừng bôi bẩn những tình cảm của em nữa. Từ nhiều năm nay, em sống cô đơn, thèm khát một tình yêu thương như thứ tình yêu thương Karen đã mang lại cho em, đổi lại sự thông cảm và sự trìu mến em có thể mang lại được cho Karen. - Em đâu có muốn làm bạn cô bé đó, em chỉ muốn làm mẹ nó thì có. - Cứ cho là thế đi! Thì có gì là xấu đâu.
Chàng nói với giọng giảng hòa:
- Thôi Kitty, chúng ta hãy thôi đối chọi với nhau và thử bình tĩnh xem xét lại vấn đề. Anh không biết em đã nghĩ ngợi ra làm sao, nhưng em phải biết rằng ông bố của Karen rất có thể còn sống. Vả lại, cho dù ông ta có chết rồi, cô bé đó vẫn còn có một gia đình ở Đan Mạch, bất cứ lúc nào cũng mong đón nàng trở về. Sau hết, cô bé đã bị nhiễm độc rồi - tất cả các người Do Thái đều bị nhiễm độc hết. Nó chỉ mơ ước có một điều thôi: Về Palestine.
Kitty cúi đầu. Mark buồn bã hối tiếc khi thấy vẻ cương quyết của nàng biến đi, thay thế bằng một nỗi buồn sâu xa. Nàng nói nhỏ:
- Em đã lầm lẫn khi chống đối lại không cho Karen đi với Exodus. Nhưng chỉ tại vì em hết sức muốn giữ nàng lại với em... Trong vài tháng, để làm nó tin em hoàn toàn... Và cũng để cho nó hiểu nếu sang Mỹ, sẽ sung sướng ngần nào. Nếu em được sống với nó, dầu chỉ trong hai ba tháng thôi, em sẽ lấy lại được quân bình... - Kitty, cô gái đó đâu có phải con của em. Karen đâu phải là Sandra. Em đã bắt đầu đi kiếm một Sandra thứ nhì ngay sau khi chiến thanh chấm dứt. Em đã tìm ở cô nhi viện Salonique, và có lẽ cũng vì lý do đó, em đã nhận thách thức của Ben Canaan: lý do bởi vì có trẻ em ở Caraolos và em hy vọng sẽ tìm thấy một Sandra ở đó. - Xin anh thôi đi, Mark. Đừng nói nữa, em không chịu nổi nữa. - Cũng được, anh không nói thêm về chuyện ấy nữa. Bây giờ anh có thể làm gì cho em? - Trước hết, anh kiểm soát giùm xem cha Karen còn sống không. Nếu ông chết rồi, em muốn nhận nó làm con nuôi và đưa về Mỹ cùng với em.
Chàng hứa: Được rồi, anh sẽ lo vụ đó cho em. Dầu sao...
Chàng đột nhiên ngừng nói. Chàng vừa nhận thấy Ari tiến vào. Mặc quân phục sĩ quan Anh, người thanh niên Palestine này đi thẳng về phía bàn hai người.
- David báo cho tôi biết có một trục trặc xảy ra ở Caraolos và cần sự can thiệp gấp của tôi. Tôi nghĩ rằng giá bà Fremont đi cùng tôi thì hay hơn.
Cả Mark lẫn Kitty hỏi cùng một lúc: Chuyện gì vậy?
- Tôi chưa biết đủ chi tiết. Chắc hai ông bà biết anh chàng Landau, tay chỉ huy tổ làm giấy tờ giả, kẻ hiện đang làm những lệnh thuyên chuyển để chúng ta có thể mang các trẻ ra khỏi trại. Theo tôi được hiểu, hắn từ chối tiếp tục làm việc trước khi gặp lại tôi.
Kitty ngạc nhiên: Nếu hắn muốn nói chuyện với ông, tại sao lại cần có tôi?
- Cái cô bé Đan Mạch bạn cô ấy là kẻ duy nhất hắn chịu nghe lời. Trong nội ba mươi sáu tiếng nữa, chúng tôi cần có đủ tất cả những lệnh thuyên chuyển ấy. Để làm cho hắn chịu làm việc lại, có lẽ chúng ta bắt buộc phải nhờ tới người trung gian thuyết phục là Karen. Chính cái cô Karen này mới có kết quả được.
Không nói một tiếng, Kitty thẫn thờ đứng dậy theo người thanh niên Palestine. Mark lắc đầu. Cái nhìn xúc động của chàng vơ vẩn rất lâu trên phía cầu thang Ari và Kitty vừa đi xuống.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:11:49 GMT -6
Phần I => Chương 21
Trong lớp học được xử dụng làm tổng hành dinh của các Palmachnik trại Caraolos, Karen bực tức nhìn người thiếu niên đang đứng trước mặt nàng. Dov Landau vóc người hơi nhỏ so với tuổi. Vẻ dịu dàng của khuôn mặt dưới mái tóc màu vàng có thể đánh lừa một kẻ nào chỉ quan sát thoáng qua. Ngược lại, cái nhìn lạnh như tiền của cặp mắt xanh lại bộc lộ một tâm hồn rắc rối, đầy hỗn độn và hận thù. Chàng đứng thẳng với dáng điệu thách thức trước một chỗ như một thâm cung, nơi đặt cơ sở làm giấy tờ giả mạo. Karen nói, giọng nghiêm khắc:
- Anh Dov! Anh đã lại giở cái trò gì vậy. Tôi đòi hỏi anh phải cắt nghĩa. - Tôi chẳng giở cái trò gì ca. Tôi chỉ yêu cầu được gặp anh Ben Canaan. - Tại sao? - Cô coi này, những giấy tờ để phía sau tôi ấy. Đấy là những giấy tờ giả bắt chước các mẫu văn kiện của Anh. Anh David Ben Anri đã trao lại cho tôi một danh sách ba trăm người - các trẻ em ở khu chúng ta - mà tôi phải ghi vào các lệnh thuyên chuyển đến trại mới ở Lacarna. Nhưng các trẻ này sẽ không tới Lacarna. Chúng sẽ được đưa xuống một tàu của Mossad để về Palestine. - Thế rồi sao nữa? Anh phải biết rằng chúng ta không bao giờ được cãi lại các mệnh lệnh của Mossad hay Palmach.
Dov thốt lên một tiếng lầu nhầu:
- Lần này, tôi định cãi đó. Tên chúng ta, cả tên tôi lẫn tên Karen đều không có trong bản danh sách... Tôi sẽ không hoàn tất những giấy tờ này ngày nào mà họ chưa cho phép tôi thêm tên chúng ta vào.
Karen phản đối:
- Vô lý. Trước hết, ngày chính anh cũng chưa chắc là có chiếc tàu ấy. Và dầu cho có đi nữa, thì họ cũng có lý do để giữ chúng ta ở lại đây. Anh cũng như tôi, chúng ta còn việc để làm ở trại này. - Tôi cóc cần. Mọi người đã hứa với tôi là cho tôi đi Palestine, và tôi hết sức muốn đi. - Anh không tin là chúng ta có một món nợ với Palmach sao? Anh đã quên tất cả những gì các anh ấy đã làm cho chúng ta sao?
Dov nhắc lại, khinh bỉ:
- Làm cho chúng ta. Karen quả thực ngây thơ: nếu các anh Palmachnik phải vất vả và liều mạng như thế để đưa những người di dân về Palestine, chắc chắn không phải vì thương những kẻ khốn cùng là chúng ta. Họ chỉ cần người để chống lại tụi Ả Rập. - Thế còn những người Mỹ, người Pháp cùng tất cả những người không đánh nhau với Ả Rập... tại sao họ lại nâng đỡ chúng ta?
Dov cười khẩy:
- Để tôi nói Karen nghe tại sao: Họ làm như vậy chỉ để trả giá cho lương tâm yên ổn. Bọn họ hối hận vì đã thoát khỏi các phòng hơi ngạt.
Karen nắm chặt tay và nghiến răng lại trong một nỗ lực cố giữ cho mình bình tĩnh.
- Vậy anh chỉ biết đến có mỗi một thứ là sự căm thù sao?
Nàng quay lại toan đi ra. Dov nhảy xổ tới cản đường.
- Karen bây giờ cũng giận tôi... Tôi xin, Karen là người bạn duy nhất của tôi ở trên đời... - Tất cả những gì anh muốn, là về Palestine để gia nhập một nhóm đặc công cho phép anh đi giết người. Thật ác độc, anh Dov!
Bằng một dáng đi thất vọng nàng trở về lớp học, buông mình xuống một ghế dài. Trước mặt nàng, trên bảng đen có viết một câu bằng phấn: "Năm 1917, Anh quốc qua bản tuyên ngôn Balfour, đã hoàn toàn chấp thuận cho thành lập một Quê Hương Do Thái ở Palestine". Karen đưa hai tay ôm lấy đầu, thở dài:
- Cả tôi nữa, tôi cũng muốn hết sức về xứ đó. Cha tôi đã có ở đó, ông đang chờ tôi, tôi cảm thấy như thế...
Dov ngắt ngang lời: Karen trở về lều đợi đi. Anh Ben Canaan sắp đến rồi.
Karen đi rồi, Dov đi đi lại lại trong lớp cảm thấy sung sướng khi cơn giận của mình mỗi lúc một thêm lớn dần. Thời khắc qua. Sau cùng, hình dáng cao lớn của Ari hiện ra trong cửa: đằng sau chàng là David Ben Ami và Kitty Fremot vẻ mặt lo âu.
Cái nhìn của Dov càng trở nên nghi ngại hơn. Dov lầu nhầu:
- Tôi không muốn có mặt bà này ở đây.
Ari nói bằng một giọng cương quyết:
- Còn tôi, tôi rất muốn bà này hiện diện. Rồi, bây giờ chú có gì nói đi, tôi nghe đây.
Sau khi do dự một chút, Dov tiến về chỗ góc phòng đặt cơ sở, cầm một mẫu văn kiện giơ lên.
- Ba trăm đứa trẻ mà tôi phải ghi tên lên đây... Tôi tin chắc là thực ra, anh sẽ cho chúng xuống một chuyến tàu của Mossad.
Ari gật gù: Một điều rất có thể có lắm. Chú nói tiếp đi.
- Tôi xin nhắc lại với anh sự thỏa thuận của anh và tôi. Tôi chỉ hoàn tất những giấy tờ này khi nào anh đã cho phép tôi được thêm vào hai tên nữa, tên Karen Clement và tên tôi.
David Ben Ami muốn can thiệp:
- Chú không bao giờ nghĩ rằng chú là người tối cần thiết vì chú là kẻ duy nhất biết công việc ấy sao? Chú không bao giờ nghĩ rằng cả hai, chú và Karen đều hữu ích ở đây hơn là ở Palestine sao?
Dov trả đũa: Thế anh không bao giờ nghĩ rằng tôi có thể cóc cần chuyện đó sao?
Ari cúi đầu xuống để che giấu một nụ cười. Chú bé này quả thực tay lão luyện, cứng rắn, mưu kế, quen ăn miếng trả miếng - một sản phẩm điển hình của thế giới tập trung quốc xã. Chàng nói:
- Tôi có cảm tưởng chú là kẻ nắm dao đằng chuôi rồi đó. Được rồi, chú cứ việc thêm tên chú vào danh sách. - Còn về Karen? - Karen đâu có liên hệ gì với sự thỏa thuận đã có giữa chú và tôi. - Vậy thì tôi đòi được thêm tên Karen vào nữa. Một thỏa hiệp, thay đổi được chứ sao không?
Ari đứng dậy, tiến về phía Dov, la:
- Coi chừng đó chú! Tôi không ưng thái độ của chú cho lắm.
Dov tự động lùi lại. Nhưng không chịu thua, Dov hằn học nói:
- Đấy, anh đánh tôi đi. Tôi đã từng qua các tay chuyên viên tra tấn, tôi biết ra sao rồi. Anh có thể giết được tôi nữa! Nhưng anh không làm tôi sợ đâu. Khi đi trải qua tay tụi Đức rồi, không còn biết sợ là cái gì nữa! - Câm cái mồm!
Ari có vẻ gờm gờm nói tiếp:
- Chú khỏi cần phải đọc các khẩu hiệu tuyên truyền cho chủ nghĩa Do Thái làm gì vô ích. Đi về lều rồi đợi ở đó. Tôi sẽ trả lời chú trong vòng mười phút.
Dov lao ra cửa và biến mất. David kêu lên:
- Thằng nhãi ranh! Đáng lẽ ta phải...
Bằng một cử chỉ, Ari mời David ra ngoài. David vừa mới đóng cửa lại, Kitty đã níu lấy áo Ben Canaan.
- Karen sẽ không đi tàu đó! Anh đã hứa với tôi như vậy rồi! Karen sẽ không đi với Exodus.
Ari nắm lấy hai cổ tay nàng:
- Cô bình tĩnh lại đi nếu cô muốn tôi nghe cô. Chúng tôi đã có quá nhiều vấn đề phải giải quyết rồi để còn có thể lo thêm cho một bà điên loạn nữa.
Kitty vùng ra khỏi tay Ari. Chàng nói tiếp.
- Hãy nghe tôi đây. Giai đoạn chót của chiến dịch Gédéon sẽ phải bắt đầu trong nội bốn ngày nữa. Vậy mà chúng tôi không thể làm được gì hết nếu tên Dov đó không hoàn tất các giấy tờ. Điều đó có nghĩa là Dov nắm cổ họng chúng ta và hắn biết rõ thế... - Anh hãy nói với hắn đi... hứa với hắn bất cứ điều gì, nhưng trời ơi,... anh hãy để Karen ngoài vụ này đi. - Dù tôi có sẵn lòng nói tới khản cổ nếu tôi tin rằng lời nói của tôi dùng vào việc gì. - Tôi xin anh, anh Ben Canaan... Anh hãy thử, cứ thử... Sau cùng chắc rồi hắn cũng chịu. Một khi hắn đã được đi, hắn...
Ari lắc đầu:
- Tôi tin ngược lại. Những tên nhóc như hắn, tôi đã thấy hàng trăm rồi. Bọn chúng không còn chút gì là con người... Hay ít ra cũng chẳng còn bao nhiều là tính người. Trong tường hợp Dov Ladau, sợi dây ràng buộc sau cùng hắn với đạo đức chính là Karen. Cô cũng biết như tôi rằng không có gì có thể làm lay chuyển lòng chung thủy tuyệt đối của hắn đối với nàng...
Kiệt lực, Kitty dựa vào tường. Ben Canaan có lý, nàng đành phải chấp nhận. Dov Landau chắc chắn là một sản phẩm của cống rãnh tập trung, hết thuốc chữa, nhưng đối với Karen, hắn vẫn tỏ ra một một lòng chung thủy tuyệt đối. Nhưng Parker, cũng có lý nữa. Chính nàng đã hành động như một con bé ngu ngốc. Ari nói:
- Tôi chỉ còn thấy có một giải pháp. Cô hãy đi tìm cô bé đó, thú thật mọi tình thươnng mến của cô đối với cô bé. Cắt nghĩa cho cô bé hiểu tại sao cô lại cần cô bé ở lại Chypre như vậy.
Nàng nhìn chàng với con mắt đầy buồn nản, thì thào:
- Tôi không thể làm được. Tôi sẽ chẳng bao giờ làm..
Ari nói nhỏ:
- Kitty, tôi sẵn lòng trả giá thật đắt để tránh cho Kitty chuyện buồn này. Nhưng tôi rất tiếc...
Đây là lần đầu tiên chàng gọi nàng bằng tên. Kitty nói bằng một giọng không thành tiếng:
- Xin anh đưa tôi trở lại với anh Mark.
Ra tới tiền sảnh, hai người gặp David.
- Chú đi nói với Dov là chúng ta nhận điều kiện của nó. Bảo nó tiếp tục làm việc ngay.
Năm phút sau, một chàng Dov Landau hết sức vui mừng nhảy bổ vào lều Karen, kêu lớn:
- Chúng ta sẽ đi Pa1etsine! Palestine!
Karen nói nhỏ: Trời ơi! Trời ơi!
Dov cầm lấy tay Karen kéo nàng ra ngoài. Đi dưới các hàng cây keo hoang, hai người đi về thao trường nơi một nhóm trẻ đang tập đấu dao găm dưới sự huấn luyện của Zev.
Đêm về khuya, Dov một mình tản bộ đọc theo hàng rào kẽm gai. Phía bên kia hàng rào, những người lính gác Anh đi đi lại lại. Xa hơn nữa là một tháp canh với đèn pha và súng liên thanh.
Rào kẽm gai... Súng liên thanh... Những người lính...
Chàng đã được sống ngoài kẽm gai khi nào? Rất nhiều năm về trước... xa xôi đến nỗi chàng khó khăn mới nhớ lại nổi.
Kẽm gai... súng liên thanh... lính gác... Cứ như thế hoài đến nỗi chàng tự hỏi có một đời sống thực không ở bên ngoài tất cả các thứ đó. Bất động, im lặng, Dov tìm cách nhớ lại... quá xa, thật quá xa rồi trong quá khứ...
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:17:52 GMT -6
Phần I => Chương 22
Varsovie, mùa hè 1939
Mendel Landau là một người làm bánh mì khiêm tốn ở Varsovie. So với giáo sư Johann Clement, ông ở đầu bên kia bậc thang xã hội - về phương diện xã hội, tài chánh cũng như trí thức. Nói cho thực ra, hai người này không có điểm nào chung, ngoại trừ điểm cả hai cùng đều là Do Thái.
Với tư cách Do Thái, người này cũng như người kia đều phải giải quyết mỗi người theo một lối riêng, vấn đề tương quan của họ đối với thế giới họ sống chung quanh. Giáo sư Clement đến phút chót còn bám vào lý tưởng muốn đồng hóa hoàn toàn với quốc gia mình sinh sống. Còn Mendel Landau đã đi đến một kết luận hoàn toàn khác hẳn.
Chính đời sống bên ngoài đã làm cho Mendel Landau có cảm tưởng ông chỉ là một kẻ lạ mặt. Từ bảy trăm năm nay, những Do Thái Ba Lan phải chịu những hành hạ đi từ bạo hành đến chết chóc. Bị giam hãm trong các ghetto, nơi mà sự cô lập đã tạo ra rất nhiều giáo phái thần bí cùng các đấng cứu thế giả, họ ít có thể đủ sức chống lại một quần chúng lúc nào cũng sẵn sàng xâm nhập khu họ ở để cướp bóc, hiếp dâm, giết chóc. Nhất là lại càng không đủ sức chống lại những vụ tràn vào tập thể như vụ năm 1648 đã đưa tới một vụ tàn sát tới năm trăm ngàn người Do Thái. 1648, ba thế kỷ trước Hitler!
Tuy vậy, năm 1939 Ba Lan là một nước Cộng hòa và ba triệu dân Do Thái cư ngụ trên lãnh thổ này không còn bị dồn vào sống chật chội trong các ghetto bần cùng khốn khổ nữa. Nhưng không phải như thế là hết bị áp chế. Các người Do Thái vẫn bị đánh các sắc thuế đặc biệt, vẫn bị những vụ tẩy chay về kinh tế cũng như xã hội, và các vụ pogrome 1 vẫn bùng ra như trong quá khứ. Chính thức ra họ được kể là công dân, nhưng các dân Do Thái vẫn là dân cùng đinh là con dê chịu tội cho mọi sự. Những người Ba Lan, ít ra là quần chúng đa số, coi người Do Thái phải chịu trách nhiệm về lụt lội mỗi khi trời mưa nhiều quá, cũng như phải chịu trách nhiệm về hạn hán nếu trời mưa ít quá.
Đến nỗi rằng Mendel Landau và Johann Clement bắt buộc phải đi đến các kết luận hoàn toàn đối nghịch nhau. Clement chắc sẽ ngạc nhiên lắm nếu mọi người dị nghị tư cách dân Đức của ông, còn Landau, mặc dù gia đình đã cư ngụ ở Ba Lan từ bảy thế kỷ rồi, vẫn hoàn toàn ý thức rõ mình vẫn là kẻ lạ mặt xâm nhập quốc gia này.
Ít có khuynh hướng thần bí về tôn giáo, Mendel Landau chỉ có giữ các ngày lễ Do Thái, chỉ cho kinh thánh một giá trị tài liệu lịch sử. Vì thế, về di sản để cho con cháu, ông chỉ mang lại có một niềm tin bám rễ sâu xa. Ngược lại, ông nhất quyết mang lại cho các con một ý tưởng. Gọi là ảo tưởng thì đúng hơn bởi vì ý tưởng này có vẻ xa vời, ảo vọng, không thể thực hiện nổi. Ý tưởng này là một ngày kia, các người Do Thái phải trở về Palestine để xây dựng lại quốc gia, lại trở thành một nước. Theo ý Mendel Landau, chỉ với điều kiện này thôi người Do Thái mới có thể chinh phục được sự bình đẳng mà thế gian đã từ khước không chịu nhận. Nói thực ra, Landau, không đưa lòng lạc quan của mình bước tin rằng chính ông một ngày kia sẽ thấy được Palestine, và ông cũng chẳng tin rằng các con ông sẽ được biết tới niềm hạnh phúc này. Nhưng ông tin ý tưởng của ông.
Về điểm này, ông không phải là kẻ duy nhất tin như vậy trong ba triệu người Do Thái ở Ba Lan. Có hàng trăm ngàn đồng bào ông đã theo về cùng một hướng đó và chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã bắt nguồn và lấy các sức mạnh đầu tiên từ đám quần chúng đông đảo này, những kẻ phục quốc chính thống, phục quốc xã hội cũng như nhiều nhóm nhỏ phục quốc tranh đấu, và cả phục quốc trưởng giả nữa.
Bắt buộc phải làm việc lao lực vất vả để nuôi dưỡng gia đình, lẽ tự nhiên là Mendel Landau thuộc nhóm xã hội. Nhóm của ông, một thứ nghiệp đoàn tự do, được gọi là Những Người Chuộc Tội. Tất cả cuộc đời của Landau xoay chung quanh hoạt động của hội này. Có những buổi thuyết trình của những kẻ đã đi Palestine về, có những người mới xin gia nhập hội, có nhiều sách phải đọc, nhiều tài liệu phải phổ biến, các buổi bàn luận, các buổi tối có khiêu vũ hát, và nhất là nỗ lực luôn luôn phải đổi mới để duy trì cho ý tưởng lớn lao kia khỏi phai nhạt tàn lụy. Các Người Chuộc Tội cũng như các nhóm phục quốc Do Thái khác, có các trung tâm nông nghiệp để cho các con trai con gái tới học nghề canh tác. Đôi khi họ con gửi một "đoàn" sang Palestine để khẩn hoang các đất đai do tổ chức Quê hương Do Thái mới mua được.
Gia đình Landau gồm có sáu người. Mendel và vợ là Léah, một người nội trợ kiểu mẫu, và cũng là vợ hiền mẹ tốt. Mundek, con trai cả, là một chàng trai khỏe mạnh mười tám tuổi, làm việc cùng với cha ở lò bánh mì. Hai con gái: Ruth, mười bảy tuổi, hết sức nhút nhát e thẹn, người yêu của Jan, một trong những trưởng toán trong hiệp hội, và Rebecca vui vẻ, ồn ào, dễ vui dễ buồn như mọi cô gái mười bốn tuổi khác. Con út trong nhà là Dov, mười tuổi, một cậu bé dễ thương tóc vàng mắt xanh, còn quá trẻ để được nhận vào hội, rất phục ông anh cả đã có lòng khoan dung cho phép cậu được tham dự các buổi hội hợp.
Ngày 1 tháng 9. 1939
Sau khi đã tạo ra nhiều biến cố rắc rối ở biên thùy, quân Đức xâm lăng Ba Lan. Cùng ngày hôm đó, Mendel Landau cùng con trai cả Mundek lên đường thi hành lệnh tổng động viên.
Trong một chiến dịch chớp nhoáng hai mươi sáu ngày, Wehzmacht đánh tan tành quân lực Ba Lan. Mendel Landau tử trận, một trong ba mươi ngàn người Do Thái đã chết trong quân phục Ba Lan, Mundek, thoát chết trong trận Varsovie, khó nỗi thỏa mãn buồn rầu là thấy mình trở thành gia trưởng.
Sự kiện đáng chú ý là đa số dân Do Thái Ba Lan đi lấy ước mơ làm thực tại, cho rằng sẽ chẳng có gì xảy đến nguy hiểm cho họ hết nên đã khoanh tay trông chờ. Ngược lại, rất nhiều nhóm, đoàn thể phục quốc Do Thái, trong đó có hội của Landau, lại cho rằng việc Đức chiếm đóng Ba Lan sẽ đưa họ đến chỗ lâm nguy tính mạng. Các đoàn thể này quyết định sẽ giữ liên lạc với nhau, và nhất là hành động cùng loạt với nhau. Nói thực ra, đó là một vụ thống nhất hành động khá lý thuyết. Một số tổ chức khác thích tị nạn sang vùng an toàn (bấp bênh và thường chỉ là ảo vọng) là Nga sô, cái quốc gia đã lợi dụng vụ xâm lăng của Đức để nuốt chửng một nửa phía đông của Ba Lan. Có các tổ chức khác thiết lập những hệ thống bí mật hay lập các đường dây đào thoát ra ngoại quốc.
Trong khi ấy, Những Người Chuộc Tội nhất quyết bám lấy Varsovie để thành lập ở đó một cái nhân kháng chiến, và dĩ nhiên là bây giờ họ sẽ nỗ lực duy trì các liên lạc với các nhóm Những Kẻ Chuộc Tội ở các thành phố khác. Mandek, dù rằng chưa được mười chín tuổi, đã được chỉ định làm chỉ huy quân sự và Jan, người tình của Ruth Landau, làm chỉ huy phó.
Toàn quyền mới của "đất bảo hộ Ba Lan", Hans Frank đã khai trương triều đại của mình bằng một loạt luật lệ chống Do Thái. Ngoài việc cấm thờ phụng, giới hạn di chuyển cùng các thuế má mỗi ngày một nặng cắt cổ, còn thêm việc loại trừ các người Do Thái ra khỏi hàng ngũ công chức, trường học, các vườn công cộng và nơi công cộng, và còn cấm cả việc xếp hàng nối đuôi trước các cửa hàng thực phẩm nữa. Đồng thời một chiến dịch "tẩy não" dữ dội làm khơi dậy nỗi thù hằn tiềm ẩn trong các người dân Ba Lan đối với các người Do Thái cũng là công dân nước này như mình. Đúng đấy, chính bọn Do Thái đã gây ra chiến tranh, ít ra một cách gián tiếp, và chính tại lỗi bọn Do Thái nên người Đức mới phải xâm lăng Ba Lan để "giải phóng Ba Lan khỏi bè lũ Do Thái bôn sơ vích". Đúng đấy, chính tụi Do Thái đã cưỡng hiếp các vị nữ tu. Đúng đấy, việc xâm phạm các tu viện Do Thái quả thực là một biện pháp trả đũa xứng đáng.
Những lời ám chỉ loại này không thể không có tiếng vang đáp lại.
Mùa đông 1939-1940 thật khó khăn cho gia đình Landau. Cái chết của Mendel, các tin đồn về chuyện sẽ có tái lập các ghetto, các vụ lưu đầy dân Do Thái và sự thiếu hụt thực phẩm mỗi ngày một trầm trọng làm cho cuộc sống mỗi ngày một trở thành khó khăn thêm.
Một buổi sáng tháng giêng 1940, nhiều tiếng đập cửa vang dội. Đó là toán công an Ba Lan, tụi "xanh" như người ta gọi theo màu đồng phục họ mặc, những kẻ hợp tác hăng hái với quân Đức. Họ loan báo một cách tàn nhẫn cho Léah biết là bà chỉ có hai giờ để sửa soạn hành lý và dọn tới một khu khác của Varsovie. Dĩ nhiên là không hề có vấn đề bồi thường gì hết cho căn nhà. Hơn nữa toàn gia Landau còn chưa đủ thì giờ để thu gọn cùng chuyên chở những gì mà Léah đã tích lũy bằng cách hết sức tiết kiệm trong hai mươi năm lấy chồng.
Trong khoảng thời gian vài ngày, tất cả Do Thái ở Varsovie đã được "định cư lại" trong một khu ở trung tâm thành phố, gần đường xe lửa chính. Một khu chật hẹp, dài mười hai khối nhà, ngang sáu. May mắn là Mandek và Jan, hành động nhanh, đã lấy được một nhà ba tầng vừa dùng làm nơi ở vừa dùng làm tổng hành dinh cho hơn một trăm đoàn viên Những Người Chuộc Tội. Năm người trong gia đình Landau sẽ chỉ có một buồng duy nhất, đồ đạc chỉ gồm có các ghế vải dài để nằm và hai chiếc ghế bành. Còn về bếp và phòng tắm, họ dùng chung với mười gia đình khác. Léah đã giấu được mang theo một vài nữ trang cùng đồ linh tinh mà chắc chắn sau này sẽ cần dùng tới. Trong lúc này, tình hình tài chánh của họ tương đối dễ chịu: Mandek tiếp tục hành nghề làm bánh mì, và các đoàn viên Những Người Chuộc Tội đã tổ chức được một bếp ăn chung cho tất cả.
Mỗi ngày qua, một làn sóng Do Thái bị đuổi khỏi các thành phố ở các tỉnh tràn vào khu "của họ". Một đoàn người dài dặc đàn ông đàn bà mệt nhoài, mỗi kẻ chỉ mang trên lưng hay trên một xe bò tồi tàn một vài tài sản mà "các nhà cầm quyền" còn để lại không tịch biên. Khu phố, đã đầy người rồi, trở thành một nơi con người ở chồng chất lên nhau hiểu theo nghĩa sát nhất của từ ngữ. Gia đình Jan đến ở chung với gia đình Landau nên bây giờ cả thẩy là chín người sống trong một phòng. Những người khổ sở nhất vì sự ở chật chội này là Ruth và Jan: mối tình rụt rè thầm kín của họ bây giờ không ai là không biết.
Khi ấy người Đức ra lệnh cho người Do Thái chỉ định những cố vấn để quản trị khu vực. Mọi người hiểu rất nhanh là thứ "quận hành chánh" này chỉ là một dụng cụ thi hành những biện pháp do người Đức ban ra. Nhưng cũng có những người Do Thái cho rằng thận trọng ra, ta nên tìm cách "thu xếp" với quân Đức, đã gia nhập cảnh sát Do Thái mới. Trong thời gian này, dân số trong khu đã vượt quá số nửa triệu người.
Cuối năm 1940, quân Đức trưng dụng nhiều ngàn Do Thái sung vào các tiểu đoàn lao công cưỡng bách. Chung quanh khu vực, quân Đức cho xây một bức tường cao ba thước trên có kẽm gai. Tại mười lăm lối ra, các tên "xanh" Ba Lan và Lithuanie giữ việc canh gác. Như vậy, ghetto đã được tái lập. Trong một thời gian thật ngắn, sự giao liên với bên ngoài hầu như ngừng hẳn. Mendek, làm việc ở ngoài thành phố, trở thành thất nghiệp. Việc phân phối thực phẩm trở thành gắt gao đến nỗi số thực phẩm được cung cấp chưa đủ nuôi một nửa dân số trong khu. Chỉ những gia đình nào có một hay nhiều người có thể gia nhập một đại đội lao công cưỡng bách mới có may mắn thoát khỏi nạn đói thôi.
Việc thành lập ghetto đã gây ra cả một cơn kinh hoàng. Một số người tìm cách đổi tiền và nữ trang lấy thực phẩm lậu, nhiều người khác chạy trốn tới các nhà người Ba Lan công giáo. Chín trên mười trường hợp loại này đã đưa đến một kết quả bi thảm: những người chạy trốn hoặc bị lính gác bắn chết, hoặc bị phản bội bởi những người giả vờ nhận đón tiếp họ. Mỗi ngày đời sống bên trong bức tường càng trở thành một cuộc chiến đấu thường nhật cho đời sống, hiểu theo nghĩa cụ thể nhất.
Trong tình trạng tuyệt vọng này, Mundek Landau tỏ ra có những đức tính xứng đáng của người gia trưởng. Địa vị của chàng trong Những Kẻ Chuộc Tội đã làm chàng xin phép được Hội đồng Do Thái điều khiển một trong những lò bánh mì hiếm hoi còn hoạt động trong ghetto. Nhờ ở chàng, những người trong đoàn có thể nói là có gần đủ ăn.
Tháng ba năm 1941, mười tám tháng sau khi xâm lăng Ba Lan, Adolf Hitler chọn lựa "giải pháp chót" cho vấn đề Do Thái. Một sự kiện đáng chú ý là Hitler đã ra chỉ thị này dưới hình thức khẩu lệnh. Sáu tuần lễ sau Heydrich, một bậc chưởng thượng trong các tổ chức an ninh mật vụ Đức, cho hội một số cán bộ các cấp trong đảng quốc xã trong một buổi hội bàn bí mật để cho biết quyết định của Fuhrer.
Giải pháp chót này là diệt chủng
Đại tá S.S. Eichmann, chuyên viên về các vụ tái định cư cưỡng bách, được trao phó nhiệm vụ "bôi xóa dịch Do Thái khỏi toàn diện châu Âu".
Trong khoảng thời gian vài tháng, các Einsatzkommondos (mật vụ đặc công) tổ chức một cuộc bố ráp vĩ đại trên toàn cõi Ba Lan, các quốc gia vùng Ba nhĩ cán và các vùng lãnh thổ Nga do quân đội Đức chiếm đóng. Vào lúc đầu, tất cả các đoàn mật vụ đặc công này áp dụng cùng một phương pháp. Họ bắt một vài trăm Do Thái, chuyển đến một nơi vắng, bắt đào hố chôn mình sẵn. Rồi họ ra lệnh cho người Do Thái cởi quần áo và quỳ xuống dọc theo hố. Kế đó chỉ cần bắn cho một phát súng vào thái dương rồi hất xác xuống hố.
Các toán mật vụ đặc công làm việc hiệu quả, một phần lớn nhờ ở thái độ của dân chúng địa phương chống Do Thái đã từ lâu không hề phản đối những vụ hành quyết này. Tuy vậy, giới cao cấp thấy ngay là hiệu năng của những toán diệt chủng này không đủ mức. Không phải bằng những phát đạn vào gáy, lối giết chậm và cổ xưa này, mà người ta có thể hoàn tất được nhiệm vụ Fuhrer đã chỉ định. Người ta cũng đã hy vọng rằng chính Do Thái sẽ góp phần vào đại cuộc này bằng cách chết đói: nhưng các người Do Thái, một lần nữa lại tỏ ra thiếu thiện chí, chỉ chết vì đói một số rất ít.
Hiển nhiên như vậy là phải làm một cái gì khác. Eichmann, Himmler, Streicher và khoảng một chục ông chúa nhỏ hơn, lại bắt đầu làm việc để soạn thảo ra một kế hoạch vừa rộng lớn vừa hết sức đáng chú ý.
Phải chọn những địa điểm xa dân cư, gần một đường xe lửa. Sẽ xây cất tại đó những trại đã được nghiên cứu để vừa ít tốn kém nhất, vừa cho phép diệt người theo lối dây chuyền, trên một mức độ lớn. Nói tóm tắt, đó là những công cuộc dựa vào các nguyên tắc kỹ nghệ.
Việc điều khiển các cơ sở mớ này sẽ được trao cho những kẻ đã lên được những cấp bậc đầu tiên trong các trại tập trung đầu tiên ở chính ngay nước Đức.
Vào đầu mùa đông 1941, ghetto Varsovie thấy con số tử lên đến mức kỷ lục. Đói và lạnh cũng tỏ ra tàn sát giỏi như bệnh thổ tả và dịch hạch ngày xưa. Những đứa bé sơ sinh quá yếu không khóc nổi, các ông già quá yếu không cầu nguyện nổi chết hàng trăm. Mỗi sáng, lại thêm những xác mới nằm trong các đường hẻm. Các toán vệ sinh đi lại trong ghetto, ném lẫn lộn các xác lên xe bò, đưa tới lò thiêu xác.
Dov Landau bây giờ đã mười một tuổi. Từ khi lò làm bánh mì của ông anh đóng cửa, hắn đã bỏ trường để đi lang thang từ sáng đến chiều kiếm đồ ăn. Đây là một thứ trường khác, nơi con người học một mình, nghệ thuật sống còn. Dov tỏ ra là một học trò ưu hạng: trong một vài tuần lễ, hắn đã nhanh nhẹn, mẫn cán và mưu kế tàn nhẫn như thú hoang. Nhưng tất cả các đức tính này cũng không đủ làm đầy nồi cơm gia đình. Gia đình Landau đó có khi hai, ba, năm ngày không được ăn. Léah bỏ ra nốt các đồ nữ trang sau cùng để đổi lấy in extremis những gì làm nổi thành một bữa ăn. Dẫu sao, vào đầu tháng hai, Những Người Chuộc Tội đã có may mắn đặc biệt là chiếm được con ngựa. Một con ngựa già, ốm đói (và hơn nữa, còn là một thứ thịt giáo luật Do Thái cấm không cho ăn nữa), nhưng quả thực là ngon lành!
Ruth và Jan cưới nhau vào cuối đông. Dĩ nhiên là hai người hưởng tuần trăng mật trong căn phòng mà họ vẫn sống chung với bảy người nhà. Nhưng hẳn là hai người vẫn tìm được vài khoảng khắc thân mật riêng tư: vào mùa xuân, Ruth có thai.
Còn Mundek, vẫn là người chỉ huy không ai dám chối cãi của đoàn Những Người Chuộc Tội. Trong những trách vụ của anh, nhiệm vụ quan trọng nhất là sự duy trì liên lạc với bên ngoài. Chắc chắn là có thể mua chuộc được công an cảnh sát Ba Lan và lính gác người Lithuanie, nhưng Mundek thích giữ tiền lại để dành cho một vụ đào thoát sau cùng có thể có. Ngược lại, anh cố gắng thiết lập được nhiều lộ trình xuyên "dưới tường" bằng các ống cống. Các vụ lẻn ra ngoài Varsovie này bao hàm nhiều nguy hiểm lớn: nhiều toán du đãng Ba Lan luôn luôn rình rập một người Do Thái nào đó để làm tiền (nếu người có tiền trong người) hay để bắt trao cho quân Đức để lấy một món tiền thưởng khá hậu.
Những Người Chuộc Tội đã mất tới năm người giao liên rồi. Từ ngày mà mọi người chờ đợi vô vọng người thứ sáu trở về - đó là Jan, chồng của Ruth, bị tụi du đãng bắt gặp trao cho Gestapo treo cổ - Dov đề nghị thay thế cho người đã mất. Mundek cương quyết từ chối mặc dù Dov đã đưa ra đủ luận cứ vững chắc: với tóc vàng mắt xanh, Dov sẽ ít bị để ý nhất, và vì còn quá ít tuổi, sẽ đỡ bị nghi ngờ hơn. Hơn nữa, Dov biết rõ hệ thống ống cống như lòng bàn tay mình. Mundek hoàn toàn hiểu rõ các điều đó nhưng anh không sao đành lòng gởi đứa em út vào nơi hiểm nguy như thế. Tuy vậy, một thời gian sau, khi đã mất nốt người giao liên thứ sáu rồi thứ bảy, anh đành cho phép Dov ra đi. Anh cắt nghĩa với bà mẹ:
- Dù ở trong hay ở ngoài ghetto, chúng ta cũng là chơi trò ú tim với thần chết cả.
Léah nói nhỏ: Mẹ biết thế lắm. Vào lúc chẳng còn có thể làm thế nào khác thì...
Dov là tay giao liên chắc chắn là giỏi nhất trong lịch sử của ghetto. Để bắt đầu, hắn tìm sẵn khoảng chục lộ trình khác nhau. Mỗi tuần hắn có thể nói là "vượt dưới tường" bước đi trong bóng tối hoàn toàn đầy nước bùn hôi thối của các cống Varsovie. Khi đã vượt qua được vòng thành, hắn đi ngoằn ngoèo tới số 99 đường Zabrowska, nhà một người đàn bà mà hắn chỉ biết dưới tên là Wanda. Sau một bữa cơm vội vã, hắn lại trở xuống cống, mang nặng các súng lục, đạn dược, tiền bạc, các cơ phận cho chiếc máy vô tuyến duy nhất của ghetto cùng các tin tức về các ghetto khác cùng các người kháng chiến.
Khi không có nhiệm vụ, Dov sống hàng giờ với chị Rebecca cặm cụi làm tất cả các giấy tờ giả mạo, Ausweise và giấy thông hành. Dov đề nghị làm giúp chị. Sau một vài tuần lễ, rõ ràng là học trò đã tiến bộ hơn thầy. Vào năm mười hai tuổi, Dov Landau, với cặp mắt bén nhọn và bàn tay chính xác, đã trở thành tay làm giấy tờ giả mạo giỏi nhất ghetto.
Vào cuối mùa xuân 1942; nhiều trại diệt chủng "kỷ nghệ hóa" đã sẵn sàng hoạt động. Để thanh toán dân Do Thái Varsovie, quân Đức đã chọn lựa một khu đất chừng vài chục mẫu hoàn toàn xa lánh các cặp mắt tò mò, tại một nơi gọi là Treblinka. Tại đó có hai dãy nhà lớn với mười ba phòng hơi ngạt, có các dãy nhà cho thợ thuyền và nhân viên Đức, cùng nhiều cánh đồng bỏ hoang để thiêu xác. Thế mà Treblinka mới chỉ là trại mở đầu cho rất nhiều trại khác hoàn thiện hơn sẽ được thành lập về sau này.
Trong những ngày đầu tháng bảy, nhiều toán quân Đức đột nhập vào ghetto để tiến về tòa nhà có Hội đồng Do Thái. Thoạt nhìn, đây có vẻ chỉ là một vụ bố ráp mới nhằm làm gia tăng quân số các đại đội lao công cưỡng bách. Nhưng rất nhanh mọi người nhận thấy quân Đức lần này có các ý định khác. Đáng lẽ kiếm các trai tráng khỏe mạnh, họ lại chỉ chú trọng tới các ông già và trẻ con ít tuổi. Ngay lập tức cơn kinh hoàng bùng ra.
Đoàn người đáng thương gồm các người già và trẻ nít (nhiều đứa đã bị lôi ra khỏi tay mẹ) được tập hợp lại ở Umschlagplatz (địa điểm lọc lựa) rồi được dẫn tới đường xe lửa có một đoàn toa chở súc vật dài chờ sẵn. Một đám đông thẫn thờ dự khán vụ lên tàu. Quân Đức, bị xô đẩy bởi các cha mẹ điên cuồng muốn lấy lại con, đã súng cầm tay và bắn, không chỉ thiên, mà nhắm cẩn thận để giết người. Việc lên tàu thực hiện rất nhanh nhờ ở một trận mưa đấm đá. Và đoàn tàu chuyển bánh tiến về Treblinka, về "giải pháp sau cùng".
Mười lăm ngày sau, Dov Landau mang từ đường Zabrowska về một tin kinh khủng. Theo một bản báo cáo mới nhận được, những người bị bắt trong cuộc bố ráp đầu tiên và năm vụ sau đó đã chết trong các phòng hơi ngạt của một trại có tên là Treblinka. Các tin tức khác từ ghetto các tỉnh cho biết có nhiều trại khác nữa: Bezlec và Chemno trong vùng Varsovie, Maidanek gần Lublin. Mọi người tin rằng còn biết có chừng mười hai trại loại này đang sắp hoàn tất.
Ngay ngày hôm đó, Mundek, sau khi hội thảo với các cấp chỉ huy các đoàn phục quốc khác, tung ra lệnh tổng khởi nghĩa. Sẽ phá các lỗ hổng ở tường bao, ào ra ngoài...
Phản ứng bản năng, tuyệt vọng, không có một căn bản thực tế nào. Trước hết những người Do Thái không có phương tiện gì để chiến đấu, ngoài hai bàn tay không. Kế đó là những người đã bị trưng dụng và các đơn vị lao công cưỡng bách lại tin chắc rằng với thẻ gia nhập các đơn vị này, họ sẽ được tha cho sống sót. Và nhất là vụ khởi dậy của ghetto lại không thể trông cậy ở một yểm trợ nào từ bên ngoài. Cho dù có không chấp nhận sự giết hết các Do Thái Ba Lan đi nữa, dân Ba Lan cũng đã chẳng làm gì để tỏ ra rằng không tán thành việc đó. Tại Varsovie cũng như trên toàn cõi, chỉ một thiểu số rất nhỏ là có lẽ chịu cho mọi người Do Thái trốn tránh trong nhà mình.
Chính vì thế lệnh khởi nghĩa chỉ dẫn tới một cuộc tranh luận kéo dài trong do phe chính thống và phe xã hội chống đối nhau kịch liệt. Dẫu sau sự kiện nguy hiểm sau cùng đã xảy tới rồi nên cuộc thảo luận cũng đi tới một kết quả cụ thể: các nhóm dị đồng thôi không cãi cọ nhau vô ích nữa và đồng ý đặt dưới một quyền chỉ huy duy nhất để tìm tất cả mọi cách để cứu những người sống sót trong ghetto.
Trong nhiều tuần lễ, Dov trong mỗi lần ra đi bằng ống cống, đều mang một điệp văn gởi cho kháng chiến Ba Lan để yêu cầu trợ giúp và cung cấp vũ khí. Hầu hết những lời kêu gọi này đều không có tiếng vang đáp lại. Và một vài điệp văn hiếm hoi được đạo quân Ba Lan thuận trả lời thì cũng chỉ là những phúc đáp mơ hồ.
Một buổi sáng tháng chín Mundek và Dov trở về nhà và khi mở cửa buồng, cả hai hiểu rằng một tai họa đã xảy ra. Đứng giữa buồng, vẻ ngơ ngác, run rẩy, Robecca nhìn hai anh em với cặp mắt ngây dại. Mundek phải mất công lắm mới làm nàng thuật lại được việc đã xảy ra.
- Mẹ và chị Ruth... Quân Đức đã đến xưởng kiếm họ. Chúng đã mang người tới Umschlagplatz...
Dov quay gót định nhảy bổ ra ngoài. Mundek phải túm lấy ngang người mới giữ em lại được.
- Dov! Chú hay nghe đây: Không còn thể làm gì nữa đâu! - Mẹ! Mẹ! Em muốn gặp mẹ! - Thế chú muốn coi tụi chúng đưa mẹ lên lầu sao? Anh xin chú...
Vì có thai đã tám tháng, Ruth làm quân Đức mất cái thú vị cho nàng vào phong hơi ngạt Treblinka. Nàng đã chết trong khi sinh cùng đứa con trong một toa tàu chở đầy nghẹt người đến nỗi nàng không sao còn chỗ để nằm ra nữa.
Ngày hôm đó ở Trebinka, đại tá S.S. Wirth chỉ huy trưởng trại, đang nổi giận dữ dội. Một lần nữa, máy móc ở các phòng hơi ngạt chính lại hỏng đúng vào lúc có tin báo một chiếc tàu chở người Do Thái từ Varsovie tới. Và các kỹ sư trong trại đã cho biết là không thể nghĩ tới chuyện sửa kịp trước khi tàu đến. Và lại còn bất hạnh hơn nữa là Himmler và Eichmann sẽ đến thanh tra trại. Thế mà hắn đã nghĩ tới tổ chức một màn giết người phụ nữ để chào đón các thượng cấp!
Sau cùng hắn đành phải thu thập tất cả các xe hơi có hơi ngạt có thể tìm được trong vùng và gởi ra chỗ tàu đổ. Trên nguyên tắc, các xe này có thể chứa được - và giết được bằng hơi ngạt - chừng hai mươi người một lần nhưng vấn đề bây giờ là phải làm nhanh... Bắt các nạn nhân giơ tay lên cao, quân Đức kiếm thêm được chỗ để nhét thêm bảy hay tám người Do Thái nữa. Vào phút chót một kẻ nào nhận ra còn chừng hai mươi phút nữa giữa các đầu người và trần xe: một khoảng trống đủ để nhét thêm chừng chục đứa trẻ nữa. Bởi vì dùng mọi phương tiện để đạt tới mục tiêu...
Léah Landau đã chứng kiến con gái chết trong toa xe ngay sát cạnh bà thẫn thờ, đã điên lên một nửa, bà hầu như không biết tới đoàn tàu đã dừng lại, vừa mới xuống đến đất, bà bị ném vào giữa một nhóm chừng ba mươi người. Rồi bằng roi gân bò và sự trợ lực của các con chó của cảnh sát Đức bắt nhóm này leo lên một trong các xe vận tải. Tay giơ lên ép sát đầu. Khi xe đã đầy đến mức tối đa, quân Đức đóng cửa lại và cho động cơ chạy. Trong khoảng thời gian một phút không khí bên trong đầy oxyde de carbone. Khi các cam nhông tiến vào Treblinka để ngừng lại trước các hố đã đào sẵn, tất cả những người trong xe đều đã chết. Bây giờ chỉ còn việc thẩy xác xuống và lục lọi các miệng méo mó để nhổ những vòng bao răng, răng giả bằng vàng, rồi sau đó là lấp hố.
Trước khi chết, Léah Landau ít nhất cũng hài lòng là quân Đức sẽ không lấy được vàng ở răng bà. Bà đã gỡ tất cả ra một năm trước đây để mua thực phẩm.
Mùa đông trở lại và các cuộc bố ráp mỗi ngày một xảy ra nhiều hơn.
Khi ấy, ghetto chui xuống đất ẩn thân. Các người Do Thái xuống ở các hầm đã có sẵn, đào thêm các hầm mới, hoàn tất công trình vĩ đại dưới đất. Rồi họ biến các hầm sơ sài đó thành các công sự phòng ngự, các bunker thật sự có nhiều phân nhánh đến nỗi trở thành một hệ thống địa đạo rộng lớn.
Mỗi ngày qua, số người quân Đức và các phụ lực quân hốt được càng giảm. Tụi S.S. tức điên lên: các chỗ trú ẩn che giấu khéo đến nỗi gần như không thể khám phá ra nổi. Sau cùng đích thân tổng trấn Varsovie đến ghetto để thảo luận với vị chủ tịch Hội đồng Do Thái. Bằng một giọng không cho bàn cãi, tổng trấn đòi vị này hợp tác: cần phải làm gia tăng chương trình tái định cư bằng cách lôi ra các "kẻ đào nhiệm" muốn lẩn tránh một "công tác ngay thật".
Từ ba năm nay Hội đồng Do Thái xoay xở vật lộn giữa các biện pháp quân Đức cưỡng buộc phải thi hành cùng các nỗ lực tuyệt vọng để cứu các đồng bào. Bây giờ các vị này lâm vào thế trến đe dưới búa, không thể làm gì được nữa. Viên tổng trấn vừa đi khỏi, vị trưởng cộng đồng Do Thái đã tự sát.
Mùa đông vẫn tiếp tục. Số tử lên tới một con số ghê khiếp, với một nhịp độ vượt qua trí tưởng tượng điên rồ nhất. Vào ngày cuối năm 1942, chỉ còn năm chục ngàn người còn sống trên tổng số một trăm năm chục ngàn mà quân Đức đã nhét vào ghetto.
Một buổi sáng giữa tháng giêng, Dov sắp sửa xuống cống để đến đường Zabrowska một lần nữa thì Mundek và Rebecca yêu cầu đợi một chút đã. Mundek bắt đầu nói trước:
- Nghe anh đây chú. Anh chị đã suy nghĩ kỹ rồi và đã đi tới quyết định là chú phải ở lại luôn bên kia tường. - Chắc là một nhiệm vụ đặc biệt? - Không phải thế. Chú chưa hiểu... - Anh muốn nói gì?
Rebecca nói xen vào:
- Anh chị muốn nói là đã quyết định gởi chú ra ngoài ghetto để không trở lại nữa.
Dov nhìn anh chị không hiểu. Hắn biết là mọi người cần tới hắn. Chẳng phải hắn là kẻ biết rõ các ống cống hơn ai hết sao? Các giấy tờ và thông hành giả hắn chế tạo ra đã chẳng cho phép hơn một trăm người Do Thái trốn thoát khỏi Ba Lan sao?
Rebecca nói tiếp:
- Em hãy cầm lấy bao thư này. Nó đựng tiền và các giấy tờ. Em sẽ trốn ở nhà bà Wanda cho tới khi bà kiếm được một gia đình công giáo nào chịu tiếp nhận em.
Dov nói:
- Không, không đâu, nhất định em không chịu! Các anh chị đã có quyết định không hỏi gì em. Em không chịu đâu.
Mundek cắt ngang:
- Chú phải tuân lời. Đó là một lệnh tôi ra cho chú phải thi hành nhân danh quyền gia trưởng.
Thấy Dov sắp sửa phản đối, Rebecca ôm lấy em trong tay vuốt tóc.
- Chị xin em, Dov. Em đã lớn rồi, đâu phải còn trẻ nít nữa, anh Mundek và chị trong những năm gần đây không có mấy dịp để cưng chiều em. Có lẽ đến hàng trăm lần chị đã thấy em tuột xuống cống để mang đồ ăn cắp về cho anh chị. Đó là tất cả những tuổi ấu thơ anh chị đã mang lại được cho em... - Đó đâu có phải là lỗi tại anh chị.
Mundek đồng ý:
- Đúng. Nhưng duy chỉ có đều hôm nay anh chị yêu cầu chú, xin chú đừng từ chối điều anh chị ao ước nhất trên đời này: Đó là cái may mắn - có lẽ may mắn chót - để em thoát ra khỏi cái địa ngục này và sống một cuộc đời bình thường. - Em cóc cần các điều đó miễn là em được ở lại với anh chị. - Chú phải cố hiểu điều này: ít nhất cũng còn phải có một người trong giòng Landau sống sót. Anh chị yêu cầu chú sống thay cho anh chị, thay cho tất cả.
Dov nhìn, người anh mà hắn tôn sùng bấy lâu. Đôi mắt của anh như biện hộ một cách xúc động cho điều vừa nói. Sau cùng hắn cúi đầu xuống, nói nhỏ: Em hiểu. Em sẽ cố sống.
Hắn nhét bao thư vào một túi vải để phòng ngừa nước và bùn trong cống. Rebecca cúi xuống ôm hắn vào lòng thì thào:
- Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Israel.
Mundek nói:
- Chú đã là một chiến binh can đảm. Anh hãnh diện đã được chỉ huy một chiến binh như chú. Shalom, Chiến binh Dov! - Shalom, chỉ huy trưởng!
Dov trải qua ngày sinh nhật thứ mười ba trong các ống cống Varsovie, bì bọp trong bùn hôi thối, tiến về nhà Wanda. Chưa bao giờ hắn thấy tim lại có thể đè nặng trong lồng ngực đến như vậy.
Hắn ra đi đúng lúc. Ba ngày sau, ngày 18 tháng giêng 1943, S.S., công an Ba Lan và Lithuanie từ nhiều hướng tiến vào ghetto. Chúng định vét năm chục ngàn người Do Thái trong mẽ lưới vĩ đại cho giai đoạn chót của "giải pháp sau cùng".
Trong vòng mười phút, bị một loạt đạn đón tiếp, chúng chạy lui lung tung, để lại nhiều người chết.
Tin tức mới loan ra trong Varsovie như một vệt thuốc súng: Ghetto đã nổi dậy! Đến tối, tất cả thành phố lắng nghe trước các máy phát thanh điều chỉnh trên luồng sóng phát của máy vô tuyến phát thanh Do Thái nhắc đi nhắc lại không ngừng lời kêu gọi sau:
"Hỡi đồng bào Ba Lan! Ngay hôm này chúng tôi đã mở đầu trận đánh chống độc tài áp bức. Chúng tôi kêu gọi tất cả các người anh em sống ngoài ghetto hãy vùng lên đánh kẻ thù chung! Hãy chiến đấu với chúng tôi!".
Lời kêu gọi này không hề được đáp ứng. Nhưng ngay chiều hôm đó, lá cờ có ngôi sao David đã được kéo lên trên tổng hành dinh kháng chiến Do Thái, theo sau là quốc kỳ Ba Lan. Những người dân trong ghetto nhất định chiến đấu và chết dưới màu cờ mà không ai chấp thuận khi họ còn sống.
-------------------------------- 1 Pogrom: chữ dùng để chỉ các vụ giáo dân Ki tô Âu châu xuống đường, tràn vào các khu Do Thái để đánh đập, chém giết, hiếp dâm, phá nhà, cướp của... người Do Thái.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:20:47 GMT -6
Phần I => Chương 23
Quân Đức rất bực tức về vụ tiếp đón thiên hạ để dành cho chúng ở ghetto. Được triệu gọi tới dinh toàn quyền Frank viên ủy viên của Gestapo chịu trách nhiệm về khu Do Thái đã thề rằng sẽ giải quyết thanh toán vấn đề trong hai hay ba ngày. Để bắt đầu, họ tìm cách bôi xóa cảm tưởng có hại do "biến cố" này gây ra nơi các người dân Ba Lan. Mọi người đã nói đi nói lại là tất cả các người Do Thái đều hèn nhát, còn bây giờ thì quân Đức cả quyết với dân Ba Lan là vụ nổi dậy chỉ là công trình của một nhóm nhỏ điên khùng và lệch lạc, những kẻ trong quá khứ đã cưỡng hiếp các cô gái bé Ba Lan.
Trong ghetto, tổ chức trung ương kháng chiến, sau khi thanh toán tàn nhẫn các kẻ hợp tác với quân thù, đã chiếm ngữ các vị trí phòng ngự đã để ý sẵn và chuẩn bị sẵn từ lâu.
Thời gian chờ đợi khá dài. Quân Đức chỉ trở lại vào hai tuần lễ sau. Lần này các toán quân tiến vào đều võ trang nặng và tiến một cách thận trọng. Nhưng một lần nữa, hàng rào đạn mạnh mẽ của những người Do Thái ẩn nấp kỹ và chắc chắn đã bắt buộc quân Đức phải rút lui ra ngoài vòng ghetto.
Bộ tham mưu Đức, quá bực tức, nhất định tung ra một cuộc tấn công dữ dội. Sự kiện đáng chú ý là ngày quân Đức ấn định mở ra cuộc hành quân này lại trùng với ngày khởi đầu của các ngày lễ Pessachs, tuần thánh Do Thái, đánh dấu cuộc di cư tập thể của các người Do Thái thời cổ đã được Moise giải phóng khỏi gông cùm Ai Cập.
Vào lúc 3 giờ sáng, ba nghìn quân S.S tăng cường bằng các chú lính "Xanh" Ba Lan và Lithuanie bao vây ghetto. Hàng chục đèn pha soi sáng địa thế, chỉ định các mục tiêu cho các súng cối và trọng pháo. Hàng rào hỏa lực cứ thế tiếp tục cho tới rạng đông.
Trời sáng, quân S.S xung phong. Vượt bức tường bao quanh tại nhiều điểm, các đạo quân hướng về trung tâm ghetto không gặp một sự kháng cự nào. Đột nhiên, khi đa số quân Đức đã đi sâu, tản mác vào các đường hầm, ngoằn ngoèo, bên phòng ngự mới nổ súng, bắn địch trong tầm súng hiệu lực nhất. Và đây là lần thất trận thứ ba của quân Đức.
Hai mươi bốn giờ sau, một trận tấn công bằng chiến xa đã bị đẩy lùi bằng các chai xăng châm lửa. Thiếu sự yểm trợ, các thiết giáp đã bị đốt cháy, quân S.S. phải rút lui lần thứ tư, để lại hàng trăm người tử trận trên chiến trường.
Toàn quyền Frank không chịu nổi nữa. Ông cách chức tên ủy viên Gestapo và thay thế bằng một tướng S.S, với mệnh lệnh là phải san bằng ghetto giết hết những người trong đó để làm gương như thế nào để từ giờ về sau không còn ai dám thách thức sức mạnh của Đức quốc nữa.
Viên tướng S.S. là một người có kế hoạch. Mỗi ngày ông ném ra một trận tấn công mới, sử dụng một chiến thuật mới, đánh vào một hướng mới. Các chiến binh Do Thái chiến đấu như điên, từng căn nhà một, từng phòng một, từng tầng gác một. Họ nhất định không chịu để bắt sống. Trong ba tuần lễ nữa, sư đa mưu, lòng can trường và niềm tuyệt vọng đã cầm cự nổi với các trận tấn công hàng ngày, mặc dù ưu thế quá mạnh của địch. Tuy vậy, không còn ngờ gì được nữa về kết thúc của trận chiến: bên Do Thái không thể thay thế những người đã tử trận, mức tiêu thụ đạn dược cao hơn mức sản xuất của các cơ xưởng thô sơ của họ rất nhiều, và không còn có thể nghĩ tới chuyện đánh chiếm lại một vị trí đã bị địch quân lấy mất, dù vị trí này có là quan yếu cho việc bảo vệ một khu đi nữa.
Bên phía quân Đức, viên tướng S.S. cũng không vì thế mà kêu lên là mình thắng trận. Các quân sĩ của ông đã bị nhiều thiệt hại nặng, và tuyên truyền Quốc xã không thể nào che giấu được nữa sự kiện đáng ngạc nhiên sau: một nhóm người Do Thái đói khát đã đánh bại các đơn vị ưu tú nhất của quân lực Đức. Viên tướng quyết định đổi phương pháp. Ông cho rút quân ra khỏi ghetto, xiết chặt vòng vây chung quanh rồi đưa pháo binh nặng tới.
Khi đó, quả là địa ngục. Không ngừng, các súng lớn bắn vào khu Do Thái, phá hủy một cách có hệ thống cho đến tận bức tường sau cùng. Đêm đến, các oanh tạc cơ Heinkel trút xuống hàng trăm trái bom lửa.
Một buổi tối, sau khi bàn luận với các chỉ huy trưởng các đơn vị khác, Mundek trở về bunker của Những Kẻ Chuộc Tội. Các người của anh cũng như chính anh đều đi tới mức kiệt lực tối đa vì mệt, đói và khát. Nhiều người trong họ còn mang trên người những vết bỏng nặng. Một người lên tiếng hỏi:
- Chúng ta đã lập nổi liên lạc với kháng chiến Ba Lan chưa? - Rồi chứ... Nhưng quý vị đó không hề có ý định đến cứu giúp chúng ta về đạn dược, vũ khí, bánh mì, nước; chúng ta chỉ còn có thể trông cậy vào những gì chúng ta hiện còn. Điều đó có nghĩa là chúng ta không còn thể chiến đấu theo một kế hoạch chung nữa. Kể từ ngày hôm nay, mỗi bunker sẽ tự mình chiến đấu đơn độc. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ thử giữ liên lạc với bộ chỉ huy trung ương, nhưng chúng ta sẽ tự mình tổ chức và thực hiện các vụ phục kích và tấn công. - Chúng ta còn cầm cự được bao lâu nữa, anh Mundek? Chúng ta chỉ con có ba mươi người, mười súng lục và sáu carbine. - Ai biết được... Tất cả quân lực Ba Lan chỉ cầm cự được có hai mươi sáu ngày. Chúng ta đã làm được hơn họ rồi.
Mundek cắt lính canh, phân phối các khẩu phần ít ỏi và chỉ định những người sẽ đi tuần thám vào lúc rạng đông.
Một cô gái đã cầm lấy một chiếc phong cầm cũ kỹ, chơi một điệu nhạc chậm và buồn bã. Hết thanh niên này đến thanh niên khác, lên tiếng hát cùng thiếu nữ - một bài ca êm ái họ đã học ngày xưa trong các buổi hội của Những Người Chuộc Tội, lời ca ngợi vẻ đẹp của miền Galilée với các quả đồi tươi tốt và các cánh đồng phì nhiêu. Trong chiếc hầm ẩm ướt này, đào sâu dưới ba thước đất bị cầy nát của ghetto Varsovie, những người trẻ tuổi này ca ngợi vẻ đẹp của xứ Israel mà có lẽ chẳng bao giờ họ sẽ được nhìn thấy.
Đột nhiên có tiếng la nhỏ của người canh: Báo động!
Các ánh sáng tắt phụt, một im lặng nặng nề rơi xuống căn hầm. Một bàn tay hối hả gõ vào cửa, theo mật khẩu. Cửa mở, ánh sáng trở lại.
- Dov! Chú trở về đây làm gì? - Anh Mundek, em xin anh... Đừng bắt em đi nữa!
Hai anh em hôn nhau và Dov bắt đầu khóc. Cần phải một thời gian hắn mới trấn tĩnh lại được. Sau cùng hắn loan báo một tin ghê tởm: kháng chiến Ba Lan cương quyết và dứt khoát từ chối cứu trợ ghetto, và ngoài ra thiên hạ ít nói tới vụ nổi dậy của người Do Thái ở ngoài thành. Mọi người không muốn nhắc tới nữa. Dov nói thêm:
- Khi trở về đây, em đã trông thấy trong các ống cống rất nhiều người của chúng ta, đàn ông đàn bà nằm trong bùn, quá yếu vì đói khát. Và dẫu sao họ cũng chẳng còn biết đi đâu nữa. Ở Varsovie không ai muốn có họ hết.
Vì như thế, Dov Landau, một đứa trẻ mười ba tuổi đã trở lại với ghetto để ở lại nơi này. Và Dov không phải là kẻ duy nhất làm vậy. Trong những ngày sau đó, mọi người chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ: từ Varsovie các làng chung quanh, hàng chục hàng trăm người Do Thái đã trốn thoát được và ngụy trang được thành người công giáo đã trở lại ghetto để tham dự vào trận đánh sau cùng. Họ cho rằng chết trong nhân phẩm vẹn toàn là một một đặc quyền đẹp đẽ.
Sau cùng, pháo kích ngưng, các đám cháy tắt. Và các S.S. lại tấn công. Lần này chúng nắm giữ tất cả mọi ưu điểm. Người Do Thái không còn các vị trí phòng ngự, không còn đường liên lạc giữa các cứ điểm, các dự trữ đạn dược, bánh và nước đã hết hoàn toàn. Quân Đức tiến có phương pháp, mỗi lần chỉ bao vây một khu thôi để thanh toán tất cả các bunker trong khu đó bằng trọng pháo và súng phóng lửa.
Chúng cố gắng hết sức bắt tù binh để tra tấn mà kiếm ra vị trí các hầm trú. Nhưng các người Do Thái thích bị thiêu sống hơn là để lọt vào tay địch hay đầu hàng.
Không dám phiêu lưu vào các ống cống, quân Đức bơm hơi ngạt xuống. Ngay lập tức, nước bùn dưới cống đã lôi theo những chùm xác người bám vào nhau. Dầu thế, kháng chiến vẫn tiếp tục đột kích chớp nhoáng các toán quân Đức tách ra khỏi chủ lực, các toán quyết tử lao vào đích tay cầm các lựu đạn mở chốt sẵn đã làm cho quân Đức thiệt hại hàng trăm người. Bấy giờ tổng số tổn thất của quân Đức đã lên tới nhiều ngàn người.
Ngay 14 tháng 5, Mendek họp tất cả mười hai người sống sót trong tổ chức của anh lại. Anh cho họ chọn một trong hai đường: hoặc ở lại với anh, chết với vũ khí trên tay, hoặc là theo Dov trốn ra ngoài ghetto bằng những ống cống mà Dov biết có thể không có hơi ngạt. Dov ra đi ngay để tìm những lộ trình còn dùng được. Hắn thò ra phía bên kia tường, vô sự, nhưng khi đến gần số 99 đường Zabrowska, linh tính báo động làm hắn chậm bước. Với dáng điệu thản nhiên, hắn đi qua nhà, không vào. Cặp mắt sắc của hắn đã ghi nhận thấy ngay khoảng một chục người rải rác trên các vỉa hè, quan sát căn nhà. Dov không biết bà Wanda đã bị bắt chưa, nhưng hắn biết chắc chắn là căn nhà này không còn là nơi ẩn trú.
Hắn chỉ trở lại ghetto vào rất khuya trong đêm. Lạc lõng giữa các hoang tàn đổ nát bôi xóa cả đến các đường phố, hắn vất vã mới tìm ra lối vào bunker. Khi bước xuống các bậc thang đào trong đất, hắn đã ngửi thấy mùi thịt cháy khét quen thuộc. Hắn châm ngọn nến bao giờ cũng mang theo trên người mỗi khi xuống đường cống, và chậm chạp đi quanh hầm, quỳ gối trước từng xác người. Các tia lửa của súng phóng lửa đã lọt thẳng vào hầm trú, thiêu cháy các xác đến độ không sao nhận diện được nữa. Dov không sao biết được đâu là xác của anh mình nữa.
Ngay 15 tháng 5 đài phát thanh Do Thái phóng đi lời kêu gọi sau cùng:
"Đây là tiếng nói của Ghetto Varsovie! Nhân danh tình thương của Chúa, hãy cứu giúp chúng tôi!"
Ngay 16 tháng 5 năm 1943, bốn mươi hai ngày sau khi khởi nghĩa, quân S.S. đặt mìn cho nổ tung đại giáo đường Do Thái, tòa nhà trong bao nhiêu năm đã là biểu tượng cho Do Thái giáo ở Ba Lan. Cũng như đền thờ của Salomon đã bị quân La Mã hủy diệt, đền thờ của Do Thái giáo ở đường Tlamatzka bị phá tan bởi tay quân Đức. Và toàn quyền Frank đã có thể loan báo rằng vấn đề ghetto Varsovie đã tìm thấy được "giải pháp sau cùng".
Bản thông cáo quân sự cho biết rằng trong vòng thành của ghetto, chỉ còn những mẩu tường không cao quá tầm người, quân chiến thắng đã thu hồi được mười sáu súng lục và bốn súng trường, những nhà cửa đổ nát trong khu sẽ cung cấp được nhiều vật liệu xây cất, không có bắt được tù binh nào.
Thoát chết một cách nhiệm mầu, Dov tụ hội cùng sáu người sống sót khác. Họ bắt đầu lục lọi các bunker cho tới khi kiếm được vũ khí đủ dùng. Sau đó, họ tổ chức cuộc sống. Ban đêm, Dov hướng dẫn họ "xuyên dưới tường" ra Varsovie để đánh cướp các kho lương thực. Ban ngày, họ chui xuống cố thủ dưới đất, trong một bunker được đào sau khi trận đánh đã kết liễu. Trong năm tháng liền, một trăm năm chục ngày liền mà mỗi ngày là một thiên thu, họ không một lần trông thấy ánh sáng mặt trời. Rồi người này đến người kia kế tiếp nhau chết: ba người bị bắn hạ trong một cuộc đột kích ở Varsovie, hai người khác tự tử, người thứ sáu chết vì đối.
Sau cùng, Dov bị một toán tuần tiểu Đức khám phá ra. Hắn đang dở sống dở chết, gầy như bộ xương, không còn hình dạng con người nữa. Toán quân chỉ làm hắn đủ tỉnh trở lại để kéo đến tổng hành dinh của Gestapo. Bị thẩm vấn, tra tấn tàn nhẫn, Dov không hé răng. Dầu thế nào, số phận của hắn cũng được định đoạt rồi: Dov Landau, mười ba tuổi, con chuột của ghetto và ống cống, tay làm giả mạo đầy kinh nghiệm, sẽ được biết niềm vui của sự tái định cư. Nơi được gởi đến: Aushwitz!
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:27:32 GMT -6
Phần I => Chương 24
Qhi đoàn tàu dài lê thê, năm mươi toa chở hàng lộ thiên ngừng lại ở Chrzanov, trạm ngừng chót trước khi tới Auschwitz, hơn một phần năm số người bị đưa đi đã chết vì lạnh. Trong những người còn sống, hàng trăm kẻ bị tuyết giá dán chặt vào các vách toa, không sao nhúc nhích mà không làm tuột da chân da tay. Nhiều người đàn bà ném con xuống, kêu gọi những kẻ tò mò chạy đến xem là hãy mang các đứa nhỏ ấy và che giấu cho chúng. Họ lấy các xác chết ra đem nhét vào sau toa phụ móc ở cuối đoàn tàu. Tất cả y phục chỉ là một chiếc sơ mi rách, Dov cũng không khá gì hơn các bạn đồng hành. Dầu vậy hắn vẫn giữ được sự nhanh nhẹn, tinh khôn, tránh khỏi chết rét. Hoàn toàn biết rõ những gì đang chờ đợi mình, hắn biết rằng chỉ có giữ được hoàn toàn khả năng, hòa hợp trí thông minh đã được thử thách với mưu kế và bình tĩnh, mới hy vọng được sống thoát mà thôi. Đoàn tàu lại chạy. Auschwitz chỉ còn cách đó một giờ xe chạy.
Đoàn tàu đi qua ga Aushwitz để dừng lại xa hơn, ngã tư Birkenau nơi đặt các phòng hơi ngạt, Dov cố gắng thở cho bình tĩnh: giờ phút sắp tới sẽ quyết định mạng sống của hắn.
Các cửa toa được mở chốt, rồi với lệnh khàn giọng: Rans! Rans. Thu thập hết tàn lực, các người Do Thái tập hợp trên ke, đối diện với hàng quân S.S. trang bị đoản côn, roi da, súng lục, kèm với các con chó vĩ đại đang chồm lên kéo căng dây xích. Chưa chi roi da và gậy đá đập lia xuống các đôi vai còng. Nhiều tiếng súng nổ bắn chết những người nào yếu quá không đi nổi.
Xếp hàng bốn, đoàn người đáng thương bắt đầu di chuyển, tiến từng bước về một căn nhà lớn ở tận đầu ke.
Dov nhìn chung quanh. Phía bên trái, bên kia các đoàn tàu, có một đoàn cam nhông đang đậu. Các xe này mui trần: vậy đó không phải là các "quan tài hơi ngạt". Phía bên phải, đằng sau dãy lính, ta người nhận thấy giữa một bãi cỏ rộng lác đác vài cây cao, nhiều nhà cao bằng gạch. Còn những ống khói tròn cao thì khỏi cần nói, đó các phòng hơi ngạt...
Một cơn buồn nôn xuất hiện, do sợ hãi gây ra, suýt làm Dov gập đôi người lại. Trước hắn, một người vấp chân ngã gục xuống, đang cố gắng đứng dậy. Hai lính S.S. thả chó ra, các con chó nhảy xổ đến người ngã quỵ đó cắn nát người ra từng mảnh. Nghe thấy các tiếng kêu thét của kẻ bất hạnh đó, Dov bắt đầu run. Hắn phải hết sức cố gắng mới trấn tĩnh được: hắn biết rằng mọi cơn hoảng hốt lúc này đều tai hại cả.
Sau cùng toán người có Dov tiến vào tòa nhà lớn. Quân S.S. chia họ ra làm bốn hàng, tiến theo bốn hướng khác nhau về bốn cái bàn để ở cuối phòng. Sau mỗi bàn, có một y sĩ Đức ngồi, chung quanh là các phụ tá và lính gác. Dov chú mục vào cái bàn ở đầu hàng của hắn, hy vọng đoán được cái gì sẽ xảy ra.
Viên y sĩ quan sát rất nhanh người đàn ông hay đàn bà đến trước mặt rồi bằng một giọng lạnh lùng, ra lệnh cho kẻ đó đi ra bằng một trong ba cửa ở phía cuối phòng.
Cửa thứ nhất mở ra phía bên phải. Dov nhận thấy bảy trên mười người phải đi cửa này: các ông già, trẻ con ít tuổi, những người đã yếu sức rõ ràng. Và vì những khối nhà ở bên phải nhà ga là các phòng hơi ngạt, Dov không khó gì mà không hiểu rằng những người ra cửa bên phải sẽ bị giết chết ngay.
Cửa bên trái dẫn ra con đường có đoàn cam-nhông đang đợi. Viên y sĩ chỉ cửa này cho hai người trên mười, lựa trong những người khỏe mạnh nhất. Chắc các kẻ này sẽ bị gởi tới các trại lao động cưỡng bách..
- Chú ra kia ngồi đợi.
Dov tuân lời. Một cuộc "diễn hành" thảm thương lại tiếp diễn. Cách quân S.S. và các con chó ngao đang gầm gừ hai bước, Dov ngồi nghe liên tiếp việc kết án tử hình với tốc độ một phút bốn người.
Sau cùng viên phụ tá trở lại, đi cùng với một sĩ quan ngực đầy huy chương. Viên y sĩ đưa tờ giấy có chữ ký ra, viên sĩ quan ngắm nghía hồi lâu các chữ ký, hỏi xẵng giọng:
- Mày học cái nghề này ở đâu? - Ở ghetto Varsovie. - Ở đó mày làm công việc gì? - Làm giả giấy thông hành, giấy cho phép di chuyển, đủ các loại giấy tờ. Tôi có thể bắt chước bất cứ loại giấy tờ nào. - Đi theo tao!
Trong chiếc xe chạy về Auschwitz, Dov nhớ lại những lời nói của anh Mundek: "Phải có một người trong giòng Landau còn sống sót". Chiếc xe chạy chậm lại, vượt qua cổng chính của trại. Ở phía trên cổng, một hàng chữ ghi: TỰ DO BẰNG LÀM VIỆC.
Khu trung tâm nằm giữa một khoảng bùn lầy. Hàng dãy nhà bằng gỗ, khu này cách khu kia bằng các hàng rào kẽm gai có chuyền điện. Khu trung tâm là khu dự trữ lao công cho chừng ba mươi trại khác. Mỗi kẻ tù đày này mang trên cánh tay trái và ngực trong bộ quần áo nhà tù, trắng sọc đen các phù hiệu khác nhau: vòng tròn hồng cho các kẻ đồng tính dục năm, vòng đen cho các cô gái phải làm điếm cho các quân S.S., vòng xanh cho "thường tội", vòng tím cho các linh mục, vòng đỏ cho dân Ba Lan và Nga, còn về dân Do Thái, họ mang phù hiệu truyền thống là ngôi sao sáu cánh David..
Đối với ban giám đốc trại, không hề có kẻ mang tên Dov Landau. Trên các sổ sách, chỉ có thêm một tên Do Thái nữa, ghi với số 359.195 - con số mà mọi người đã xâm vào cánh tay trái Dov.
Ngày sinh nhật thứ mười bốn, đã làm cho Dov liên tưởng đến định mệnh đã mang lại cho mình món quà quý hóa nhất: đời sống. Món quà lại càng kỳ diệu hơn nữa bởi vì đối với Dov, đời sống ở Auschwitz tương đối chịu được: nhóm làm giấy tờ giả của Dov được hưởng một số đặc quyền. Dov làm việc trong một xưởng lo chế tạo đồng một và năm đô-la Hoa Kỳ dành cho các cán bộ và điệp viên quốc xã trong các nước Tây phương. Các người làm bạc giả được miễn các công tác nặng nhọc tại các công trường bên ngoài và còn may mắn là khỏi chết vì đói...
Tuy vậy, sau vài tháng, Dav bắt đầu tự hỏi cái chết ngay lập tức trong các phòng hơi ở Birkenau có lẽ là thích hơn chăng. Trong khu trung tâm và các trại lao công cưỡng bách, số người chết vì tra tấn, bệnh tật và thiếu ăn đạt đến một con số cũng ghê khiếp như là mức "sản xuất kỹ nghệ" của các phòng hơi ngạt. Dov không biết tại làm sao hắn còn giữ nổi sáng suốt cùng ý chí muốn sống nữa.
May mắn thay, cũng có một vài tia sáng chiếu được tới đáy của vực thẳm cùng khốn này: một ban nhạc trong trại, một phong trào kháng chiến quan trọng có một máy thu thanh, và đôi khi có được một người đàn bà để giải quyết sinh lý nữa.
Đến mùa hè 1944, một sự náo động lan rộng trong trại. Mỗi ngày một thường hơn các oanh tạc cơ Nga bay ngập trời, và các đài phát thanh loan tin các chiến bại của Đức. Niềm hy vọng yếu ớt, rụt rè nhưng dai dẳng, vượt qua các hàng rào kẽm gai, che phủ tiếng kêu của những kẻ bị hành hình, làm quen với bùn lầy và đói khát nhưng cũng là một tai họa, mỗi chiến thắng của Đồng minh làm "phấn khởi" quân S.S. Với một cơn tàn sát điên cuồng đến nỗi về sau các kẻ bị giam giữ gần như sợ hãi các tin tức chiến thắng của Đồng minh, ở Birkenau nhịp độ giết người mỗi ngày một gia tăng, và các phòng hơi ngạt hoạt động hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ.
Ngay từ đầu mùa thu, mọi người đã cảm thấy rằng quân Đức đang thất trận. Trên tất cả mọi mặt trận, quân Đức mỗi ngày một lùi. Nhưng thảm bại càng gia tăng, cơn điên dại diệt chủng của chúng càng tiến tới cực điểm. Eichmann, viên đại tá S.S. ghê gớm ấy, đã động viên tất cả mọi phương tiện để thi hành nhiệm vụ mà Fuhrer 1 đã trao phó: Diệt chủng.
Vào tháng mười, các sonderkommandos (các kẻ bị giam giữ nhưng được quân Đức cho sống để dọn các xác chết ngạt) đột nhiên nổi dậy và thành công trong việc làm nổ tung một trong bốn lò thiêu xác của Birkenau. Kể từ đó, mỗi ngày đều có những vụ nổi dậy bất chợt, các sonderkommando bắt hai, ba hay năm tên S.S. cùng với những con chó đem ném vào trong lò thiêu xác. Sau cùng, chỉ huy trưởng Birkenau cho hành quyết tất cả các sonderkommando rồi yêu cầu trại trung ương cung cấp các ê kíp mới.
Bị dồn vào chân tường, Eichmann quyết định làm một mẻ lớn. Hắn cho lệnh di chuyển đến Birkenau và giết ngay lập tức hai mươi ngàn Do Thái - gồm các giáo sư đại học, nhà văn, y sĩ, trạng sư - đang bị giam giữ ở trại "đặc quyền" Theresienstadt bên Tiệp Khắc mà chính quyền Hitler cho tới giờ vẫn hứa là tha không giết.
Số người Do Thái bị giết ở Birkenau gia tăng đều và tiếp tục gia tăng. Vào cuối năm 1944, tổng số lên tới gần một triệu Do Thái Ba Lan, năm mươi ngàn Do Thái Đức, một trăm ngàn Do Thái Hòa Lan, một trăm năm chục ngàn Do Thái Pháp, năm chục ngàn Do Thái Úc và Tiệp, trong đó có Do Thái Hy Lạp và hai trăm năm chục ngàn Do Thái Bảo Gia Lợi, Ý, Nam Tư và Lỗ Ma Ni, cộng thêm hai trăm năm chục ngàn Do Thái Hung Gia Lợi nữa.
Một triệu chín trăm ngàn xác chết...
Vào tháng mười một, xưởng làm bạc giả đột nhiên đóng cửa. Các tay làm bạc giả bị gởi đến Birkenau để thay thế cho các sonderkommando đã bị thanh toán.
Dov và vài người bạn nữa phải làm trong một hành lang lớn dẫn đến một phòng hơi ngạt. Trong khi hơi ngạt đang tác động, họ nghe thấy rõ rệt những tiếng kêu hấp hối, tiếng đấm cửa hối hả làm rung động các tấm cửa sắt nặng nề. Khi thần chết đã làm im những tiếng kêu sau cùng, họ phải đợi thêm mười lăm phút nữa để hơi ngạt được hút hết khỏi các các ống thông hơi. Rồi các cửa mở rộng, công việc là dùng dây và móc sắt gỡ các đống xác ghê sợ chồng chất quấn quít và kéo ra ngoài để một ê-kíp khác có thể ném lên các toa xe gòong nhỏ đẩy đến các lò thiêu xác. Sau đó Dov cùng các bạn tiến vào phòng hơi ngạt, xịt nước rửa trong khi ở phòng cởi quần áo bên cạnh, lứa nạn nhân sau đã được chuẩn bị rồi.
Sau ba ngày làm công việc đẫm máu này, Dov đã đến bên bờ vực thẳm. Bản năng ham sống của con người vẫn nâng đỡ Dov đến giờ phút này hình như đã mòn mỏi dần dần sau mỗi lần cửa phòng hơi ngạt mở ra với một quang cảnh ghê khiếp. Dov cảm thấy mình chắc không chống cự được lâu hơn với cái cảnh ấy cứ tái đi tái lại hoài.
Đột nhiên đến ngày thứ tư, một biến cố không thể ngờ được xảy ra ở Auschwitz: Quân Đức cho phá hủy các lò thiêu xác và cho giật nổ tung các phòng hơi ngạt. Bị ép giữa hai gọng kềm tiến quân: quân Mỹ Anh ở phía tây và quân Nga ở phía đông, tụi Quốc xã nỗ lực điên cuồng để bôi xóa tất cả các vết tích của tội ác của chúng. Hầu hết khắp nước Ba Lan, chúng vội vàng cho khai quật tất cả các mồ chôn xác để nghiền nát các xương và rải tung ra khắp các cánh đồng. Họ còn đi tới chỗ trưng dụng tất cả các phương tiện mặc dù đang thiếu thốn trên các mặt trận để cố chở tất cả các người Do Thái còn sống sót về Đức.
Sau hết, ngày 22 tháng giêng 1945, Hồng quân giải phóng Auschwitz và Birkenau. Lúc bấy giờ Dov Landau được mười lăm tuổi, hắn hài lòng được ở trong một trăm năm chục ngàn người Do Thái Ba Lan trên tổng số ba triệu rưỡi còn sống sót. Lời hứa của Dov với anh là Mundek, hắn đã giữ được.
-------------------------------- 1 Danh từ chỉ Hitler, Quốc trưởng đảng trưởng Quốc xã Đức.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:31:40 GMT -6
Phần I => Chương 25
Các quân y sĩ Nga sô khám xét Dov đều tự hỏi do phép mầu nào hắn đã trải qua được những năm đầy khổ đau ghê khiếp ấy mà vẫn không bị một vết thương nào. Dov đã yếu đi, khổ người nhỏ hơn tuổi, lâu lắm mới khỏe mạnh được, nhưng được săn sóc cẩn thận, chắc hắn sẽ hồi phục được sức khỏe bình thường.
Ngược lại, tình trạng tinh thần lại bị suy sụp nhiều. Trong sáu năm liền, tinh thần cương quyết tìm sự sống còn đã cho phép hắn chiến thắng tất cả các hiểm nguy. Bây giờ thoát chết, đáng lẽ ra hắn phải thoải mái toàn diện... Nhưng không biết bao nhiêu kỷ niệm lại tới xâm chiếm hắn suốt đêm ngày. Âu sầu, mất tinh thần, đôi khi buồn không nguôi, hắn càng ngày càng tiến tới giữa hai tâm trạng của kẻ cuồng trí và bình thường.
Những hàng rào kẽm gai đã biến mất, các lò thiêu xác, các phòng hơi ngạt đều không còn, nhưng các hình ảnh kinh hoàng của quá khứ vẫn tiếp tục theo đuổi hắn. Khi hắn nhìn con số tù xâm trên cánh tay, hắn lại sống lại quang cảnh mở cửa phòng hơi ngạt. Khi hắn nhắm mắt lại, hắn lại nhìn thấy xác mẹ và xác chị mà một móc sắt đang lôi ra từ một đống xác chết. Hoặc nữa, hắn thấy lại mình đang đưa ngọn nến lại gần các xác cháy đen trong lô cốt ở Varsovie, cố gắng tìm xem đâu là anh Mundek. Hắn nghĩ đến những sọ người quân Đức đã dùng làm đồ chặn giấy, và tưởng chừng tìm thấy ở các sọ ấy những đường nét thân thuộc cũ.
Những người Do Thái còn lại tại Auschwitz ở chồng chất trong ba hay bốn khu nhà. Trong tâm trí của Dov, điều đó là tự nhiên: hắn không thể tưởng tượng rằng ở bên ngoài trại còn có một thế giới người sống, không tiều tụy, không tra tấn, một vũ trụ mà con người không thiếu thực phẩm, hơi ấm và tình thương. Ngay cả tin nước Đức đầu hàng cũng không gây ra một cơn vui mừng nào ở Auschwitz: đối với những kẻ sống sót ở trại này, liệu họ còn có thể mang lại cho chiến thắng một ý nghĩa gì?
Chiến tranh đã chấm dứt, những mọi người không biết đi về đâu. Về Varsovie? Một quảng đường chừng hai trăm năm mươi cây số đầy nghẹt những người tị nạn. Vả lại Dov nghĩ một khi về đến Varsovie, hắn sẽ làm gì ở đấy? Ghetto không còn nữa và tất cả người thân trong gia đình đều đã chết. Trong nhiều ngày liền, hắn ngồi lì ở cửa sổ, im lặng, ngơ ngẩn nhìn bầu trời xám bất tận của đồng quê vùng Silésie.
Người này kế người kia, dân Do Thái ở Auschwitz phiêu lưu trên các con đường để trở về nhà. Rồi người này kế người kia trở lại trại, tâm hồn nặng chĩu một ảo tưởng tan vỡ. Quân Đức đã ra đi, nhưng các người Ba Lan trong địa hạt bài Do Thái đã thay thế người Đức một cách dữ dội hơn. Đã chẳng thèm khóc ba triệu rưỡi đồng bào gốc Do Thái, dân Ba Lan còn hét lên những tiếng kêu thù nghịch: "Chính bọn Do Thái đã gây ra chiến tranh này! - Giết chết bọn Do Thái đầu cơ chiến tranh! - Tụi Do Thái là nguyên nhân của tất cả các thống khổ của chúng ta!". Tại khắp mọi nơi, họ đập vỡ cửa kính các nhà hàng Do Thái, đánh đập những người Do Thái nào dám có cái cao ngạo tìm lại nhà mình, cứu vãn lấy một vài của cải.
Những người Do Thái Auschwitz chẳng còn phương kế nào là trở lại trại. Ngơ ngác, thảng thốt, gần mất trí, họ sống chui rúc trong các căn nhà gỗ bùn lầy, chờ đợi cái chết đã ám ảnh những kẻ đáng thương này không bao giờ rời họ nữa. Vẫn mùi hôi thối muốn nôn mửa của cái nơi khốn cùng vẫn còn tỏa trên cảnh vật.
Thế rồi vào một buổi sáng cuối mùa hè, một người lạ mặt tiến vào trại với dáng đi đàng hoàng. Các tiếng cười khẩy đón chào không làm người này bối rối. Thân hình lực lưỡng, khuôn mặt vạch ngang bằng một bộ ria đen vĩ đại, người lạ khoảng chừng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi. Một vài chi tiết làm toàn trại chú ý: Áo sơ mi trắng tinh tay sắn lên và dáng đi vừa uể oải vừa cương quyết: dáng đi của một người tự do. Người lạ tuyên bố:
- Tên tôi là Dror, Shimson baz Dror. Tôi từ Paiestine đến. Mọi người gởi tôi đến đây để đưa đồng bào về xứ sở của chúng ta.
Ngay lập tức, mọi người la lên vui mừng cuồng nhiệt. Người thanh niên xứ Palestine bị cả ngàn câu hỏi tấn công, anh vừa cố gắng trả lời vừa nhẹ nhàng đẩy những kẻ quỳ xuống để hôn tay anh. Một người Do Thái tự do... Shimson Bar Dror, Samson, con trai của Tự do... Và anh đã từ Palestine đến để hướng dẫn họ trở về xứ.
Ngay ngày hôm ấy, Bar Dror nắm quyền chỉ huy trại. Anh cắt nghĩa rằng chuyến đi lớn ấy chỉ có thể có trong vài tuần, có thể vài tháng nữa. Trong thời gian chờ đợi để Mossad Aliya Bet tìm được cách chuyên chở các người Do Thái Auschwitz thì những người này, về phía họ, cũng phải cố gắng sống cho ra con người.
Có thể nói là một nguồn nghị lực mới đã đưa trại ra khỏi tình trạng buông xuôi. Bar Dror chỉ định một ủy ban phụ trách việc sửa sang lại trại, lập ra một trường học, thành lập một ban kịch, một ban nhạc và ấn hành một "bản thông tin hàng ngày". Trong khoảng thời gian vài tuần, một sự sinh hoạt như tổ ong đã thay thế cho tình trạng thẫn thờ của dân trong trại. Vững tâm rồi Bar Dror lại có thể ra đi khắp Ba Lan tìm kiếm các người Do Thái khổ sở khác để hướng dẫn họ về trại bây giờ đã trở thành trung tâm tiếp cư.
Trong khi Shimson Bar Dzor cùng các bạn trong Mossad cố gắng tập hợp các người Do Thái lại và đưa họ ra khỏi Ba Lan, có những người khác cũng nỗ lực hăng hái như thế để ngăn cản lại.
Tại khắp các nước Âu châu, các đại diện chính thức của đế quốc Anh gây áp lực với các chính phủ để yêu cầu họ đóng kín biên thùy không cho các dân tị nạn vào. Người Anh cả quyết rằng công cuộc của Mossad thực ra chỉ là một âm mưu phục quốc Do Thái có tính cách quốc tế, nhằm bắt mọi người phải chấp nhận một giải pháp Do Thái cho vấn đề xứ Palestine.
Luân Đôn không ngờ tìm thấy những bạn đồng minh ở Varsovie: quả thực vậy, chính quyền Ba Lan ra lệnh bắt những người Do Thái sống sót phải ở tại Ba Lan. Các lý do của lệnh này thật quá hiển nhiên: một khi ra được ngoại quốc, một vài kẻ thoát chết ấy sẽ khẳng định trước dư luận thế giới rằng người Ba Lan đã làm hết sức giúp đỡ Quốc xã hoàn tất chương trình diệt chủng Do Thái. Đây là một sự kiện không thể chối cãi, hết sức rõ ràng, nhưng Varsovie thích giữ bí mật hơn.
Vì thế, những người Do Thái Ba Lan đã bị giữ lại ở một quốc gia không muốn có họ, và bị loại ra khỏi một quốc gia đang muốn có họ.
Mùa đông đến, tinh thần của dân Auschwitz bắt đầu lung lay. Công việc vĩ đại do Bar Dror đã thực hiện dám tiêu tan. Nhiều lần, thanh niên Palestine này cố gắng cắt nghĩa cuộc tranh đấu chính trị đang xảy ra vì họ, nhưng họ từ chối không muốn nghe. Chính trị quốc tế? Họ cóc cần thiết.
Trong những ngày đầu tháng giêng 1946, sự kiện có một cán bộ thứ hai của Mossad tới đã làm cho Bar Dzor thoát ra khỏi con đường bế tắt. Sau khi bàn cãi, hai người quyết định liều được ăn cả ngã về không. Hai người cho họp các cấp chỉ huy của trại lại, yêu cầu chuẩn bị di tản khỏi trại. Bar Dzor nói:
- Chúng ta sẽ tiến về biên thùy Tiệp Khắc. Lộ trình không dài lắm - khoảng một trăm năm chục cây số - nhưng sẽ rất khó khăn. Một mặt, chúng ta bắt buộc phải đi bộ và phải đi với tốc độ của người đi chậm nhất, một mặt khác, vì phải tránh những con đường lớn, chúng ta sẽ bắt buộc phải băng qua dãy Carpathes và đèo Jablounkov.
Một người hỏi:
- Ở biên giới thì ra sao? - Các cán bộ của chúng ta đang lo kiếm các đồng lõa cần thiết: các lính biên phòng Ba Lan chỉ mong được mua chuộc thôi. Nếu chúng ta vượt sang tới được Tiệp Khắc chúng ta sẽ an toàn, ít nhất trong lúc này. Jan Masaryk là một người bạn, ông ta sẽ không thuận để bất cứ một ai đuổi chúng ta đi hết.
Họ rời Auschwitz vào lúc nửa đêm, tiến sâu vào con đường tắt. - Một đoàn người thảm thương, những kẻ mạnh đỡ những kẻ yếu và bồng trẻ con. Với chậm chạp, khổ nhọc, họ tiến qua các cánh đồng tuyết phủ, với đôi chân tím, họ phải đi theo những dãy đường thật xa. Sau sáu ngày vất vã, họ bắt đầu leo lên các sườn núi đầu tiên của dãy Carpathes, người gập đôi xuống chống lại gió lạnh, vấp ngã. Bị kích thích bởi lòng can trường thì ít, hăng hái nhiều là do năng lực mẫn cán của các thanh niên Palestine không biết mệt là gi, đã thực hiện được chiến công là duy trì được sự sống cho họ và làm họ tiến bước.
Vượt qua biên thùy dễ dàng. Khi đoàn người tiến lại gần các lính biên phòng Ba Lan cố tình quay mặt đi, và một kẻ trong bọn, bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa, đã đưa tay vỗ túi! Đối với họ, việc Do Thái vượt biên thùy này là một việc để họ làm ăn dễ dàng hơn.
Bây giờ đoàn người Do Thái đã vào lãnh thổ Tiệp. Vụ vượt đèo Jablounkov là cả một cơn ác mộng. Sau cùng, họ đã thở phào ra khi xuống đèo, tất cả đều đã kiệt lực, gần chết đói và chết rét. May mắn thay, Mossad đã gởi một chuyến tàu đặc biệt tới đón họ trong đó họ được ăn đồ ăn nóng, có chỗ ngủ và được săn sóc bệnh tật. Chặng thứ nhất của cuộc lữ hành nguy hiểm đã qua được rồi.
Mỗi khi có một người Do Thái được nhập nội hợp pháp xứ Palestine, người đó lại đưa sổ thông hành lại cho Mossad để dùng nữa. Năm trăm sổ thông hành loại này, mang chiếu khán của Vénezuela, Paraguay và nhiều quốc gia Mỹ La tinh khác, đã được phân phát cho các người sống sót của Auschwitz. Nhờ những giấy tờ này, mọi người có thể chống lại một phần nào các trò ngăn cản của người Anh.
Được báo tin có năm trăm người Do Thái trốn thoát từ trại Auschwitz đến, bộ ngoại giao Anh chỉ thị ngay cho đại sứ Anh tại Prague phản đối với Jan Masaryk. Được tiếp kiến ngay ngày hôm đó, đại sứ Anh trình bày rằng công cuộc Mossad vừa làm trái với luật pháp Ba Lan, và chỉ có mục tiêu duy nhất là cưỡng buộc mọi người phải chấp nhận giải pháp cho Palestine.
Masaryk nở một nụ cười:
- Thưa ông đại sứ, tôi xin thú thật là tôi không biết gì nhiều về các ống dẫn dầu Ả Rập. Ngược lại, tôi được biết khá rõ về những ống dẫn đến tình thương nhân loại nếu ông đại sứ thứ lỗi cho sự so sánh thô sơ này.
Ông đại sứ lộ một vẻ bực tức để ám chỉ rằng trong trường hợp "đoàn tàu Do Thái" được phép tiếp tục lộ trình, thì chính phủ ông sẽ có thể biểu lộ sự bất mãn bằng các biện pháp... các biện pháp..., nghĩa là các biện pháp "cụ thể"...
Masaryk ngắt lời:
- Xin phép ông đại sứ! Xin ông đại sứ biết cho rằng tôi rất tiếc không nhượng bộ vì bất cứ áp lực nào của quý quốc. Ngày nào tôi còn là ngoại trưởng của Tiệp Khắc, các biên thùy của nước tôi còn tiếp tục rộng mở cho các người Do Thái, dầu họ có thông hành hoặc chiếu khán hay không.
Đại sứ Anh bắt buộc phải thông báo cho Luân Đôn biết rằng ông đã không thể chặn đoàn tàu đó lại được. Đoàn tàu tiến xuống tận Bratislava, điểm giao nhau của ba biên thùy Hung, Tiệp và Áo, rồi tiến vào nước Áo, dưới sự che chở cá nhân của một tướng lãnh Hoa Kỳ ủng họ chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Sau một ngày nghỉ ngơi ở Vienne, đoàn tàu lại ra đi, qua Brenner tiến vào nước Ý. Trong bán đảo này, Mossad có thể trông cậy ở sự giúp đỡ tích cực của dân chúng và của cả chính quyền nữa, nhưng ngược lại sự hiện diện của quân lực chiếm đóng Anh lại làm trở ngại hoạt động. Dẫu sao trong quân lực Anh tại đây cũng có một lữ đoàn Do Thái Palestine mà Mossad đã lũng đoạn đến nỗi quân sĩ lữ đoàn này sẵn lòng tuân theo lời các cán bộ bí mật hơn là tuân lệnh các cấp chỉ huy chính thức. Chính một tiểu đoàn của lữ đoàn này đã đón tiếp đoàn người khi họ xuống xe lửa tại một nơi hẻo lánh, ở khoảng giữa hồ Come và Milan.
Mọi người đã cẩn thận báo trước cho những người đào thoát biết là họ sẽ được đón tiếp bởi những người mang quân phục Anh. Mặc dù đã cẩn thận như thế, sự xuất hiện của quân sĩ vẫn suýt gây kinh hoàng. Những kẻ thoát khỏi nhà thiêu xác không thể hiểu là những chiến binh này lại có thể mang trên vai trái phù hiệu ngôi sao David, phù hiệu của ghetto và biểu tượng của sự hành hạ tàn sát. Ngoại trừ trong thời gian nổi dậy của ghetto Varsovie, chưa có một người Do Thái nào chiến đấu dưới biểu hiệu này từ hai ngàn năm nay.
Dẫu sao, các e ngại của họ tiêu tan rất nhanh. Những người lính tỏ ra thân hữu, sẵn sàng giúp đỡ, rộng rãi, nhưng dù họ có bập bẹ nói tiếng yiddish và nói thạo tiếng hébreu, dáng điệu cách xử sự của họ có vẻ rất khác dáng điệu và xử sự mà người ta thường nhận thấy ở những người Do Thái Ba Lan hay Nga sô. Có thể nói đây là giống người khác...
Những người tị nạn đã sống một tuần ở trung tâm tiếp đón Milan thì một hôm, vào nửa đêm, Dov và một trăm người nữa bị kéo ra khỏi giường và đưa lên các xe cam-nhông nhà binh Anh, do quân sĩ của Lữ đoàn Palestine lái. Đoàn xe chạy theo những con đường phụ đến tận một địa điểm ven biển đã có ba trăm người từ các trại khác cũng đang chờ đợi. Trong hải cảng bên cạnh Spezia, một chiếc tàu bé xíu nhổ neo để đến gặp họ. Chiếc tàu bỏ neo cách bờ vài sải và cả một tiểu hạm đội ca-nô bơm hơi đã đưa các hành khách lên tàu. Rồi chiếc Cửa vào Sion lại nhổ neo. Ngay sau khi rời hải phận Ý, một phóng ngư lôi hạm Anh đã tới bám sát. Hải quân Hoàng gia Anh đã tỏ ra hoạt động hoàn toàn mẫn cán...
Trước sự ngạc nhiên của các sĩ quan của Đức Vua Anh quốc, chiếc tàu nhỏ, đáng lẽ hướng về Pakstine như các tàu chở di dân khác, lại hướng về duyên hải Pháp và tiến vào vịnh Lion. Cả các hành khách lẫn các thủy thủ Anh đều không lúc nào ngờ rằng chiếc Cửa vào Sion lại sẽ đóng một vai trò quan trọng trong một kế hoạch vừa rộng lớn vừa phức tạp.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:35:49 GMT -6
Phần I => Chương 26
Ngồi trước một đĩa súp sò, Bill Fry lơ đãng nghịch với chiếc muỗng. Ông không hề thấy đói, nghĩ ngợi miên man:
"Mẹ kiếp! Làm thế nào để đưa được cái thùng gỗ cũ rích này sang bên kia Đại Tây dương đây?"
Đối với các cán bộ của Mossad, Bill có một uy tín rất lớn. Khi cho tàu Ngôi sao David lao vào mắc cạn ở Césarée, ông đã khai mạc một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhập nội bất hợp pháp. Nói chung, chính thuyền trưởng Bill Fry đã làm người Anh phải thành lập các trại ở đảo Chypre. Đây là cả một ngã rẽ, bởi người Anh càng chận bắt các tàu và đem giam hành khách ở Chypre, Mossad càng tung ra nhiều tàu khác tiến về các bờ biển Palestine. Đến nỗi rằng bây giờ trại Caraolos đã hòa hoãn, và người Anh bắt buộc phải làm một cái gì, duy chỉ có điều họ không biết phải làm gì đây.
Được sự thành công khuyến khích, cương quyết hơn bao giờ hết để cưỡng buộc người Anh phải thay đổi đến tận căn bản chính sách của họ về Palestine, Mossad đã nghĩ ra một kế hoạch táo bạo đặc biệt, nếu không nói là điên rồ, mà việc thực hiện dĩ nhiên là được trao phó cho Bill Fry.
Tàu Ngôi sao David với gần hai ngàn hành khách, cho tới giờ là chiếc tàu lớn nhất đem ra dùng. Các cấp chỉ huy của Mossad cho rằng một nỗ lực mới, lần này với một tàu chở hơn năm ngàn người, sẽ là một chưởng nặng cho người Anh, có thể là quyết định luôn.
Vì vậy Bill được trao phó nhiệm vụ đi kiếm một chiếc tàu, tân trang lại rồi đưa đến La Ciotat chở năm ngàn người về bờ biển Palestine. Phải mua tàu ở Hoa Kỳ hay châu Mỹ La tinh: ở Âu châu, các nhân viên Anh coi chừng đến tận các cảng nhỏ nhất một cách mẫn cán đến độ việc mua tàu chưa ký kết xong, nội vụ đã bị lộ rồi. Vậy các cán bộ Mossad đi lục lọi các hải cảng Mỹ La tinh trong khi Bill đi lùng tới lùng lui khắp nước Mỹ. Ông nhận thấy ngay rằng với số tiền được xử dụng, khó mà tìm được tàu khác. Sau cùng ông đành phải làm một vụ mà ông gọi là đánh cá liều, là mua một tàu hơi nước cũ kỹ, cọc cà cọc cạch mà từ lúc hạ thủy cho tới luc già nua chỉ có chạy qua chạy lại mỗi ngày trong vịnh Chesapeake, giữa Baltimore và Norfolk. Một thứ thuyền lớn chở khách rong chơi chưa bao giờ vượt ra khơi cả, tàu Đại tướng Stonewall Jackson chỉ có mỗi một điểm tốt: là giá rất hạ. Hơn nữa, Bill còn tự hỏi liệu đồng tiền Mossad chi ra lần này có xứng đáng không đây.
Bill đã đưa con tàu cổ lỗ sĩ này đến Newport News (Virginia) nơi tàu phải tân trang lại để chuyên chở sáu ngàn tám trăm người. Và ngay sáng nay, Bill đã nhận được điện tín báo cho biết là công việc tân trang đã hoàn tất. Nhưng một lần nữa, viễn tượng được trao phó chức vụ thuyền trưởng mới không hề làm ông hứng khởi.
Hai mươi bốn giờ sau, ở Newport News, ông cho tập hợp thủy thủ đoàn: những thanh niên Palestine thuộc Mossad và Palmach, vài người Do Thái Hoa Kỳ, Do Thái các cộng hòa nói tiếng Tây Ban Nha, Ý, Pháp. Ông thanh tra tàu, cho nhổ neo, và sau khi chạy thử một vòng trong phía nam vịnh, ông cho tăng tốc độ hướng ra khơi.
Sau chừng ba giờ, máy móc trục trặc làm ông phải cho tàu trở về Newport News.
Trong tuần lễ sau đó, Bill còn thử ra khơi ba lần nữa. Lần nào cũng vậy, chiếc tàu "từ chối" không chịu ra biển xa, ngoài môi trường sinh hoạt cũ của nó là mặt nước bìnn yên trong vịnh.
Ông bắt buộc phải loan báo cho các đại diện của Massad là ông đã lầm: tàu Jackson sẽ không bao giờ đương đầu nổi với Đại Tây dương hết. Mọi người yêu cầu ông sửa lại máy móc lần nữa và thử thêm một lần chót.
Lần thứ năm, phép mầu xảy ra: Giống như một con rùa mắc bệnh phong thấp tàu Jackson vượt qua mũi Henry tiến vào vùng nước sâu của đại dương... Và với một sự "ngoan cố" rất đẹp, tàu vẫn tiếp tục tiến.
Hai mươi hai ngày sau, tàu lê lết một cách can đảm vào cửa vịnh Lion, tiến vào Touton.
Thời gian chọn lựa thật đúng lúc. Một vụ đình công của các tài xế xe vận tải vừa xảy ra ở Pháp, và các quan sát Anh ở trại La Ciotat vì tin chắc rằng không một công cuộc quan trọng nào có thể làm được nếu thiếu xe vận tải, nên đã nới lỏng việc kiểm soát. Và dẫu sao mọi người cũng đã loan báo rằng trong tất cả các hải cảng châu Âu, không có một chuyến tàu ra đi khả nghi nào kể từ chuyến đi của tàu Cửa vào Sion đã từng đến Ý Port de Bouc cách đây mấy tuần.
Ngày hôm trước khi tàu Jackson vào cảng Toulon, một đại diện của Mossad đã để Hiệp hội các tài xế chuyên chở để trình bày tình hình. Đại diện nghiệp đoàn này bí mật báo động cho một số đoàn viên của mình, và trong khi vụ đình công làm đình chỉ tất cả mọi chuyên chở bằng đường bộ của nước Pháp, một đoàn xe năm tấn chạy đi chạy lại giữa La Ciotat và Toulon để chở đến cảng này sáu ngàn năm trăm dân tị nạn - trong số đó có Dov Landau.
Những nhân viên tình báo Anh chỉ biết "âm mưu" vào phút chót. Lúc đó tàu General Jackson đã được đặt tên lại là Đất Hứa, và trên cột đã bay phất phới lá cờ xanh trắng với hình ngôi sao David.
Ở Luân Đôn, có nhiều buổi hội khẩn ở Bộ Hải Quân, Chatham House, Whitehall. Kế hoạch của Mossad cùng các ảnh hưởng vang đội của nó đối với chính sách về Palestine thật quá hiển nhiên, do đó cần phải ngăn cản tàu khởi hành bằng tất cả mọi phương tiện và với bất cứ giá nào. Các tàu chiến chận ngoài khơi Toulon và chính phủ Anh đã đưa ra với Paris những thỉnh cầu nhưng giống như những lờ de dọa. Để thay thế câu trả lời, người Pháp cho phép tàu Đất Hứa nhổ neo.
Chiếc tàu hơi cũ kỹ vừa rời hải phận Pháp, đã bị hai tuần dương hạm Anh Dunston và Apex tới đi kèm cứng hai bên. Trong ba ngày liền, BillFry phớt lạnh giữ nguyên hướng đi. Cách tàu ông vài sải, hai tuần dương hạm Anh giữ liên lạc vô tuyến thường xuyên với Bộ Hải Quân. Buổi trưa ngày thứ tư, khi tàu Đất Hứa còn cách bờ biển Palestine năm mươi hải lý, người Anh ra tay hành động, bất chấp luật lệ quốc tế. Chiếc Apex lái lệch đi để lại gần chiếc tàu hơi, bắn một tràng đạn cảnh cáo rồi gọi bằng máy phóng thanh:
- Lệnh của hạm trưởng cho tàu chở di dân bất hợp pháp! Chạy chậm lại! Chuẩn bị đón tiếp toán quân lên giữ tàu.
Bill nhổ mẩu xì-gà lúc nào cũng có trên môi, cầm loa la lớn:
- Chúng tôi xin nhắc quý vị rằng chúng tôi đang ở hải phận quốc tế. Nếu các ông chiếm tàu tôi, các ông làm một hành động của dân cướp biển. - Rất tiếc, ông bạn già, chúng tôi chỉ thi hành chỉ thị của thượng cấp. Ông bạn có tiếp nhận toán chiếm tàu của chúng tôi mà không kháng cự không?
Nhún vai, Bill quay lại người chỉ huy các Palmachnik đang đứng đằng sau:
- Chúng ta sẽ chuẩn bị tiếp đón bọn khốn kiếp đó một cách linh đình!
Đất Hứa tăng tốc độ, trong một nỗ lực vừa thê thảm vừa vô vọng, để trốn thoát hai chiếc tuần dương hạm. Apex lại gần nữa rồi quẹo một cách bất thình lình, húc vào giữa tàu Đất Hứa. Mũi thép tàu húc thủng một lỗ lớn trên vỏ tàu gỗ - may mắn thay ở trên phần ngập nước của tàu. Chiếc tàu nhỏ chưa hết rung động vì va chạm này, một tràng đạn đã quét trên boong. Các đại liên của tuần dương hạm mở đường cho toán quân chiếm tàu.
Các thủy quân lục chiến trang bị vũ khí cá nhân và mặt nạ phòng hơi đã nhảy sang tàu Đất Hứa, từ phía mũi ùa về phía đài chỉ huy. Trong khi họ còn lúng túng gỡ khỏi các vòng kẽm gai do các Palmachnik tung ra, họ bị lãnh một trận mưa đá, kèm theo đó là các vòi nước xịt mạnh. Bị đẩy lùi về đàng mũi tàu, họ vừa nổ súng vừa yêu cầu tăng viện. Nhiều thủy quân lục chiến khác sang tăng viện và cố cắt kẽm gai. Một cuộc xung phong thứ hai về đài chỉ huy lại bị đẩy lùi bằng các vòi nước xịt. Nỗ lực lần thứ ba của người Anh được đại liên yểm trợ. Lần này, quân Anh vượt qua được các hàng rào kẽm gai, nhưng để rồi bị phỏng bởi một hàng rào hơi nước nóng sôi. Do đó bên quân Anh hàng ngũ rối loạn và tình trạng này cho phép các palmachnik phản công. Trong một trận hỗn chiến ngắn, các palmachnik bắt được hết các thủy quân lục chiến Anh và ném từng tên một xuống biển, cho tới tận kẻ cuối cùng.
Chiếc Apex ngừng lại để vớt quân của mình lên, còn Đất Hứa lại tiếp tục tiến cà rịch cà tàng với sườn tàu rách tung. Chiếc Dunston đuổi kịp dễ dàng. Nhưng húc lần nữa có vẻ nguy hiểm: đến lần thứ hai chắc sẽ gửi Đất Hứa xuống đáy biển luôn. Vì vậy tàu Dunston đành dùng đại liên quạt lia lên tàu Đất Hứa, bắt các palmachnik phải tìm chỗ nấp. Rồi một toán xung kích chiếm tàu lại leo lên bằng các thang móc vào lan can. Vung đoản côn, bắn vài phát súng lục, quân Anh tiến về đài chỉ huy. Trong khi đó, tàu Apex đã tiếp tục chạy tới để tham dự vào trận chiến. Một toán xung kích thứ hai được ném ra dưới sự che chở của một hàng rào hơi cay mắt. Bị đánh gọng kềm, các palmachnik phải lui.
Dov đã chiến đấu dữ dội. Hắn thuộc vào toán có nhiệm vụ bảo vệ thang dẫn lên đài chỉ huy. Bốn, năm, sáu lần, toán này đã đánh ngã lộn nhào các thủy quân lục chiến bám vào thang cho tới khi hơi cay mắt và đạn đại liên làm họ không thể chống cự nổi nữa.
Bây giờ quân Anh đã làm chủ trên tàu. Trong khi đa số quân xung kích Anh bắt các palmachnik đứng yên bằng các tiểu liên, phần còn lại nhào vào phòng lái. Họ va phải Bill Fry và năm người của thủy thủ đoàn, mặc dù hoàn toàn bao vây, vẫn kháng cự lại bằng đấm đá và súng lục. Sau cùng, các thủy quân lục chiến bắt được Bill kéo ra ngoài, đánh cho xỉu bằng đoản côn.
Sau một trận chiến đấu kéo dài bốn tiếng đồng hồ, quân Anh làm chủ chiến trường. Việc chiếm tàu Đất Hứa làm họ chết tám người và bị thương chừng hai chục. Bên Do Thái mười lăm chết, trong đó có thuyền trưởng Bill Fry.
Chiếc Dunston dùng dây kéo Đất Hứa về tận Haifa, nơi các nhà cầm quyền quân sự Anh đã áp dụng các biện pháp nhằm cô lập hóa hoàn toàn hải cảng. Sư đoàn 4 Không vận chiếm đóng các ke, súng trì sẵn, quân phục tác chiến. Nhưng trong khi người Anh lo lắng giữ bí mật như vậy, họ lại không biết rằng đài phát thanh bí mật Do Thái đã phổ biến trọn vẹn "vụ chiếm tàu đặc biệt có tính cách hải tặc ấy". Các đoàn thể phục quốc Do Thái liền tuyên bố tổng đình công. Và người Anh vội vàng đưa thêm quân tới, cả thiết giáp nữa để tạo một vòng đai bất khả vượt giữa những người tị nạn và các người dân Palestine đang nổi giận bừng bừng. Bốn tàu chuyên chở tù binh mang các tên hùng hồn rất mỉa mai là Magna Charta, Empire Monitor, Empire Renown và Empire Guardian sẵn sàng tiếp nhận ngày các di dân của tàu Đất Hứa. Nhưng đúng vào lúc chiếc tàu hơi cũ kỹ nghiêng về một bên một cách nguy hiểm tiến vào vịnh Haifa, thì một tiếng nổ lớn ra làm rung chuyển cả thành phố. Đó là chiếc Empire Monitor vừa nổ tung. Một thành công đẹp đẽ của những người nhái Palmachnik đã bơi dưới nước, gắn một quả mìn từ tính vào vỏ tàu.
Mặc dù sự ngăn trở này, việc chuyển người sang tàu được thực hiện ngay lập tức. Đa số các di dân quá mệt, quá mất tinh thần, để nghĩ đến chuyện chống cự nữa. Ủ rũ, tiêu cực, họ để người Anh đưa vào các hangar cởi bỏ quần áo, bơm đầy người một chất lỏng khử trùng, khám xét rồi sau đó ngay lập tức lại được đưa lên ba chiếc "nhà tù nổi" còn lại. Tuy vậy vẫn còn một nhóm nhỏ bất khả trị, khoảng chừng hai mươi lăm người trong đó có Dov Landau. Cố thủ trong một khoang tàu, trang bị các ống chì, chống lại người Anh đến cùng. Người Anh phải bơm hơi cay vào tàu để trục xuất họ ra. Dov được bốn người lính áp tải đưa xuống đất một cách vất vả vì hắn kháng cự vùng vẫy dữ đội. Bị lôi xềnh xệch lên tàu Magna Charta, Dov bị quẳng không thương tiếc vào phòng giam trên tàu.
Ngay chiều hôm đó, ba chiếc nhà tù nổi, còn chở đông hơn cả chiếc tàu bất hạnh Đất Hứa nữa, rời hải cảng Haifa dưới sự hộ tống của Dunston và Apex.
Họ sẽ được đưa tới đâu? Nếu người Anh đem giam giữ họ tại Chypre, trong các trại đã đông nghẹt rồi, chiến thuật của Mossad chắc đạt được mục tiêu. Chính sách "nhân đạo" của Anh quốc như vậy sẽ chỉ đưa tới việc thêm sáu ngàn năm trăm người Do Thái trốn thoát các lò thiêu xác vào đám đông đang mọc rêu trong chờ đợi ở Chypre, nằm giữa đường Âu châu thù nghịch và Palestine bị cấm đoán.
Tại Luân Đôn, mọi người tưởng đã tìm được một giải pháp:
"Các di dân của tàu Đất Hứa sẽ được đưa trở lại Toulon, nơi họ đã lên tàu. Kể từ giờ, tất cả những ai định phá sự phong tỏa sẽ được đưa về hải cảng đã xuất phát".
Các cán bộ của Palmach và Mossad đi cùng với các di dân không hề sững sờ trước một giải pháp như thế. Đối với họ, tình thế thật rõ ràng: nếu các người Do Thái chịu lên bờ ở Toulon, người Anh xem như cơn giông tố đã qua. Không ai còn dám phiêu lưu nhập nội bất hợp pháp nữa. Thế là chấm dứt mọi nhập nội bất hợp pháp vào xứ Palestine.
Khi các nhà tù nổi sắp bỏ neo ở Toulon, các mật lệnh bắt đầu được loan truyền đi trên các tàu. Cùng một lúc, các cấp chỉ huy của Palmach đệ trình các hạm trưởng Anh một thông điệp y hệt nhau, tuyên bố rằng "muốn bắt chúng tôi lên bờ, phải dùng tới võ lực".
Phân vân, các hạm trưởng điện về bộ Hải quân xin chỉ thị. Bộ ngoại giao Anh ngay lập tức dùng mọi nỗ lực gây áp lực với Ba Lê - một áp lực tối đa tới mức độ dám làm đổ vỡ bang giao Anh Pháp. Người Pháp được "mời" giữ được thái độ trung lập nghiêm chỉnh và cho phép các Hải quân của Anh hoàng đưa các Do Thái lên bờ, dầu phải dùng tới sức mạnh chăng nữa. Trong bốn ngày liền, rất nhiều điệp văn được trao đổi giữa bộ Hải quân và các nhà tù nổi, giữa Ba Lê và Luân Đôn. Đến ngày thứ năm, chính quyền Pháp phúc đáp dứt khoát:
"Chính phủ Pháp sẽ không cho phép việc cưỡng bách các di dân lên bờ. Tuy vậy, nếu các di dân tự nguyện muốn trở lại đất Pháp, họ sẽ được tiếp đón tử tế".
Được khuyến khích bởi lập trường cương quyết này, các Do Thái trên ba tàu đều nghiêm trọng xác định ý chí muốn ở lại trên tàu. Người Anh mất hai mươi bốn giờ mới tỉnh trí lại. Rồi họ báo cho các di dân biết rằng nếu không chịu lên bờ tại Toulon, họ sẽ phải ở lại cái vịnh Lion này đến ngày thở hơi cuối cùng.
Các người Do Thái không buồn trả lời nữa. Bình tĩnh, một cách cố ý, họ cư ngụ trên các tàu như nhà mình. Các Palmachnik tổ chức các lớp học, lập một bản tin tức và một ban kịch nhạc, nói một cách chung, họ cố hết sức mình để duy trì một thứ đời sống xã hội ở trên tàu. Vì phía Pháp, chính phủ Pháp lo việc tiếp tế thực phẩm và săn sóc sức khỏe. Có nhiều đứa trẻ được sinh trên tàu. Sau một tuần lễ, phải chấp nhận sự kiện hiển nhiên sau: các di dân giữ vững được lập trường.
Tại đất liền, các ký giả tò mò chú ý đến ba chiếc tàu bị bao vây bằng một bức tường im lặng này. Một đêm, một cán bộ của Mossad rời tàu Empire Guardian, bơi vào bờ, và qua một buổi họp báo thực sự, đã kể lại hết đầu đuôi nội vụ cho các đại diện của báo chí Pháp.
Hai mươi tư giờ sau, trong tất cả các nhật báo chính của Pháp, Ý, Hòa Lan cùng Đan Mạch, đều có các bài xã thuyết chỉ trích dữ dội thái độ của Anh quốc.
Trước làn sóng phẫn nộ của dư luận quần chúng này, Luân Đôn im lặng ngượng nghịu. Chính phủ Anh chờ các phản ứng như vậy: chính thực ra, họ chờ sẵn đối phó với tất cả mọi sự - ngoại trừ sự cứng đầu không thể ngờ nổi của các di dân. Các điều kiện sinh hoạt trận các tàu chở tù rất là tồi tệ: quá đông người, thiếu không khí thiếu vệ sinh, và các điều này đã tạo ra nhiều bệnh tật. Và các thủy thủ Anh trên bờ thần kinh đã bắt đầu căng thẳng. Họ đã không dám phiêu lưu xuống các khu giam giữ để áp dụng kỷ luật nữa...
Sau hai tuần lễ, những người Do Thái vẫn giữ vững tiếng la hò của báo chí thế giới mỗi ngày một tăng thêm.
Tuần lễ thứ ba... Tuần lễ thứ tư... Rồi một người Do Thái đầu tiên lên bờ mà không ai có thể trách người Anh đã dùng tới bạo lực: người này đã chết. Các hạm trưởng của ba tàu cho biết là các di dân cương quyết hơn bao giờ hết. Tại hạ viện Anh, các dân biểu thắc mắc về sự khai triển mạnh của chiến dịch chống Anh quốc. Nếu còn những người khác chết phải đưa lên bờ, nội vụ dám xoay ra một chiều rất tồi tệ hơn.
Lo lắng ra thoát khỏi tình trạng rắc rối ấy, người Anh yêu cầu các di dân đề cử các đại diện "để cùng cứu xét các khía cạnh dị biệt của vấn đề". Họ nghĩ rằng việc thảo luận sẽ đưa đến một thỏa hiệp tránh cho người Anh khỏi mất mặt. Nhưng câu trả lời của ba người chỉ huy Palmach mỗi người ở ba tàu - đồng nhất như sau:
"Chúng tôi chỉ chấp nhận một giải pháp: cho chúng tôi vào Palestine".
Đến giờ, các nhà tù nổi đã bỏ neo trước Toulon sáu tuần lễ rồi. Ngày mà chiếc xuồng máy đưa vào người Do Thái thứ hai chết, người Anh gởi đến cho người Do Thái một tối hậu thư cứng rắn: hoặc là chịu lên bờ, hoặc là họ chịu lãnh mọi hậu quả của sự cứng đầu của họ. Không ai biết những hậu quả này sẽ gồm những gì, nhưng sau khi tối hậu thư bị khước từ, Luân Đôn bắt buộc phải chấm dứt một tình trạng đã kéo dài quá lâu.
Empire Guardian và Empire Renown sẽ nhổ neo ngay lập tức tới Hambourg thuộc vùng chiếm đóng của Anh. Sau khi tới nơi, các hành khách của hai tàu sẽ được đưa lên bờ, nếu cần bằng võ lực, và giam giữ tại Dachau cho tới khi chính phủ Đức có một quyết định dứt khoát về vấn đề của họ.
Vào lúc hai tàu trên vượt eo Gibarltar, Mossad trong một nỗ lực hối hả, thực hiện một dự án mới: lần này, sẽ trang bị hai tàu chở mười lăm ngàn di dân để phá phong tỏa vùng bờ biển Palestine. Phải lợi dụng ngay trường hợp thuận tiện: khi các di dân trở lại Đức và đem giam vào Dachau, người Anh sẽ đưa sự giận dữ của dư luận thế giới lên tới cực độ. Đối với Mossad Aliya Bet, đây là một chiến thắng - một chiến thắng buồn thảm, cay đắng, một chiến thắng để lại dư vị đắng cay trong miệng những kẻ chiến thắng.
Sau cùng để ít nhất cũng có một hành động hòa giải, người Anh cho chiếc tàu tù thứ ba, Magna Chaata, về đảo Chypre và cho giam các hành khách vào trại Caraolos. Chính vì thế, Dov Landau có được điều hài lòng tương đối là trải qua ngày sinh nhật thứ mười sáu của mình không phải trong bầu khí xám xì nặng nề của Dachau, mà dưới bầu trời Địa trung hải. Dĩ nhiên là trong một trại, đằng sau các hàng rào kẽm gai.
Dov Landau, tóc vàng, mắt xanh... một khối căm thù.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:41:06 GMT -6
Phần I => Chương 27
Một năm sau, Dov Landau vẫn còn ở Caraolos. Ngày sinh nhật thứ mười bảy của chàng không khác gì các ngày khác. Dov nằm dài trên giường, nhìn đăm đăm vào khoảng không, thu hình lại đằng sau vẫn thứ im lặng toàn diện mà chàng giữ kể từ khi những thủy quân lục chiến Anh lôi chàng ra khỏi hầm tàu Đất Hứa.
Trong nhiều tháng liền, các y sĩ, giáo viên, Palmachink, đã cố gắng tìm cách xuyên thủng bộ áo giáp căm thù ấy. Nhưng vô ích: Dov nghi ngờ tất cả mọi người và chỉ tìm cô đơn.
Nhưng dầu vậy... Trong căn lều đối điện, có một thiếu nữ, một thiếu nữ đẹp nhất chàng được thấy trên đời. (Trong các nơi chàng đã được sống, chưa có một thiếu nữ nào duyên dáng có thể quyến rũ chàng được). Thiếu nữ này mỉm cười mỗi khi gặp, nàng không có vẻ ghét chàng hay kiêu kỳ. Dov đã tìm được cách biết tên nàng: KarenHansen-Clement.
Về phía Karen, nàng đã chú ý đến Dov và đã tìm biết tại sao chàng trai này không theo học một khóa nào, không tham dư vào bất cứ cái gì trong rất nhiều sinh hoạt của trại. Mọi người đã căn dặn nàng coi chừng: Đó là một tên hết-thuốc-chữa, có lẽ còn là một tay nguy hiểm nữa. Đối với thiếu nữ, một định nghĩa như vậy về Dov là một thách thức đáng đương đầu. Một mặt khác, sự việc Dov là một kẻ thoát chết ở Auschwitz làm gợi trong lòng nàng một tình thương xót bao la. Vả lại, đối với các trẻ em được trao cho nàng coi, nàng đã đạt được các kết quả đáng ngạc nhiên. Bởi thế dù ý thức rằng thận trọng có lẽ nên để cho anh chàng gấu này yên, nàng vẫn cảm thấy tò mò mỗi lúc gia tăng mỗi khi nàng có dịp nhìn vào lều của Dov.
Một buổi sáng, Dov nằm dài trên giường, mồ hôi đang toát ra đầm đìa dưới sức nóng của mùa hè, đột nhiên chàng cảm thấy có sự hiện diện của một người khác trong lều. Chàng vội ngồi nhổm dậy và khi nhìn thấy Karen, chàng sững người như chờ đợi một xúc động mạnh mẽ xảy tới. Karen nói:
- Tôi nghĩ là có thể mượn anh chiếc thùng đựng nước. Chiếc thùng của tôi chảy mà các xe chở nước sắp sửa đi qua...
Dov nhìn nàng đăm đăm không trả lời, mắt chớp lia dưới ánh sáng chói chang.
- Tôi tự hỏi không biết tôi có mượn được thùng của anh chăng.
Dov hừ một tiếng.
- Thế nào? Anh cho mượn hay là không? Anh không biết nói sao?
Hai người gườm gườm đối đầu nhau như hai còn gà chọi. Karen bắt đầu hối tiếc ta đã vào đây làm quen. Nàng thở mạnh.
- Tên tôi là Karen. Tôi là hàng xóm của anh.
Vì Dov vẫn căm nín nàng xẵng giọng hơn:
- Về cái thùng, anh có cho mượn hay không cho mượn? - Này, cô đến đây để thương hại tôi phải không? - Tôi đến để mượn cái thùng của anh! Xét kỹ, tôi chẳng thấy ở anh cái gì đáng để thương hết.
Dov quay đi, ngồi xuống giường tức tối. Sự ngay thẳng của thiếu nữ làm chàng lúng túng không biết đối phó ra sao. Bằng một cử động mơ hồ, chàng chỉ cái thùng và nàng cầm lấy. Chàng ngắm trộm nàng. Karen hỏi:
- Tên anh là gì? Tôi muốn biết tên anh để gọi khi mang trả thùng.
Chàng lầu nhầu: Dov. Dov Landau.
- Bây giờ kể như chúng ta biết nhau rồi, chắc chúng ta sẽ có dịp chào hỏi nhau. Ít nhất cũng phải đợi cho tới khi anh biết cười đã.
Dov quay lại từ từ, như miễn cưỡng, nhưng nàng đã đi rồi. Dov cũng đi ra và nhìn nàng chạy tới đón chiếc xe chở nước vừa tiến vào trại. Dov nghĩ thầm "Nàng đẹp làm sao!".
- Chào anh Dov. Cám ơn anh đã cho tôi mượn thùng.
Dov hầm hừ.
- À, quả ra đúng vậy đó, anh đúng là cái anh chàng chỉ biết hầm hừ chứ không biết nói. Trong vườn trẻ của tôi, tôi cũng có một chú bé cũng có thói hầm hừ như anh. Nhưng nó, ít nhất nó cũng cho rằng nó là con sư tử.
Dov la hết sức mình: Chào cô!
Chết thì thôi chứ Dov không dám thú nhận là chàng biết buổi sáng giờ nào nàng thức giấc, và biết đến tận thời khóa biểu các giờ học của nàng nữa. Một ngày nọ, Dov lẻn vào lều nàng để xem xét chiếc thùng nước của nàng: thùng nguyên vẹn, không thủng một lỗ nào cả. Trong nhiều giờ liền, Dov nằm dài trên giường, nhìn từng bước chân của nàng ngoài lối đi. Đôi khi chàng đứng dậy, cố ẩn giấu để tìm cách nhìn thoáng được nàng. Và vì Karen cũng thường hay quay đầu về lều của con gấu khó tính ấy nên đã xảy ra những trường hợp bốn mắt giao nhau. Những khi ấy, Dov lùi lại phía sau, tức giận vì bị bắt quả tang giây phút yếu lòng.
Một buổi tối Dov đứng gần hàng rào kẽm gai, ngắm điệu vũ không biết mệt của các đèn pha quét đi quét lại trên các lối đi trong trại. Trong vận động trường, các Palmachnik đã tổ chức một đêm lửa trại, các con trai gái hát và nhảy quanh đống lửa. Dov nhớ lại những buổi họp của Những Người Chuộc Tội mọi người cũng đã hát và đã nhảy cùng các bài ca và điệu vũ ấy. Anh Mundek, các chị Ruth và Rebecca bao giờ cũng tham dự cách buổi hội họp như thế...
- Chào anh Dov!
Chàng quay vụt lại. Trong bóng tối, chàng đoán ra thân hình mảnh mai của Karen cách đó vài bước. Nàng thì thào:
- Lại dự lửa trại với tôi, anh Dov.
Nàng bước lại gần hơn, nhưng Dov quay mặt đi. Nàng nằn nì:
- Anh rất mến tôi phải không? Anh có thể nói chuyện với tôi hoàn toàn tin cậy. Tại sao anh không chịu đến lớp học, không chịu gia nhập với bọn tôi?
Dov lắc đầu.
- Anh Dov, nghe tôi...
Giận dữ, Dov quay lại nhìn thẳng Karen, la lớn:
- Vậy đó! Tội nghiệp Dov! Tội nghiệp anh chàng nhỏ trục trặc thần kinh! Cô thì cũng như bọn họ, chỉ có điều cô ăn nói khéo hơn thôi.
Dov nắm lấy cổ Karen, khép các ngón tay lại:
- Cô cút đi đâu thì đi, để tôi yên thân, hiểu chứ... Để tôi yên thân, nếu không...
Karen nhìn thẳng vào mắt Dov.
- Buông tôi ra... Ngay lập tức!
Dov buông thỏng hai tay và lùi lại một bước, nói nhỏ:
- Tôi chỉ định làm Karen sợ thôi. Tôi không hề định làm Karen đau.
Nàng nói: Anh nghe đây, tôi không sợ anh đâu.
Nàng nói xong, đi xa.
Trong một tuần lễ liền, Karen coi Dov như không có trên đời. Còn Dov khích động ghê gớm, trải qua bảy ngày ấy bằng cách đi đi lại lại tối ngày. Tại sao chàng lại để người còn gái này đi vào cuộc đời chàng? Cho tới giờ, chàng cô đơn với các kỷ niệm của mình.
Ngay thứ tám ở vận động trường, Karen đang an ủi một đứa bé bị ngã thì ngửng đầu lên, nàng thấy Dov đang đứng im lặng đằng sau lưng.
- Chào cô!
Nói xong. Dov quay gót bước đi.
Vài ngày sau nữa, nàng thấy một hình vẽ để trên giường mình: trước một nền kẽm gai một cô gái quỳ gối vỗ về một đứa bé đang khóc. Nàng đi ra, vào lều Dov.
- Tôi không biết anh là một nghệ sĩ như vậy.
Dov cáu kỉnh.
- Không có gì đáng ngạc nhiên hết. Tôi đã có dịp để thực tập. Tôi còn có sở trường nữa là vẽ các chân dung George Washington và Lincoln.
Thu người trên giường, khó chịu, Dov cắn môi. Karen ngồi xuống bên cạnh. Bằng một ngón tay rụt rè, nàng lướt nhẹ trên cánh tay trái Dov, nơi có xâm số tù.
- Auschwitz? - Tại sao cô lại chú ý đến tôi? - Tại sao ấy hả... Anh không thể nghĩ là tôi thích anh sao?
Dov cười khẩy.
- Thích tôi? - Tại sao lại không nhỉ? Anh khá bô trai, ít ra là trong những lúc hết sức hiếm hoi, anh không có vẻ muốn cắn người ta, và anh có một giọng nói rất dễ chịu... Ở trong trường hợp là anh không có hầm hừ hầm hừ...
Dov không nhận ra môi mình đang run lên, chàng bập bẹ:
- Tôi... Tôi cũng thích cô. Tôi có cảm tưởng là cô hiểu tôi... Như anh Mundek ngày trước. - Anh bao nhiều tuổi rồi? - Mười bảy tuổi.
Dov đột ngột đứng dậy
- Niềm căm thù làm tôi ngạt thở ấy... Tụi Anh khốn kiếp, tôi thật ghét chúng! Tụi chúng chẳng hơn gì tụi Đức. - Anh Dov! Đừng thế!
Cơn giận của Dov lắng xuống nhanh như nó đã bùng ra. Đây là một sự khởi đầu của một tâm bệnh sắp lành. Đây là lần đầu tiên có lẽ từ một năm nay. Dov đã thốt ra nhiều câu liên tiếp. Bây giờ dưới đôi mắt của thiếu nữ, chàng lại co quắp thu mình lại, khép kín trong vũ trụ riêng đầy những bóng ma.
Nhưng bước đầu khó khăn đã qua. Kể từ ngày hôm ấy, Dov không còn giấu diếm ước muốn gặp mặt Karen nữa và Karen nàng cũng bắt đầu tin cậy ở Dov. Mọi sự cứ tiếp diễn tốt đẹp như thế cho tới một buổi sáng, phép mầu đã xảy ra: Dov Landau cười. Nụ cười đầu tiên của chàng từ tám năm nay!
Tình bạn của họ đã kéo dài được nhiều tuần, khi vào một buổi tối, Karen đến kiếm Dov để hoàn tất mọi nhiệm vụ đã được trao phó.
- Các anh ấy nói tôi tới yêu cầu Dov giúp cho một việc...
Ngay lập tức, Dov thủ thế liền: Loại việc gì?
- Các cấp chỉ huy của Mossad đã khám phá ra Dov là một tay làm giấy tờ giả hữu hạng. Một trong các cấp chỉ huy đó, anh Ari Ben Canaan, vừa từ Palestine tới, cần tới Dov đó. Anh ấy cần các giấy thông hành, giấy di chuyển, cùng các tài liệu chính thức khác...
Dov ngắt lời: Tôi hiểu rồi! Chính vì thế mà cô đã tỏ ra dễ thương với tôi. Chỉ cốt để lôi tôi nhập bọn!
- Dov im đi nào! Chính Dov, Dov cũng không tin lời mình nói nữa đấy. - Đúng. Nhưng tôi không hiểu tại sao tôi lại phải làm việc cho họ nhỉ. - Các anh ấy đã làm việc nhiều cho Dov. - Karen ngây thơ lắm. Họ làm việc để cứu cái mạng của họ. Có thế thôi. - Được lắm. Nếu đó là ý của anh, anh cứ việc tự do giữ lấy. Trước đây anh đã có thể chế tạo đô la Mỹ cho bọn quốc xã, bây giờ anh không có thể chế tạo thông hành giả cho Mossad sao!
Dov cằn nhằn: Quả thực cô nên đi làm luật sư. Cô tìm lý lẽ thật giỏi.
Karen năn nỉ:
- Tôi xin Dov. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Dov giúp tôi điều gì, có phải không? Bây giờ tôi trả lời họ ra sao? -... Có thể tôi sẽ nhận, nhưng còn vài điểm cần phải giải quyết cho rõ đã.
Karen mỉm cười và cầm tay Dov.
- Tại sao không giải quyết vài điểm ấy với Ben Canaan! Anh ấy đang đợi Dov.
Dov lắc đầu.
- Không. Tôi thích để anh ấy lại kiếm tôi. Để anh ta đích thân tới hợp lý hơn.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:53:16 GMT -6
Phần I => Chương 28
Hai mươi bốn giờ trước ngày N của "Chiến dịch Gédéon", một buổi hội họp sau cùng của Mossad được tổ chức ở nhà Mandria.
David Ben Ami mang tới những giấy di chuyển Dov vừa làm xong. Ari xem xét một cách thỏa mãn: những giấy tờ giả này sẽ đánh lừa viên sĩ quan nào đa nghi nhất, sau đó là phần báo cáo:
Báo cáo của David về cả ngàn chi tiết tân trang tàu: tiếp tế thực phẩm.
Báo cáo của Joab Marconi, phụ trách vụ di chuyển trên bộ. Các cam-nhông của anh sẵn sàng khởi hành bất cứ lúc nào có lệnh, và sẽ đi lộ trình từ nơi để xe đến trại Caraolos đúng hai mươi phút. Còn về lộ trình Caraolos Cyrénia, anh đã tính giờ sẵn cho nhiều lộ trình khác nhau.
Báo cáo của Zev Gilboa phải đưa ba trăm trẻ lên xe trong khoảng thời gian vài phút. Anh định sẽ cắt nghĩa cho các trẻ việc gì sẽ xảy ra, ngay trước khi chúng rời trại.
Báo cáo của Hank Schlosberg, thuyền trưởng người Hoa Kỳ của chiếc Exodus. Ông này trình bày rằng sẽ nhổ neo từ Larnaca vào lúc hoàng hôn như thế nào để có thể đến Cyrénia ít nhất một giờ trước khi đoàn xe chở trẻ tới.
Sau cùng là báo cáo của Mandria. Ông này đã bố trí dọc lộ trình đào thoát cả một hệ thống quan sát viên để báo động ngay cho chiếc xe đầu mọi hoạt động khả nghi của quân Anh. Ông cũng đặt các đài quan sát trên năm hay sáu lộ trình phòng hờ khác. Còn chính ông sẽ đợi trong văn phòng của mình ở Famagouste. Ngay khi đoàn xe chạy qua dưới cửa sổ văn phòng ông, ông sẽ điện thoại lại Cyrénia để báo cho Mark Parker biết.
Ari đứng dậy và nhìn các phụ tá của mình. Rõ ràng là tất cả những người này đều hồi họp bồi hồi, ngay cả Marconi bình thường lạnh lùng, cũng nhìn chăm chú xuống sàn. Ari không hề nghĩ đến chuyện khen họ, cũng như không có chúc họ may mắn. Các lời khen ngợi để về sau, còn về may mắn, thì chính họ phải tạo ra và nắm lấy.
- Lúc đầu, tôi định đợi chính người Anh bắt đầu cho di chuyển các trẻ con sang trại mới. Tuy nhiên, các tin tức giờ chót đã làm tôi phải quyết định thực hiện chiến dịch sớm hơn. Chúng ta được biết là thiếu tá Allistair nghi ngờ chúng ta làm một vụ gì lớn và hình như thiếu tá này đã vượt qua thượng cấp là thiếu tướng Sutherland để xin chỉ thị mới trực tiếp từ Luân Đôn. Vậy chúng ta phải hành động ngay. Sau đây là thời dụng biểu của chiến dịch: Vào lúc 9 giờ, các xe cam-nhông của chúng ta tới cổng trại Caraolos. Vào lúc 10 giờ các trẻ đã lên xe xong và đoàn xe đã đi qua nhà này. Kể từ lúc đoàn xe rời con đường Larnaca, sẽ có hai giờ gay go. Chúng ta không có lý do nào để giả đoán rằng đoàn xe bị chận lại dọc đường, ít nhất cũng vì lý do tất cả mọi người ở Chypre đều biết Đại đội 23 Vận tải HMJFC. Nhưng... chúng ta phải xét tới sự kiện thiên hạ nghi ngờ chúng ta. Có ai thắc mắc gì không?
Không ai trả lời. Mỉm cười, Ari tiến về phía Mandria, ôm lấy ông này theo cách thế thân ái của các palmachnik. Chàng nói:
- Ông đã tỏ ra là một trong những người bạn tốt nhất chúng tôi có thể gặp trên đời. Thôi bây giờ tôi phải tạm biệt các bạn. Tôi phải tới gặp Parker.
Một nửa giờ sau, sau khi đã ngụy trang dưới quân phục đại úy Caleb Moore quân lực Anh, Ari gặp Mark Parker ở nhà hàng sân thượng khách sạn "Vua George". Nhà ký giả rõ ràng chỉ còn là một bộ dây thần kinh căng thẳng. Ari ngồi xuống bàn từ chối điếu thuốc Mark mời và gọi một ly scotch.
- Mọi sự vào ngày mai đây. Chúng tôi sẽ tới Caraolos vào lúc 9 giờ sáng. Thật không may là chúng ta không thể chần chừ lâu hơn được nữa. Một người bạn làm ở An ninh Quân đội đã cho biết là ông bạn Allistair thân mến của chúng ta đang âm mưu một cái gì đó. Nhưng kìa, tôi xin ông bạn, hãy ngồi cho thoải mái ra nào. Quân Anh đang tìm kiếm, nhưng họ chưa biết gì cả. Trong khi anh, anh lại biết rõ tất cả.
Mark đồng ý trong im lặng. Chàng sẽ gởi một điện tín yêu cầu cho gia hạn nghỉ phép ở Luân Đôn, Bradbury khi nhận được điện tín ký tên "Mark", sẽ biết là "Chiến dịch Gédéon" đã thành công và cho đăng tải ngay bài phóng sự Mark đã viết sẵn và gởi về một tuần lễ trước đây. Mark nói:
- Nếu Mandria không gọi tôi vào lúc 10 giờ như đã thỏa thuận thì sao?
Ari nở một nụ cười nhạt nhẽo:
- Trong trường hợp đó, anh nên chuồn gấp bằng chuyến phi cơ đầu tiên cất cánh rời đảo này. Ngoại trừ khi anh muốn ở lại để dự lễ xử giảo tôi.
Mark đưa ly lên uống một hơi cạn, nhận xét:
- Chắc vụ đó sẽ là một bài báo hay.
Ari nói:
- Tiện đây nói luôn. Kitty không trở lại trại làm việc kể từ khi anh chàng nhãi Dov ấy bắt chúng ta phải ghi tên Karen vào danh sách đi tàu Exodus. - Tôi biết chuyện đó. Nàng đang ở với tôi ở Khách sạn Dôme. - Nàng khỏe mạnh?
Mark nổi giận:
- Thế anh tưởng nàng ra sao nữa? Kitty rất khổ, hết sức khổ sở. Kitty sẵn lòng đổi bất cứ cái gì để Karen đừng lên Exodus. Có lẽ anh trách cứ Kitty về chuyện đó? - Chắc chắn là không rồi. Tôi chỉ thương cho nàng thôi. - Quý hóa quá! Tôi không được biết là anh lại có thể thương được cái gì trên đời... - Tôi thương nàng bởi vì nàng đã để tình cảm khống chế lương tri. - Đúng đấy... tôi quên phăng mất là anh không hề biết tình cảm là gì hết.
Ari nhìn Mark với một vẻ bình tĩnh đượm thích thú.
- Anh Mark, thần kinh anh căng thẳng quá rồi đấy.
Mark cố gắng mới kìm được cơn giận.
- Điều đó làm anh ngạc nhiên sao? Kitty, trong đời nàng, nàng đã phải chịu nhiều đau khổ ngoài sức chịu đựng của con người.
Ari nhắc lại:
- Đau khổ? Tôi tự hỏi liệu Kitty Fremont có biết tới nghĩa của chữ này nữa không?
Mark lớn tiếng:
- Tôi muốn bẻ gãy cổ anh quá! Cái gì đã làm anh tưởng rằng dân Do Thái các anh giữ độc quyền về đau khổ? - May mắn thay là các ông chủ báo không có trả lương anh để anh thương tôi. Dẫu sao, anh ưa hay ghét tôi, điều đó đối với tôi hoàn toàn không quan trọng. - Chắc chắn thế rồi. Nhưng làm sao được... Tôi ưa những ai có những sự yếu đuối thông thường của con người. - Chắc chắn là tôi không có những yếu đuối loại đó trong những giờ tôi làm việc.
Tức giận, Mark đứng dậy toan đi chỗ khác. Bàn tay mạnh mẽ của Ari nắm chặt lấy cánh tay chàng. Lần đầu tiên Mark thấy Ari ở trạng thái suýt mất bình tĩnh.
- Thưa ông ký giả, ông tưởng ông đang ở đâu đây! Ở một buổi dạ hội phù hoa trong hoa viên một quận chúa chăng? Ông quên mất rằng sáng ngày mai đây chúng tôi phải đụng độ với cả đế quốc Anh.
Buông cánh tay của Mark, Ari quay đi, ngượng ngùng rõ rệt là đã để lộ cơn giận ra ngoài. Mark không thể không cảm thấy một sự thương sót mơ hồ. Chắc chắn là Ari tự chủ hơn chàng rồi, nhưng với thần kinh căng thẳng với tình hình hiện tại cũng đã gây một cái gì cho con người "khổng lồ" xem bề ngoài như không bao giờ biết cảm giác là gì.
Vài giờ sau, Mark trở về Cyrénia, vào khách sạn Dôme, tới gõ cửa phòng Kitty. Nàng còn đủ sức mỉm cười nhẹ đón chàng, nhưng đôi mắt đỏ nhiều vì khóc chứng tỏ nàng rất buồn khổ. Mark loan báo: Vào ngày mai đấy.
Nàng cứng người lại.
- Nhanh đến thể sao? Em tưởng... - Họ e ngại quân Anh đã nghi ngờ điều gì rồi.
Kitty đi lùi đến tận cửa sổ và giả vờ ngắm quang cảnh bên ngoài: trong không gian trong suốt như pha lê, như đoán thấy được bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ ở chân trời. Nàng nói khe khẽ:
- Em đã cố tìm đủ can đảm để thu xếp hành lý. Để rời Chypre... - Nghe đây em yêu.. ngày khi câu chuyện này chấm dứt, cả hai chúng ta sẽ cùng ra đi. Một vài tuần lễ ở Côte d’Azur sẽ hữu ích cho em. - Anh tưởng chỉ cần bấy nhiêu là đủ cho em trở lại như cũ được sao? Vả lại, anh phải đi Palestine, phải không? - Anh không cho rằng người Anh sẽ cho phép anh nhập nội xứ đó, sau vố mà anh đã chơi họ. Em biết không... Anh rất tiếc đã lôi kéo em vào chuyện phiêu lưu này. - Không phải lỗi tại anh đâu, anh Mark. - Có chứ - ít nhất trong một mức độ nào đó. Bây giờ anh đang tự hỏi em làm sao qua khỏi nỗi khổ này đây. Em liệu có đủ sức chống trả được không?
Nàng trả lời bằng giọng thiếu tin tưởng:
- Phải có đủ chứ, anh. Anh Mark... sẽ có nguy hiểm cho những kẻ sẽ lên tàu Exodus phải không? - Đến đây thì có giấu em cũng vô ích. Chiếc tàu đáng thương này là cả một trái bom nổi.
Nàng loạng choạng như bị ai đánh mạnh.
- Nói thật hết đi anh, anh Mark, anh có tin các trẻ em sẽ có may mắn ra thoát khỏi không? - Nói cho thực, anh tin là có một may mắn. Một may mắn lớn là khác với một tay làm trò như Ben Canaan, thông minh, đa mưu túc kế và không tình cảm.
Mặt trời lặn. Mark và Kitty, trong căn phòng bóng tối xâm chiếm dần dần, im lặng theo dõi tư tưởng riêng của mình. Sau cùng Mark nói: Đứng suốt đêm cũng chẳng ích gì.
Kitty thì thào: Anh đừng để em một mình anh Mark.
Lấy trong ngăn kéo bàn ngủ hai viên thuốc, nàng uống trước khi nằm dài. Ngồi gần cửa sổ, Mark lắng nghe điệu ca trầm của sóng vỗ vào kẽ đá. Sau chừng hai mươi phút, chàng biết là nàng đã ngủ, một giấc ngủ không yên. Chàng đứng dậy, quấn mình trong một chiếc chăn rồi trở lại ghế bành.
Ở Caraolos, Karen và Dov cùng ngồi trên giường của Dov, nói chuyện thì thào. Là hai người duy nhất trong khu nhi đồng được biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai, họ quá xốn xang không có thể đi ngủ.
Dov, có lẽ đã đến lần thứ mười, trình bày dự định vĩ đại của mình: ngay khi tới Palestine, chàng sẽ tìm gia nhập một nhóm đặc công để có dịp giết chết thật nhiều lính Anh. Sau cùng Karen cũng thành công trong việc làm Dov dịu bớt cơn hăng hái.
- Nằm ra đi Dov. Hãy cố gắng ngủ đi.
Dov nghe lời và nhắm mắt lại. Dịu dàng, nàng đứng dậy. Một cảm giác kỳ lạ chạy khắp châu thân nàng, một rung động vừa thú vị vừa đáng e ngại. Mãi cho tới giờ, nàng mới hiểu Dov đối với nàng có một giá trị như thế nào. Sự thương hại lúc đầu... Bây giờ, Dov đã không chê nàng không phải vì xác thịt, thật khó nói... Thật khó hiểu. Nàng muốn nói với Kitty về vấn đề này, nhưng Kitty đã không trở lại trại từ nhiều ngày rồi.
- Karen? - Ngủ đi anh, Karen không về đâu.
Chậm chạp, các thời khắc trong đêm qua dần.
Trong doanh trại của Đại đội 23 Vận tải, có ba người cũng không sao ngủ được.
Đây là lần đầu tiên từ gần một năm nay, Zev mới dám mơ đến mùa xuân trên những đồi vùng Galilée. Anh nghĩ tới vợ con và trang trại. Anh đã tuân lệnh Palmach sang Chypre khi đứa con mới được có vài tháng.
Joab Yaiconi cũng nghĩ tới trang trại của mình ở ven biển, chếch về phía bắc đồng bằng Sharon. Một trang trại đẹp đẽ, được gọi là Sdot Yam, Cánh đồng Biển, vì mỗi năm thu thập toàn là cá. Yarconi thích lang thang hàng giờ trong các di tích hoang tàn của đô thị Césarée cổ xưa, tìm kiếm vài cổ vật. Anh hy vọng Palmach sẽ cho phép anh về đó sống một hay hai tuần, để có thì giờ đi câu, đến thăm viếng các anh chị, đào bớ dưới chân các bức tường của Césarée...
David Ben Ami nghĩ tới Jérusalem, đô thị anh yêu quý gần bằng anh yêu Jordana, em gái của Ari. Anh sắp được gặp lại cả hai, anh sẽ chạy chơi trên các mỏm đá lởm chởm của vùng Judée, nơi sáu anh em trai của anh đang sống...
Tì cầm lên tay, anh đọc lại bức thư đã do Ari chuyển hộ, Jordana, Jordana... Anh có cảm tưởng tim anh sắp nổ tung lên, Jordana yêu dấu!
Thiếu tướng Bruce Sutherland giật mình thức giấc. Một lần nữa ông lại bị cơn ác mộng gần đây thường gần như ám ảnh ông mỗi đêm. Ông mặc quần áo ra khỏi nhà, băng qua Famagouste đang ngủ yên, đi dọc theo các bức tường thành cũ. Đến mỗi vòm cổng, ông ngừng, đưa mắt nhìn đô thị trung cổ với rất nhiều nhà thờ, cung điện đổ nát cùng hàng nghìn kỷ niệm của một triều đại huy hoàng đã mất. Sau cùng, ông đến tháp Othello. Ông chậm chạp leo lên cầu thang xoay tròn. Đứng trên sân thượng, ông ngắm nhìn hải cảng, lo âu tự hỏi không biết tới bao giờ ông mới được biết tới hạnh phúc được ngủ yên một đêm trọn vẹn.
Thiếu tá J.J. Allistair ngủ gục ngay tại bàn làm việc, mũi chúi vào tập hồ sơ dầy cộm đã nghiên cứu từ nhiều giờ nhưng vô vọng để ước tính xem dân Do Thái đang chuẩn bị cái gì ở Caraolos.
Trong khi đó có một người ngủ lương tâm thanh thản: Ari Ben Canaan ngủ ngon lành như một đứa bé no sữa chưa hề biết đến các phiền lụy của cuộc đời.
Lúc 8g40, đại úy Caleb Moore, tức Ari Ben Canaan lên chiếc jeep dẫn đầu mười hai chiếc cam-nhông của Đại đội 23 Vận tải HMJFC. Mỗi xe do một Palmachnik mặc quân phục Anh cầm lái. Đoàn xe khởi hành, tăng tốc độ, để rồi hai mươi phút sau ngừng lại trước tòa nhà hành chánh của trại Caraolos ở bên ngoài rào kẽm gai.
Ari xuống xe và tới gõ cửa văn phòng chỉ huy trại. Ari hoàn toàn bình thản: từ ba tuần rồi, chàng đã thu xếp để làm quen với sĩ quan Anh, một sự giao thiệp hết sức hữu ích.
- Chào thiếu tá. - Chào đại úy Moore. Tôi liệu có thể giúp gì cho anh đây! - Thưa thiếu tá chúng tôi vừa nhận được công điện khẩn của Bộ tư lệnh. Hình như việc xây cất mới ở Larcana đã hoàn tất hơn dự trù. Thượng cấp giao cho chúng tôi nhiệm vụ di chuyển ngay một số trẻ em kể từ sáng nay.
Ari đặt xấp giấy tờ giả xuống bàn. Chỉ huy trại lãnh đạm đọc lướt qua, nhận xét:
- Vụ này không nằm trong kế hoạch di chuyển của chúng tôi. Theo dự trù thì đợt trẻ con đầu chỉ chuyển khỏi trại trong ba ngày nữa là sớm nhất. - Quân đội mà... Thiếu tá biết đấy.
Viên thiếu tá cắn môi, do dự, nhìn đại úy Moore rồi cúi xuống nghiên cứu xấp giấy tờ. Sau cùng ông cầm điện thoại lên.
- Allôl Đây là thiếu tá Potter. Trong phòng tôi hiện có đại úy Moore xuất trình lệnh di chuyển cho ba trăm trẻ ở khu 50. Yêu cầu đặt dưới quyền của đại úy đó một toán binh sĩ để giúp đỡ ông đưa trẻ lên xe.
Buông máy, thiếu tá cầm bút ký vào các giấy tờ.
- Đây xong rồi anh Moore. Anh cố gắng lẹ lên cho: chúng tôi đang đợi một đoàn xe tiếp tế đến đây trong khoảng một giờ nữa các đường trong trại sắp sửa kẹt xe. - Tôi hiểu, thiếu tá. - À! Suýt nữa tôi quên mất... Cám ơn anh lần nữa là đã gửi whisky cho câu lạc bộ chúng tôi. - Có gì đâu thiếu tá.
Khi Ari lấy lại giấy tờ, viên thiếu tá thở dài một cái.
- Những dân Do Thái lang thang ấy... Họ đi, họ trở lại.
Ari tán đồng: Thưa thiếu tá đúng vậy. Họ đến rồi họ lại ra đi...
Người hầu trong khách sạn đã dọn bữa ăn sáng trong phòng Mark, trước cửa sổ. Kitty không muốn ăn. Nét mặt căng thẳng, Mark dụi hết điếu thuốc này đến điếu khác vào cái đựng tàn đã đầy ngập đến tận miệng. Kitty hỏi:
- Mấy giờ rồi anh? - Đây ít nhất là lần thứ hai mươi rồi em hỏi giờ anh, gần chín rưỡi. - Theo ý anh bây giờ đang xảy ra cái gì? - Nếu họ giữ đúng được thời biểu thì lúc này trẻ con đang lên xe. Nhìn kìa!
Mark chỉ ra biển. Một chiếc tàu kéo cũ kỹ đang đổi hướng tiến vào hải cảng. Kitty sợ hãi kêu lên:
- Trờ ơi! Đó là tàu Exodus sao? Nó cũ đến muốn long ra từng mảnh! - Đúng đấy em! Tàu Exodus đó. - Họ sẽ làm thế nào để nhét được ba trăm trẻ lên cái tàu nhỏ xíu này anh?
Để tránh trả lời, Mark châm một điếu thuốc khác, giả vờ như gặp trục trặc với chiếc bật lửa.
9 giờ ba mươi...
9 giờ bốn mươi...
Tàu Exodus tiến giữa hải đăng và tòa lâu đài, vượt qua lối đi tạo bở hai con đê hình bán nguyệt, vào hải cảng Cyrénia.
9 giờ năm mươi...
- Trời ơi anh Mark! Anh làm ơn ngồi dùm xuống đi. Anh sắp làm em loạn thần kinh lên bây giờ. - Bây giờ Mandria sắp sửa gọi điện thoại tới. Một phút hay một vài phút nữa...
10 giờ.
10 giờ năm...
10 giờ sáu...
10 giờ bảy phút...
Mark không kèm giữ được nữa, la lớn:
- Mẹ kiếp! Ly cà phê tôi gọi, họ phải mang lên chứ! Kitty, em làm ơn vào phòng em gọi nhà hàng ăn bảo mang lên lẹ. Bảo họ mang lên ngay lập tức, nếu không, họ sẽ biết anh!
10 giờ mười lăm. Người hầu mang ly cà phê lên.
10 giờ mươi bảy phút. Giới hạn gay go đã tới. Nếu Mandria không gọi lại trong mười lăm phút sắp tới, sẽ có nghĩa là đã có biến cố bất ngờ, hay tai hại hơn nữa.
Vào lúc 10g20, điện thoại reo. Mark và Kitty nhìn nhau. Mark cầm máy lên.
- Allô? - Ông Parker? - Chính tôi đây. - Xin đừng rời máy. Có người gọi từ Famagouste.
Sau một vài giây âm thanh rối loạn, một giọng chính xác cất lên:
- Allô, Parker? - Tôi đang nghe đây. - Mandria đây. Họ vừa đi qua dưới đường.
Mark chậm chạp đặt điện thoại xuống, loan báo:
- Mọi việc trôi chảy. Ari đã đưa được bọn trẻ ra khỏi Caraolos. Lúc này đây chắc họ đang đi trên đường đến Larnaca. Chừng mười lăm phút nữa họ sẽ quẹo về hướng bắc. Một lộ trình dài chừng 80 cây số đường bằng phẳng, chỉ có một đèo duy nhất phải vượt qua, ngoại trừ trường hợp họ bắt buộc phải mượn một lộ trình khác. Nghĩa là họ phải tới đây vào lúc 12g 15, 12g rưỡi... Nếu mọi sự xảy ra đúng như đã dự trù.
Kitty nói nho nhỏ: Tôi hy vọng tất cả mọi sự sẽ diễn ra đúng như đã dự trù.
- Thôi, bọn mình xuống đi. Đợi ở đây vô ích.
Mark đứng dậy.
Trước khi rời phòng, chàng cầm theo ống nhòm.
Kenneth Bradbury. Giám đốc American News Syndicate. London.
Du hí quá độ - STOP - Xin cho nghỉ thêm hai tuần nữa - STOP - Xin trả lời.
MARK
- Xin gửi khẩn cho. Theo ý ông, chừng bao lâu thì điện tín tới nơi?
Người phụ trách đọc qua bản văn.
- Điện tín sẽ tới Luân Đôn trong vài giờ nữa. - Tốt lắm.
Mark nắm lấy cánh tay Kitty, kéo nàng về phía các cầu tàu. Nàng hỏi:
- Điện tín có nghĩa thế nào hả anh? - Một mật hiệu ước định trước. Ngay tối nay, hãng thông tấn ở Luân Đôn sẽ cho đăng tải bài phóng sự của anh.
Họ đi qua chỗ tàu Exodus bỏ neo, leo lên các tường lũy lâu đài Thánh nữ Đồng Trinh. Từ vọng lâu này, hai người vừa nhìn rõ hải cảng vừa thấy rõ con đường ven biển mà đoàn xe sẽ phải đi qua.
Lúc 11 giờ mười lăm, Mark chiếu ống nhòm về con đường trải nhựa, nhận thấy phía xa một đám mây bụi nhỏ bay trên một dãy vết thẫm nhìn từ khoảng xa này không lớn hơn con kiến. Lấy khuỷu tay hích Kitty, chàng đưa ống nhòm cho nàng. Nàng giữ lấy, lo âu theo dõi mức tiến của đoàn xe xuất hiện, và biến đi tùy theo khúc đường cao thấp. Mark nhận xét:
- Họ phải mất chừng nửa giờ nữa mới tới đây. Chúng ta xuống đi.
Họ lại đi dọc cảng để dừng lại ở đầu ke. Chừng bốn mươi phút sau, họ thấy đoàn xe chạy qua bệnh viện ở đầu thị trấn. Mark cầm lấy Kitty.
- Bây giờ chúng ta có thể về rồi.
Tới khách sạn Dôme, Mark vào phòng điện thoại đóng kín cửa lại và yêu cầu được gặp An ninh Quân đội Anh ở Famagouste với ưu tiên tuyệt đối. Chàng nói qua khăn tay che miệng và cố gắng bắt chước giọng Oxford:
- Cho tôi được gặp thiếu tá Allsstair. - Về vấn đề gì? Ai đang ở đầu dây đó? - Nghe đây bồ, ba trăm người Do Thái vừa trốn khỏi trại Caraolos. Tin tức này liệu có đủ để bồ thôi đừng đặt những câu hỏi ngốc ngếch nữa, và cho tôi nói chuyện với thiếu tá ngay chưa?
Chàng nghe thấy một tiếng chuông reo, rồi một giọng nói khác:
- Thiếu tá Allistair... - Đây là một người bạn. Tôi xin báo cho thiếu tá biết là hàng mấy trăm người Do Thái đã trốn khỏi Caraolos và ngay lúc này đây họ đang lên một chiếc tàu bỏ neo trong hải cảng Cyrénia.
Allistair hối hả lắc điện thoại: Allô.. Allô... Ai đang nói đó? Tôi yêu cầu ông... allô...
Sau cùng viên thiếu tá cắt liên lạc để quay một số khác:
- Allistair đây. Mọi người cho tôi biết là có một vụ đào thoát lớn của các dân Do Thái. Hình như lúc này họ đang lên tàu ở Cyrénia. Hãy cho báo động toàn diện ngay, ra lệnh cho chỉ huy hải cảng kiểm soát tại chỗ ngay lập tức. Nếu ông ta xác nhận tin tức của tôi đúng, hãy điều động nhiều chiến hạm tới cảng Cyrénia ngay.
Không đợi trả lời, Allistair gác máy và vội vã chạy ra ngoài, nhào vào phòng thiếu tướng Sutherland.
Đoàn xe dừng tại trên cầu tàu. Ari xuống xe và tài xế lái xe đi ngay. Các cam nhông hết chiếc này đến chiếc khác chạy đến tận thang dẫn lên tàu Exodus. Đã được huấn luyện từ nhiều tháng tuân lời trong im lặng và thực hiện nhanh chóng các mệnh lệnh của các Palmachnik, các trẻ em chỉ mất một vài phút để lên tàu. Trên boong, Zev, Joab và Hank Schlosberg thuyền trưởng Exodus, chỉ dẫn cho các nhóm tới các chỗ đã định sẵn. Tất cả diễn tiến trong một thời gian tối thiểu không một lời nói vô ích.
Trên ke vài kẻ nhàn rỗi đang ngồi nhìn ra phân vân và hơi tò mò. Hai hay ba lính Anh hiện diện tỏ ra lãnh đạm hoàn toàn. Mỗi khi trút xong người, các cam nhông rồ máy chạy ngay về ngọn Saint-Hilarion và các tài xế sẽ bỏ xe ngay sau khúc rẽ đầu tiên che khuất tầm mắt của các kẻ tò mò. Đại đội 23 Vận tải, sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ, không còn tồn tại nữa. Joab không cưỡng nổi với ước muốn để lại trên băng xe một mình một mẩu giấy cám ơn quân Anh đã có nhã ý cho mượn xe cộ.
Sau chừng hai mươi phút, các đứa trẻ sau chót đi lên tàu. Ari lên tàu và leo thang dẫn tới đài chỉ huy để gặp Zev, Joab, David và Schlosberg.
- Thuyền trưởng, ông có thể nhổ neo và cho máy chạy, Zev, Joab và David, các anh hãy cắt nghĩa cho các em hiểu chúng ta đang làm gì và chờ đợi gì ở các em. Em nào thấy không đủ can đảm có thể báo cho tôi biết trong phòng lái: tôi sẽ cho em đó trở lại Caraolos. Cũng báo cho các em biết chúng có thể mất mạng trong cuộc phiêu lưu này. Các anh không được gây áp lực nào để giữ những kẻ muốn rút lui.
Tàu Exodus đã rời ke, chạy lui một cách thận trọng, ra thả neo ở giữa cảng.
Đột nhiên nhiều tiếng còi hụ rú lên phá tan không khí im lặng. Dùng ống nhòm, Ari quan sát tìm kiếm các đường dẫn tới cảng và trông thấy rất nhiều xe jeep và cam nhông của quân đội chạy hết tốc độ đổ dồn về hải cảng Cyrénie. Chàng phá lên cười khi nhận thấy trên sườn dốc ngọn Saint-Hilarion, các xe vận tải của Đại đội 23 Vận tải giao nhau với một đoàn xe sơn màu kaki đang lao nhanh xuống cầu tàu. Các người lính đầu tiên đã chạy tới. Các sĩ quan chỉ huy Exodus, la lớn mệnh lệnh. Nhiều quân sĩ chạy trên các đê bán nguyệt để đặt ở hai đầu các đại liên và súng cối ngăn chặn chiếc Exodus vượt eo ở giữa.
Sau chừng một tiếng, năm trăm quân sĩ võ trang hùng hậu chiếm cứ vững chắc hải cảng, các dây đã được chăng ngang các đường phố ngăn đôi hải cảng với thị trấn. Hai phóng ngư lôi hạm chặn đứng lối ra biển. Rồi các thiết giáp nhào xuống các ke, cùng với trọng pháo thay thế cho các đại liên và súng cối. Các còi hụ lại "rú" lên để chào chiếc xe chở thiếu tướng Sutherland, đại úy tùy viên Caldwell và thiếu tá Allistair. Thiếu tá Cook, chỉ huy vùng Cyrénia, chạy bổ tới để báo cáo:
- Chiếc tàu đó, thưa thiếu tướng. Các tin tức đã cho rất đúng: có hàng mấy trăm Do Thái trên tàu. Nhưng họ sẽ không bao giờ ra thoát khỏi đây.
Sutherland công nhận:
- Đúng thế. Với các lực lượng tập trung tại đây, thiếu tá đủ sức đánh trả với cả một sư đoàn thiết giáp của Wehrmacht. Những kẻ trên tàu này hẳn phải vô ý thức lắm. Phiền thiếu tá cho lệnh đặt ngay cho tôi một hệ thống phóng thanh. - Xin tuân lệnh.
Caldwell nói:
- Nếu thượng cấp cho phép tôi trình bày ý kiến, tôi cho rằng chỉ việc đánh đắm luôn tàu này cho rảnh. Vài viên đạn trọng pháo...
Sutherland gắt gỏng ngắt lời:
- Tôi không hỏi ý kiến của đại úy. Thiếu tá Cook, chỉ định ngay một toán xung kích chiếm tàu: hơi cay, vũ khí cá nhân phòng trường hợp những tên điên rồ kia không chịu lên bờ. Caldwell, đại úy chạy lẹ đến khách sạn Dôme và báo cho Bộ tư lệnh biết: tin tức cấm phổ biến ra ngoài cho tới khi có lệnh mới. Không được hở một câu với các ký giả, kiểm duyệt các điện tín cùng các biện pháp tương ứng.
Allistair vẫn chưa hé môi từ lúc đến tới giờ. Mặt tái xanh, môi mím chặt, chàng quan sát chiếc tàu.
- Allistair, anh nghĩ sao về vụ này? - Thành thật ra mà nói thưa thiếu tướng, câu chuyện này làm tôi lo lắm. Các kẻ này đây có điên gì: họ đâu dám tổ chức đào thoát như vậy, thanh thiên bạch nhật, nếu họ không có một hậu ý. - Thôi, xin anh. Quả thực chỗ nào lúc nào anh cũng thấy có âm mưu hết.
Mark Parker đã vượt qua được hàng rào quân sĩ, uể oải tiến lại gần hai sĩ quan, hỏi bằng một giọng vô tội:
- Tại sao lại có nhộn nhịp vậy thưa quý vị?
Trông thấy người ký giả Hoa Kỳ, Allistair cảm thấy những nghi ngờ của mình biến thành tin tưởng chắc chắn.
- Ông Parker, tử tế cắt nghĩa dùm chúng tôi vụ này nghĩa là thế nào. Nhân tiện đây, tôi cũng xin nhắc ông bạn một lời khuyến cáo: Lần sau ông bạn điện thoại cho tôi hãy coi chừng nói cho đúng giọng người Anh hơn.
Mark làm ra điệu ngạc nhiên không hiểu gì: Tôi hoàn toàn không hiểu thiếu tá định nói cái gì.
Nhưng thiếu tường Sutherland thì ông đã bắt đầu hiểu. Ông nhìn chiếc tàu rồi nhìn Parker, nhìn Parker rồi nhìn Allistair và ông cảm thấy cơn giận bốc lên bừng mặt. Bây giờ ông biết chắc rằng Mossad đã tổ chức một chiến dịch quan trọng ngay trước mũi quân lực Anh trên đảo cùng vị chỉ huy ở đây, nghĩa là trước mũi thiếu tướng Sutherland.
Thiếu tá Cook trở lại, dáng điệu hài lòng.
- Thưa thiếu tường. Đoàn xung kích sẽ sẵn sàng trong mười phút nữa. Tổng cộng quân số hai trăm người. Chúng tôi sẽ cho trưng dụng vài tàu đánh cá để chở họ đến tận tàu kia.
Sutherland không buồn nghe nữa:
- Máy phóng thanh khốn kiếp nó đâu! Tôi đứng đợi cả giờ rồi!
Năm phút sau, ông nắm lấy micro do một trung sĩ đưa tới. Một im lặng bao trùm hải cảng.
- Tôi muốn nói với các người trên tàu đang bỏ neo ngoài kia. Đây là thiếu tướng Bruce Sutherland, tư lệnh các lực lượng Anh quốc đồn trú tại Chypre. Các ông có nghe thấy tôi không?
Trong phòng lái của Exodus, Ari bật hệ thống phóng thanh của mình:
- Allô. Sutherland? Đây là đại úy Caleb Moore thuộc Đại đội 23 Vận tải Lực lượng Do thái của Đức vua tại Chypre. Quý ông sẽ tìm thấy các xe của quý ông trên con đường đi lên đỉnh Saint Hilarion, sau khúc quanh thứ nhất.
Đứng trên ke, há hốc miệng, thiếu tá Allistair là hiện thân của sự ngạc nhiên. Giọng tức giận của Sutherland vang lên giận dữ:
- Nghe rõ những điều tôi nói đây. Chúng tôi cho các ông mười phút để trở lại ke. Hết thời hạn này, đoàn quan võ trang mạnh sẽ lên tàu để đưa các ông trở lại bờ bằng võ lực. - Allo, Sutherland! Đây là Exodus. Chúng tôi có ba trăm trẻ em ở trên tàu. Phòng máy của chúng tôi chứa đầy thuốc nổ. Chỉ một người của ông thôi, đặt chân lên boong, chỉ một khẩu súng của các ông bắn thôi, chúng tôi sẽ cho nổ tung lên hết!
Cùng lúc đó, như để nhấn mạnh thêm cho lời thách thức trên, một lá cờ được kéo lên cột buồm của Exodus. Đó là Union Jack, lá cờ của Anh quốc nhưng ở giữa có vẽ thêm hình một chữ vạn to tướng.
Trận đánh của Exodus bắt đầu!
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 7:57:04 GMT -6
Phần I => Chương 29
ĐỘC QUYỀN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI
DAVID CHỐNG GOLIATH, ẤN BẢN 1946
của đặc phóng viên MARK PARKER của chúng tôi
CYRÉNIA (Chypre)
Tôi viết bài này từ Cyrénia, một hải cảng nhỏ dễ thương nằm ở bờ biển phía bắc thuộc địa Chypre thuộc Anh.
Đây là một hòn đảo đầy Lịch sử, có rất nhiều di tích và đền đài, từ các di tích của đô thị cổ Salamis của người Hy Lạp, các nhà thờ công giáo ở Famagouste và Nicosie, đến các lâu đài của Thập tự quân.
Nhưng không có một giai đoạn nào của lịch sử này lại có thể so sánh, về phương diện bi thảm, với quang cảnh đang diễn ra lúc này trong hải cảng bình yên Cyrénia. Từ nhiều tháng nay, đảo Chypre đã là một trung tâm giam giữ những di dân Do Thái đã từng thử phá phong tỏa của người Anh để về đất Palestine.
Ngày hôm nay, ba trăm đứa trẻ tuổi từ mười bảy tuổi đã trốn khỏi được trại giam Caraolos bằng những phương cách chưa được biết rõ, và sau khi đã chạy trốn băng qua đảo, đã đến được Cyrénia, nơi đã có một chiếc tàu kéo trọng tải hai trăm tấn đang đợi sẵn. Chính bằng chiếc tàu cũ rỉ khốn khổ này, những trẻ này sẽ thử lên đường về Palestine.
Hầu hết những kẻ đào thoát này đều là những người đã thoát chết khỏi các trại tập trung diệt chủng của Đức trước đây. Chiếc tàu kéo, được đặt tên là Exodus, đã bị các sĩ quan An ninh Quân đội Anh khám phá ra trước khi tàu kịp rời hải cảng.
Một phát ngôn viên của tàu Exodus đã loan báo rằng hầm tàu chứa đầy chất nổ. Các trẻ em đã thỏa thuận với nhau là sẽ tự sát tập thể và thề rằng sẽ cho nổ tung tàu nếu người Anh xông lên tàu.
Tại Luân Đôn, tướng Sir Claren Tevor Browne đặt tờ báo có bài của Mark Parker chạy trang nhất xuống bàn, châm một điếu thuốc và cắm cúi nghiên cứu các báo cáo vừa ồ ạt về. Bài báo do American New Syndicate phổ biến này đã gay xúc động trên toàn thể các thủ đô Âu châu và tới tận Mỹ châu. Cũng có một điệp văn khẩn của Sutherland yêu cầu cho chỉ thị, đồng thời nói rõ rằng ông khước từ trách nhiệm trong trường hợp tàu Exodus tự cho nổ tung.
Tevor Browne hiểu một phần khá lớn các lỗi lầm vi phạm là do chính ông. Chính ông đã chọn Bruce Sutherland làm tư lệnh tại Chypre, và cũng chính ông đã xem bức thư của Allistair như không có. Mặc dù Allistair trong thư đã trình bày hết sức rõ ràng: ngoại trừ trường hợp thay thế ngay Sutherland, nếu không sẽ phải gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng.
Humphrey Crawford bước vào làm gián đoạn sự suy nghĩ của ông Crawford, viên chức vô danh tiểu tốt đã phục vụ cả đời mình trong ngành Trung Đông của Colonial Office, 1 hiện đang giữ nhiệm vụ duy trì liên lạc giữa quân lực, các chính khách ở Whitehall và Chatham House. Crawford lên tiếng:
- Xin kính chào Sir Clarence. Thưa đã đến giờ họp của chúng ta với Bradshaw.
Tevor Browne đứng dậy và xếp lại các báo cáo vào trong hồ sơ.
- Rồi, chúng ta đi cho rồi. Không nên để ông bạn già Bradshaw của chúng ta chờ đợi.
Văn phòng của Cecil Bardshaw được đặt trong Viện Giao tế Quốc tế ở Chatham House. Từ ba mươi năm nay Bradshaw giữ một vai trò ưu thắng trong việc soạn thảo các chính sách của Anh quốc đối với toàn thể Trung Đông. Chính Bardshaw sau đệ nhị thế chiến đã chủ trương và thực hiện được một quốc gia Ả Rập mới, nước Transjordanie, cắt từ lãnh thổ bảo hộ Palestine, để tạo thành một căn cứ Anh do Liên đoàn Ả Rập giữ dưới quyền chỉ huy của Glubb Pacha. Sau đệ nhị thế chiến, khi chính phủ lao động Anh hứa thành lập một Quê hương Do Thái ở Palestine và cho phép các dân Do Thái sống sót ở Âu châu được trở về xứ đó, thì cũng chính Bradshaw đã thuyết phục được mọi người bỏ dự án đó. Dựa vào sự ủng hộ của một thành phần chuyên viên rất mạnh ở Chatham House, ông đã thuyết phục được Bộ trưởng Ngoại giao mới, Bevin, rằng những lời hứa hẹn khoan hồng rộng rãi thì khoan hồng rộng rãi thực, nhưng không thực tế. Quyền lợi của Anh quốc đòi hỏi phải ủng hộ các dân Ả Rập mà mười triệu dặm vuông rất giàu dầu lửa và bao quanh một con kênh sinh tử cho vận mệnh của đế quốc Anh.
Sự tiếp đón của Bradshaw rõ ràng là đầy ác cảm. Vóc người to béo biểu lộ đúng trên sáu mươi, ông đứng giữa phòng nhìn về phía cửa vào, hai tay chắp sau lưng. Crawford mỗi lúc thần kinh mỗi căng thẳng hơn, chỉ ngồi trên mép một chiếc ghế. Hoàn toàn điềm tĩnh, Tevor Browne ngồi rất thoải mái trong một ghế bành châm một điếu xì-gà hút. Bradshaw bắt đầu nói mắt hướng về bức tường đối diện.
- Tôi xin có lời ngợi khen quý vị vì tôi đã được biết là chúng ta đang được hân hạnh lên trang nhất các nhật báo hôm nay.
Ông quay gót lại, và bằng một dáng điệu xảo trá, lấy tay vỗ bụng.
- Whitehall đã gọi tôi sáng nay. Và như ta có thể thừa đoán biết được, Thủ tướng có lòng tốt bê vụ Exodux đặt lên đầu gối tôi.
Ông tiến về bàn làm việc và tháo kính ra với một cử chỉ giận dữ.
- Sir Clarence, xin hỏi một câu nhỏ. Các sĩ quan tình báo đã chết hết rồi hay họ chỉ quá bận chơi tennis? Hơn nữa cũng vừa nhớ ra là tôi định hỏi ông về vấn đề Sutherland. Bởi vì nói cho cùng, chính ông đã chọn lựa Sutherland.
Tevor Browne phớt lạnh trả đũa:
- Nếu ký ức của tôi không nhớ sai thì việc thành lập các trại ở Chypre là do ý ông. Nếu có thể ông cho phép tôi hỏi ông về...
Crawford can gián hai người:
- Thưa quý vị, xin quý vị. Xin quý vị đừng quên rằng trong vụ Exodus này, chúng ta đang đứng trước một tình thế hết sức đặc biệt. Đây là lần đầu tiên một biến cố như vậy được khai thác lớn đến thế trong báo chí Hoa Kỳ.
Bradshaw nở một nụ cười không vui:
- Theo lời cái ông Truman thân mến của chúng ta thì người Hoa Kỳ từ khi chấm dứt chiến tranh chỉ nhận cho nhập nội xứ họ có mười ngàn người Do Thái - một giọt nước trong biển cả. Dĩ nhiên Truman tỏ ra hết lòng ủng hộ chủ nghĩa phục quốc Do Thái ngày nào Palestine xứ này không nằm ở Pennsylvanie. Tất cả thiên hạ đều đọc những bài diễn văn tràn trề lý tưởng, nhưng chỉ có nước Anh thôi là đang có một triệu Do Thái phải lo, một triệu di dân mạnh mẽ dám làm tan tành tất cả các vị trí của chúng ta ở Trung Đông. Các tay phục quốc đã không chịu tỏ ra ngu dốt. Từ hai mươi lăm năm nay họ đã làm cho chúng ta biến thành kẻ bội hứa ở Palestine. Họ đã tìm ra trong bản văn ủy trị xứ này cùng tuyên ngôn Balfour những định ý mà chính các người soạn thảo cũng không hề định nói tới. Và các lý luận quanh co, họ đã làm cho con lạc đà chịu nhận mình là con lừa. Mẹ kiếp! Hai giờ với Chaim Weizman rồi thì chính tôi cũng sốt ruột muốn gia nhập phong trào phục quốc Do Thái luôn!
Bradshaw đeo kính lên và quay lại phía Tevor Browne:
- Than ôi đúng đấy ông bạn! Chúng tôi thừa biết cảm tình của ông bạn dành cho bên nào rồi.
- Tôi phản đối. Thưa ông, Bradshaw. Có thể tôi thuộc về một nhóm nhỏ ngoan cố quan niệm rằng việc thành lập một quốc gia Do Thái mạnh mẽ là cách thế duy nhất để duy trì chúng ta ở Trung Đông. Nhưng không phải vì thế mà tôi bảo vệ các quyền lợi Do Thái. Tôi chỉ chiến đấu cho quyền lợi của Anh quốc mà thôi.
Bằng một cử chỉ bực tức, Bradshaw gạt bỏ luận cứ của vị tướng lãnh này.
- Nếu ông đồng ý, bây giờ chúng ta hãy chỉ giải quyết vụ Exodus thôi. Theo ý tôi, đường lối cư xử của chúng ta đã được vạch sẵn rồi. Chiếc tàu đang ở trong hải phận của chúng ta chứ không ở trong hải phận Pháp như trường hợp chiếc Đất Hứa. Chúng ta sẽ không lên tàu, cũng không kéo nó về tận Đức, và cũng không đánh đắm nó nữa. Chúng ta chỉ việc để tụi Do Thái đó tại chỗ, ngay giữa hải cảng Cyrénia cho đến khi chúng thối rữa ra. Ông hiểu chứ, cho đến khi chúng thối rữa ra.
Tevor Browne nhắm mắt lại:
- Như vậy sẽ thành một thảm họa. Chúng ta không có lý do chính đáng nào, nhất là không có lý do nào có thể công bố ra được, để ngăn cản ba trăm đứa trẻ thoát chết khỏi các trại tập trung đi về Palestine cả. Dầu hỏa, kênh đào Suez, dân Ả Rập... Dẹp tất đi! Trong vụ này, chính nghĩa của chúng ta không có. Nói thế nào nhỉ... Chúng ta không có cùng một chính nghĩa. Chúng ta đã làm chúng ta thành lố bịch khi gởi những di dân của tàu Đất Hứa trở lại nước Đức...
- Chắc chắn thế rồi! Chúng tôi biết cảm... cảm tình của ông đối với...
Crawford khẩn khoảng: Xin quý vị! Thôi xin quý vị.
Tevor Browne đứng dậy để nghiên người xuống bàn của Badshaw:
- Nếu muốn ra thoát vụ này trong danh dự, chúng ta chỉ còn một giải pháp duy nhất. Người Do Thái đã tạo ra vụ này chỉ cốt để tuyên truyền. Ông hãy để cho Exodus ra đi, ngay lập tức. Đó chính là điều bọn họ không muốn với bất cứ giá nào. - Không bao giờ! - Ông không hiểu thực sự ra bọn ấy muốn gì sao? - Tôi chỉ hiểu mỗi một điều sau: ngày nào tôi còn ở Chatham House, chiếc tàu đó sẽ không được phép nhổ neo!
-------------------------------- 1 Colonial office: Thuộc địa vụ.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 8:03:01 GMT -6
Phần I => Chương 30
Mark Parker
Khách sạn Dôme Cyrénia (Chypre)
Mỗi lúc thêm gây cấn - Stop - Tiếp tục gởi điện tín.
Ken Bradbury
American New Syndicate, London.
"Tin bổn báo đặc phóng viên Mark Parker ở Cyrénia (Chypre), (American New Syndicate giữ độc quyền).
Một cảnh tượng khôi hài: một ngàn quân sĩ võ trang hùng hậu, nhiều chiến xa, pháo binh, hai phóng ngư lôi hạm, và một chiếc tàu kéo đáng thương không có đến một khẩu trung liên.
Sau tuần lễ đầu tiên, trận chiến Exodus đã đến ngõ bí cả Anh lẫn Do Thái đều giữ vững lập trường. Cho tới giờ không ai lên chiếc tàu đe dọa cho nổ tung nếu cần ấy. Dầu vậy, tàu chỉ cách các ke khoảng một trăm năm chục thước, và với ống nhòm, ta thấy tàu như ở trong tầm tay.
Tinh thần của ba trăm trẻ trên Exodus có vẻ cao khác thường. Trong suốt tuần lễ vừa qua, chúng đã hát các bài dân ca hoặc trêu ghẹo các lính Anh gác chung quanh..."
Mỗi ngày, các điện tín của Parker mang thêm nhiều chi tiết mới để thỏa mãn óc tò mò của hàng triệu độc giả.
Về phía Cecil Bradshaw, ông bất động vì biết mình sẽ phải chịu một trận chỉ trích dữ dội. Báo chí Pháp bùng ra như trong vụ tàu Đất Hứa với sự dị biệt là lần này, giọng điệu các bài quan điểm leo thang rất nhanh đến mức dữ dội đặc biệt. Kể từ khi có Liên minh Thân hữu giữa Pháp và Anh, chưa bao giờ các báo chí Pháp lại đả kích Anh quốc đến như thế. Hơn nữa, báo chí Anh cũng có vẻ chia rẽ, và nhiều nhật báo lớn quan trọng vào bậc nhất cũng đặt vấn đề khôn ngoan của Whitehall một cách công khai.
Là một chính trị gia lão luyện, Bradshaw đã từng trải qua nhiều sóng gió rồi. Mọi ồn ào do vụ Exodus gây ra, theo ý ông, chỉ là một trận bão trong một ly nước hoàn toàn không nguy hiểm và hết sức chóng qua. Ông chỉ cho gởi một bộ ba ký giả bạn đến Cyrénia với nhiệm vụ chống lại các phóng sự của Mark Parker, và trao nhiệm vụ cắt nghĩa lập trường Anh quốc cho chừng nửa tá chuyên viên. Nhưng đáng tiếc là nếu, lập trường này không hề thiếu luận cứ, các ký giả và chuyên viên lại thấy ngay rằng khó mà chống lại lòng thương xót tự nhiên cho số phận ba trăm đứa trẻ di dân kia.
Nếu những kẻ phục quốc Do Thái là thành thật như vậy thì tại sao họ lại dám đưa ba trăm đứa trẻ vô tội vào tình trạng nguy hiễm đến tính mạng như vậy? Thực ra đó chỉ là một âm mưu khá mờ ám, xây dựng một cách lạnh lùng, cốt để che giấu các thực tại của vấn đề Palestine. Thật rõ ràng là chúng ta đang đối diện với các kẻ cuồng tín. Người mang tên Ari Ben Canaan ngoài ra con là một tay xách động phục quốc Do Thái chuyên nghiệp, với một quá khứ đầy những hoạt động bất hợp pháp trong nhiều năm rồi.
Tuy vậy ở Paris những người Anh trong các quán cà phê đã bị phê bình chỉ trích.
Trong các Pubs ở Luân Đôn, các tay hùng biện tùy hứng đã đứng ra bênh vực quan điểm của Anh quốc.
Ở Stockholm, có các bài giảng ở nhà thờ và ở Ý, có các vụ bàn cãi tại quốc hội.
Ở Nữu Ườc, các bookmaker đề nghị đánh cá bốn ăn một là tàu Exodus sẽ không nhổ neo được.
Cuối tuần lễ thứ hai, Ari nhận tiếp Mark Parker trên tàu Exodus. Vì là ký giả đầu tiên được lên chiếc tàu đáng thương và nổi danh này, ba điện tín sau của chàng cung cấp các hàng chữ lớn trang đầu cho các nhật báo toàn thể thể giới.
ĐỘC QUYỀN THẾ GIỚI
PHỎNG VẤN ĐẦU TIÊN ARI BEN CANAAN,
PHÁT NGÔN VIÊN CỦA EXODUS
"Hôm nay tôi có hân hạnh là phóng viên đầu tiên phỏng vấn người Palestine Ari Ben Canaan, người chỉ huy của Exodus. Anh tiếp tôi trong phòng lái, nơi duy nhất của tàu tránh được cảnh đông đúc đến mức khó tin của một số người đông như vậy trong một không gian quá chật hẹp. Khi băng qua boong tàu, tôi nhận thấy các trẻ con, dù tinh thần vẫn cao, đã bắt đầu tỏ ra các dấu hiệu suy yếu, hậu quả của một sự giam giữ đã kéo dài hai tuần lễ.
Ben Canaan chừng ba mươi tuổi. Với thân hình lực sĩ cao lớn, tóc đen như mun, mắt xanh lạnh biếc, mọi người dễ tưởng anh là một jenne premier của Hollywood. Sau khi bày tỏ lòng biết ơn đối với các lời khích lệ từ toàn thế giới gởi tới, anh đã tuyên bố:
- Những chỉ trích về cá nhân tôi của người Anh, tôi không để ý tới. Nhưng dầu sao tôi cũng tự hỏi không biết họ - đã bổ túc cái án dài lê thê của họ về tôi bằng cách ghi nhận rằng tôi đã phục vụ trong quân lực Anh thế chiến vừa qua không? Không biết họ đã ghi nhận rằng để bày tỏ sự công nhận giá trị của nó, họ đã từng trao cho tôi cấp bậc đại úy hay chưa? Sau khi đã minh bạch về điểm này, tôi xin nhận quả thực tôi là một người xách động phục quốc Do Thái và tôi tiếp tục như thế cho tới khi nào Anh quốc đã giữ trọn lời hứa là thành lập một Quê Hương Do Thái ở Palestine. Còn các hoạt động của tôi có là hợp pháp hay không, thì đó chỉ là vấn đề ý kiến cá nhân từng người.
Khi tôi trình bày các luận cứ và kháng biện của Anh quốc, anh đáp:
- Những người Do Thái chúng tôi đã quen làm con dê chịu tội rồi. Mọi người trút trách nhiệm cho chúng tôi về tất cả mọi điều. Chỉ có điều tôi ngạc nhiên là họ chưa nghĩ đến việc bắt chúng tôi chịu trách nhiệm về các khó khăn của họ ở Ấn Độ. May mắn thay Ghandi không là người Do Thái.
Thực ra Whitehall đã xử dụng con ngoáo ộp phục quốc Do Thái đầy bí mật và xách động để che đậy ba mươi năm dối trá đối với cả người Do Thái lẫn Ả Rập, để che đậy các thối nát, phản bội trong khi đảm nhiệm việc ủy trị Palestine. Từ bản tuyên ngôn Balfour năm 1917 cho tới giờ vẫn còn là giấy lộn và các lời hứa hẹn kế tiếp nhau đều không được giữ đúng. Tôi xin được nhắc lại ở đây rằng thái độ của đảng Lao động Anh trước kỳ bầu cử vừa rồi là cho phép mở rộng các biên thùy Palestine cho các người Do Thái sống sót khỏi chế độ của Hitler.
Những giọt nước mắt của Whitehall nhỏ xuống thương cho số phận ba trăm trẻ mà họ cho rằng chúng tôi đày đọa nơi đây, chỉ là những giọt nước mắt cá sấu. Trên tàu Exodus này, tất cả các em đều là tình nguyện hết, và hết thẩy chúng đều là trẻ mồ côi vì cha mẹ chúng đã bị quốc xã giết chết. Hầu hết các em đều đã sống năm hay sáu năm trong các trại tập trung của Đức... và của Anh quốc.
Whitehall kết án chúng tôi là đã muốn cưỡng buộc một giải pháp bất công cho vấn đề Palestine. Thế mà trên tổng số sáu triệu dân Do Thái hiện diện tại Âu châu trước thế chiến, này chỉ con chừng hai trăm năm chục ngàn. Tổng số di dân Do Thái được phép nhập nội Palestine do người Anh ấn định mỗi năm là bảy trăm người. Như vậy, liệu có phải là "giải pháp công bình" của người Anh hay không?
Để chấm dứt, tôi phủ nhận quyền người Anh chiếm cứ Palestine. Tôi xin đọc ông nghe đoạn sau đây trong Thánh Kinh:
Khi ta đã tập hợp các gia tộc của Isaael và đã thánh hóa họ trước tất cả các quốc gia khác, họ sẽ ở xứ sở mà ta đã ban cho kẻ hầu hạ ta là họ sẽ ở, cũng như các con cháu họ sẽ ở vĩnh viễn.
Rồi đặt cuốn Kinh Thánh xuống, Ari Ben Canaan kết luận:
Những vị đang cư ngụ trong Whitehall nên nghiên cứu hồ sơ của họ kỹ hơn. Dầu thế nào tôi cũng xin nói với ngoại trưởng của Đức vua bằng những lời mà bậc vĩ nhân đã nói với một kẻ áp chế khác cách đây ba ngàn năm: "HÃY ĐỂ DÂN TỘC TÔI RA ĐI".
Cuộc phỏng vấn, ngày hôm sau, trong một điệp văn khác, Mark Parker trình bày chi tiết về cơ cấu tổ chức và thực hiện chiến dịch Gédéon, nhấn mạnh với sự xử dụng các xe cộ của quân lực Anh. Đây lại là một đòn nặng nữa đánh vào uy tín và tự ái của người Anh.
Rồi theo lời khuyến cáo của Mark, Ari cho phép các ký giả khác lên tàu Eoxdus. Khi trở lại bờ, các đặc phóng viên này đòi hỏi người Anh cho phép họ được viếng thăm trại Caraolos.
Ở Luân Đôn, Cecil Bradshaw không còn biết xoay xở ra sao nữa. Ông đã đón chờ những lời chỉ trích dữ dội, nhưng không hề dự trù tới một cơn nổi giận ghê gớm của dư luận như vậy. Bây giờ ông cũng không còn thể cho phép tàu Exodus ra khơi được nữa. Việc cho phép nhổ neo bây giờ sẽ không được coi như một nhượng bộ nữa, mà bị coi như thú nhận thất trận.
Sau cùng, tướng Tevor Browne bí mật bay sang Chypre để khảo sát tại chỗ xem còn có thể làm được gì. Máy bay của ông hạ cánh vào lúc bình minh tại phi trường Nicosle phi trường được canh giữ rất cẩn thận. Thiếu tá Allistair đón đợi và đưa ông lên ngay một xe bít bùng phóng ngay về và Bộ tư lệnh ở Fargouste.
- Allistair, tôi muốn được gặp anh trước khi gặp thiếu tướng Sutherland. Dĩ nhiên là tôi có nhận được bức thư của anh. Bây giờ anh tự do trình bày ý kiến đi.
Allistair hơi do dự một chút:
- Thưa Thiếu tướng, nói thật ra thì tôi có cảm tưởng tướng Sutherland không còn đủ sức đương đầu với áp lực của tình hình nữa. Đã có một cái gì đó đã xảy ra cho ông, tôi không được biết, nhưng sự kiện rõ ràng thì như tôi vừa trình bày. Caldwell có nói là thiếu tướng hầu như đêm nào cũng gặp ác mộng. Những lúc ấy ông dậy đi đi lại lại trong phòng, và để hầu hết thì giờ để đọc Kinh Thánh.
Tevor Browne nói nhỏ:
- Đáng thương thật! Nhất là Sutherland lại là một quân nhân tài ba đặc biệt nữa! Tôi biết là tôi có thể tin cậy ở sự kín đáo của anh được, phải không Allistair? Theo ý tôi, chúng ta phải bảo vệ và giúp đỡ thiếu tướng Sutherland hết sức chúng ta. - Thưa vâng.
"Cyrénia (Chypre)
Tin của bản báo đặc phóng viên.
Tướng Tevor Browne, nổi danh về các chiến dịch trong sa mạc Libye, đã bí mật đáp xuống phi trường Nicosie sáng hôm qua. Ông mặc thường phục và vụ ông tới được giữ hết sức bí mật. Sự xuất hiện bất ngờ của tướng Tevor Browne chứng tỏ Whitehall đã lo âu về vấn đề Exodus. Sự kiện này có thể chứng tỏ hoặc sẽ có thay đổi lập trường, nếu không phải là thay đổi cấp chỉ huy quân sự tại Chypre".
Ngày hôm sau Mark trở lại tàu Exodus và yêu cầu được gặp Karen tại phòng lái. Quang cảnh chàng nhìn thấy trên tàu có vẻ mỗi lúc thêm khẩn trương. Các trẻ em gầy đi, xơ xác, và đầy mùi hôi của thân thể không tắm rửa vì thiếu nước.
Trong khi chờ đợi Karen đến, Mark nói chuyện với Ari. Vẫn lạnh lùng bình thản, Ari cười nhận các bao thuốc lá và chai rượu brandy do người ký giả mang tới. Ari hỏi:
- Trên bờ mọi sự ra sao? - Chưa có gì mới lạ. Cho tới giờ, việc Tevor Browne tới đây cũng chưa đi tới một thay đổi nào. Câu chuyện về các anh vẫn còn giữ trang đầu của các nhật báo thế giới. Anh hiểu không Ari, "chiến dịch Gédéon" kể từ giờ thành công vĩ đại. Anh muốn phóng ra một chưởng làm người Anh lãnh đủ phải không? Bây giờ thì anh đã hoàn toàn thành công rồi đó. Một mặt khác, theo các tin tức tôi được biết thì người Anh đã quyết định không nhượng bộ. - Vậy thì anh muốn dẫn tới vấn đề sao? - Vấn đề như sau: hiện nay anh có thể hoàn tất chiến thắng của anh bằng cách làm một cử chỉ nhân đạo là đưa tàu trở về bờ. Anh có thể tin ở tôi và các bạn đồng nghiệp sẽ biến vụ các trẻ em trở lại trại Caraolos thành một tin tức hàng đầu, mặc dù mọi ngăn trở của người Anh. Một câu chuyện sẽ làm rơi lệ toàn thể thế giới. - Chắc Kitty Fremont đã nhờ anh nói như thể phải không? - Xin anh hãy để Kitty yên. Tốt hơn anh hãy nhìn tụi trẻ này: chúng sắp xỉu tất cả đến nơi rồi. - Chúng biết chúng phải đương đầu với những gì rồi. - Nhưng có những điều mà anh không biết. Tôi đang e rằng chúng ta đạt tới, có lẽ vượt quá rồi nữa, cực điểm của xúc động chung của các độc giả. Ngày hôm nay chúng ta còn giữ được trang đầu. Nhưng nếu ngày mai Frank Sinatra đập lộn với một anh chàng ký giả viết tin xe cán chó trong một hộp đêm nào đó, thiên hạ sẽ đẩy chúng ta vào mục tin vặt vãnh ngay. Anh hãy nghĩ đi...
Mark ngừng nói khi thấy Karen bước vào.
- Chào ông Parker. - Chào cô bé. Tôi mang thư và cả một gói gì nữa của Kitty cho cô bé đây.
Karen chỉ muốn nhận bức thư không thôi.
- Trong lúc các bạn tôi không có gói quà nào...
Mark cầu nhầu:
- Tôi tự hỏi sẽ loan báo cho Kitty biết vụ từ chối rất quá cao thượng này ra làm sao đây. Ari, anh hãy nhìn cô bé này, nó đang đau. Anh không trông thấy mắt thâm quầng, gò má hóp của Karen sao? Anh tin ở tôi đi, trong vài ngày nữa, anh sẽ gặp nhiều lo lắng rắc rối trên tàu này cho mà coi. - Tôi chấp nhận trước những điều đó. Đối với chúng tôi, chỉ có một điều quan trọng duy nhất: làm dư luận căng thẳng và chú ý đến chúng tôi. Parker, anh ráng hiểu cho điều này: không bao giờ, không bao giờ hết, chúng tôi lại chịu trở lại trại Caraolos. Trong tất cả các trại ở Âu châu, có hai trăm ngàn người Do Thái khác đang lo âu chờ đợi một lời giải đáp, và giải đáp này, chỉ chúng tôi mới mang lại được. Ngay từ sáng mai, chúng tôi sẽ tuyên bố tuyệt thực. Những ai bị ngất xỉu sẽ được đưa bầy ngay lên boong tàu cho quân Anh trông thấy.
Mark la: Quả thực anh là một con quỷ, một con quỷ khát máu.
- Anh cứ việc nguyền rủa tôi nếu anh muốn nhưng anh chẳng thay đổi được gì hết.. Này Parker, anh có tin thực là tôi thực tình bắt tụi trẻ này nhịn đói không? Nhưng, mẹ kiếp, anh hãy cho chúng tôi những vũ khí khác để chúng tôi chiến đấu! Hãy cho tôi trọng pháo để bắn các chiến xa kia, bắn chìm các phóng ngư lôi hạm kia! Tất cả những gì chúng hiện có, đó là lòng can đảm và lòng tin của chúng tôi. Từ hai ngàn năm nay mọi người đã cố tình đánh đập, tra tấn, tàn sát chúng tôi. Thì bây giờ đây, năm 1946, chúng tôi lao mình vào một trận chiến mà chúng tôi sẽ thắng.
|
|