|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:09:49 GMT -6
Exodus
Phần I => Chương 1
Tháng mười một 1946
Phi cơ nhấp nhổm trên phi đạo rồi ngừng lại trước tấm bảng lớn: CHYPRE HÂN HOAN CHÀO ĐÓN QUÝ KHÁCH. Dán mặt vào cửa sổ, Mark Parker nhận thấy phía xa lởm chởm của ngọn Ngũ Chỉ, đỉnh cao nhất của dãy duyên hải miền Bắc. Một giờ nữa thôi, chàng sẽ vượt đưa tới Cyrénia. Tiến theo hành lang, chàng xiết lại nút cà-vạt, hạ tay áo sơ mi xuống và mặc áo vét-tông.
"Chypre hân hoan đón chào quý vị" đúng rồi, đó là ở trong cuốn Othello 1 nhưng chàng không sao nhớ lại được phần sau của câu văn ấy.
- Có gì khai báo không? - Hai kí-lô á phiện và một mớ sách về nghệ thuật khiêu dâm - Mark lầu nhầu trả lời.
Khi chàng vượt qua quan thuế, một nữ tiếp viên phi cảng tiến lại.
- Ông là Mark Parker phải không? Có tin nhờ chuyển tới ông: Bà Kitty Fremont gửi lời xin lỗi vì bận việc không ra được. Bà xin ông đến thẳng Cyrénia khách sạn Dôme, bà đã giữ sẵn phòng tại đó. - Cám ơn cô bé. Tôi có thể kiếm taxi chỗ nào để đến Cyrénia? - Xin để tôi lo việc này. Xin ông vui lòng đợi vài phút... Quán rượu ở đầu bên kia chỗ "hành khách đến".
Mười lăm phút sau, trong chiếc taxi đưa về thành phố, Mark ngả người về phía sau và nhắm mắt lại. Thực ra, chàng thích Kitty bị kẹt không tới đón chàng ở phi cảng. Nhiều năm đã đi qua kể từ lần gặp chót, hai người sẽ có biết bao nhiêu điều để kể cho nhau nghe, biết bao nhiêu kỷ niệm để nhớ lại... Nghĩ tới rằng sau hết lại được gặp nàng, chàng cảm thấy sự xúc cảm ấm áp dữ dội, một xúc động sâu xa lẫn với một bồi hồi thầm kín trong cơ thể. Kitty, con người xinh đẹp, nàng Kitty quyến rũ. Liệu chàng có thể lập nổi một trật tự đại khái cho vô vàn hình ảnh nàng đang dồn dập tới với chàng không?
Kitty Fremont, cô bé "hàng xóm láng giềng" như người ta thường nói ấy, với tóc kết bím, mặt lấm tấm tàn nhang, dáng điệu con trai, miệng đương nhiên là có mang máy sửa lại hàm răng cho thẳng: mẩu điển hình cho các cô gái nhỏ Hoa Kỳ. Rồi vào một ngày nào đẹp trời, con sâu xấu xí đã lột thành con bướm duyên dáng: Bộ máy sửa răng đã biến mất, đôi môi mấp máy một màu đỏ không nhờ gì thiên nhiên, các chiếc áo thung phồng căng hai trái chín mời mọc. Một thứ cây tươi mát, lành mạnh, ngon lành..
Cũng có cả Tom Fremont nữa. Lại một mẩu người điển hình Hoa Kỳ: Cậu bé khỏe mạnh tóc ngắn, nụ cười vừa trẻ con vừa chế nhạo, thể thao có hạng và ham mê làm những đồ lặt vặt. Người bạn thân nhất và tốt nhất của Mark, kể từ khi... nói chung, kể từ trước cho tới giờ. Các bà mẹ đã cai sữa họ vào cùng một thời, đã thả họ trên cùng một bãi cỏ, nhìn họ chơi cùng một trái banh.
Tom và Kitty... bánh táo và kem... xúc xích nóng và mù tạc... Một cô gái một trăm phần trăm Hoa Kỳ, một cậu con trai cũng một trăm phần trăm Hoa Kỳ, trong khung cảnh một trăm phần trăm Hoa Kỳ của tiểu bang Indiana. Kitty và Tom như trời sinh họ ra để lấy nhau, bổ túc cho nhau như mặt trời và mùa xuân.
Ngay khi còn rất trẻ, Kitty đã lặng lẽ, bí ẩn, trầm tư. Nhưng cũng can đảm đặc biệt, chính chắn, thực tế. Mark có lẽ là kẻ duy nhất khám phá ra trong ánh nhìn của nàng một vẻ buồn mơ hồ.
Chàng tự hỏi tại sao nàng có vẻ lôi cuốn hấp dẫn như vậy. Chắc bởi vì nàng ở ngoài tầm tay chàng. Ngay từ hồi nhỏ nhất, Kitty đã là cô bạn dịu hiền của Tom. Còn Mark chàng chỉ còn cách ước ao địa vị của bạn mà thôi.
Ở viện Đại học của tiểu bang, Tom và Mark sống chung một phòng. Trong năm đầu tiên, Tom buồn rầu không nguôi vì phải xa Kitty. Trong nhiều giờ liền, Mark kiên nhẫn và thông cảm, lắng nghe Tom than thở. Đến các kỳ hè, Kitty đi tiểu bang Wisconsin cùng gia đình vì ba mẹ; nàng hy vọng xa cách sẽ làm giảm bớt sự luyến ái quá cuồng nhiệt, ngoài mức ông bà có thể chấp nhận được. Còn về Tom và Mark, hai người đi bằng cách quá giang xe đến các mỏ dầu ở Oklahoma, nơi mà các chàng trai khỏe mạnh bao giờ cũng chắc chắn tìm thấy việc làm.
Đến kỳ khai trường, nhiệt tình của Tom đã lạnh bớt đi nhiều. Khoảng cách giữa các bức thư của Tom trao đổi với Kitty mỗi ngày một dài ra theo các buổi hẹn hò với các cô gái khác mỗi ngày một nhiều hơn lên. Đến nỗi cuối năm thứ ba và cũng là niên học chót, Tom hầu như quên luôn là có Kitty trên đời. Được tâng bóc chiều chuộng, như một ngôi sao số một của viện đại học, ngôi sao sáng của đội bóng rổ, nói tóm tắt một vị anh hùng mà các thổ lộ tâm tình qua thư từ không còn thể gây chú trọng được nữa. Còn Mark, chàng an phận với các ánh sáng rực rỡ của Tom phản chiếu sang con người khiêm tốn của chàng, cùng với cái danh là tên học trò bết nhất chưa từng thấy bao giờ trong lớp học về báo chí.
Mọi sự là như thế cho tới khi Kitty cắp sách đi học cùng trường đại học này, sự hiện diện của nàng làm cho Tom bị mê đắm đến gần như mất lương tri. Đúng một tháng trước các kỳ thi khảo hạch cuối năm, Tom bắt cóc Kitty mang đi, mang theo Mark cùng vị hôn thê là Ellen để làm chứng, đôi tình nhân chạy trốn trên một chiếc xe Ford cổ lỗ sĩ, và ngay sau khi vừa vượt biên thùy tiểu bang, họ đến trình diện ngay một vị thẩm phán để làm lễ cưới theo luật định. Cả hai cộng lại mới có được số tiền là bốn đô la mười xu nên cặp vợ chồng mới cưới đành qua đêm tân hôn trên băng sau của chiếc xe hơi cũ, và một cơn mưa bất tận đã biến mui xe thành một hương sen tưới nước. Nhưng nói cho cùng, đối với cặp vợ chồng đặc biệt Hoa Kỳ này, đời sống chung như vậy kể như bắt đầu với điềm tốt lành.
Tom và Kitty chỉ loan báo hôn nhân của họ một năm sau. Khi ấy, người chồng trẻ sau khi đã lấy được bằng tốt nghiệp, đã tìm được việc làm khiêm tốn nhất trong một hãng quảng cáo quan trọng, và người vợ trẻ đã học xong khóa điều dưỡng. Theo Mark nghĩ thì nghề điều dưỡng quả thực thích hợp với Kitty: Nàng như được sinh ra đời để tận tụy hy sinh cho kẻ khác.
Nếu trước đó Tom đã sống một cuộc đời hơi buông thả thì bây giờ chàng từ bỏ hết sức dễ dàng sự tự do của đời sống độc thân để trở thành một trong những ông chồng gương mẫu nhất. Lập nghiệp ở Chicago, nơi Kitty đã tìm được việc làm ở bệnh viện nhi đồng, cặp vợ chồng trẻ, vẫn trung thành với truyền thống tốt đẹp nhất của Hoa Kỳ, bắt đầu xây dựng cơ nghiệp của mình từng bước một: mới đầu là một buồng nhỏ trong chung cư, rồi là một căn nhà nhỏ, một chiếc xe hơi mới, và những niềm hy vọng lớn lao. Kế đó, Kitty có mang Sandra...
Mark mở mắt, khi chiếc taxi đi chậm lại, đi vào vùng ngoại ô của Nicosie, thủ phủ đảo, thành phố nằm dài trong đồng bằng màu nâu, giữa các dãy núi duyên hải phía bắc và phía nam. Còn năm phút nữa thôi là tới chính thành phố với các nhà bằng đá vàng mái lợp ngói đỏ chói đầy các cây chà là. Mark vừa nghĩ vừa cố ngăn một tiếng ngáp: "Giống hệt như là Damas". Đại lộ chạy dọc theo bức tường thành xây hoàn toàn tròn bao quanh lấy thành phố cổ. Mark nhìn thấy những tháp đôi của giáo đường Hồi giáo của khu Thổ Nhĩ Kỳ nhô lên khỏi đỉnh cao của bức tường thành vĩ đại. Những tháp đôi của Sainte-Sophie, một nhà thờ rất đẹp do các Thập Tự quân xây nên và bị biến cải thành giáo đường Hồi giáo sau khi họ bị thất trận. Sau khi đi vòng theo một nửa vòng đai thành, chiếc taxi đi qua vài đường nhỏ và ra khỏi Nicosie, tiến về phía bắc. Hai bên đường các làng giống nhau như hệt, với các căn nhà tồi tàn lụp xụp bằng gạch xám qui tụ quanh một cái giếng độc nhất bao giờ cũng có chữ đề: "Giếng này được xây cất do lòng đại lượng của Đức Vua Anh quốc". Trong những cánh đồng nhòa màu sắc vì mặt trời chói chang, các nông phu đang đào khoai với sự trợ giúp của những con lừa đẹp đẽ nhưng bướng bỉnh nuôi trên đảo.
Xe tăng thêm tốc độ, Mark lại nhắm mắt lại để suy nghĩ tiếp.
Chàng đã cưới Ellen và vài tháng sau hôn lễ của Tom và Kitty. Ngay từ ngày đầu tiên, đây đã là một cuộc hôn nhân thất bại hoàn toàn, một nhầm lẫn rõ ràng: một chàng trai tốt, một cô gái tốt, nhưng sinh ra không phải để lấy nhau. Không có lòng tử tế và tận tâm của Kitty, chắc họ đã xa nhau ngay. Kitty bao giờ cũng sẵn lòng nghe người này than thở về người kia, dẹp bỏ các hiềm thù, khuyến cáo nên kiên nhẫn. Nhờ có nàng, hôn nhân này mới kéo dài hơn là người ta có thể tưởng. Nhưng rồi đột nhiên, thảm kịch không thể cứu vãn xảy đến và kế đó là ly dị. May mắn thay là họ không có con.
Bàng hoàng và bơ vơ, Mark rời Chicago đi về các miền phía Đông. Trong nhiều năm chàng sống một cuộc đời trơ trọi, luôn luôn thay đổi chỗ làm: chàng là một ký giả dở nhất Hoa Kỳ sau khi đã là người học trò bết nhất trong các lớp dạy về báo chí. Bây giờ chàng thuộc về giới những kẻ lang thang bất tận mà người ta có thể gặp ở bất cứ đâu trong thế giới nhỏ bé của giới báo chí. Không phải là tại chàng thiếu tài năng hay thông minh, mà chỉ tại vì chàng không sao tìm được đất dụng võ thích hợp. Tạo hóa đã ban cho chàng một tinh thần sáng tạo vậy mà những công việc lấy tin thường nhật đều đều lại khó hòa giải được với thứ tài năng chống lại mọi thứ cưỡng chế. Tuy thế chàng lại không cảm thấy đủ can đảm - và cả ước muốn nữa - để lao vào nghề văn. Chàng biết quá rõ là mình không có bản chất của một nhà văn. Vì thế chàng vẫn tiếp tục sống cuộc đời lẹt đẹt.
Mỗi tuần, bưu tín viên mang lại cho chàng một bức thư của Tom, hai trang giấy đầy hăng hái trong đó người bạn thân nói về nghề nghiệp cùng những chặng đường hắn đã vượt qua dễ dàng, cùng tình yêu bao giờ cũng trọn vẹn đối với Kitty, sự cưng chiều dành cho Sandra, con gái họ, đã bắt đầu biết đi, học nói và chơi búp bê. Kitty cũng viết thư đều đặn cho chàng, những bức thư điềm tĩnh hơn trong đó bao giờ nàng cũng khéo léo hỏi thăm về số phận của vợ chàng - cho tới khi vợ chàng tái giá.
Năm 1938, một tình cờ đã mang lại một may mắn lớn cho cuộc đời Mark. Một đại diện của American New Syndicate, một trong những hãng thông tấn chính của Hoa Kỳ xin được thay thế, và Mark được chỉ định thay thế: trong một sáng một chiều chàng thoát ra được khỏi công việc nhỏ nhặt để thành thông tín viên đặc biệt.
Vừa đặt chân tới thủ đô Đức quốc, chàng đã chứng tỏ được mình là một phóng viên có tài năng đặc biệt. Được giải thoát khỏi sự khống chế của các viên thư ký tòa soạn, sau cùng chàng đã có dịp viết theo ước muốn riêng, tạo được một bút pháp riêng, cho phép chàng nổi danh khá nhanh. Chẳng bao lâu tên tuổi chàng được coi là cao giá trong thế giới báo chí. Hơn nữa chàng còn có linh khiếu tối cần thiết cho các đặc phóng viên lớn: linh khiếu của một tay săn rình rập các biến cố giật gân đang thành hình.
Một năm sau, chàng đã leo được lên mức thang chót để trở thành người tối cần thiết, một đặc phái viên sáng giá chuyên nghiệp có cái nhìn sâu sắc xem xét toàn thể thế giới. Bây giờ chàng đã có tất cả những gì cần thiết để sung sướng: chàng "bao phủ" mọi cơn chuyển biến của Âu châu, Á châu, Phi châu, chàng có uy tín và làm một công việc mình thích thú say mê, chàng được hưởng một lòng ưu ái vững chắc trong các quầy rượu của các dinh thự, khách sạn lớn cũng như trong các quán rượu nhỏ mà chỉ những khách quen mới biết được địa chỉ, và trong mỗi một thành phố, chàng có một bảng danh sách vừa dài vừa hấp dẫn những cô bạn gái mỗi đêm.
Khi chiến tranh bùng nổ, sau một cuộc du hành chớp nhoáng suốt Âu châu đang điên sợ, Mark chọn nơi trụ sở là Luân Đôn, trong một sự yên tĩnh rất là tương đối. Vào đầu năm 1942, Tom Fremont, qua một bức thư vẫn nồng nhiệt như bao giờ, loan báo đã gia nhập binh chủng Thủy quân lục chiến. Sáu tháng sau, một bức thư ngắn của Kitty cho biết chồng nàng đã tử trận trên một bãi biển vùng Guadalcanal. Hai tháng sau nữa, con gái của hai người là Sandra bị chết vì bệnh tê liệt.
Mark xin phép nghỉ khẩn cấp để trở về Hoa Kỳ. Nhưng sau khi thanh toán xong các thủ tục thông thường và vượt Đại Tây dương, Kitty Fremont đã biến mất. Mark tìm nàng khắp nơi trong nhiều tuần lễ, cho tới khi hết hạn nghỉ phép. Nhưng các cố gắng của chàng đã vô ích: không sao tìm được dấu vết Kitty. Và khi chiến tranh chấm dứt rất thuận lợi để chàng có thể mở lại các công cuộc tìm kiếm người xưa, thì những dấu vết hiếm hoi của hai năm trước đây đã lưu mờ rồi.
Vào tháng 11-1945, Mark được cử làm đại diện cho hãng thông tấn về vụ án Nuremberg 2 và với tư cách này chàng được hưởng đặc quyền không mấy vui là dự khán buổi xử giảo các lãnh tụ quốc xã. Sau đó mọi người miễn cưỡng phải cho chàng nghỉ phép vài tuần. Và mặc dù rất là cần nghỉ ngơi, chàng vẫn phung phí những ngày nghỉ theo cách thế riêng của mình - bằng cách theo đuổi một thiếu nữ Pháp có nụ cười đa tình mà chàng đã có dịp quen biết sơ sơ ở Liên Hiệp Quốc. Sau hết chàng đã tìm gặp được lại nàng ở Nhã Điển 3 trong cơ quan U.N.R. và tiếp tục công cuộc chinh phục nàng.
Nhưng định mạng không cho phép chàng được hưởng thành quả của công trình chinh phục này. Một buổi tối, trong khi đấu láo với một đồng nghiệp người Anh mới từ Macédoine về, chàng được nghe nói tới một nữ điều dưỡng Hoa Kỳ đã thành lập ở Salonique một công trình rất đáng ngợi khen để thu nhận các trẻ em mồ côi Hy Lạp. Nàng nữ điều dưỡng này tên là Kitty Fremont...
Hai giờ đồng hồ sau, bám sát máy điện thoại, Mark được biết là Kitty đã đi nghỉ dưỡng sức ở đảo Chypre.
Bây giờ chiếc taxi đang khó nhọc leo những khúc đường ngoằn ngoèo dẫn đến đèo Ngũ Chỉ. Và khi đã leo tới đỉnh, Mark yêu cầu tài xế cho xe đỗ lại ven lề.
Chàng bước xuống và tiến về phía bờ đối diện. Dưới chân chàng, thị trấn Cyrénia nằm giữa biển và núi như một đồ trang sức quý giá. Phía bên trái chàng, cao hơn đèo, là lâu đài Saint Hilarion vươn hình hài cao và đổ nát lên trời chiều. Chính trong sự che chở của các bức tường thành vĩ đại của nơi này, Richard Coeur de Lion 4 đã yêu nàng Bérengère mỹ miều. Mark thầm nghĩ: "Một nơi ta sẽ trở lại viếng thăm cùng Kitty".
Chiếc xe tiến vào Cyrénia lúc trời đổ tối. Những ngôi nhà trắng ngói đỏ, những ngõ hẻm ngoạn mục, và nhất là một cảm tưởng bình an sâu xa mà Mark chưa từng bao giờ cảm thấy. Một hải cảng bé xíu đầy thuyền câu và du thuyền ăn sâu vào giữa hai dãy của một con đê vĩ đại. Một dãy đê dùng làm cầu tàu, và trên dãy kia là công sự phòng thủ cũ, đồn Thánh nữ Đồng trinh.
Cách hải cảng vài bước, khách sạn Dôme phá vỡ sự hòa hợp xưa cũ của khung cảnh bằng khối lượng đồ sộ của mình. Nổi tiếng khắp Đế quốc Anh như là một nơi hẹn hò chọn lọc của các thần dân của Anh hoàng, khách sạn Dôme trải dài các phòng của mình theo cả một loạt những thềm hiên vươn ra ngoài biển. Một con đê dài chừng trăm thước nối liền khách sạn với một đảo nhỏ dùng làm bãi tắm riêng.
Khi xe ngừng trước cửa khách sạn, một nhân viên chạy tới xách hành lý. Vừa trả tiền xe, Mark vừa nhìn chung quanh. Dù đã vào sâu trong mùa - bây giờ là tháng mười một - không khí vẫn còn giữ một hơi ấm dễ chịu. Và còn thứ thanh tịnh, yên tĩnh thần thánh này nữa: quả thực là một nơi lý tưởng để gặp lại Kitty Fremont sau bao nhiều năm xa cách.
Nhân viên phòng tiếp tân trao lại chàng một bức thư ngắn.
Mark thân, Tôi bị kẹt ở Famagouste tới tận 9 giờ. Hy vọng anh không giận tôi nhiều vì thế. Rất vui sướng được gặp lại anh. Thân ái. Kitty.
Mark nhét thư vào túi áo, nói với nhân viên khách sạn:
- Tôi muốn có một vài bông hoa, một chai scotch và một sô đá. - Bà Fremont đã lo những việc này rồi ạ. Xin mời ông theo nhân viên hướng dẫn phòng... Hai ông bà ở phòng kế cận nhau nhìn ra biển.
Trước khi quay đi, Mark đoán thấy trên khuôn mặt nhân viên tiếp tân của khách sạn thoáng một nụ cười. Một nụ cười khẩy thì đúng hơn, vừa a tòng, vừa tục tĩu, thứ nụ cười mà chàng đã từng nhận cả mấy chục lần ở các khách sạn mỗi khi chàng đi cùng với một người đàn bà. Chàng muốn định nói rõ là mình không phải là người tình của bà Fremont, nhưng rồi thôi. Nói cho cùng, chàng bất chấp nhân viên khách sạn muốn tưởng tượng gì thì tưởng tượng.
Mười lăm phút sau, chàng thoải mái trong bồn tắm, thưởng thức sự tương phản giữa nước rất ấm và rượu Whisky rất lạnh chàng đang nhấm nháp.
Tắm xong, nhìn đồng hồ, chàng nhăn nhó: còn những hai giờ chờ đợi nữa...
Chàng mở cửa thông sang buồng bên. Phòng Kitty thơm mùi xà bông tắm và nước hoa Cologne. Ngoại trừ một áo tắm và vài đồ lót phơi gần cửa sổ, mọi thứ khác hoàn toàn trật tự gọn ghẽ. Mark nở nụ cười hài lòng. Ngay khi vắng mặt, Kitty cũng làm cho mọi người đoán biết nàng là một người đàn bà có khả năng và thông minh, kẻ thù của sự buông tha.
Chàng trở về phòng mình nằm dài ra giường. Chàng sẽ gặp lại người bạn thiếu thời như thế nào đây? Thời gian qua và với hai thảm kịch là cái chết của chồng và con đã ghi dấu lên nàng như thế nào? Lần chót chàng gặp Kitty là vào năm 1938, trước khi lên đường tới nhiệm sở tại Bá Linh. Bây giờ 1946... tám năm sau... coi nào, bây giờ nàng đã hai mươi chín tuổi...
Mệt mỏi vì đi đường và tình trạng thần kinh căng thẳng đã thắng để đưa chàng vào giấc ngủ.
Một tiếng động đầy hấp dẫn của những viên đá nhỏ va vào nhau trong ly dần dần đưa chàng ra khỏi giấc ngủ. Chàng dụi mắt, tay dò dẫm kiếm bao thuốc lá để trên bàn ngủ. Một giọng đàn ông có âm sắc người Anh cất lên:
- Ông bạn ngủ như là bị người ta thuốc vậy. Tôi đã gõ cửa ít ra là trong năm phút và sau cùng một nhân viên khách sạn mở cửa cho tôi vô bằng chiếc chìa khóa phòng nào cũng mở được của họ. Hy vọng ông bạn sẽ không giận tôi đã tự tiện dùng một chút rượu của ông bạn chứ?
Ngay từ khi những tiếng đầu tiên cất lên, Mark đã tự đặt trong tình trạng báo động. Chàng biết giọng nói này: đó là của thiếu tá Fred Caldwell thuộc quân lực Anh quốc. Sau khi châm một điếu thuốc, chàng tì người lên khuỷ tay, lầu nhầu:
- Anh làm cái trò gì ở đảo Chypre này vậy?
Viên sĩ quan ném về phía chàng một cái nhìn mỉa mai:
- Lẽ ra anh phải để chính tôi đặt ra câu hỏi ấy mới hợp lý chứ, phải không ông bạn?
Mark nhìn người đối diện không trả lời. Đối với Caldwell, chàng không thiện cảm cũng chẳng ác cảm. Có lẽ khinh khi thì đúng hơn. Chàng đã gặp gỡ viên sĩ quan này hai lần. Lần thứ nhất vài ngày sau cuộc đổ bộ vào vùng Flandres thuộc Bỉ. Vào thời kỳ này, Caldwell làm tùy viên cho đại tá (sau này là thiếu tướng) Bruce Sutherland, một người đáng kính và là một trung đoàn trưởng giỏi. Vậy mà trong một bài báo gởi về hãng thông tấn, Mark đã đưa ra một lầm lẫn chiến thuật nghiêm trọng của người Anh, lầm lẫn đã đưa đến sự tiêu diệt của cả một tiểu đoàn. Chàng gặp lại hai sĩ quan này trong vụ án Nuremberg khi họ tới làm nhân chứng thuật lại những cảnh khủng khiếp ở trại tập trung Bergen Belsen do chính quân sĩ của Sutherland đã tới giải phóng.
Cố ngăn một tiếng ngáp, Mark tiến về phòng tắm để té nước lạnh lên mặt. Trong khi lau mặt, chàng đối diện với khách:
- Tôi có thể làm gì giúp anh đây, Fred? - Bên An Ninh vừa điện thoại đến Bộ tư lệnh của tụi tôi cho biết anh đến đảo và vì anh không được tín nhiệm cho lắm đối với các chức quyền quân sự nên... - Trời! Nhà binh các anh thật quá đa nghi! Rất tiếc là đã làm các anh thất vọng bởi vì tôi chỉ ghé qua đây vớ tư cách du khách, trước khi lên đường đến nhiệm sở mới của tôi ở Palestine.
Caldwell nở một nụ cười gượng gạo, nói một cách xa xôi:
- Xin anh ghi nhận cho là cuộc viếng thăm này của tôi không hề có tính cách chính thức. Chúng ta quả hơi dễ giận - hơi một chút thôi - vì những sự giao thiệp của chúng ta ngày xưa khá căng thẳng...
Mark lầu nhầu:
- Anh quả thực có trí nhớ tốt đấy.
Trong khi Mark mặc quần áo, Caldwell pha cho chàng một ly whisky. Mark vừa lén quan sát dò xét vừa tự hỏi tại sao anh chàng người Anh này bao giờ cũng cố thu xếp để gây gổ với chàng như vậy. Cái vẻ cao ngạo khó khăn thường ngày của Caldwell, thứ lương tâm một trăm phần trăm nhà binh đã giết chết hẳn mọi dấu vết lương tâm ở con người của hắn... Đột nhiên không kìm giữ được, chàng hỏi lớn:
- Này Fred, có phải là An Ninh của các anh đang phải che giấu một vụ dơ dáy nào đó ở đảo này phải không? - Thôi cho tôi xin ông, xin ông đừng có thọc gậy thế. Hòn đảo này thuộc quyền chúng tôi có phải không? Vậy quả là chuyện thường tình khi bọn tôi tìm xem ông bạn tới đây làm cái trò gì. - Anh nói đúng đấy. Đó là điều tôi thích nhất nơi người Anh các anh. Một dân Hòa Lan chẳng hạn chắc sẽ nói với tôi là xéo đi chỗ khác chơi. Còn dân Anh thì bao giờ cũng giữ lễ độ: Xin mời ông cảm phiền xéo đi đâu thì đi tùy tiện... Sau khi nói rõ như vậy rồi, tôi xin nhắc lại với anh là tôi đang nghỉ hè, và tôi đáp xuống Chypre này chỉ cốt để gặp lại một cô bạn gái cũ rất thân, Kitty Fremont. - A, cô nữ điều dưỡng ấy! Một thiếu phụ rất quyến rũ. Tôi mới được quen cô ta cách đây vài ngày ở dinh ông Thống đốc.
Lông mày nhíu lên một cách thông cảm. Caldwell nhìn chiếc cửa mở thông sang phòng Kitty. Mark lầu nhầu:
- Anh đúng là có đầu óc lệch lạc. Tôi quen biết Kitty từ hai mươi lăm năm này rồi. - Như vậy thì chắc là tôi chẳng còn gì để nói thêm chăng! - Đúng vậy đó. Và bởi thế, cuộc thăm viếng của anh chỉ còn có tính cách xã giao và do tính cách ấy, tôi xin được phép mời anh đi ra cửa cho.
Mỉm cười, Caldwell đặt ly xuống bàn:
- Nếu anh nói cái giọng đó thì... Nhưng mong anh nhớ cho nhé: Anh đến đây hoàn toàn với tư cách du khách thôi. Tôi sẽ chuyển lời hỏi thăm của anh tới tướng Sutherland. Cheerio!
-------------------------------- 1 Othello: một vở kịch của Shakespeare, một kịch tác gia nổi danh người Anh. 2 Nuremberg: thành phố Đức miền Bavière, nổi danh vì trước đã là thành trì, trụ sở chính của đảng Quốc gia Xã hội Đức (gọi tên là Quốc Xã) do Hitler lãnh đạo. Và sau khi đệ nhị thế chiến lại nổi danh một lần nữa vì các Quốc gia Đồng Minh do chọn thành phố này làm nơi xử án các phạm nhân chiến tranh - Đa số là các lãnh tụ của đảng Quốc Xã trước kia. 3 Nhã Điển: kinh đô của nước Hy Lạp (Athènes). 4 Richard, Coeur De Lion: một vị vua Anh quốc đã từng thân chinh cầm đầu Thập Tự quân Âu châu sang chiến đấu chống quân Hồi giáo ở Trung Đông.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:12:58 GMT -6
Phần I => Chương 2
Cùng giờ đó nhưng trong một vùng khác của hải đảo có hai người đàn ông đang chờ đợi một người thứ ba tới. Nơi hẹn là một địa điểm cách Cyrénia chừng 50 cây số, ven một khu rừng có các cây thông, khuynh diệp và keo hoang bám dọc cao nguyên duyên hải tới tận phía bắc hải cảng Famagouste. Nấp trong một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang, hai người đó chăm chú nhìn xuyên qua một màn cây mỏng vùng biển mở ra dưới chân sườn dốc, cách đó khoảng chừng năm trăm thước. Những đám mây đen dầy dặc ngăn chặn những tia sáng cuối cùng của buổi hoàng hôn. Trong im lặng sâu thẳm, chỉ nghe thấy tiếng lá xào xạc mơ hồ.
Dần dần mây tan bớt. Một làn ánh sáng mờ nhạt chiếu xuống mặt hai kẻ đang chờ đợi rình rập đứng bất động sau một khung cửa sổ. Khuôn mặt chờ đợi lo âu của người kiểm lâm dân đảo Chypre 1 gốc Hy Lạp. Bộ mặt kia xanh xao và điềm tĩnh là của người Do Thái tên là David Ben Ami.
Mây bay bớt đi, ánh sáng nhợt nhạt chiếu xuống mặt đất, soi rõ những hàng cột đổ nát, những mảnh tượng bằng đá hoa vỡ tan. Những di tích này trải rộng trên một diện tích lớn: nơi này xưa kia là đô thị Salamis cường thịnh. Bị một cơn động đất phá hủy lần thứ nhất, đô thị này được tái thiết hết sức nhanh chóng để rồi sau cùng bị xâm lăng Ả Rập tiêu hủy vĩnh viễn. Salamis bây giờ chỉ còn là một nơi hiu quạnh, một bằng chứng thầm kín huy hoàng của Hy Lạp thời xưa.
Một cơn gió đột ngột dồn mây lại thành một bức trần dầy dặc, người kiểm lâm sốt ruột, lo âu thì thào:
- Đáng lẽ ảnh phải tới đây từ hai giờ rồi. Tôi đang tự hỏi...
David Ben Ami cắt ngang lời bạn:
- Im! Nghe này!
Từ ngoài khơi vẳng tới một tiếng động cơ nổ nhỏ vì còn ở quá xa, nhưng nổi rõ trên nền âm thanh rì rào của lá cây rừng. Chùm ánh sáng của một ngọn đèn mạnh chạy trên mặt nước đen, quét ngang tường căn nhà nhỏ, phụt tắt, bật lên rồi lại tắt đi lần nữa.
David Ben Ami cầm khẩu tiểu liên để dưới chân, bổ nhào ra ngoài nhà, người kiểm lâm chạy theo. Hai người ào xuống sườn dốc, chạy tới tận bãi cát. Rồi người Do Thái lấy đèn của mình ra, nhắc lại mật hiệu.
Tiếng động cơ ngừng chạy. Giữa vịnh, xuất hiện lờ mờ hình ảnh của một tiểu đĩnh. Một bóng người leo qua hông tàu, nhào xuống biển, bơi thẳng vào bờ. David Ben Ami lên đạn; mắt quan sát toàn thể bãi biển. Bao giờ cũng có thể xảy ra một sự bất ngờ: đôi khi những toán tuần tiểu người Anh xuất hiện ở những nơi không định được và vào lúc ít ai ngờ được. Người bơi dưới biển đã lên bờ.
- David? - Tôi đây anh Ari! Theo tôi, lẹ lên!
Họ chạy nhào lên, vượt qua ngôi nhà nhỏ tới một con đường đất. Một chiếc taxi đậu sẵn dưới một bụi cây. Ben Ami cám ơn người kiểm lâm rồi cùng kẻ mới tới lên xe chạy hết tốc lực về Famagouste. Ari lầu nhầu:
- Thuốc lá của tôi ướt hết rồi.
David Ben Ami đưa bao của mình cho bạn. Dưới làn ánh sáng lập lòe của bật lửa, khuôn mặt và hai vai Ari nhô khỏi bóng tối, một khuôn mặt nét đều đặn nhưng ánh mắt cương nghị, vai rộng và to như một tay đô vật; bề ngoài này biểu lộ một sức mạnh phi thường thật tương phản với Ben Ami, kẻ mới trưởng thành, mảnh khảnh, hơi nhỏ bé, với khuôn mặt hẹp ra một tâm hồn nhạy cảm của kẻ trí thức.
Ari Ben Canaan hầu như được đục đẻo từ đá hoa cương ra. Và chắc chắn không phải là do ngẫu nhiên mà chàng trở thành tay anh kiệt của Mossad Aliya Bet, tổ chức mật của những người Do Thái ở Palestine.
-------------------------------- 1 Chypre: một hòn đảo lớn trong Địa Trung Hải, thuộc Anh quốc. Dân trên đảo gồm hai sắc dân chính: Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đệ nhị thế chiến một thời gian, cả Hy Lạp lẫn Thổ đều đòi đảo này, gây ra nội chiến và sau cùng LHQ phải can thiệp mới tạm yên.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:17:49 GMT -6
Phần I => Chương 3
Mark Parker nghe thấy tiếng gõ cửa và đứng dậy ra mở. Trên bực cửa, Kitty Fremont, còn đẹp và quyến rũ hơn cả hình ảnh chàng đã từng ghi nhớ nữa. Trong một vài khoảng khắc, hai người im lặng nhìn nhau. Rồi cùng một lúc, họ lao vào ôm lấy nhau.
Trong giờ gặp gỡ đầu tiên sau tám năm xa cách, họ không nói bao nhiêu, chỉ cùng nhau trao đổi những nụ cười, tay cầm tay và thân ái hôn lên má nhau. Ngay cả sau đó, trong phòng ăn của khách sạn, câu chuyện của họ chỉ hướng về những đề tài vô thưởng vô phạt. Khi nhắc lại những phiêu bạt trong cuộc sống làm phóng viên chiến tranh của mình, Mark sớm nhận ra là Kitty cẩn thận tránh mọi ám chỉ tới đời sống riêng của nàng. Đến phần tráng miệng, khi chàng ngừng nói và ném ra một cái nhìn dò hỏi, nàng cúi đầu.
Trong vài phút, một im lặng bối rối bao phủ hai người. Sau cùng, Mark đẩy ghế đứng dậy đề nghị:
- Chúng ta đi dạo một vòng hải cảng đi. - Tôi lên lấy khăn quàng đã.
Vẫn trong im lặng, hai người đi dọc đê tới tận ngọn hải đăng đứng trấn lối vào vũng nhỏ hẹp. Một làn sương nhẹ xóa mờ đường nét của các thuyền câu đang kéo căng những sợi dây neo. Cách đó vài trăm thước, một chiếc tàu đánh cá theo sự hướng dẫn của đèn hải đăng, tiến gần tới lối dẫn vào vũng tàu đậu. Cơn gió nhẹ đùa giỡn trong mái tóc Kitty, nâng tung các góc chiếc khăn nàng quấn quanh vai. Mark châm một điếu thuốc, ngồi xuống bờ đê, thả chân trên mặt nước róc rách. Chàng nói:
- Tôi thấy tôi đã lầm khi tới đây, sự hiện diện của tôi làm em khổ. Sáng mai tôi sẽ ra đi.
Kitty phản đối, mắt nhìn xa xăm:
- Nhưng tôi không muốn anh đi. Tôi bị xúc động, gần như sợ hãi khi nhận được điện tín của anh. Hầu như là người ta đột ngột mở tung chiếc cửa mà ở phía sau đó tôi đã cố gắng che giấu muôn ngàn kỷ niệm. Tuy thế, tôi vẫn biết chuyện này phải xảy tới vào một ngày nào... Xét theo một khía cạnh nào đó, tôi sợ hãi giây phút này... theo một khía cạnh khác, tôi lại bằng lòng mọi sự đã xảy tới như thế. - Tom đã chết bốn năm rồi. Bao giờ em mới bắt đầu quên anh ấy?
Nàng thì thào:
- Quên? Chắc chắn là sẽ quên, bao nhiêu triệu đàn bà đã mất chồng trong chiến tranh. Tôi đã khóc biết bao nhiêu khi biết tin Tom chết... Chúng tôi vẫn yêu nhau như thửa ban đầu... dầu vậy tôi cảm thấy, tôi biết là tôi sẽ tiếp tục sống. Nhưng còn Sandra, đứa con gái yêu dấu của tôi... tại sao nó cũng phải chết nữa?
Mark lầu nhầu:
- Tôi biết trả lời em ra sao bây giờ? Tôi không phải là Đức Chúa - Chàng châm một điếu thuốc thứ hai và đưa cho nàng - Em ngồi xuống đi chứ.
Kitty tuân lời một cách máy móc, rồi sau tiếng thở dài, nàng ngả đầu lên vai chàng.
- Tôi bắt đầu tin rằng không thể còn có một nơi trốn tránh nào cho tôi được nữa... không một nơi để ẩn thân...
Chàng cắt ngang lời, cáu kỉnh:
- Tốt hơn, em nên kể cho tôi nghe. - Tôi không muốn kể, anh... - Tôi có cảm tưởng ít ra em cũng phải thử đi. Tôi còn nghĩ rằng đã đến lúc rồi đó.
Nàng phải cố gắng mới giữ vững được giọng nói.
- Thật ghê khiếp, anh. Một cơn ác mộng. Trước hết là cái chết của Tom - theo nguyên văn bản thông báo là "hy sinh cho tổ quốc tại chiến trường" - rồi sau đó là bệnh tê liệt đã mang Sardra đi... Tôi không còn biết gì nữa, không còn nhớ gì nữa, có thể nói như thế. Ba má tôi đưa tôi đến Vermont, vào một dưỡng đường. Tôi lưu tại đó, thực ra cũng chẳng còn nhớ là bao nhiêu lâu nữa. Tôi không sống thực sự, tôi chỉ hiện diện như cỏ cây, như trong một đám sương mù, từ sáng tới chiều từ chiều tới sáng. Các bác sĩ bảo là cơn bệnh buồn nghiêm trọng.
Nàng ngưng nói, hút một hơi thuốc rồi ném điếu thuốc đi. Khi nàng lại cất tiếng, giọng nàng đã thay đổi. Nàng có vẻ vững chắc hơn, hầu như cuồng nhiệt và Mark hiểu rằng cơn đau khổ dằn vặt bị kìm giữ trong bao nhiêu năm ấy sắp sửa được giải thoát.
- Một ngày nọ bức màn bị rách tung: tôi chợt nhớ lại là Tom và Sandra đã chết rồi. Một thứ gì như một cơn đau thể xác không rời bỏ tôi nữa. Tôi không sao nghĩ được đến một cái gì khác nữa, dù chỉ trong một phút... Tất cả những gì tôi trông thấy, nghe thấy đều làm tôi nhớ đến nỗi đau khổ đã có. Mỗi lần tôi nghe thấy tiếng hát hay cười, mỗi lần tôi trông thấy một đứa bé... Tôi đau đớn đến phải gào thét lên. Khi ấy, tôi cầu nguyện như thế này, tôi cầu Chúa cho rơi phủ lại tấm màn lãng quên ấy lên tâm trí tôi như cũ. Tôi cầu xin Chúa trả lại cho tôi bệnh điên để tôi không thể còn nhớ được gì nữa.
Nàng đứng dậy và chàng trong thấy nước mắt nàng chảy ướt dẫm trên má.
- Nhưng cơn điên không muốn trở lại. Tôi chạy trốn đến Nữu Ước, hy vọng mình sẽ lãng quên được giữa đám đông và tiếng động ồn ào. Tôi tìm được một cái phòng nhỏ ngay bên trên một cái quán rượu có bảng hiệu bật sáng bật tắt ngay dưới cửa sổ tôi. Tôi lang thang trong các đường phố nhiều giờ, hoặc tệ hơn nữa, tôi ngồi lì ở nhà dán mũi vào cửa kính hai hay ba ngày liền. Tôi không còn gì để làm nữa: Tom, Sandra, Tom, Sandra... Có thể nói là trong đầu óc khổ sở của tôi, chỉ còn hiện diện có hai người đó mà thôi.
Mark đứng dậy, Kitty quay lưng lại tránh mặt chàng nhưng hai bàn tay người đàn ông đã xiết chặt lấy vai nàng, an ủi, thân hữu. Trên mặt nước đen, chiếc tàu đánh cá đã đi vào giữa hai dãy đê. Kitty nghiêng đầu cọ má vào tay Mark; tiếp tục:
- Một buổi tối, tôi uống rượu nhiều hơn thường lệ. Nhiều hơn rất nhiều. Tôi chú ý tới một chàng trai... hắn mặc bộ quân phục xanh, như Tom... Hắn có một mình, tóc cắt ngắn, cao lớn, giống hệt như Tom. Chúng tôi uống với nhau một ly rượu, rồi một ly thứ hai, một ly nữa... Tôi tỉnh dậy trong một căn phòng khách sạn tồi tàn... Tôi vẫn còn say... Tôi ngồi dậy, chệnh choạng đi tới trước tấm gương tủ quần áo. Tôi nhìn tôi... Tôi hoàn toàn trần truồng. Hắn, hắn cũng thế, trần truồng... đang ngủ lăn lóc trên giường... - Kitty! Sao em... - Anh để tôi kể hết đã, anh Mark. Tôi đứng đó, không sao rời khỏi hình ảnh mình trong gương, không biết là trong bao lâu nữa... Kể từ giờ phút đó, tôi không thể sa ngã hơn được nữa... Tôi quả thực đã rơi xuống chỗ sâu thấp nhất. Trong khi đó, hắn vẫn còn ngủ, như bị ai đánh ngất xỉu... một kẻ xa lạ, tôi không biết cả đến tên hắn nữa... qua cửa phòng tắm để mở, tôi không thấy dao cạo râu của hắn trên bàn rửa mặt... ống dẫn hơi đốt cháy trên trần nhà... và nhất là cửa sổ, cao sáu tầng trên mặt hè... Trong mười phút, trong một giờ, tôi không đoán được tôi đã đứng nhìn khoảng không như thế trong bao lâu nữa. Đáng lý ra, đây là tận cùng, tận cùng của một cuộc sống ghê tởm tôi không muốn có nữa... nhưng tôi không có can đảm để tự hủy. Rồi đột nhiên, trong tôi nảy sinh một điều kỳ lạ: tôi ý thức rằng tôi sẽ tiếp tục sống, không Tom không Sandra. Trong khoảng khắc, nỗi đau đớn dày vò không ngừng ấy... biến mất đi hoàn toàn.
Mark nói nhỏ:
- Tội nghiệp cô bé. Tôi hết sức mong muốn tìm gặp được em để giúp đỡ trấn an em lúc đó. - Tôi biết là anh sẽ làm tất cả những gì cần phải làm để giúp đỡ tôi. Nhưng mà vào thời kỳ ấy, không ai có thể giúp cho tôi được hết. Tôi giả đoán rằng có những trận chiến mà người ta phải chiến đấu một mình. Sau hết... tôi lại đi làm nữ điều dưỡng như cũ, lao vào công việc hết sức, như là điên khùng. Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt ở Âu châu, tôi đứng ra coi viện mồ côi Hy Lạp ấy. Công việc này hoàn toàn thích hợp với tôi: một chức vụ mà tôi phải đảm trách hai bốn trên hai bốn tiếng, những trách nhiệm nặng nhọc không còn để thì giờ cho tôi nghiền ngẫm những vấn đề cá nhân nữa. Anh nên biết là lúc nào tôi cũng định viết thư cho anh. Có lẽ tôi đã bắt đầu viết chừng cả trăm bức thư rồi, nhưng nghĩ tới phải thú thật với anh tất cả mọi chuyện đó, tôi đâm ra sợ hãi... Bây giờ thì tôi bằng lòng, cảm thấy trút được gánh nặng. Anh Mark, anh đã hành động phải, khi tới nơi này.
Chàng thì thầm:
- Và tôi, tôi cũng hài lòng khi tìm lại được em, Kitty.
Tay nắm tay, hai người trở về khách sạn. Qua những khung của sổ cao mở ra phía biển, họ nghe thay tiếng nhạc khiêu vũ nhộn nhịp.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:20:44 GMT -6
Phần I => Chương 4
Trong một căn nhà đẹp đẽ đường Hippocrate, một trong những đường chính của Famagouste, thiếu tướng Bruce Sutherland, tư lệnh các lực lượng Anh tại đảo Chypre, đang ngồi trước chiếc bàn làm việc vĩ đại. Ngoại trừ hơi to bụng và tóc hoa râm, phong dáng của ông chưa hề mang số tuổi năm mươi lăm ông vừa đạt tới. Mặc dù mặc áo choàng thường, ông vẫn có dáng điệu cứng cỏi của một sĩ quan chuyên nghiệp.
Ông ngẩng đầu lên khi nghe tiếng gõ cửa.
- Cứ vào! Chào anh Caldwell, đã đi Cyrénia về rồi kia hả? Ngồi đây.
Sutherland đẩy hồ sơ ông đang cứu xét sang một bên, cất kính và vươn vai. Sau khi mời sĩ quan tùy viên của mình một điếu xì gà, ông nhồi tẩu thuốc và bấm chuông gọi người hầu, một anh chàng Hy Lạp trẻ tuổi.
- Cho hai gin-tonic - Ông đợi cho tới khi người hầu đi ra mới hỏi tiếp - Thế nào, chắc anh đã gặp ông Mark Parker thân mến của chúng ta rồi chứ? Cảm tưởng của anh ra sao?
Caldwell nhún vai.
- Chính thức ra mà nói, chúng ta không thể trách hắn điều gì hết, thưa thiếu tướng. Hắn đang đi đến Pabatia và ngừng tại đây hoàn toàn chỉ để gặp cô nữ điều dưỡng người Hoa Kỳ Kitty Fremont... - À... thiếu phụ xinh đẹp trong buổi dạ vũ của ông Thống đốc. - Vâng chính cô ta, thưa thiếu tướng. Vậy như tôi vừa nói, sự hiện diện của hắn ở đảo chỉ do một nguyên động lực vô tội nhất. Nhưng vì Parker là một ký giả đã mang tới cho chúng ta nhiều rắc rối xưa kia, ở Hòa Lan...
Sutherland cắt ngang:
- Thôi dẹp đi. Một câu chuyện cũ không còn ai nhớ tới nữa, ngoại trừ hắn và chúng ta.
Người hầu mang đồ uống vào. Viên tướng uống một ngụm, đặt ly xuống, vỗ nhẹ lên bộ ria đang già đi, tiếp tục nói:
- Anh không có vẻ yên tâm. Anh chàng Hoa Kỳ ấy làm cho anh lo ngại đến thế sao? - Xin cứ cho là tôi nghi ngờ hắn đi. Và nếu giả thử hắn bộc lộ nhiều tò mò quá, thiếu tướng có nghĩ là nên cho hai người bên an ninh theo dõi không? - Thôi đi, anh bạn. Xin anh bạn hãy để cho hắn yên. Anh không bao giờ nên tìm cách giới hạn tự do của một ký giả hết: làm như vậy là gợi nghi ngờ để rồi rút cuộc hắn sẽ mò ra ai, biết được một vụ xì-căng-đan nào đó. Dĩ nhiên có vụ các trại lưu giữ khốn kiếp mà chúng ta đã phải thành lập trong đảo. Nhưng tôi sẽ ngạc nhiên nếu Parker chú ý tới chúng: chuyện những người tị nạn đã hết thời trang rồi. Đó không phải là một nguyên cớ để cho hắn muốn lục lạo: do thế, không được ngăn cấm hay theo dõi hắn. Nếu anh muốn nghe ý kiến tôi, thì vụ anh tới thăm hắn ở khách sạn, là một lầm lẫn. - Nhưng thưa thiếu tướng... sau những rắc rối hắn đã mang lại cho chúng ta qua những bài hắn viết... - Thôi thế đủ rồi, Fred! Hãy mang bàn cờ ra đây.
Caldwell hiểu là mình đã dại khi nói mãi về vụ này. Chàng cố tập trung vào ván cờ, nhưng Sutherland hiểu là sĩ quan tùy viên của mình đang bất mãn. Ông la:
- Caldwell, một lần nữa tôi phải giảng cho anh hiểu rằng những trại ấy của chúng ta không hề là trại tập trung. Những kẻ tị nạn hiện giữ ở Caraolos hiện chỉ là tạm giữ ở Chypre cho tới khi các vị khốn kiếp ở Luân Đôn có được quyết định về vấn đề ủy trị của chúng ta ở Palestine. - Mọi sự sẽ là toàn hảo nếu những người Do Thái khốn khổ ấy không vô kỷ luật đến như vậy. Tôi bắt đầu tin rằng cần phải dùng trở lại hệ thống trừng phạt thể xác xưa kia. - Hẳn là không rồi, Fred. Những người đó không hề là tội phạm, và hơn nữa họ được cảm tình của cả thế giới. Vấn đề của chúng ta là coi chừng đừng để đánh lộn, nổi loạn, bạo hành dưới bất cứ hình thức nào, nói tóm tắt là coi chừng không để xảy ra bất cứ điều gì có thể cung cấp chất liệu cho một vụ tuyên truyền chống Anh quốc. Tôi nói thế là rõ chứ, Fred.
Đối với Caldwell còn lâu mọi sự mới rõ ràng. Theo ý chàng, những người tị nạn không đáng được gượng nhẹ như thế. Nhưng muốn thắng một thiếu tướng ít ra phải là trung tướng nên chàng im lặng và tiến một quân cờ.
- Đến lượt thiếu tướng đi cho.
Ngạc nhiên vì thấy tay Sutherland vẫn không nhúc nhích, chàng ngửng lên. Viên tướng hình như chìm đắm vào một suy tư sâu xa đến độ quên luôn sự hiện diện của người cùng chơi cờ. Hiện tượng này gần đây càng ngày càng hay xảy ra. Caldwell nghĩ "Tội nghiệp ông", viên tướng, sau khi thành hôn với Neddie Sutherland trong gần ba muơi năm, đột nhiên phải sống cô đơn. Vợ ông đã trốn sang Paris cùng với một người tình dĩ nhiên là trẻ hơn ông nhiều. Câu chuyện này đã gây khá nhiều ồn ào trong giới cao cấp của quân lực, và Sutherland sau khi bị xúc động nhiều có lẽ nay vẫn chưa quên được. Quả là một việc đáng tiếc nhất và không ai có thể trách gì ở ông được. Một người chồng tốt, một người bạn dễ chịu...
Caldwell chắc sẽ kinh ngạc lắm nếu viên tướng thổ lộ là ông không nghĩ đến vợ, mà đang nghĩ đến những người tị nạn ở trong trại Caraolos. Viên thiếu tá nhắc lại:
- Đến lượt thiếu tướng đi quân ạ.
Sutherland nói nhỏ:
- Kẻ thù các con sẽ bị tiêu diệt, Israel... - Xin lỗi, thiếu tướng nói chi?
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:25:14 GMT -6
Phần I => Chương 5
Mark và Kitty, nhịp thở hơi dần dập, trở lại bàn mình. Nàng nói, giọng đùa nghịch:
- Theo ý anh, bản samba chót của tôi cổ đến bao nhiêu năm? - Cũng không tệ lắm đối với một cô gái ở tuổi em.
Chàng đưa mắt nhìn căn phòng, một vài du khách lẫn vào đám đông các sĩ quan Anh: lục quân mặc đồ kaki, hải quân mặc màu trắng. Người hầu bàn chêm thêm đồ uống, hai người cụng ly, trao đổi với nhau một nụ cười.
- Uống mừng Kitty, cho mãi mãi, dù em ở bất cứ nơi nào! Mà này em, em sẽ định cư ở đâu đây sau kỳ nghỉ này!
Nàng nhún vai.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Công việc của tôi ở Salonique đã xong rồi. Hơn nữa, tôi muốn thay đổi không khí. Tôi đang do dự trước cả chục đề nghị làm việc dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc khắp Âu châu.
Chàng lầu nhầu:
- Dĩ nhiên là thế rồi. Cuộc chiến tranh chẳng ra gì này đã tạo ra triệu đứa con mồ côi. - Thực ra, mới ngày hôm qua thôi, thiên hạ đề nghị với tôi một công việc rất hay, ở ngay đây thôi. - Sao? Ở Chypre? - Đúng thế. Trong vùng Famagouste có nhiều trại dân tị nạn. Hình như nhà ở rất chật chọi, nên người Anh tính thành lập thêm các trại khác trên con đường đi Lamarca. Ba người Mỹ liên lạc với tôi ấy đề nghị tôi giữ chức vụ điều khiển trại mới. Đó là một lý do làm tôi không thể tới phi trường đón anh được. Chiều nay tôi đã phải tới Famagouste để trả lời. - Em có thể cho biết em trả lời sao không? - Từ chối. Tại nơi đó dự trù dành cho các trẻ con Do Thái. Lũ trẻ này chắc cũng giống như mọi đứa trẻ khác, dù chúng theo Ki tô giáo hay Hồi giáo, nhưng tôi không muốn dính dáng đến chuyện ấy. Mọi người nói với tôi rằng các dân Do Thái lưu giữ ở Chypre đặt ra một vấn đề chính trị nghiêm trọng, hơn nữa, họ không thuộc thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc.
Mark giữ im lặng suy nghĩ. Sau chừng một phút, Kitty ném ra một cái nhìn ranh mãnh và khua một ngón tay trước mũi chàng.
- Anh dẹp cái vẻ thê thảm ấy đi. Anh không tò mò muốn biết lý do thứ hai đã ngăn cản tôi đến phi trường đón anh sao? - Em không say quá đấy chứ?
Nàng phì cười.
- Tôi bắt đầu có cảm tưởng thế. Này, ông Mark Parker ạ, không giấu gì ông hết: tôi bị kẹt ở Famagouste cũng còn vì để chúc thượng lộ bình an ông bồ theo đuổi chung thủy của tôi. Điều này chắc hẳn không làm anh ngạc nhiên quá đáng... Một người tình ra đi bằng tàu thủy, thì một người tình khác đến bằng máy bay. - Hay lắm - Chàng tức giận - Nhân tiện em nói tới vụ đó, tôi xin hỏi em luôn... cái anh chàng đi cùng em đến Chypre, hắn là ai đấy? - Đại tá Howard Hillings của Quân lực Anh. - Giữa em và hắn không xảy ra điều gì phải giấu chứ?
Nàng bĩu môi.
- Chắc chắn là không rồi! Hắn cư xử đứng đắn đến phát ghét lên được. - Em câu được anh chàng đó ở đâu vậy? - Ở Salonique. Hắn đứng đầu phái bộ Anh. Khi tôi đứng ra coi cô nhi viện, bọn tôi thiếu thốn đủ thứ: giường, thuốc men, chăn mền, thực phẩm... nghĩa là thiếu thốn tất cả. Tôi đã có được cái may mắn là tới thăm hắn, và hắn tận lực giúp đõ, vượt qua mọi luật lệ, bỏ ngoài mọi công chức... Từ đó phát sinh một tình bạn vững chắc nhất: không nói giỡn, đó quả thực là một tình yêu.
Mark chế riễu:
- Nặng đến thế kia sao? Kể tiếp đi em, em ngừng ngang xương ở đúng chỗ câu chuyện bắt đầu hấp dẫn. - Cách đây vài tuần, thiên hạ báo cho hắn biết là hắn sắp phải đổi sang Palestine. Trước khi đáo nhiệm sở mới, hắn được nghỉ phép. Hắn yêu cầu tôi tới sống vài ngày giải trí nghỉ ngơi cùng hắn ở Chypre. Đề nghị nghe được: tôi đã làm việc vất vả đến nỗi trong 18 tháng vừa qua, tôi quên không nghỉ tới một ngày. Dẫu sao, mọi sự cũng không kéo dài: hắn bị gọi khẩn cấp xuống tàu ngay hôm nay đi Haifa. - Điều đó không cấm em làm đại tá phu nhân trong tương lai chứ?
Nàng lắc đầu.
- Thú thật tôi có khá nhiều cảm tình với hắn. Anh chàng tội nghiệp... vất vả đưa tôi tới tận Chypre cốt tìm một khung cảnh thuận tiện để cầu hôn tôi! Nhưng chỉ vì... tôi yêu Tom, chắc anh hiểu chứ, tôi yêu anh Tom đến mức độ điên lên được, và chắc chẳng bao giờ tôi cảm thấy được một mối tình sâu xa đến như vậy nữa. - Thôi xin cô! Luận cứ của cô không vững tí nào. Cô hiện hai mươi tám tuổi, tuổi tốt đẹp nhất để hưởng nhàn! - Nhưng tôi lại không vội vã như thế. Tôi đã có may mắn là kiếm được một công việc hợp ý. Quan trọng nữa.
Chàng lầu nhầu:
- Đúng đấy, quả thực là quan trọng.
Bối rối, Kittty đổi đề tài câu chuyện.
- Chàng đại ta đó đi Palestine, anh cũng đi Palestine và nhiều sĩ quan ở đây cũng sắp bị gửi đi Palestine nốt. Theo ý anh, chuyện đó có ý nghĩa gì? - Ở xứ đó sắp xảy ra chiến tranh. - Chiến tranh? Nhưng tại sao? Tôi không hiểu.
Mark nở một nụ cười không vui.
- Vì cả đống lý do. Trước hết, nói một cách tổng quát, thì tại hàng triệu người trong toàn thể thế giới đột nhiên quyết định rằng họ sẽ tự quyết định vận mạng họ. Em sẽ thấy các thuộc địa trong thế kỷ này càng ngày càng trở thành lỗi thời. Người Anh, ở Chypre cũng như ở nhiều nơi khác, đang ngoan cố lao vào một cuộc chiến tranh cầm chắc phần thua - Chàng rút trong túi ra một tờ giấy bạc và giơ lên - Đây, đây là tên lính của đế quốc mới, và người Mỹ gởi hàng sư đoàn những thứ lính này đến mọi nơi xa xôi khuất nẻo nhất trên thế giới. Một cuộc chinh phục hòa bình của một đạo quân viễn chinh ghê gớm nhất trong lịch sử... Ngoài ra còn vì Palestine đặt ra một vấn đề riêng biệt nữa. Ở xứ đó đang xảy ra những điều không thể tin, ghê gớm: một nhóm nhà tiên tri muốn gây dựng lại một quốc gia đã chết từ hai ngàn năm nay. Một công cuộc không tiền khoáng hậu, nhưng lại dám thành công lắm. Đó là những người Do Thái, chính những kẻ Do Thái mà em đang ghét đó.
Kitty cãi:
- Tôi chưa bao giờ nói là tôi ghét Do Thái cả! - Thôi chúng ta đừng làm mất vui buổi tối của chúng ta bằng cách cãi nhau về vấn đề ấy. Ngược lại, vì em đã có thì giờ đi lang thang trong đảo Chypre này... Em có trông thấy hay nghe thấy gì bất thường không? Em nghĩ lại kỹ đi, lục trí nhớ coi: em sẽ giúp ích nhiều cho anh đấy. - Tôi ấy à, tôi chẳng thấy gì nhiều đáng chú trọng cả ngoại trừ các trại giữ dân di cư. Theo một số người đồn, những người này phải ở chật chội khổ sở lắm. Nhưng tại sao anh lại hỏi tôi việc ấy?
Mark, vẻ suy tư, ngắm nghía chiếc ly của mình.
- Tôi cũng không biết nữa. Nhưng linh khiếu của anh cho biết sắp xảy ra những biến cố quan trọng trong cái đảo thơ mộng này đây. Vả lại, không phải chỉ vì trực giác của người làm báo mà thôi. Chắc em biết mặt anh chàng thiếu tá Caldwell sĩ quan tùy viên của tướng Sutherland... -... Anh chàng nói nhiều, chán ngắt. Tôi đã phải chịu trận với anh chàng đó trong buổi tiếp tân của ông Thống đốc. - Đúng cái anh đấu láo chán ngắt như em nói ấy đã đến thăm tôi ở khách sạn, trước khi em đi Famagouste về. Lạ không em? Cái gì đã làm hắn nhảy bổ tới tôi lẹ như vậy. Cô bé cứ tin tôi đi, tụi anh đang lo lắng kinh khủng về vấn đề... Dĩ nhiên đây chỉ là một giả thuyết, nhưng tôi cá với em một xu ăn mười đồng là sự lo lắng của họ có liên quan tới các trại giữ người di cư Do Thái. Nghe đây em, em có chịu giúp đỡ tôi bằng cách nhận làm việc ở đó trong khoảng hai hay ba tuần lễ không? - Được chứ. Nếu quả anh tha thiết tới vụ đó...
Chàng cười:
- Tốt lắm. Thôi, dẹp chính trị lẫn báo chí sang một bên! Dẫu sao chúng ta cũng đang nghỉ hè mà. Ra nhảy đi em!
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:29:34 GMT -6
Phần I => Chương 6
Đây là một trong những dinh thự đẹp nhất của Famagouste, tọa lạc tại đường Arsinos, đối diện với tường thành của thành cổ. Tòa nhà này như muốn công bố với mọi người cái tài sản vững chãi của chủ nhân Mandria, một người dân đảo Chypre gốc Hy chủ hãng đóng tàu và giữ nhiều cổ phần nhất của một công ty taxi. Hai hoạt động chính của chủ nhân có thể làm cho ông trở thành một đồng minh quý giá cho một số người và trong một số trường hợp.
Chiều hôm ấy Mandria và David Ben Ami sốt ruột đi đi lại lại trong phòng lớn của từng dưới trong khi ở từng trên Ari Ben Canaan đổi bộ quần áo ướt sũng lấy một bộ khác ủi thẳng nếp. Mandria nhận xét:
- Chắc mọi người đã trao cho anh ấy một nhiệm vụ quan trọng, cuộc du hành chớp nhoáng...
David càu nhàu ngắt lời:
- Chắc hẳn thế rồi. Tổ chức Mossad Alliya Bet khi liều lĩnh cho cán bộ chính yếu của họ tới đây chỉ để hỏi thăm tin tức chúng ta thôi sao! Các cấp chỉ huy của chúng tôi sau cùng chắc đã ý thức rằng chúng ta không thể tiếp tục ngồi khoanh tay mãi được.
Mandria gật đầu. Ông thông cảm sự nóng nảy của người thanh niên. Từ nhiều năm rồi, Anh quốc cấm đoán, hay ít ra cũng hạn chế nghiêm khắc sự nhập nội của người Do Thái vào Palestine. Người Do Thái trả đũa lại bằng cách thành lập Mossad Alliya Bet, một hệ thống tổ chức nỗ lực đưa người Do Thái về Palestine mặc dầu có sự phong tỏa bờ biển vùng này. Cho tới giờ, đó là vụ châu chấu đá voi: hạm đội Anh đã đều đều chặn các tàu do tổ chức mướn và đưa họ trở lại đảo Chypre và lưu giữ họ tại đó.
Hai người im lặng khi nghe thay tiếng mở cửa. Ari Ben Canaan bước đến và cúi chào hơi kiểu cách. Thực ra anh chàng Do Thái sinh trưởng ở Palestine và thanh niên mảnh khảnh David Ben Ami là hai người bạn cố tri, tuy thế bề ngoài họ vẫn thích giữ một thứ hệ thống quân giai. Xét cho cùng, Mandria người đảo gốc Hy chỉ là một cảm tình viên chứ không phải là nhân viên chính thức của tổ chức.
Ari châm điếu thuốc và nói liền:
- Thượng cấp của chúng ta gởi tôi đến đây để tổ chức một cuộc đào thoát tập thể khỏi các trại lưu giữ. Các lý do của công cuộc này thật hiển nhiên rồi. Bây giờ chúng ta sẽ thực hiện ra sao thôi. Anh David, ý anh ra sao?
David lại đi đi lại lại trong phòng. Chàng suy nghĩ. Cách đây vài tháng, Palmach, quân lực bí mật của người Do Thái ở Palestine, đã phái chàng cùng năm mươi đồng đội tới các trại lưu giữ trong đảo - dĩ nhiên tới một cách bí mật trước mũi các nhà chức quyền Anh - để nâng cao tinh thần của những kẻ bị giam giữ. Vấn đề là phải thành lập các trường học, bệnh viện, và cả giáo đường nữa, cũng như các cơ xưởng kỹ nghệ thực sự. Chắc là một nhiệm vụ khó khăn rồi, nhưng cũng là tối cần thiết. Những người bị lưu giữ đã đi đến ven bờ của thất vọng. Sau khi may mắn thoát khỏi các cuộc thảm sát của Quốc xã, trải qua bao thăng trầm bèo bọt để rồi sau cùng lên được con tàu trở về Đất Hứa, nhưng rốt cuộc lại thấy mình nằm giữa bốn hàng rào kẽm gai một tinh thần vững chắc nhất cũng không chịu nổi ngần ấy khổ cực. Sự xuất hiện của những chiến binh trẻ tuổi người Palestine trong những căn trại buồn tẻ này đã làm họ lấy lại được tinh thần. David Ben Ami, 22 tuổi, chỉ huy "nhóm xung kích" của Palmach ở Chypre, đã lợi dụng sự lên tinh thần này để mang lại môn huấn luyện quân sự sơ sài cho hàng ngàn đàn ông và đàn bà, dùng gậy giả làm súng, dùng đá thay cho lựu đạn. Người Anh để kệ cho họ làm. Có lẽ tại người Anh không biết tới sự hiện diện của nhóm xung kích trong trại, nhưng cũng có thể họ giả vờ không biết tới. Dầu sao họ cũng chỉ canh giữ ở vòng ngoài ít thích phiêu lưu vào giữa một đám đông mà chỉ cần trông thấy một bộ quân phục Anh là đủ làm nổ tung ra một cơn hận thù.
David hỏi: Số người cần được đào thoát là bao nhiêu?
- Chừng ba trăm.
David lắc đầu.
- Chúng ta chẳng bao giờ làm nổi đâu, với một vài đường hầm mà tôi đã cho đào thông ra biển. Như anh đã biết cách đây vài giờ, các luồng nước và thủy triều ở đây rất lộn xộn, chỉ có các tay bơi hữu hạng mới hy vọng thoát được thôi. Thứ hai, chúng ta ra vào trại khá dễ dàng qua khu đổ rác, chỗ đó ít bị canh chừng nhất nhưng ta khó mà đưa một số người đông đến thế ra thoát nổi. Thứ ba, với các bộ quân phục Anh và giấy tờ giả mạo đi nữa thì cũng chỉ hữu ích cho một số người thôi. Sau hết là cách cho người vào một cái thùng rồi khênh ra cầu tàu. Ông bạn Mandria đây là chủ nhân một công ty hàng hải, các phu phen của ông sẽ lo vụ cái thùng cẩn thận. Nhưng muốn gửi ba trăm thùng thì... Không được đâu anh Ari. Lúc này tôi chưa thấy cách nào để tổ chức một vụ đào thoát lớn như vậy.
Ari không hề tỏ ra bối rối, nói:
- Rồi chúng ta cũng tìm ra cách. Đáng tiếc là chúng ta lại quá vội vã: phải chuẩn bị xong mọi sự trong nội mười lăm ngày.
Mandria không kiềm chế nổi một cái giật mình.
- Không những ông Ben Canaan đòi hỏi một điều không thể làm được, ông còn hạn định cho chúng tôi hai tuần. Tự thâm tâm tôi - Mandria đặt tay lên ngực - có một tiếng nói bảo rằng sẽ làm được, nhưng đầu tôi ông vỗ trán - một giọng khác bảo là không thể được. Ông lại đứng trước Ben Canaan, khua tay một nửa vòng - Thưa ông, tất cả những người dân Hy Lạp ở đảo Chypre chúng tôi đều sẵn lòng ủng hộ lý tưởng của các ông cho tới giọt máu cuối cùng. Chúng tôi sẵn sàng đi với các ông đến tận cùng. Nhưng trong trường hợp này đây Mandria thốt ra một tiếng thở dài - Chypre là một hải đảo, một khoảng đất cô lập và người Anh không có ngu gì. Các ông không thể đưa nổi ba trăm người ra khỏi Caraolos đâu, trại được bao quanh bằng một hàng rào kẽm gai cao ba thước và lính gác đều có súng... những khẩu súng nạp đạn sẵn.
Chậm chạp, Ari đứng vươn người dậy, chế ngự hai người kia. Hiển nhiên là chàng không coi các bộ điệu đóng kịch của Mandria vào đâu. Chàng nói:
- Chúng ta hãy tóm tắt vấn đề! Sáng mai tôi cần có một bộ quân phục sĩ quan Anh, các giấy tờ cần thiết và một xe có tài xế. Ông Mandria, ông bắt đầu kiếm cho tôi một chiếc tàu khoảng từ trăm đến hai trăm tấn. Còn anh, David, anh kiếm cho tôi một người biết làm giả mạo mọi thứ giấy tờ - một người thật thạo nghề. - Tôi có sẵn một chú bé rồi, và hình như hắn còn là một nghệ sĩ. Nhưng với điều kiện là nó chịu làm việc cho chúng ta; cho tới giờ, nó chưa chịu hợp tác gì hết. - Mai tôi sẽ đến Caraolos để thuyết phục hắn. Dù sao tôi cũng định đến thăm trại cho biết.
Mandria không giấu được niềm hăng hái phấn khởi. Anh chàng lực sĩ xứ Palestine này quả thực là tay hành động. Hãy kiếm cho tôi một chiếc tàu, một tay làm giấy tờ giả mạo, một bộ quân phục sĩ quan Anh! Quả thực đời sống trở thành hào hứng kể từ khi các cán bộ Do Thái đột nhập vào đảo. Trò chơi ú tim với người Anh này, Mandria thật khoái tham dự. Ông nắm lấy tay Ari lắc mạnh.
- Tất cả dân đảo Chypre đều đứng về phía các anh! Cuộc chiến đấu của các anh là cuộc chiến đấu của chúng tôi!
Ari Ben Canaan nhìn Mandria một cách khinh khi.
- Ông Mandria, ông quên là chúng tôi sẽ bồi hoàn cho ông rộng rãi, về cả thời gian lẫn công khó ông bỏ ra.
Mandria tái mặt:
- Tại sao ông lại có thể... sao ông lại dám nghĩ là tôi, Mandria, làm tất cả những điều đó vì tiền! Vô lý! Quả thực ông có tin rằng tôi khá điên để dám lãnh mười năm rồi và trục xuất, lưu đầy cùng mất hết sản nghiệp không? Và ông cho tôi là quá ham tiền, tôi có thể chứng tỏ ngay là sự hợp tác của tôi với quân lực bí mật của các ông cho tới giờ đã làm tôi tốn hơn năm ngàn livre rồi.
David can thiệp:
- Đúng thế đó. Thành thực ra mà nói, anh Ari, anh phải xin lỗi ông Mandria. Chính ông cũng như các tài xế taxi, các phu bến tàu của ông đã phải liều lĩnh gian nguy rất nhiều. Hãy tin lời tôi, anh Ari, nếu không có sự trợ giúp của người Hy trong đảo, có thể nói là công tác của chúng ta không thể làm nổi.
Bị tổn thương, Mandria ngồi phịch xuống ghế, lên tiếng biện minh:
- Xin ông Ari hay tin ở tôi. Tất cả những người dân đảo Chypre gốc Hy đều thán phục ông. Chúng tôi nghĩ rằng nếu các ông thành công trong việc đuổi người Anh ra khỏi Palestine thì chúng tôi ở đây có thể đuổi họ ra khỏi đảo.
Ari nói bằng một giọng lạnh nhạt:
- Tôi trân trọng xin lỗi ông về mọi điều đã nói. Tôi công nhận là tôi đã lầm. Chắc là tại tôi đang bị thần kinh căng thẳng. Tôi hy vọng rằng...
Một tiếng còi hụ rú lên cắt ngang lời chàng. Mandria vội vã mở cửa và cả ba người ra bao lơn. Dọc lòng đường dẫn từ bến tàu lên, một thiết giáp xa chạy dẫn theo sau một đoàn hai mươi lăm xe vận tải. Hai bên đoàn xe là các xe jeep trang bị trung liên đặt ở băng sau.
Trên các xe vận tải chồng chất hành khách của chiếc tàu Tự Do môn xuất phát từ một hải cảng Ý quốc định vượt vòng phong tỏa của người Anh vào Palestine. Bị chận lại trước cửa biển, tàu Tự Do môn bị một ngư lôi hạm húc hư rồi kế đó kéo về tận Haifa. Từ đó, người Anh bắt tất cả những người di dân lên một tàu khác, chuyển họ về đảo Chypre.
Từ trên bao lơn, ba người im lặng coi đoàn xe thê thảm đi qua. Trên xe nào cũng chồng chất từng ấy khuôn mặt cùng khổ ngơ ngác, sợ hãi, kiệt lực. Những con người hoàn toàn chịu nhận thảm bại, nạn nhân của một tai họa ghê gớm. Các còi hụ im tiếng rồi lại rú lên, như xé rách các màng nhĩ người nghe, sau khi qua cửa Hy Lạp ra ngoài vòng thành, đoàn xe đi vào con đường Salamis, hướng về trại Caraolos. Ánh đèn đỏ của xe sau cùng mờ dần trong bóng đêm nhưng tiếng còi hụ vẫn còn bay bổng trong thành phố yên ngủ.
David Ben Ami tay nắm lại, răng nghiến chặt, mặt tái đi vì một niềm tức giận bất lực. Mandria khóc nức nở. Chỉ duy có Ari Ben Canaan vẫn giữ vẻ bình thản. Anh càu nhàu:
- Thôi chúng ta đừng đứng đây nữa.
Mandria đóng các cửa lại, nói và chùi nước mắt:
- Chắc là hai ông có nhiều điều phải bàn tính, vậy tôi xin kiếu trước, phòng của ông Ben Canaan đã chuẩn bị sẵn rồi, mong ông sẽ thấy phòng ở được. Sáng mai ông sẽ có đủ quân phục, giấy tờ và một chiếc taxi để tùy nghi xử dụng. Chúc hai ông ngủ ngon.
Mandria vừa ra khỏi phòng, hai thanh niên Do Thái đã ôm chầm lấy nhau. Anh chàng Ari to vĩ đại cười lớn tiếng, nâng bổng David bé nhỏ lên, lắc qua lắc lại như một đứa trẻ con. David phản đối:
- Buông tôi ra nào! Anh chưa nói gì về Jordana. Anh có gặp nàng trước khi ra đi không? Nàng có trao anh một thư nào cho tôi không?
Ari ra vẻ ngẫm nghĩ: Để tôi nhớ lại xem nào...
- Tôi xin anh, đừng để tôi sốt ruột chết mất... Đã ba tháng nay tôi không nhận được tin gì về nàng cả.
Thở dài Ari rút trong túi ra một phòng thư. David giật ngay lấy.
- Tôi đã cất thư trong một cái túi cao xu, và trong khi bơi vào bờ, tôi tự nhủ rằng chắc sẽ bị đấm vỡ mặt nếu để nước biển làm nhòa một chữ thôi.
David không còn nghe thấy tiếng bạn nữa. Nét mặt căng thẳng, chàng ngấu nghiến đọc thư - những lời của một người yêu, đang mong gặp lại người nàng yêu. Rồi chàng trìu mến gấp thư lại bỏ vào trong ví để sau này còn đọc lại, bởi vì có thể còn nhiều tuần nhiều tháng qua nữa trước khi Jordana có cơ họi gửi cho chàng thư khác.
- Hãy cho tôi biết... Nàng ra sao? - Nàng nào? À, em gái tôi ấy hả, nàng khỏe đều: vẫn man rợ, vẫn đẹp và vẫn mê chú một cách khôi hài như thường lệ. - Thế còn các cụ bên tôi? Mấy đứa em? Các bạn trong Palmach? - Từ từ đã nào, để tôi thở một cái đã. Đừng hối thế, tôi còn ở đây một thời gian mà. - Còn tình hình trong nước?
Ari nhún đôi vai đồ sộ.
- Vẫn cứ thế: lựu đạn nổ, súng bắn. Từ hồi nhỏ của chúng ta đến giờ, mọi sự có thể nói là không thay đổi. Mỗi năm, thiên hạ lại tới một điểm quyết liệt, lần này chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn là đi dứt dân Do Thái ở Palestine, rồi khi chúng ta lại thành công trong việc sống còn thì lại xảy ra một cơn nguy khác, còn nghiêm trọng hơn là cơn nguy trước, và mọi sự lại bắt đầu lại từ đầu. Chúng ta phải bám chặt: tổ quốc và tổ quốc. Tuy vậy lúc này mọi sự dám lâm nguy: chắc chắn là sẽ có chiến tranh - Bằng một cử chỉ thân ái, Ari vòng tay ôm đôi vai nhỏ bé của David - dầu thế nào chúng tôi ở xứ nhà cũng rất kiêu hãnh với những kết quả chú đã đạt được ở đây với những người di dân.
David bĩu môi.
- Vâng. Quả thực là tôi khó có thể đòi hỏi hơn khi việc huấn luyện các chiến binh tương lai của chúng ta bằng các cán chổi thay cho súng. Cũng còn có vấn đề tinh thần nữa: đối với những kẻ khốn khổ ấy, Palestine đối với họ xa cách như Hỏa tinh vậy - cách xa cả triệu triệu cây số. Họ không còn cả sức mà hy vọng nữa. Bây giờ còn một việc khác cần nói, anh Ari... Tôi xin anh đừng khiêu khích Mandria nữa. Anh hãy tin ở tôi, ông ta là một người bạn rất khá. - Cũng có thể được, nhưng tôi không thể chịu được những kẻ có thái độ che chở bao dung đối với chúng ta. - Anh quên rằng không có Mandria cùng những người Hy Lạp trong đảo, chúng tôi không thể nào hoàn tất được những công tác của chúng ta nơi đây.
Ari tỏ ra không tin cho lắm.
- Chú còn trẻ nên có nhiều ảo tưởng. Ở vị trí của chú tôi nghi ngờ ông Mandria của Famagouste cũng như tất cả các ông Mandria khác mà chú có thể gặp trên thế gian này. Những kẻ nhỏ những giọt nước mắt cá sấu trước hàng triệu tử thi đồng bào chúng ta, nhưng lại phớt tỉnh bỏ rơi chúng ta vào phút chót của trận chiến. Ngoài những đàn ông và phụ nữ của dân tộc: chúng ta, không có ai là bạn đích thực tâm của chúng ta cả. - Anh nhầm... - Đáng tiếc là tôi lại không nhầm. Kể từ khi tôi làm việc cho các tổ chức của chúng ta tôi đã hiểu: chúng ta tin cậy ở chính chúng ta mà thôi. David, chú hãy còn ít tuổi, và đây là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của chú. Không nên để những thúc đẩy của tình cảm làm quên lý trí. Thôi hãy xin chú giữ óc sáng suốt cho.
David phản đối:
- Tôi khước từ việc dẹp bỏ các thúc đẩy của tình cảm tôi. Chính các thúc đẩy này đã nâng đỡ tôi. Tôi muốn gào thét lên mỗi khi chứng kiến quang cảnh như đoàn xe... những con người, những người Do Thái bị chở đi như súc vật để rồi đem nhốt sau những hàng rào kẽm gai... Tôi không muốn bóp ngẹt lòng căm phẫn của tôi trước một sự ghê tởm như thế. - Tôi không yêu cầu chú bóp chết lòng căm phẫn, mà chỉ yêu cầu chú giữ đầu óc cho điềm tĩnh. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta, chúng ta phải dùng tới tất cả mọi mưu kế, mọi sách đôi khi chúng ta thành công, đôi khi chúng ta thất bại. Trong nhiệm vụ của chúng ta, điều quan trọng là phải giữ được sự sáng suốt và điềm tĩnh.
David đã châm một điếu thuốc. Trong khoảng thời gian vài phút, chàng im lặng, nhắm mắt lại như để dễ tập trung tư tưởng hơn. Sau cùng chàng nói bằng một giọng nghiêm trọng:
- Tôi không bao giờ được phép quên rằng tôi đang tham dự vào việc soạn thảo một chương mới thêm vào một quyển sử đã có từ lâu lắm rồi, một lịch sử đã bắt đầu từ bốn ngàn năm nay. Anh Ari, hãy lấy thí dụ địa điểm mà anh vừa đổ bộ vào bờ chẳng hạn. Chỗ ấy xưa kia là đô thị Salamis. Đô thị phát sinh từ cuộc khởi nghĩa của Bar Kochba ở thế kỷ thứ II. Bar Kochba đuổi quân La Mã ra khỏi xứ sở chúng ta và cái lập vương quốc Judée. Ngày mai tôi sẽ chỉ cho anh thấy một cái cầu có từ thời ấy, gần trại lưu giữ: Ngày nay mọi người còn gọi tên là Cầu Do Thái. Tôi không bao giờ quên được những điều này. Ở ngay nơi mà xưa kia chúng ta chống lại Đế quốc Anh.
Ari nở một nụ cười bao dung - nụ cười của một người cha trước sự hăng hái ngây thơ của đứa con trai.
- Tại sao chú không kể hết câu chuyện? Chú biết rõ đoạn chót mà. Sau cuộc khởi nghĩa của Bar Kochba, các binh đoàn La Mã trở lại, thật nhiều, tàn sát dân tộc chúng ta, hết thành phố này đến thành phố khác, hết làng này đến làng khác - Giết tất cả đàn ông đàn bà và trẻ con. Akiva, một trong những lãnh tụ của chúng ta bị lột da sống, còn chính Bar Kochba thì bị giải về La Mã vứt cho sư tử trong đấu trường Colisée ăn thịt. Dĩ nhiên là Thánh kinh cũng như tất cả lịch sử của chúng ta đều đầy rẫy những truyện phi thường, những nhiệm mầu xảy ra vào đúng lúc. Chỉ đáng tiếc một điều là ngày nay chúng ta phải đương đầu với thực tại. Chúng ta không có Josué để ngăn mặt trời đừng quay, không có kèn đồng để thổi đổ tan tanh các tường thành. Các chiến xa của Anh sẽ không xa lầy trong bùn như các xe của người Cananéen, và biển cả không nhận chìm hạm đội Anh như đã nhận chìm đạo quân của Pharaon 1 . Thời đại của những phép mầu đã qua rồi, David. - Không, anh Ari, thời đại đó vẫn còn. Chỉ riêng sự kiện chúng ta đang hiện diện cũng là một phép mầu rồi. Chúng ta đã tồn tại nổi với người La Mã, người Hy, và với cả Hitler nữa. Chúng ta sẽ tồn tại với Đế quốc Anh. Chính đó là phép mầu! - David, tôi cũng tin là thế. Tôi có thể nói một điều là chúng ta "Dân Do Thái quả thật có tài lý luận". Thôi chúng ta đi ngủ.
-------------------------------- 1 Pharaon: tên gọi các vị vua Ai Cập thời cổ.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 5:46:21 GMT -6
Phần I => Chương 7
Fred Caldwell nhắc lại:
- Đến lượt Thiếu tướng đi ạ.
Vị tướng cúi xuống bàn cờ và sau một thời gian suy nghĩ, tiến một quân. Caldwel lui một quân và Sutherland cũng đi như vậy. Đột nhiên hai người ngửng đầu lên: ở một nơi xa, một tiếng còi hụ xé vỡ im lặng của ban đêm. Caldwell cười khẩy, thích thú nói:
- Đoàn xe chở những người di cư của tàu Cửa hy vọng. Quả thật bọn họ khéo đặt tên gợi hình gợi ý cho các tàu: Đất Hứa, Ngôi sao David, Cửa hy vọng. Cứ làm như đặt tên như vậy là phá được vong phong tỏa!
Nhíu mày, Sutherland thử tập trung vào ván cờ, nhưng vô ích, tiếng còi hụ cứ xuyên vào tai. Dù ông cố nhìn vào các quân ngà, mắt ông như chỉ trông thấy đoàn xe buồn thảm, bộ mặt lo âu của những đàn ông đàn bà chồng chất trên xe, những khẩu liên thanh của đoàn hộ tống. Đột nhiên, ông đứng dậy.
- Thôi, xin lỗi anh Caldwell... tôi đi ngủ. - Thiếu tướng thấy trong người khó chịu sao? - Tôi chỉ buồn ngủ thôi. Chúc anh ngủ ngon.
Sutherland ra khỏi phòng ngay. Trong phòng riêng, tiếng còi hụ càng làm ông không chịu nổi hơn nữa. Bực đọc, ông đóng các cửa sổ lại. Nhưng tiếng hụ ghê tởm vẫn tiếp tục rú lên trong đầu ông.
Đứng sững trước chiếc gương treo trên tường, ông tự ngắm mình thật lâu. Một hình ảnh trấn an: tướng Sutherland, xuất phát từ vùng Sutherland Thượng, một sự nghiệp tốt đẹp nữa thêm vào một chuỗi dài các sự nghiệp cũng tốt đẹp như thế, theo một truyền thống cũng bất biến như Anh quốc cũ kỹ kia.
Thế mà... những tuần lễ gần đây, ở Chypre, ông đã cảm thấy một cái gì đang chuẩn bị, sắp xảy ra, một cái gì sẽ tiêu tan sự nghiệp, làm ông thân bại danh liệt... Đưa đầu tới, ông dò xét ánh mắt mình trong gương như để tìm kiếm trong đó khi nào và từ nơi nào đã xảy ra sự xụp đổ nội tâm này.
Bruce Sutherland, một chàng trai mà mọi người thích có trong cùng một ê-kíp với mình, bản niên giám của trường Trung học Eton ghi như vậy. Lúc thiếu thời Sutherland thuộc về một gia đình quý phái được giáo dục đầy đủ với một tư cách hoàn toàn.
Còn Quân đội? Hãy suy nghĩ kỹ đi, ông già Bruce. Giòng họ Sutherland chúng ta đã phục vụ trong quân đội từ nhiều thế kỷ.
Một cuộc hôn nhân hoàn toàn tốt đẹp! Neddie Ashton, ái nữ của đại tá Ashton, trẻ mạnh, có giáo dục... một nữ giáo chủ hoàn toàn, nhiều quen thuộc hữu ích... nàng sẽ biết cách giúp chồng trên đường sự nghiệp... Cuộc hôn phối giữa giòng Ashton và giòng Sutherland thật hết sức tuyệt hảo...
Viên tướng tự hỏi nếu mọi sự hết sức tốt đẹp như thế, thì vết rạn nứt đang de dọa sự quân bình của ông đã ẩn giấu ở nơi nào? Neddie đã cho ông hai đứa con xinh đẹp, Albert vừa được vinh thăng đại úy trong trung đoàn cũ của ông, và Marthe đã lấy chồng khá giả. Thử nhìn lại vào dĩ vãng...
Sau một thời kỳ tiến thủ khó khăn và chậm chạp trong thời bình, đệ nhị thế chiến đã mang lại cho ông một dịp để trổ tài. Trước thế chiến này, ông đã được biết đến những nơi đồn trú thông thường của quân lực hoàng gia Anh, Ấn Độ, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Trung Đông. Rồi năm 1944 với các trận đánh lớn ở Âu châu - Cơ hội kỳ vọng đã từ lâu. Đối diện với địch, ông đã tỏ ra là cấp chỉ huy có tài đặc biệt, một trong những cấp chỉ huy giỏi nhất của bộ binh Anh. Các chiến thắng lẫy lừng đã đem lại cho ông cấp bậc thiếu tướng.
Vừa mặc pyjama, ông vừa sờ nắn những lớp mỡ đã làm bụng ông to ra. Hiển nhiên là ông bắt đầu già rồi. Nhưng dẫu sao đối với một người đã 55 tuổi, trong hình dáng ông vẫn còn tráng kiện lắm. Suy nghĩ không ngừng, ông ngồi vào chiếc ghế bành. Nhiều kỷ niệm, rất nhiều kỷ niệm trở lại...
Neddie đã là một người vợ gương mẫu. Nhất là cho một sĩ quan phục vụ ở các thuộc địa. Sutherland quả thực không có gì để than phiền hết. Sự đổ vỡ xảy ra vào lúc nào đây? À, vào lúc cách đây đã nhiều năm, ở Tân Gia Ba...
Ông vừa được lên thiếu tá thì được quen biết Marina. Một cô gái Á lai Âu có nước da trắng. Marina, người trời sinh ra để yêu đương và được yêu đương... Chắc chắn là mỗi người đàn ông đều ấp ủ hình ảnh một nàng Marina trong những giấc mơ thầm kín nhất. Nhưng ông, Bruce Sutherland đã chiếm được nàng Marina bằng xương bằng thịt với những tiếng cười và nước mắt, âu yếm và đam mê của nàng. Ông điên lên vì nàng, hiểu theo đúng nghĩa nhất của danh từ, ông thèm muốn nàng một cách man rợ đến nỗi đi tới chỗ ghen tương một cách vô lý để rồi sau cùng cầu xin nàng tha thứ. Marina... với đôi mắt huyền, với mái tóc dài xanh đen... nàng quả thực biết cách hành hạ ông, đưa ông tới chín tầng mây của khoái lạc, trong những lần hẹn hò gặp gỡ bao giờ cũng quá ngắn, mỗi một giây phút thật vô cùng quý giá...
Ông nhớ lại cái ngày Neddie trình bày ra đủ chứng cớ về cuộc tình vụng trộm này. Dáng điệu ngơ ngác như bị ai đập một búa vào đầu, nhưng nàng không nhỏ lấy một giọt nước mắt: Neddie quá kiêu ngạo để không có thể khóc. Nàng nói:
- Tôi không nói là tôi thản nhiên được khi khám phá ra vụ này. Tuy thế, tôi sẵn lòng tha thứ và sẵn lòng quên. Cần phải nghĩ tới các con, tới sự nghiệp của anh và danh tiếng của hai họ. Tôi thành thực thử bắt đầu lại với anh một lần nữa, với điều kiện là anh thề với tôi là không bao giờ gặp lại cái con đó nữa và xin thuyên chuyển ngay lập tức.
Thất thần, ông đã giữ im lặng. Cái "con đó" như Neddie gọi ấy là người ông yêu, nàng đã mang lại cho ông những cái mà vợ ông không thể hay không muốn mang lại. Một hạnh phúc mà không một người bình thường nào trên trái đất này hy vọng có được.
- Anh Bruce, tôi muốn nghe ngay câu trả lời của anh.
Câu trả lời? Ông còn có thể nói gì được nữa! Một người con gái như Marina nguồn khoái cảm ngây ngất của một đêm nhiều nhất là một tháng không thể là sống đời được.
Ông có thể hy sinh sự nghiệp cho người con gái, cho cô bé lai này hay không? Và có thể bôi nhọ danh dự giòng họ SutherLand không?
- Tôi xin hứa với em, Neddie, là không bao giờ tìm gặp lại Marina nữa.
Ông giữ lời. Ông đã thu xếp để không gặp lại Marina nữa, nhưng không bao giờ quên nghĩ tới nàng. Có phải tất cả mọi bất hạnh đã phát sinh từ đó không?
Tiếng còi hụ nhỏ dần. Sutherland nghĩ trong vài phút nữa đoàn xe sẽ đến trại và sau cùng ông có thể ngủ được. Ông cảm thấy mệt mỏi, chán ngán và hơi kinh tởm. Thế mà còn năm năm nữa mới tới hạn về hưu! Nghỉ ngơi, hết trách nhiệm, thoải mái toàn diện! Căn nhà của giòng họ ở Sutherdand Thượng chắc chắn sẽ là quá lớn cho ông. Ông sẽ mua một nhà lợp tranh ở một nơi nào vùng quê, sẽ có hai con chó săn tốt, sẽ yêu cầu các nhà trồng tỉa hoa lớn gởi bản liệt kê các loại hoa tới, và sẽ sưu tập một tủ sách đẹp. Dĩ nhiên là ông cũng kiếm một câu lạc bộ 1 khá ở Luân Đôn để gia nhập... Có lẽ ông kiếm một người tình nữa.
Thật kỳ lạ thay cái ý muốn lui về ẩn dật cô đơn như thế sau một cuộc hôn phối dài gần ba mươi năm với Neddie. Nàng quả thực đã là một người vợ trầm tĩnh, cao quý và đã tỏ ra dễ mến - Ông không tìm ra chữ nào khác để diễn tả - Khi xảy ra vụ Marina thế mà đột nhiên Neddie phá vỡ tan tành tất cả những gì đang là cuộc sống của nàng để cố gắng một cách tuyệt vọng cứu vãn những năm cuối cùng của đời mình, bằng cách bỏ trốn đến Paris cùng với một nhạc công Tzigane 2 kém nàng tới mười tuổi. Tất cả mọi người đều thương cho ông chồng bị vợ làm ô nhục, nhưng riêng ông thực ra không bị xúc động cho lắm. Từ lâu lắm rồi, hôn nhân giữa hai người chỉ còn là một thứ bề ngoài. Lúc nào Neddie cũng còn tin rằng nàng có thể tìm được hạnh phúc nơi khác... Dầu sao, giòng Sutherland và giòng Ashton đều là những người có gia giáo lễ nghĩa. Có thể sau này, ông nhận cho Neddie trở về... cũng có thể tốt hơn là có một người tình.
Tiếng còi sau cùng đã im tiếng, Bruce Sutherland mở cửa sổ và hít một hơi dài không khí mát mẻ, trở vào phòng tắm rửa mặt và đặt hàm răng giả vào một ly đầy nước khử trùng. Từ ba mươi năm nay mỗi khi làm thói quen này, ông đều hối tiếc là đã tham dự trận đấu rugby 3 đã làm ông gãy mất bốn cái răng. Sau đó ông lấy trong tủ thuốc một hộp đựng thuốc ngủ và pha một liều thuốc gấp đôi thường lệ. Trong những tuần lễ gần đây, ông thực vất vả mới ngủ nổi.
Vừa uống xong ly thuốc ngủ, ông đã thấy tim đập mạnh. Ông thốt ra một tiếng cầu nhầu: Không còn ngờ gì nữa, đêm nay thêm một lần nữa, sẽ là một đêm ghê gớm. Tắt đèn, ông chạy vào ẩn trốn trong giường. Có thể giấc ngủ sẽ đến khá nhanh để tránh cho ông những hình ảnh đang bắt đầu quay cuồng trong tâm trí.
... Bergen Belsen - Bergen Belsen - BERGEN BELSEN - NUREMBERG.
- Yêu cầu nhân chứng tiến ra. Xin cho biết tên họ. - Bruce Sutherland, thiếu tướng chỉ huy... - Xin thiếu tướng hãy trình bày theo như nhận định riêng đã có... - Binh sĩ tôi đã tiến vào trại Bergen Belsen ngày 15 tháng 4 lúc 17g20. Trại số I bề ngang bốn trăm thước bề dài hai ngàn hai trăm thước, chứa chừng tám mươi ngàn người, đa số là người Do Thái, Hung và Ba Lan. Về tiếp tế, trại số I tiếp nhận mười ngàn thỏi bánh một tuần. - Thiếu tướng, có nhận ra những dụng cụ này không? - Được chứ. Những S.S. 4 dùng chúng trong những buổi tra tấn. Những kìm cong dùng để bóp nát ngọc hành, còn những kìm này dùng để cắt đứt các móng tay. - Xin nhân chứng tiếp tục. - Chúng tôi kiểm kê, riêng trong trại số I, thấy khoảng chừng ba mươi ngàn xác chết mà trong một nửa số đó xếp chồng chất lung tung. Mặc dù mọi nỗ lực tuyệt vọng của chúng tôi, mười ba ngàn người trong những số người còn sống sót đã chết trong những ngày sau đó, người này chết vì kiệt lực, người kia chết vì bệnh tật. Các điều kiện sinh hoạt thảm họa đến nỗi lúc quân tôi tiến đến nơi, những người còn sống đang ăn thịt ở những xác chết.
Chưa tới một giờ sau khi làm nhân chứng trước Tòa án Quốc tế Nuremberg, Sutherland nhận được một công điện gọi về Luân Đôn trình diện khẩn cấp. Công điện mang chữ ký của một bạn già, một tay bự trong Bộ Quốc phòng là tướng Sir Clarence Tevor Browne. 5 Sutherland cảm thấy ngay là mọi người sẽ đề nghị giao phó cho ông một nhiệm vụ đặc biệt.
Sáng ngày hôm sau, ông bay về Luân Đôn và trình diện ngay trong tòa nhà vĩ đại và xấu xí là Bộ Quốc phòng nằm ở góc Whitehall và Great Scotland Yard, Tevor Browne đang chờ đợi ông.
- Bruce, ông bạn cố tri Bruce, thật hài lòng được gặp lại anh! Mời anh ngồi, lựa cái ghế tốt nhất ấy. Tôi vừa đọc lời anh đã khai trước tòa án Nuremberg. Một chuyện thực kinh khủng, hết sức kinh khủng.
Sutherland nói nho nhỏ:
- Tôi thật mừng khi được rời vành móng ngựa. Mong rằng tôi sẽ không bao giờ nghe thấy chuyện đó nữa. - Tôi rất buồn khi được biết là anh cùng Neddie... Nếu anh thấy tôi có thể làm được gì...
Sutherland lắc đầu.
Sau khi bàn loanh quanh ít ra là mười phút Tevor Browne quyết định vào đề:
- Anh Bruce, chắc anh đang sốt ruột muốn biết lý do của sự triệu hồi anh về đây khẩn cấp. Đây là một vụ khá đặc biệt: một chức vụ tế nhị, chắc chắn là không nhàn nhã gì. Mọi người yêu cầu chúng tôi đề nghị một người. Dĩ nhiên là tôi đã nghĩ đến anh, nhưng cũng phải nói với anh trước đã. - Tôi đang nghe đây, Sir Clarence. - Đầu đuôi như sau: kể từ khi chiến tranh chấm dứt, những người Do Thái muốn từ bỏ Âu châu đã đặt ra một vấn đề nhức đầu. Có thể nói là họ tràn ngập vào Palestine, và những người Ả Rập - do Anh quốc bảo hộ - trước sự xâm lăng lãnh thổ này, đã tỏ ra nóng nảy lo ngại. Vì thế chúng tôi đã quyết định thành lập ở đảo Chypre những trại lưu giữ những người Do Thái tìm cách nhập nội Palestine - ít ra cũng là tạm thời - cho tới khi chính phủ chúng ta có được quyết định về vấn đề Palestine.
Sutherland có vẻ suy tư, trả lời:
- Tôi hiểu. - Không cần nói anh cũng hiểu vụ này hết sức là gai góc, và cần phải có rất nhiều khéo léo. Trước hết bởi vì ta không thể nào đàn áp thêm nữa những kẻ khổ sở đã từng bị giày xéo, hành hạ, tước đoạt hết tất cả mọi thứ, sau đó bởi vì những kẻ này có thể trông cậy ở những cảm tình vĩ đại, nhất là ở Pháp và Hoa Kỳ. Như vậy điều chính yếu là ở Chypre mọi sự phải diễn ra trong yên tĩnh, không lủng củng. Không được xảy ra một biến cố có thể gây ra một dư luận chống lại chúng ta.
Sutherland đứng dậy, ra đứng trước cửa sổ, ngắm giòng sông Thames và cầu Waterloo với những xe bus hai từng chạy dài trên cầu. Ông quay lại và nói:
- Theo ý tôi, đây là một ý kiến quái gở và thảm hại. - Anh Bruce, việc phán xử không thuộc quyền chúng ta. Anh cũng như tôi. Chính Whitehall 6 ra lệnh chúng ta chỉ là kẻ thừa hành mà thôi.
Sutherland vẫn nhìn qua cửa sổ, nói nhỏ:
- Những người dân ấy, tôi đã trông thấy họ ở Bergen Belsen. Chắc là vẫn chính những người ấy ngày nay thử tìm cách nhập nội Palestine.
Đi từng bước nặng nề, ông trở lại ghế ngồi, nói tiếp:
- Khi tôi nghĩ tới tất cả những lời hứa hẹn của chúng ta với những người chủ trương thành lập quốc gia Do Thái, những lời hứa mà chúng ta không giữ được lấy một lần.
Tevor Browne thở dài:
- Tôi cũng biết thế. Trong vấn đề này, tôi cũng nghĩ như anh, nhưng đáng tiếc thay chúng ta chỉ là thiểu số. Anh và tôi đều phục vụ tại Trung Á nên điều hiểu rõ vấn đề. Đây này, ngay trong lúc còn chiến tranh, chính tôi đã tiếp nhận ngay trong phòng giấy này, những báo cáo về các vụ bội phản liên tiếp của các ông bạn quý Ả Rập của chúng ta. Và không phải ít đâu: Ông tham mưu trưởng của quân lực Ai Cập đã bán những tài liệu cho tụi Đức, thủ đô tại Le Caire của họ chuẩn bị cờ xí đón tiếp Rommel, như kẻ giải phóng họ. lrak bước sang hàng ngũ Đức, Syrie cũng thế; còn ông mufti 7 thành Jérusalem lại là cán bộ của quốc xã. Ấy là tôi còn quên bớt đấy! Nhưng ta cũng phải xét tới quan điểm của Whitehall. Chúng ta không thể nào để mất uy tín cùng toàn thể những vị trí của chúng ta trong miền Trung Á chỉ vì vài ngàn người Do Thái. - Đó chính là lỗi lầm bi thảm nhất trong những lầm lỗi của chúng ta, Sir Clarence. Những vị trí của chúng ta ở Trung Đông, dẫu cách nào rồi thì chúng ta cũng mất. - Anh có vẻ bối rối, anh Bruce. - Kinh tởm thì đúng hơn. Còn những điều Thiện và điều Ác đã trở thành cái gì trong vụ này?
Tevor Browne nở một nụ cười chán chường:
- Anh Bruce, tôi có lẽ đã chẳng học được điều gì nhiều ở đời, nhưng tôi đã nhận thức được điều sau: Không một chính sách đối ngoại nào dù của Anh quốc hay của bất cứ quốc gia nào khác, lại có thể xây dựng trên Thiện và Ác, Tốt và Xấu. Chỉ có triều đại trị vì của Thượng đế họa chăng mới tùy thuộc vào Thiện Ác phân minh thôi. Chúng ta không được phép hưởng sự phân minh xa xỉ ấy. Ở trần thế này, chính sách là tùy thuộc vào dầu hỏa. Mà dân Ả Rập có dầu hỏa. - Chắn chắc là thế rồi. Nhưng tất cả những dầu hỏa của họ cũng không thể nào làm tôi quên được những chợ bán buôn nô lệ của Arabie Séoudite, cũng như ngày tôi được một emir 8 mời đến dự khán một buổi mà hắn ta gọi là phiên tòa: một người bị chặt cụt hai tay vì tội ăn cắp. Cũng như tôi không thể nào quên được những người Do Thái của Bergen Belsen. - Anh muốn gì, anh Bruce: không dễ gì làm người lính một khi người ta có lương tâm. Xin anh ghi nhận cho là tôi không hề cưỡng buộc anh nhận chức vụ này ở Chypre.. - Tôi nhận lời. Nhưng Sir Clarence, xin cho biết tại sao lại chọn tôi? - Vì hầu hết những tướng "có thể được", đều thân Ả Rập cả, và họ có thái độ đó chỉ vì truyền thống trong quân lực chúng ta. Vả lại anh cũng biết là một người lính chẳng còn có thể làm gì khác hơn là tuân theo chính sách của chính phủ mình. Nhưng với bất cứ giá nào tôi cũng không muốn gởi tới Chypre một kẻ, có thành kiến với những kẻ bị giam giữ. Ngược lại là khác, chúng tôi cần một người biết thông cảm, biết thương xót.
Sutherland đứng dậy:
- Như vậy tôi chỉ còn việc cảm ơn nữa là xong. Nhưng thật ra thì đôi khi đã có lúc tôi tin rằng làm một người Anh cũng là một đại họa như làm người Do Thái vậy.
Khi trở về nhà, ông lo lắng tự hỏi phải chăng Sir Tevor Browne còn một lý do khác nữa trong khi đề nghị ông chức vụ đó. Liệu Sir Tevor Browne có biết rằng thiếu tướng Bruce Sutherland có một nửa giòng máu Do Thái trong mình chăng.
Giòng máu Do Thái ấy là do từ bà mẹ.
Deborah Davis là một người đàn bà đặc biệt, về sắc đẹp cũng như về tinh thần. Không có gì là lạ khi Harold Sutherland mê say nàng đến điên cuồng. Gia đình khoan dung mỉm cười khi biết Harold đã đi coi mười lăm lần liền vở kịch mà người nữ kịch sĩ trẻ này thủ vai chính, và gia đình cũng thấy ngồ ngộ khi chàng tiêu hết cả lợi tức trong tháng để gởi tặng quà và hoa cho nàng. Một đam mê của tuổi trẻ, mọi người nghĩ vậy, chỉ kéo dài như kiếp hoa hồng.
Nhưng sự đam mê của chàng mỗi ngày một tăng thì gia đình hết mỉm cười. Một bức thư vừa lịch thiệp vừa khô khan triệu gọi thiếu nữ tới Sutherland. Trước lời khước từ của nàng, Sir Edgar, ông cụ thân sinh ra Harold, quyết định làm một chuyến du hành tới Luân Đôn để khảo sát gần hơn cái cô gái con nhà bách tính dám thách thức giới quý tộc này. Về phần Sir Edgar, đây là một điều lầm lẫn, hay ít ra cũng là một sự thiếu thận trọng. Deborah, thông minh và ngây thơ vô tội, đã chinh phục được ông trong một bữa ăn. Đến lúc tráng miệng, Sir Edgar tuyên bố rằng con ông thật là người gặp hên hết sức. Vả lại nói cho cùng, khuynh hướng ưa thích các nữ kịch sĩ xinh đẹp của các con trai giòng Sutherland cũng đã là một truyền thống rồi. Vả lại rất nhiều người con gái xinh đẹp loại này, một khi đã được chấp nhận vào trong gia đình, đã trở thành những phu nhân khuê các. Ở đây có một cái kẹt: Deborah Davis đã có bất lợi là người Do Thái. Nhưng vấn đề cũng được giải quyết khi nàng chấp nhận cải đạo theo Anh giáo.
Harold và Deborah có ba người con: Bruce, Adam và Mary. Bruce rất kính yêu mẹ. Tuy thế, mặc dù hoàn toàn thân nhau, bà không bao giờ nói với con về thời thơ ấu của bà. Bruce chỉ biết rằng ông bà ngoại đã sống trong cảnh cùng túng, và bà đã trốn nhà đi theo đoàn hát.
Năm tháng trôi qua một cách êm ả, đánh dấu bằng những biến cố dự liệu được trước: những lon sĩ quan đầu tiên của Bruce, hôn nhân của chàng với Neddie Ashton, các đứa con ra đời, cái chết của Harold Sutherland, những sợi tóc bạc của Deborah...
Tất cả có vẻ hoàn toàn là bình thường, hòa hợp cho tới ngày Bruce trở về Sutherland, thấy mẹ ngồi một mình, bất động như một bức tượng trong khuê phòng cửa kéo màn kín mít. Hoảng sợ, ông quỳ xuống và hôn mẹ hỏi:
- Mẹ buồn sao, mẹ?
Ông phải ghé sát tai vào đôi môi run rẩy của bà mới nghe rõ được những lời sau:
- Hôm nay là Jom Kippour, ngày Đại Xá...
Bruce kinh hoảng. Ngay ngày hôm đó, chàng bàn với em gái về việc này. Hai anh em quyết định không để mẹ sống trong trang trại rộng lớn này nữa. Bà sẽ đến Luân Đôn, nơi Mary có thể lo lắng cho bà. Lần đầu tiên trong đời, Bruce ý thức được mẹ đã già đi đến mức nào. Mặc dù đối với chàng, bà vẫn đẹp như hồi còn nhỏ.
Một vài tháng sau, Bruce thuyên chuyển sang Trung Đông. Những bức thư từ Luân Đôn cho biết mọi sự bình an: Mary cho biết bà mẹ mạnh khỏe và chính Deborah cũng tỏ ra hài lòng được sống ở thủ đô, gần con gái và các cháu.
Nhưng sau vài năm, Bruce trở lại Anh quốc chàng thấy một tình hình khác hẳn. Em gái chàng không che giấu nỗi lo âu. Nàng cắt nghĩa rằng mẹ, bây giờ đã bảy mươi tuổi, xử sự càng ngày càng bất nhất. Bà thường hay quên cả những việc mới xảy ra hôm qua, nhưng ngược lại bà thường lẩm bẩm những câu nói về những biến cố đã xảy ra trước đây tới năm mươi năm. Mary vừa khóc nức nở vừa nói thêm:
- Không phải chỉ có thế đâu anh Bruce. Đôi khi mẹ biến đâu mất... Mẹ đi ra ngoài, một mình... Mẹ không chịu nói cho ai biết là mẹ đi đâu...
Bruce quyết định tìm hiểu rõ sự thực. Ngay ngày hôm sau chàng nấp gần phòng mẹ. Chờ đợi không lâu và theo dõi dễ dàng, Doborah Sutherland đến một giáo đường Do Thái giáo ở một nơi nào đó trong khu nghèo khổ vùng Whitechapel.
Bruce sững sờ và mơ hồ cảm động. Chàng suy nghĩ rất lâu và sau cùng quyết định án binh bất động. Mẹ chàng đã cao tuổi lắm rồi: chàng tự nhận mình không quyền nhắc nhở bà là bà đã cải đạo từ năm mươi năm trước đây.
Doborah Sutherland chết vào năm bảy mươi bảy tuổi. Được gọi về khẩn cấp, Bruce về kịp nghe những lời trối trăng chót của bà.
Khi thấy chàng bước vào buồng, bà nở một nụ cười sung sướng:
- Bruce con... Con tôi đã là trung tá rồi... Trông con thật đẹp. Còn mẹ, mẹ sắp về rồi... - Đừng nói thế, mẹ! Mẹ chỉ khó chịu, mệt nhọc xoàng thôi. Trong vài ngày nữa mẹ sẽ khỏi. - Không đâu con. Con cũng biết sự thật không phải thế. Bây giờ con nghe đây: mẹ phải thú thật với con một điều. Hồi xưa, vào thời kỳ biết ba con, mẹ đã làm tất cả mọi sự để lấy bằng được ba con. Mẹ hết sức... hết sức muốn trở thành nữ chủ lâu đài Sutherland Thượng. Vào lúc ấy, mẹ đã làm một điều ghê gớm. Bruce: mẹ đã từ bỏ đạo cùng đồng bào của mẹ. Mẹ đã từ bỏ như thế suốt đời. Bây giờ mẹ muốn gặp lại tất cả. Bruce, con hãy hứa với mẹ là sẽ an táng mẹ gần ông bà ngoại... con hứa đi, mẹ xin con. - Thưa mẹ con xin hứa.
Ba thì thào bằng một giọng yếu dần:
- Ông ngoại... con chưa bao giờ được biết... và ông của mẹ đã bồng mẹ trên lòng...
Đó là những lời nói sau cùng của bà.
Bối rối, mất tinh thần, Bruce không sao rời khỏi phòng người chết. Sau khoảng chừng một tiếng, một nghi ngờ mới đầu không rõ rệt rồi dần dần trở thành ám ảnh, đã trộn lẫn vào trong nỗi buồn của chàng. Quả thực chàng có định giữ lời hứa ấy với người hấp hối không? Một lời hứa có thể nói hầu như cưỡng bách? Coi lời hứa này như không có giá trị gì, chàng có phạm lỗi không trọng danh dự, chàng nguyện sẽ giữ cẩn thận suốt đời không? Một mặt khác, chàng có cần phải xét đến sự kiện trong những năm gần đây, những khả năng tinh thần của ba mẹ đã suy giảm rõ rệt không? Xét cho cùng, kể từ khi lấy chồng - nghĩa là trong phần lớn cuộc đời bà - bà đã thôi là người Do Thái, tại sao bà lại trở lại gốc vào khi chết? Deborah đã thuộc giòng Sutherland, không là gì khác.
Chàng sợ hãi tưởng tượng đến thảm họa, sự tức giận và đàm tiếu của một người do đám tang Deborah Sutherland cử hành trong một nghĩa trang Do Thái ở một khu tồi tàn sẽ gây ra. Dầu sao, bà cũng đã chết rồi. Bây giờ phải nghĩ đến những người con sống - Đến Neddie cùng các con, Mary cùng gia đình nàng - Những kẻ sẽ bị tổn thương đến tình tự, tin tưởng sâu xa nhất.
Khi cúi xuống đặt một chiếc hôn sau cùng lên trán mẹ, chàng đã quyết định rồi.
Deborah Sutherland sẽ yên nghỉ ở Sutherland Thượng.
Những tiếng còi! Những tiếng còi của đoàn xe chở đoàn dân di cư! Chúng như xoáy vào tai ông từng cơn giận dữ! BERGEN - BELSEN.. MARINA... NEĐIE... NHữNG XE CAM NHÔNG HỘ TỐNG BẰNG ĐẠI LIÊN... TRẠI CARALLAOS... CON XIN HỨA VỚI MẸ... CON XIN HỨA VỚI MẸ...
Một tiếng sấm vang động đến tận nền móng căn nhà, cơn giông bão từ biển cất lên. Một đợt nước lớn man rợ đổ vào bờ đá, gửi các ngọn sóng tham lam liếm các chân tường. Sutherland hất tung chăn. Bị chệnh choạng như người say, ông tiến về cửa sổ. Một làn chớp đột ngột bùng ra làm ông đứng sững lại kinh sợ. Tiếng sấm rền vang, sóng biển dâng lên... dâng lên mãi...
Ông thốt ra một tiếng kêu:
- Lạy Chúa! Xin Chúa hay cứu rỗi cho con!
Một giọng quen thuộc vang lên trả lời:
- Thiếu tướng Sutherland! Thưa Thiếu tướng! Xin ngài hãy tỉnh lại!
Người hầu Hy Lạp đã nắm lấy cánh tay ông, lay mạnh.
Sutherland mở mắt, Người ông ướt đẫm mồ hôi, tim đập thình thình. Người hầu chạy ra, mang rượu mạnh vô.
Sutherland cầm ly uống thẳng một hơi cạn, lo lắng nhìn ra ngoài. Dưới một bầu trời thanh thản, mặt biển phẳng lặng như mặt hồ, va chạm khe khẽ vào bãi. Ông nói nhỏ:
- Tôi đi nằm lại... Tôi cảm thay khỏe rồi. - Thiếu tướng thấy khỏe thật chứ ạ? - Chắc. Thôi, cảm ơn chú. - Xin chúc thiếu tướng an giấc. - Cám ơn chú.
-------------------------------- 1 Câu lạc bộ (Club): các hội tư nhân của người Anh. Mỗi hội đều có hội quán riêng làm chỗ hội họp giải trí cho hội viên. Các người Anh giai cấp trung lưu trở lên thường, tùy gia sản, nghề nghiệp, địa vị, sở thích cá nhân, gia nhập một câu lạc bộ hay hơn. Đúng theo nghĩa Việt Nam, Câu lạc bộ là những quán ăn tổ chức trong phạm vi các doanh trại hay nha sở. 2 Tzigane: một sắc dân thiểu số ở Âu châu, thường sống bất định, đàn ông thường giỏi nhạc, đàn bà giỏi vũ và nổi tiếng đa tình. 3 Rugby: chơi bóng bầu dục, được phép dùng cả tay lẫn chân để chuyền bóng, lối chơi rất dữ dội. 4 S.S: sau khi nắm chính quyền ở Đức, Hitler lấy các đảng viên trung kiên thành lập đoàn S.S. mặc quân phục đen. Mới đầu S.S. chỉ lo về nội vụ, sau mở rộng ra cả quân lực Đức. Vào cuối đệ nhị thế chiến, đã có các sư đoàn thiết giáp S.S. Quân S.S. nổi tiếng tàn ác và tất cả tội ác của Đức trong chiến tranh đều do họ làm. Các đơn vị này trực thuộc đảng Quốc Xã - đừng lẫn với quân lực chính quy Đức mặc quân phục xanh trực thuộc Bộ Tổng tự lệnh và chỉ có một số nhỏ sĩ quan S.S. lo về An ninh Quân đội và chiến tranh chính trị. 5 Sir: chữ đặt trước tên họ của những người trong hoàng gia Anh hoặc những người thường dân được Vua phong tước vị đã lập công trạng trong bất cứ địa hạt nào, kể cả leo núi lẫn kịch nghệ. Dùng riêng rẽ, chữ này dùng để bày tỏ kính trọng đối với cấp trên (nhất là trong quân lực) 6 Whitehall: tên gọi Phủ Thủ tướng Anh. 7 Mufti: giáo sĩ pháp quan Hồi giáo (dịch theo từ điển Thanh Nghị). Một giáo quyền tương đương với Tổng Giám mục của Giáo hội Ki-tô. 8 Émir: một chức vụ đại khái như tỉnh trưởng, đô trưởng nhưng thêm cả quyền hành về tôn giáo trong các quốc gia theo Hồi giáo còn có thể gọi là tiểu vương.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:00:34 GMT -6
Phần I => Chương 8
Thiếu tướng Sutherland thiếp vào giấc ngủ của những kẻ bị đọa đầy.
Mandria; chủ hãng tàu ở đảo Chypre, có giấc ngủ không yên nhưng đầy những giấc mơ dễ chịu.
Mark Parker ngủ với giấc ngủ say của một người đã hoàn tất nhiệm vụ của mình.
Kitty Fremontt ngủ bình yên, chìm đắm vào một sự thanh tĩnh từ lâu lắm rồi mà nàng chưa được biết.
David Ben Ami ngủ như một đứa trẻ, chàng đã đọc đi đọc lại thư của Jordana đến độ thuộc lòng.
Ari Ben Canaan không nghĩ đến chuyện ngủ. Đối với chàng, đây không phải là lúc ngủ: chàng có quá ít thì giờ trong khi cần biết rất nhiều tin tức tài liệu! Cúi đầu trên một đống bản đồ, báo cáo, thống kê; suốt đêm chàng cố thâm nhập vào đầu tất cả những gì liên quan đến Chypre: đạo quân đồn trú Anh, sự phong tỏa các bờ biển Palestine, các dân Do Thái bị giam giữ trong đảo. Chàng làm việc nhanh nhưng không vội vã, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại để uống một ly cà phê hay châm một điều thuốc mới. Ngay từ rạng đông, chàng đã đánh thức David dậy. Hai người ăn sáng thật thịnh soạn rồi lấy một chiếc taxi của Mandria lên đường đi tai trại Caraolos.
Các khu trong trại trải dài trên nhiều cây số trong một đồng bằng duyên hải nằm giữa đường đi từ Famagouste tới Salamis. Các dãy lều chạy dài theo bờ biển cong tới các cây khuynh diệp cành xòa thấp. Mỗi dãy lều bao quanh bằng một vòng rào kẽm gai cao ba tới bốn thước. Ở mỗi góc có dựng một tháp canh bên trên có những người lính gác võ trang tiểu liên đứng cạnh các đèn dọi.
Trong vòng rào vĩ đại của trại, chỗ đổ rác là đường giao liên duy nhất không bị canh chừng. Người Anh chỉ gác sơ sài nơi này vi lý do hơi ngây thơ là những kẻ làm tạp dịch đổ rác đều là những kẻ đáng tin cậy. Đến nỗi chỗ đổ rác đã trở thành một thứ chợ để những người dân đảo Chypre đến đổi chác quần áo thực phẩm lấy những món đồ bằng da cùng những "kỷ vật nghệ thuật" do những người bị giam giữ làm ra.
Chính qua chỗ này, David đưa Ari vào trại. Mặc dù mùa đông sắp tới, một khí hậu nóng nực ngự trị trong trại, một khí nóng mà những cơn bụi lốc còn làm cho khó thở thêm. Một con chó đói rụt rè bám gót hai người. Trên sườn con chó có viết bằng sơn đen chữ Bevin, tên của Ngoại trưởng Anh quốc.
Quang cảnh không đổi khác bao nhiêu từ khu này sang khu khác. Đâu đâu cũng vẫn căn lều vải đầy chật người, đâu đâu cũng là cùng khổ và lo lắng. Hầu hết mọi người bị giam giữ đều mặc quần cụt và áo sơ mi cắt vụng về bằng vải lót nhiều màu đỏ tía. Im lặng, Ari nghiên cứu những khuôn mặt đầy nghi ngờ, thù hận, tin tưởng một cách uất hận hay chịu đựng ở một sự thất bại chán chường.
Tuy vậy cũng có vài tia ánh sáng mặt trời. Mỗi khi Ari bước chân vào một khu trại nào, lại thấy một thiếu niên hay thiếu nữ vui mừng nhảy lên ôm lấy chàng: Đó là những cán bộ của Palmach đã lén lút từ Palestine tới xâm nhập trà trộn vào dân di cư trong trại để nâng cao tinh thần họ. Họ hỏi liên tiếp Ari nhiều câu về tình hình xứ sở, nhưng Ari lại đang không có hứng nói.
- Thôi các cô chú đừng hỏi, hôm nay tôi không có thì giờ. Tôi hứa trễ nhất là cuối tuần này sẽ triệu tập một buổi họp các đoàn viên Palmach 1 . Đến lúc đó, tha hồ hỏi mọi chuyện.
Và chàng lại đi, thám sát bằng mắt hàng rào kẽm gai vô tận, tìm kiếm vài chi tiết giúp chàng tổ chức việc đào thoát cho ba trăm người.
Trong nhiều khu, những người bị lưu giữ được phân nhóm theo quốc tịch, hay theo các sắc thái tôn giáo và chính trị. Có những người quốc tịch Phần Lan, Pháp, Tiệp, có cả khu của người Do Thái chính thống giáo và xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy xét chung đa số các lều đều chứa lộn xộn đàn ông đàn bà, những thứ xác người đã thoát khỏi cơn thủy trào máu của Hitler, những kẻ vô danh mà người ta không biết gọi là gì hơn là người Do Thái, những người muốn sống nốt cuộc đời của mình ở Palestine.
Một cây cầu gỗ bắc qua kẽm gai nối liền hai phần trại với nhau. Nơi cửa vào, một tấm bảng có ghi: HÂN HOAN CHÀO MỪNG BERGEN-BEVIN. David thốt lên một tiếng cười khan:
- Anh hãy nhìn kỹ chiếc cầu coi: y hệt chiếc cầu cao ở ghetto 2 Lodz.
Hiển nhiên là David đang giận sôi lên. Chàng lao vào cả một bài trần thuyết, xỉ vả người Anh về chuyện thiếu thực phẩm và thuốc men, cũng như nhiều sự thiếu điều kiện vệ sinh khác. Chàng trách người Anh để tù binh Đức trong đảo hưởng nhiều tự do hơn những người tỵ nạn Do Thái, chàng chống lại sự khinh thường công lý sơ đẳng mà Witehall đã áp dụng cho họ; Ari chỉ nghe bằng một tai. Sự chú tâm của chàng bị thu hút vào việc nghiên cứu địa hình địa vật của trại. Chàng đột nhiên hỏi:
- Chú đưa tôi đi coi các đường hầm được chứ?
David đưa chàng đến khu Do Thái chính thống gần bờ biển. Giữa dãy lều và hàng rào kẽm gai là các cầu tiêu có vách lợp. Cầu tiêu thứ năm và thứ sáu là cầu tiêu giả: Những hố bên dưới cầu dẫn vào các đường hầm đi xuyên dưới kẽm gai, đã dẫn thẳng ra tới biển. Ari bĩu môi: hiển nhiên là hai đường hầm này không thể đủ cho một cuộc đào thoát lớn được.
Rồi cuộc thanh sát lại tiếp tục, vẫn đều đều, chán nản.. Sau chừng hai tiếng đồng hồ, thấy Ari hầu như không hé răng, David không thể nhịn được nữa, hỏi:
- Này, anh nghĩ ra sao, anh? - Tôi nhận thấy đặc biệt là Bevin không được mến chuộng ở đây cho lắm. Ngoài chuyện đó... hình như chưa có gì quan trọng hơn để nói. - Tôi dành cho anh một ngạc nhiên vào phút chót, ở khu nhi đồng, bọn chúng tôi đặt bộ chỉ huy của Palmach tại đó.
Bước vào khu nhi đồng; Ari lại được đón tiếp bằng tiếng reo vui mừng của một Palmachnik nữa. Nhưng lần này, không những không né tránh nỗi vui mừng biểu lộ nơi người thanh niên Ari thân ái ôm hôn hắn nhấc bổng hắn lên, rồi xiết chặt hắn vào ngực mình.
- Tôi rất mừng được gặp lại chú, - quay về phía David, Ari nói thêm - Joab Yarkoni là bạn cố tri đấy.
Joab Yarkoni, người Do Thái Ma-rốc da xạm, mắt đen, bộ ria bự, đang cười sặc sụa.
- Anh Ari, anh còn nhớ những trái chà là Irak không?
Vào thời đó, tất cả xứ Palestine đều nhắc tới chuyện này. Những người Irak tồn trữ những loại chà là được chọn lọc hết sức cẩn thận trong sở trồng tỉa của họ để hy vọng giữ độc quyền về loại trái cây này. Nhưng Yarkoni đã lẻn vào Irak, và đã thành công trong việc "tìm được" khoảng một trăm cây loại này và mang được về bên kia biên giới.
Hiện giờ anh đang phụ trách khu nhi đồng. Nói cho đúng hơn thì đó là những kẻ mồ côi, gồm hàng trăm con trai và con gái từ tuổi nhỏ nhất đến tuổi thiếu niên. Hầu hết chúng đều là con những kẻ sống sót khỏi các trại tập trung, và nhiều đứa chưa bao giờ sống ở ngoài các hàng rào kẽm gai. Khác với các khu khác, ngoài các lều vải khu nhi đồng còn có các cơ cấu đáng kể khác: trường học, phòng ăn, trạm y tế, và cả một thao trường nữa. Ở các chỗ khác thì lại buồn chán buông xuôi trong lúc khu này có một không khí hoạt động mạnh. David cắt nghĩa:
- Nhờ ở lòng hảo tâm của những người Do Thái Mỹ, trẻ con ở đây sống một cuộc sống tương đối bình thường. Chúng tôi có các y sĩ, nữ điều dưỡng, giáo viên... Những vị này không phải là những kẻ bị giam giữ, mà là những người từ bên ngoài tới. Họ là công dân Hoa Kỳ nên người Anh đành phải cho vào. Điều đó thật tiện dụng... cho cái... cho tất cả những gì còn lại.
Những gì còn lại, đó là việc huấn luyện quân sự. Vì có các vụ ra vào như thế, khu trẻ con, canh gác sơ sài; chỉ chính vì thế David và Joad đã chọn khu này đặt bộ chỉ huy của Palmach. Mỗi đêm thao trường biến thành võ trường, trong các lớp học, các cán bộ từ Palestine tới giảng dạy các môn rất ít có tính cách học đường, nhưng chuyên về tâm lý những người Ả Rập, vũ khí cá nhân, chiến thuật du kích và nhiều đề tài tương tự.
Sau vài tuần lễ, học trò của lớp đặc biệt này phải trải qua một kỳ khảo sát, đặc biệt đề tài là "thẩm vấn kẻ tình nghi xâm nhập". Học viên được coi như đã nhập nội bất hợp pháp Palestine và bị chính quyền Anh bắt. Trong một cuộc thẩm vấn nghiêm khắc, một cán bộ Palmach đóng vai trò cảnh sát Anh, cố gắng kết án "bị cáo" là đã nhập nội bất hợp pháp. Quan trọng nhất là người di dân phải trả lời được nhiều câu hỏi liên quan đến địa lý và lịch sử trong xứ để chứng tỏ rằng mình đã sống ở đó từ lâu rồi.
Khi ứng viên nhập nội đã qua được kỳ thi này, Palmach tổ chức việc đào thoát và chuyên chở đương sự về Palestine. Tính đến nay, hàng trăm người di dân, đi từng nhóm nhỏ, đã trở về được Palestine, vùng Đất Hứa, theo phương cách này.
Các cơ quan an ninh Anh trên đảo chắc hẳn là đã nghi ngờ. Hơn một lần, họ đã trà trộn những tay săn tin giỏi nhất vào những người Hoa Kỳ làm việc tại khu nhi đồng, nhưng lần nào cũng thất bại. Giới thiếu niên, xuất phát từ các ghetto và các trại tập trung đã học được cách theo dõi kẻ lạ mặt, lần lượt các tay săn tin bị lột mặt nạ sau hai hoặc ba ngày trước khi họ khám phá ra được bất cứ điều gì.
Ari chấm dứt cuộc thanh tra sau khi viếng thăm một trường học, Palmach đã đặt Bộ chỉ huy của họ trong một lớp học, nơi bục của thầy giáo được che giấu một máy vô tuyến để liên lạc với Palestine. Dưới sàn gỗ là vũ khí đạn dược. Trên giá, đằng sau một chồng sách là dụng cụ dùng để chế tạo các giấy tờ giả mạo.
Ari ngắm nghía vài giấy thông hành giả, lắc đầu; trách cứ:
- Giấy tờ giả hạng bét. Không đánh lừa nổi lấy một người mù. Tôi tưởng chú làm ăn cẩn thận hơn chứ, Joab.
Joab làm một cử chỉ biểu lộ bất lực. Ari nói tiếp:
- Trong những tuần lễ sắp tới, chúng ta cần phải có một chuyên viên giỏi. Theo David, chú ấy đang có sẵn một tay khá. - Thưa đúng. Đó là một thiếu niên Ba Lan, tên Dov Landau. Nhưng đáng tiếc tên đó đúng là một tên đầu lừa: nhất định không chịu làm việc. Chúng tôi tìm cách thuyết phục hắn cả mấy tuần rồi chưa xong. - Tôi sẽ nói với hắn. Hiện giờ hắn đang ở đâu? Tôi thích gặp hắn một mình hơn.
Trong chiếc lều mọi người chỉ cho Ari gặp một thiếu niên tóc vàng thân hình nhỏ bé, nét mặt đầy nghi ngờ. Trong một khoảng khắc, chàng Do Thái xứ Palestine to lớn vĩ đại và chú bé Do Thái Ba Lan quan sát nhau trong im lặng. Ari chú ý tới cái miệng khinh khỉnh, môi mím lại, vẻ mặt lầm lì vừa độc ác vừa nham hiểm của những kẻ đã từng trải qua các trại tập trung của Quốc xã. Ari nói, nhìn xoáy vào đôi mắt xanh của thiếu niên:
- Chú là Dov Landau. Chú mười bảy tuổi gốc Ba Lan. Tôi biết chú là tay làm giấy tờ giả mạo rất có tài. Còn tôi, tên là Ari Ben Canaan, sinh tại Palestine, một cán bộ của Mossad Aliya Bet, tổ chức bí mật của người Do Thái chúng ta.
Không thêm trả lời, Dov Landau nhổ bẹt xuống đất. Ari nói tiếp:
- Tôi cần nói rõ là tôi không có ý định cầu xin hay dọa nạt gì chú hết. Tôi chỉ muốn đưa ra một đề nghị ngay thẳng... một thứ thỏa thuận tương trợ...
Dov ngắt ngang:
- Ông chỉ mất thì giờ vô ích, ông Ben Canaan. Đối với tôi, loại người như ông chẳng có giá trị hơn gì tụi Đức hay tụi Anh. Nếu các ông vất vả như vậy để đưa chúng tôi về Palestine, thì chỉ vì một lý do: các ông cần chúng tôi để chống lại tụi Ả Rập. Các ông, chẳng qua chỉ muốn bảo vệ tấm thân của các ông mà thôi. Này ông nghe đây: thế nào tôi cũng vào được Palestine không cần các ông. Và khi đã vào xứ được rồi, tôi sẽ gia nhập vào nhóm nào cho phép tôi đi giết người.
Ari không đổi nét mặt, tán thành:
- Được lắm. Ít ra bây giờ mọi sự cũng rõ ràng. Chú không tán thưởng những lý do của tôi - Những lý do làm tôi cố đưa chú về Palestine - và tôi cũng không dám tán thưởng các lý do làm chú muốn về xứ của chú. Nhưng chúng ta vẫn cứ đồng ý với nhau được một điểm sau: chỗ của chú là ở Palestine chứ không phải ở đây! Bây giờ hãy xét kỹ hơn vụ này. Không phải cứ lầm lầm lì lì như mèo ăn vụng ở dưới mái lều này mà chú sẽ lên được tàu rời đảo - Chú đồng ý thế chứ? - Đồng ý. Rồi sao nữa? - Chính vì thế tôi mới đưa ra đề nghị sau: chú giúp tôi, tôi sẽ giúp chú. Rồi sau đó, khi đã về được xứ, chú sẽ làm những gì chú muốn. Nội vụ cũng khi giản dị: tôi cần các giấy tờ giả. Cần rất nhiều trong những tuần lễ tới. Vậy mà những cán bộ tôi có tại đây bết đến nỗi họ bắt chước chữ ký cũng còn chưa xong. Bởi thế tôi đề nghị chú làm việc cho tôi.
Ngạc nhiên trước một vụ thẳng thắn đến như vậy, Dov vẫn còn do dự. Hắn bộc lộ nỗi lo ngại không biết Ari có dăng một cái bẫy nào đánh lừa hay không. Dov lầu nhầu:
- Cũng phải để cho tôi nghĩ đã chứ. - Chắc chắn rồi. Tôi để cho chú đúng nửa phút, không thêm một giây. - Nếu tôi không chịu, chắc các ông sẽ "khện" cho tôi một trận nhừ tử phải không?
Ari nhun vai:
- Tôi đã nói với chú rồi đó, Dov: Chúng ta cần lẫn nhau. Chú cứ yên trí, tôi không đánh chú đâu. Nhưng ngược lại, nếu chú quá ngu dốt để từ chối, tôi sẽ đích thân coi chừng, và chú sẽ ở danh sách của kẻ cuối cùng rời trại Caraolos này. Và vì trại này đông tới khoảng ba mươi lăm ngàn người nên tới ngày đến lượt chú về Palestine, thì lúc đó chú đã quá già, quá yếu để không ném nổi những trái lựu đạn hay mìn mà chú ao ước từ lâu. Đến đây, là hết nửa phút để chú suy nghĩ rồi đó. - Lấy cái gì để biết là tôi có thể tin ở ông được? - Ngay khi tôi vừa nói xong là chú tin được rồi.
Một thoáng cười làm thoải mái khuôn mặt Dov:
- Ông đã nói thế... tôi nhận lời. - Tốt lắm. Chú sẽ nhận lệnh từ David Ben Ami hay từ Joab Yarkoni. Yêu cầu chú tuân lời họ, không rắc rối lôi thôi. Nếu chú gặp các khó khăn, chú lại kiếm tôi. Trong nửa giờ nữa, chú tới trình diện Bộ chỉ huy của Palmach. Chú xét coi các dụng cụ chúng tôi đã có, rồi chú cho David biết chú cần thêm những gì nữa. Thôi chào chú!
Ari rời lều tới gặp lại David và Joab, thản nhiên loan báo:
- Trong ba mươi phút nữa, Dov Landau sẽ bắt đầu làm việc.
Hal người phụ tá ngẩn người ra, nhìn cấp chỉ huy của mình:
- Anh đã làm thế nào vậy? - Đó là một đứa trẻ... Phải biết cách đối xử với nó. Điểm này giải quyết rồi, tôi trở về Famagouste. Tôi sẽ chờ cả hai anh tối nay ở nhà Mandria. Dẫn theo cả Zev Gilboa nữa. Không cần tiễn đưa, tôi biết đường ra trại.
Sững sờ ngạc nhiên, David và Joab nhìn Ari rảo bước về khu đổ rác của trại.
Vào lúc 9 giờ tôi, bốn người tụ họp trong phòng khách của Mandria chờ đợi Ari Ben Canaan tới: chủ nhà, David Ben Ami, Joab Yarkoni và Zev Gilboa, một dân quê khỏe mạnh xứ Galilée, huấn luyện viên quân sự của Palmach trong trại Caraolos và cũng là chuyên viên hữu hạng về các phương pháp chiến đấu bằng tay không.
Đến 11 giờ, Mandria tỏ vẻ sốt ruột:
- Lạ thật... tôi đã đưa cho ông ta một taxi và một tài xế giỏi...
David nói:
- Xin ông đừng sốt ruột Ari có thể vắng luôn ba ngày, kệ cho chúng ta chờ đợi. Anh đó không làm việc như mọi người.
Sau nửa đêm không đợi thêm được nữa, bốn người thu xếp đi ngủ. Quyết định ấy quả thực hợp lý: Ari chỉ đến vào lúc năm giờ sáng. Nét mặt mệt mỏi, mắt đỏ ngầu, nhưng không thêm nghĩ đến chuyện xin lỗi, Ari đã quay về phía Mandria hỏi:
- Thế nào ông Mandria, ông đã tìm ra cho chúng tôi một chiếc tàu chưa?
Ngạc nhiên, Mandria đưa hai tay ôm lấy đầu:
- Ông tưởng tôi có thể tạo phép mầu được sao! Ông mới yêu cầu tôi lo một chiếc tàu cách đây mới chừng ba mươi giờ đồng hồ là nhiều nhất, chắc ông còn nhớ chứ ngay sau khi ông vừa tới đảo, và tôi đã ra lệnh ngay cho các Công ty của tôi có văn phòng ở các hải cảng Famagouste, La Cynéria, Limassol và Paphos. Vậy mà đến hôm nay các văn phòng của tôi vẫn chưa tìm được một chiếc tàu thích hợp, có kết quả tôi sẽ cho ông biết liền.
Ari lầu nhầu:
- Thôi cũng được. Chúng ta thử kiên nhẫn chờ. Zev nghe đây: Các bạn khác chắc đã cắt nghĩa anh nghe những gì chúng ta định làm. Kể từ hôm nay, tất cả ba anh đều được đặt dưới quyền xử dụng của tôi. Còn công việc mọi khi của các anh ở Caraolos, hãy kiếm người khác thay thế: chúng ta không thiếu cán bộ ở trong trại. Anh Joab, theo ý anh có chừng bao nhiêu trẻ con khỏe mạnh trong khu nhi đồng! Từ hai tới mười tám tuổi? - Coi nào... khoảng sáu tới bảy trăm. - Zev, anh chọn lựa trong số đó lấy ba trăm đứa khỏe nhất rồi võ trang cho chúng về thể xác cũng như tinh thần thật vững chắc. Lúc này chỉ cần làm vậy thôi.
Ari đứng dậy:
- Ông Mandria, trong nửa giờ nữa tôi cần có một tài xế khác. Tài xế đang lái xe cho tôi mệt nhừ rồi.
Mandria nói:
- Tôi sẽ lái đưa ông đi, ngay khi nào ông muốn. - Tốt lắm. Chúng ta sẽ đi khi mặt trời mọc. Bây giờ xin các bạn thứ lỗi, tôi phải lên buồng xem xét một vài tài liệu.
Khi Ari ra khỏi. Mandria giơ hai tay lên trời, than thở.
- Ông ta làm tôi sợ luôn. Một người hy vọng ở phép nhiệm mầu... Một người không hề thổ lộ gì về các dự định của mình...
David phản đối:
- Về điểm thứ nhất thì ông nhầm. Chính vì anh ấy không tin cậy ở phép mầu nên mới làm việc ghê như vậy. Ngược lại ông có lý, khi nói anh không chịu nói nhiều về các dự định. Tôi có cảm tưởng anh ấy đang giấu chúng ta một điều gì: Theo ý tôi việc đào thoát của ba trăm đứa trẻ chỉ là một phần của kế hoạch của anh thôi.
Joab Yarkoni nở một nụ cười vui vẻ:
- Suy nghĩ nhiều làm gì cho nhức đầu! Chúng ta đều biết Ari từ lâu hơi đâu mà đoán tìm việc làm của anh ấy làm gì. Ai hiểu được anh Ari bằng chúng ta, phải biết rằng trong loại công tác này, so với anh ta không ai thực hiện được, nếu được ra chỉ bằng đầu gót chân anh ấy mà thôi. Rồi đây chúng ta cũng sẽ biết những gì anh định làm.
Khi ánh sáng đầu tiên báo hiệu bình minh ló dạng, Mandria cầm tay lái taxi đưa Ari chạy vòng quanh đảo, một cuộc du hành bề ngoài như không có mục đích gì. Ít nói, vừa suy tư vừa suy nghĩ thỉnh thoảng Ari đặt những câu hỏi ngắn nhưng xác đáng. Mandria càng lúc càng có cảm tưởng mình đang làm việc với một người không hề biết xúc động là gì. Dầu vậy, đối với chính nghĩa để "thành lập quốc gia Do Thái" lòng tận tụy của Ari lại không thể ngờ vực được. Như vậy ở đây có một sự mâu thuẫn mà Mandria không thể nào giải thích được. Làm thế nào một con người vừa có thể lạnh lùng bình thản lại vừa say mê cuồng nhiệt như thế?
Hai người đi lang thang trong hải cảng cũ kỹ Famagouste, đi từ vịnh Orient rộng lớn đến tận mũi Greco, dọc theo các bờ đá của bãi biển phía nam rồi leo lên những ngọn núi lởm chởm, nơi có nhiều khách sạn đang chuẩn bị đón tiếp khách nhàn du về mùa đông. Tới khi quá nửa đêm, họ mới trở về Famagouste, Mandria đi chệnh choạng vì mệt nhưng Ari bắt ông phải tham dự một buổi hội họp thứ nhì, vẫn cùng với Zev, David và Joab, khi cuộc họp vừa dứt Mandria lăn ra ngủ vì qua mệt.
Ngay hôm sau - bốn ngày sau khi Ari tới đảo - Đại lý của Mandria ở Lacarna thông báo cho biết có một chiếc tàu có điều kiện như chỉ thị đã cho, vừa vào vịnh và chủ tàu đang muốn bán. Ngay lập tức, Mandria, Ari, David và Joab lên đường đến Lacarna.
Họ đã đi được chừng nửa đường thì đột nhiên Ari yêu cầu cho xe dừng lại. Chàng nhận thấy trong các cánh đồng dọc hai bên đường, nhiều toán thợ đang lo dựng các dãy nhà. David cắt nghĩa:
- Tụi Anh đang xây một cái trại thứ hai. Trại Caraolos đầy tràn người rồi...
Bằng một cử chỉ bực tức, Ari cắt ngang, gắt gỏng:
- Tại sao không ai nói cho tôi biết việc này?
Joab bực tức trả lời:
- Chắc là tại anh quên không hỏi thì đúng hơn.
David vội vã nói thêm:
- Chúng tôi phỏng đoán, việc chuyển người từ trại cũ sang trại mới sẽ bắt đầu từ hai đến ba tuần tới.
Ari gật đầu ra chiều suy nghĩ. Joab, từ nãy tới giờ quan sát Ari một cách tò mò, nhận thấy chàng đang suy nghĩ gì ghê gớm.
Ở Lamaca, chủ nhân chiếc tàu định bán, là một người Thổ tên Armatau, chờ đợi họ ở quán "Bốn cây đèn". Bằng một giọng lấn áp không để ai cãi, Ari tuyên bố là muốn đi xem tàu ngay lập tức. Armatau đưa họ dọc theo cầu, tiến xa ra vịnh tới nửa cây số. Họ đi qua chừng một chục tàu đánh cá, và thuyền buồm rồi dừng lại trước một chiếc tàu kéo cổ lỗ, vỏ hoàn toàn bằng gỗ và đằng mũi mang tên Aphrodite.
Người Thổ, với vẻ mặt huênh hoang, nói lớn:
- Các ngài thấy chưa! Thật quả là loại tàu đáng giá đấy chứ.
Nhưng khi thấy những người đi cùng không hề lộ vẻ thích thú, ông nói thêm:
- Dĩ nhiên nó không phải là thuyền đua vô địch rồi...
Ari dó xét chăm chú chiếc tàu. Chàng có đủ kinh nghiệm mà ước lượng chiếc Aphrodite chỉ dài chừng năm mươi thước, trọng tải cỡ hai trăm tấn. Căn cứ vào cách đóng cùng tình trạng tồi tàn, chắc tàu đã được hạ thủy từ đầu thế kỷ này. Ari bỗng nhiên quay lại hỏi chủ tàu:
- Tôi hỏi ông một câu thôi: tàu ông có đủ chắc để đi một chuyến tới bờ biển Palestine không, có hay là không? Một chuyến đi thôi. Đừng quên một chuyến có nghĩa là hai trăm dặm ngoài biển khơi.
Người Thổ giơ hai tay lên trời:
- Tôi thề trước linh hồn mẹ tôi là tôi đi lộ trình Chypre - Thổ tới ba trăm lần rồi mà không gặp trục trặc nào. Hơn nữa, ông Mandria đây có thể xác nhận cho lời tôi nói là đúng. Ông ấy là chủ hãng tàu, ông biết rõ lắm.
Mandria nói:
- Đúng lắm. Aphrodite tuy già nua nhưng còn chịu trận được. - Được lắm. Ông Armatau, xin phiền ông cho hai bạn tôi đây lên tàu coi máy móc...
Khi người Thổ, David và Joab đã mất hút sau buồng dẫn xuống hầm tàu, Mandria quay lại Ari.
- Hắn là người Thổ, nhưng ta có thể tin cậy được. - Theo ý ông, cái thứ xác tàu này có thể đặt tới vận tốc tối đa là bao nhiêu? - Khoảng chừng năm gút, với gió thuận tốt. Dĩ nhiên, ta chẳng nên vội vã quá.
Chừng nửa giờ sau, David và Joab trở lên boong. David nói:
- Đây không phải là một chiếc tàu, mà là một khối sắt nổi thì đúng hơn. Như thế này, tôi tin chắc là nó thích hợp cho công việc của chúng ta! - Chú tin là nó sẽ chở nổi ba trăm người không! - Ba trăm hả... nếu ta chèn ép họ vào đấy, có thể được lắm chứ. - Được rồi. Bây giờ xin ông Mandria coi sóc việc sửa sang lại tàu. Chắc là nhiều chuyện vui đấy. Khỏi cần nhắc là ông phải tránh làm mọi người chú ý tới.
Mandria nở nụ cười sung sướng như cá gặp nước:
- Ông đừng lo. Chắc ông cũng biết tôi quen biết nhiều. Ngày nào ta còn biết chỗ cần lo lót, thiên hạ sẽ để ta yên: không ai quan tâm gì đến đâu. - Hy vọng là thế, bây giờ đến việc khác: David, tối nay chú gởi một điện văn về Palestine. Nói với chúng, ta cần một thuyền trưởng và hai thủy thủ. - Anh tin một thủy thủ đoàn ba người là đủ sao! - Dĩ nhiên không, nhưng thôi... báo luôn cho các anh biết là hai anh, Zev và cả tôi nữa, chúng ta lợi dụng chiếc quan tài nổi này để trở về Palestine. Lúc đó chúng ta sẽ phụ vào một tay với thủy thủ đoàn như thế là đủ số.
Ari quay lại chú tàu người Thổ, đang ngẩn mặt ra trước hàng loạt câu hỏi, mệnh lệnh và quyết định liên tiếp.
- Xong rồi, ông Armatau. Ông hãy cười lên một cái: Ông đã thành công trong việc bán cho bọn tôi cái vỏ tàu cũ rích này rồi đó. Nhưng không phải với cái giá ông định đâu. Chúng ta hãy trở về quán "Bốn cây đèn" để bàn cãi cho đứng đắn.
Trước khi rời bến tàu, Ari lại dặn:
- Suýt nữa quên... David và Joab, hai anh hay trở về Famagouste bằng phương tiện riêng. Ngay sau khi mua tàu xong xuôi, ông Mandria sẽ đưa tôi tới Cyrénia.
Mandria kêu lên kinh ngạc:
- Đi Cyrénia? Bộ ông không bao giờ biết mệt sao?... Cyrénia ở tận bên kia đảo mà. - Xe của ông trục trặc sao? - Không... không... vâng, đồng ý chúng ta sẽ đi Cyrénia. - Xong rồi, mời đi theo tôi. Cả ông Armatau nữa.
Khi Ari lôi Mandria và Armatau đi, David gọi theo:
- Anh Ari! Đặt tên gì cho chiếc tàu khốn khổ này. - Chú kiếm đi. Chú có khiếu làm thi sĩ mà...
Đứng trên ván gỗ đưa tới sàn tàu, David và Joab nhìn ba người khuất dần ở đầu bến. Rồi quay lại nhìn nhau, hai người vùng ôm lấy nhau vui sướng. Joab la lên thích thú:
- Cái anh Ari quái ác này! Loan báo bọn mình được phép trở về xứ, cái kiểu gì vậy.
Tươi cười, Joad leo lên tàu và đi dọc theo boong hư nát.
- Cũ ơi là cũ! Hay ta đặt tên nó là Bevin.
David lắc đầu:
- Tôi đã tìm thấy một tên hay hơn. Kể từ nay, nàng Aphrodite nhan sắc tàn phai này được tên là Exodus 3.
-------------------------------- 1 Palmach tên gọi các đơn vị xung kích của Do Thái. Những người võ trang đầu tiên của Do Thái thành lập đoàn Vệ Quân Hashomer hoạt động lưu động, thường chỉ để chống lại các dân Bédouin chuyên môn ăn cướp xứ Patestine. Khi người Do Thái đã đông hơn, thành lập nhiều nông trường tập thể họ tổ chức HAGANAH, gồm tất cả nam nữ ở tuổi cầm súng được. Đặc biệt là đoàn quân này không thoát ly sản xuất, vừa chiến đấu vừa canh tác và dĩ nhiên không quân phục - dù có bộ chỉ huy tối cao riêng. Đến đệ nhị thế chiến, vì cần dùng du kích chiến để quấy phá hậu phương quân Đức, quân lực Anh nhờ HAGANAH đề cử người tham dự các đơn vị du kích do chính người Anh huấn luyện: các đơn vị này hợp thành PAlMACH, chuyên đánh du kích và đặc công. Sau đệ nhị thế chiến, các đoàn viên PAlMACH trở thành các cán bộ quân chính, đa hiệu, hoạt động trong mọi lãnh vực. Các đơn vị này, sau khi Do Thái dành được độc lập, do trở thành nồng cốt cho quân lực chính qui của Israel. Những người ở trong đoàn này được gọi là Palmachnik. 2 Ghetto: cho tới đệ nhị thế chiến, các người Do Thái phải sống tập trung trong các khu vực riêng do chính quyền địa phương cưỡng buộc. Các khu này được gọi là Ghetto. 3 Exodus (Exode): theo Kinh thánh, sách xuất Ê-díp-tô ký, dân Do Thái thời cổ bị bắt đầu làm nô lệ ở Ai Cập. Nhờ có Moise tranh đấu và hướng dẫn, dân Do Thái đã lên đường di cư về cố hương. Chuyến di tản gọi là Exodus hay Exode (pháp ngữ) trong Cựu ước kinh.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:07:03 GMT -6
Phần I => Chương 9
Mark cho dừng chiếc xe thuê bên lề đường. Nơi đây chẳng khác nào là một bao lơn thiên tạo; trên núi cao, nhìn thẳng xuống Cyrénia; lùi lại một chút, trên một mỏm đá vĩ đại cao chừng hai trăm thước chung quanh lởm chởm, là những di tích của lâu đài Saint - Hilarion, dấu vết bao giờ cũng gây ấn tượng về một thời huy hoàng của nền văn minh gô-tic.
Mark nắm tay Kitty đưa nàng đến con đường nhỏ đào trong núi đá. Họ leo lên từ khúc nay sang khúc khác, vượt qua tường thành nội, đi qua các nhà đổ nát để rồi leo lên đỉnh cao nhất. Sau chừng một giờ, họ thở hổn hển và ướt đẫm mồ hôi, lúc leo lên tới đỉnh, từ đó họ nhìn ra một khung cảnh bao quát đẹp tuyệt vời. Dưới chân họ, thành núi dốc thẳng đứng gần một ngàn thước, tới tận những căn nhà đầu tiên của Cyrénia. Về phía chân trời, một đường màu hoa cà cho thấy bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. Phía trái và phía phải là nền xanh tươi của rừng núi và các vườn cây ăn trái, từng thửa vườn cao thấp bao quanh những ngôi nhà trắng xây bám vào vách núi dốc ngược.
Im lặng, Mark ngắm nhìn Kitty hình dáng nổi bật trên nền trời. Chàng nghĩ thầm: "Nàng duyên dáng và dịu dàng biết bao". Trong vũ trụ đầy dẫy những lòng ham muốn này, Mark chinh phục đàn bà một cách dễ dàng, nhưng đối với Kitty là người đàn bà duy nhất mà chàng không tìm cách để quyến rũ. Chàng đã chán chườg khinh bạc họ, do đó chàng ít khi coi trọng bất cứ người đàn bà nào. Chàng muốn giữ lòng kính trọng đối với Kitty. Nhất là với nàng, chàng thấy hoàn toàn thoải mái: giữa Kitty và chàng, không phải cầu kỳ, không phải giữ bề ngoài thái quá, không cần phải đóng kịch. Chàng nói nhỏ:
- Anh tin rằng đây là cảnh đẹp nhất thế giới.
Nàng gật đầu và mỉm cười với chàng, kể từ khi Mark tới đảo, nàng như thay đổi hẳn. Nàng thú thật tâm tình của mình, với chàng là liều thuốc trị liệu tốt nhất. Nàng nói:
- Em hầu như xấu hổ khi thú thật với anh những gì em nghĩ lúc này. Em nghĩ rằng các chức quyền Anh quốc đã có ý kiến tuyệt hảo khi gởi Đại tá Hillings sang Palestine để em có thể sống được lúc này với anh. Tòa báo của anh còn cho anh nghỉ được bao lâu nữa? - Khoảng vài tuần. Em muốn anh có mặt nơi đây chừng bao lâu nữa đây? - Em muốn là không bao giờ chúng ta xa cách hàng ngàn cây số nữa. - Anh hoàn toàn đồng ý với em. Ở khách sạn Dôme tất cả mọi người đều tin rằng em là tình nhân của anh.
Nàng phát lên cười:
- Càng tốt! Em sẽ treo một cái biển trước phòng. Em đề rõ: "Tôi yêu Mark Parker đến điên cuồng!"
Họ xuống núi trong luyến tiếc, vào lúc còn đủ ánh sáng đi tới đường lộ trước khi trời tối.
Bóng tối tràn ngập hải cảng Cyrénia khi chiếc taxi dừng lại ở lối dẫn vào cầu tàu. Ari và Mandria bước xuống đi về ngọn tháp của lâu đài Thánh Nữ Đồng Trinh. Những bức tường đang chìm ngập trong nước vỗ róc rách. Qua một cầu thang hình trôn ốc, hai người leo lên thêm cao phía trên. Từ điểm quan sát này, nhìn thấy rất rõ hải cảng và cả vùng phụ cận. Vũng tàu đậu nằm lọt vào giữa hai chiếc đê, một phát xuất từ lâu đài, một từ đầu bên kia cầu tàu, tạo thành một vòng tròn hầu như kín mít chỉ để một lối ra vào nhỏ hẹp. Chính hải cảng cũng hẹp, chỗ rộng nhất đo được chừng ba trăm thước bề ngang, lại còn bị các thuyền câu chiếm chỗ một phần lớn. Ari hỏi:
- Theo ý ông, có thể cho chiếc Aphrodite vào vũng này được không? - Vào thì không thành vấn đề cho lắm. Nhưng cho nó quay đầu rồi đi ra mới là khó.
Ari gật đầu. Chàng chỉ mở miệng nói khi trở lại xe:
- Xin để ông về một mình. Tôi phải gặp một người ở khách sạn Dôme và cũng chưa biết sẽ mất bao lâu. Tôi sẽ xoay xở trở về Famagouste sau.
Trong phòng ăn khách sạn Dôme, tiếng nhạc điệu luân vũ của thành Vienne che lấp tiếng nói rì rào một thứ rì rào đặc biệt Anh - và tiếng sóng vỗ vào bờ, Mark đang nhắm nháp ly cà phê, đột nhiên chăm chú nhìn qua vai Kitty một người vừa xuất hiện ở cửa vào. Người đó cao lớn, nghiêng người thì thào vào tai người quản lý khách sạn và người này chỉ về phía bàn Mark. Kitty nói:
- Anh có vẻ vừa nhìn thấy một bóng ma. - Quả thực vậy. Bóng ma đang tới kia kìa. Chúng ta sắp sống một buổi tối hào hứng rồi đây.
Ngạc nhiên, Kitty quay lại. Khổ người đồ sộ của Ari đã lừng lững cạnh bàn. Chàng nói:
- Ông Parker, tôi thấy là ông còn nhớ tôi.
Chàng không đợi mời, lấy một chiếc ghế ngồi rồi quay lại phía Kitty:
- Xin lỗi, chắc cô là Catherine Fremont?
Cái nhìn của chàng gặp ánh mắt của nàng nhưng nàng không sao hạ mắt xuống được. Một thời gian im lặng khó chịu. Ari gọi người hầu mang bánh mì thịt ra. Mark nói:
- Giới thiệu với Kitty, anh Ari Ben Canaan, một cố tri quen biết anh từ lâu.
Kitty nhắc lại tên họ của Ari.
- Đó là một tên hébreu 1 , thưa cô. Nó có nghĩa là: "Sư tử, con của Canaan". - Có vẻ khá rắc rối đó, phải không ông? - Ngược lại là khác. Hébreu là một ngôn ngữ rất hợp lý. - Vậy sao? Thế mà tôi vẫn chưa nhận thấy.
Mark nhìn hết người nay đến người kia. Hai kẻ này mới biết nhau chừng một phút, họ đã gây gổ nhau rồi. Rõ ràng là thái độ của Ari đã chạm vào một dây nhạy cảm nào ở Kitty - một sợi dây mềm hay có lẽ căng thẳng không biết chừng bởi vì chàng thấy rõ nàng đang xòe móng vuốt đàn bà ra.
Ari đã có sẵn câu trả đũa:
- Tôi ngạc nhiên là cô không hiểu được sự hợp lý ấy. Mặc dầu chính Chúa lại không lầm lẫn về địa hạt này. Ngài thấy tiếng hébreu hợp lý đến nỗi Ngài đã soạn thảo kinh Thánh bằng ngôn ngữ này.
Kitty cười tán thành. Vì ban nhạc chơi một điệu fox, Ari đứng dậy:
- Cô khiêu vũ chứ?
Suy nghĩ, Mark nhìn hai người lượn trên sàn nhảy. Tia lửa đã nảy ra từ cuộc gặp gỡ giữa hai người đó càng làm chàng khó chịu hơn nữa vì Kitty tỏ ra sững sờ, như mất hết ý chí: Mark không vui khi thấy nàng cư xử như bất cứ một người đàn bà nào trước một người đàn ông khỏe đẹp.
Chính Kitty dù cao lớn và khỏe mạnh, cũng cảm thấy mình nhỏ bé trong vòng tay người thanh niên Palestine vĩ đại. Bị bất ngờ bởi chàng lực sĩ quyến rũ này, nàng bị xúc động sâu xa - một cảm giác thú vị mà từ nhiều năm rồi nàng chưa hề biết đến. Tuy thế, nàng cũng có cảm tưởng mình hơi lố bịch và vì thế hận chính mình.
Ban nhạc im tiếng, hai người trở về bàn. Ari cầm bánh mì thịt lên ăn ngấu nghiến.
Ăn xong miếng chót, chàng nói:
- Tôi tới đây để bàn luận về một chương trình với hai ông bà. - Ở đây, ngay giữa đạo quân Anh quốc?
Ari cười, quay lại Kitty:
- Parker chắc chưa có thì giờ để cắt nghĩa cho cô hay là một số người thường coi những hoạt động của tôi như tối mật. Đôi khi, người Anh đi đến chỗ cho chúng tôi một tên gọi tán dương là "phong trào kháng chiến". Vậy mà một trong những nguyên tắc đầu tiên tôi cố dạy cho các kẻ mới gia nhập hệ thống chúng tôi là nỗi nguy hiểm của các cuộc hẹn hò giấu diếm, vào nửa đêm trong một đường phố vắng nào đó. Làm như vậy chắc chắn sẽ bị khám phá. Trong khi ở đây, trong phòng ăn xinh đẹp này...
Mark ngắt lời.
- Lên phòng tôi tốt hơn.
Ari chưa kịp đợi cửa phòng khép kín đã đi thẳng vào vấn đề:
- Anh Parker, ngày hôm nay tôi và anh đều có thể giúp ích cho nhau. Hẳn anh biết có trại Caraolos phải không? Đây này, tôi vừa soạn thảo xong kế hoạch đào thoát của ba trăm đứa trẻ. Chúng tôi định đưa chúng đến đây rồi đưa lên tàu ở cảng Cyrénia.
Mark nói:
- Cái đó không còn giật gân nữa: Tổ chức của anh từ bao năm đã cố gắng đưa người Do Thái nhập nội bất hợp pháp Palestine rồi. - Đây sẽ là một tin gây cấn nếu anh giúp chúng tôi tạo ra nó. Anh con nhớ vụ ồn ào do vụ đưa người nhập nội gây ra của chiếc tàu "Đất Hứa" không? - Nhớ chứ. - Vào thời đó, người Anh đã lâm vào vị thế khó khăn trước dư luận quốc tế. Này đây, chúng tôi nghĩ rằng tạo ra một biến cố cũng nghiêm trọng như thế, chúng tôi có thể cưỡng ép họ thay đổi chính sách đối với Palestine.
Mark lắc đầu:
- Tôi không hiểu. Ngay cho dù các anh thành công trong vụ giải thoát khỏi trại ba trăm trẻ, thì làm cách nào anh đưa chúng về Palestine? Và dầu thế nào, đó cũng không phải là một biến cố thế giới. - Anh chưa biết phần chính yếu. Những đứa trẻ này một khi được đưa lên tàu bỏ neo ở Cyrénia, chúng sẽ không đi xa hơn nữa. Chúng tôi không có ý định liều làm một chuyến về Palestine. Nói tóm lược: Hãy tưởng tượng là tôi đưa ba trăm trẻ mồ côi ra khỏi Caraolos và đưa được chúng lên tàu ở ngay đây, Cyrénia. Bây giờ tưởng tượng tiếp là người Anh biết và cấm tàu nhổ neo. Sau chót, hãy tưởng tượng là anh đã viết bài sẵn rồi và trong khi chờ đợi, đã trao cho một đồng nghiệp ở Paris hay New York. Vào đúng lúc tụi trẻ lên tàu, bài viết sẵn của anh chắc chắn sẽ chiếm tám cột trang nhất.
Mark huýt một tiếng sáo thán phục. Cũng như hầu hết các ký giả Hoa Kỳ, chàng thành thực cảm thương cho nỗi thống khổ của những người tị nạn Do Thái. Vụ đề nghị này của Ari có vẻ hấp dẫn: Chàng sẽ từ đó rút ra một câu chuyện mà Ben Canaan có được một lợi khí tuyên truyền chính trị bén nhọn. Ari mới chỉ nói vừa đủ để chàng thèm thôi. Nhưng đòi hỏi các chi tiết chính xác hơn, chàng dám bị lôi cuốn thẳng vào nội vụ.
Hãy còn phân vân, chàng nhìn Kitty. Nàng lộ vẻ hoàn toàn thẫn thờ. Sau cùng chàng nói:
- Dầu sao tôi cũng mong biết rõ hơn. Thí dụ như anh làm thế nào để đưa ba trăm trẻ từ Caraolos đến Cyrénia? - Câu hỏi này phải chăng có nghĩa là anh thuận hợp tác với chúng tôi? - Nó chỉ có nghĩa là tôi muốn biết thêm tin tức. Tôi không giao ước gì hết. Dĩ nhiên là nếu sau cùng tôi có phải từ chối hợp tác, tôi xin hứa sẽ không phổ biến những điều tôi biết với bất cứ ai.
Vẫn bình thản, gần như uể oải, Ari ngồi vắt ở một góc tủ, nói:
- Đối với tôi thế là đủ rồi. Và vì tôi là người khá quảng đại, tôi xin làm thỏa mãn óc tò mò của nhị vị. Đây, chúng tôi sẽ làm như sau...
Ari cắt nghĩa chương trình của mình từng chặng một, không bỏ sót một chi tiết nào. Mark không ngăn nổi nhíu mày. Kế hoạch của Ari thật hết sức giản dị và táo bạo chưa từng thấy. Với những dữ kiện Ari vừa cho biết, Mark nhận thấy Ari hết sức thông minh và mưu kế, hiểu rõ cách thế suy tưởng và hành động của người Anh và có nhiều người cộng tác cũng táo bạo như chàng, Mark cũng chỉ cho Ari có năm mươi phần trăm may mắn thành công. Năm mươi phần trăm... Chàng đột ngột tuyên bố:
- Tôi hợp tác với các anh.. - Hoan hô! Tôi đã có lý khi hy vọng anh sẽ hiểu những khả dĩ hấp dẫn về phương diện báo chí của vụ này. Bây giờ về phần bà Fremont: Cách đây chừng một tuần mọi người đã đề nghị bà nhận làm việc ở khu nhi đồng trong trại. Bà đã có quyết định chưa? - Tôi đã từ chối. - Thế bây giờ bà có thể lại nhận để... coi như là để giúp anh Parker không?
Mark can thiệp:
- Khoan đã. Thực sự ra anh định trao cho Kitty vai trò gì đã? - Một vai trò khá dễ dàng. Trong lúc này, tất cả những giáo viên, y sĩ, nữ điều dưỡng từ bên ngoài vào làm việc đều là người Do Thái. Bở vậy chúng tôi phải giả đoán là người Anh nghi ngờ họ cộng tác với Mossad, tổ chức kháng chiến bí mật của chúng tôi. Bà Fremont đây là người công giáo. Một nữ điều dưỡng theo đạo công giáo chắc sẽ được tự do đi lại hơn nhiều. - Nói tóm tắt là anh định dùng Kitty như người giao liên phải không? - Gần như vậy. Trong lúc này, ngay trong trại, chúng tôi đang chế tạo nhiều giấy tờ và tài liệu giả mà chúng tôi sẽ cần dùng đến ở bên ngoài.
Mark lầu nhầu:
- Tôi hiểu. Anh quên rằng - có lẽ tại anh không biết - tôi không hề được người Anh quý chuộng. Sĩ quan tùy viên của tướng Sutherland đã nhảy bổ đến đây ngay sau khi tôi vừa tới. Xét riêng cá nhân, tôi cóc cần.. Nhưng nếu Kitty tới làm việc ở Caraolos, chắc họ sẽ coi chừng gắt gao. Họ sẽ nghĩ là nàng dò xét mọi sự cho tôi.
Ari lắc đầu:
- Ngược lại là khác. Họ lại càng sẽ tin chắc, tuyệt đối chắc, là anh không bao giờ để nàng làm một việc có thể nguy hại cho nàng. - Hừ có lẽ anh có lý đấy... - Tôi biết là tôi có lý. Tôi còn đi xa hơn nữa. Cứ thử tưởng cái gì tồi tệ nhất có thể xảy ra: một ngày nào đó, bà Fermont bị bắt vì chuyên chở giấy tờ giả mạo. Cái gì sẽ xảy ra? Kể như không có gì hết: Họ sẽ hỏi bà nhiều câu rắc rối rồi trục xuất, và còn có thể trả tiền vé cho bà ta từ đây về New York nữa.
Kitty la lên:
- Xin quý vị ngừng lại một giây đã! Tôi cảm thấy hai vị sử dụng tôi hơi dễ dàng quá. Tôi xin nói: Không! Bất đắc dĩ tôi mới phải dự buổi thảo luận giữa hai ông. Tôi sẽ không tới làm ở Coraolos. Thưa ông Ben Canaan, tôi từ chối không dính dấp tới chương trình đẹp đẽ của ông.
Ngạc nhiên. Ari quay lại nhìn Parker đang nhún vai nói:
- Kitty đã đủ lớn để biết nàng làm gì.
Ari đồng ý, chàng nói:
- Chắc chắn thế rồi. Nhưng bà cho phép tôi được nói là thái độ của bà làm tôi ngạc nhiên. Chúng ta đang ở cuối năm 1946, gần hai năm sau chiến tranh ở Âu châu chấm dứt. Thế mà có hàng ngàn người Do Thái đang phải sống sau hàng rào kẽm gai, trong những điều kiện hết sức khổ sở. Ngay tại đây, ở Caraolos, có những trẻ con không hề biết đến đời sống ở bên ngoài những hàng rào kẽm gai. Nếu chúng ta không cưỡng buộc được người Anh thay đổi hẳn chính sách nhập nội Palestine, những trẻ này sẽ ở sau kẽm gai cho tới mãn đời.
Kitty đáp:
- Chính vì thế những gì xảy ra trong và chung quanh Caraolos đều trở thành một vụ mà tính cách chính yếu là chính trị. Tôi tin chắc rằng người Anh có những lý do của họ để hành động như họ đã làm. Và tôi không muốn ngả hẳn về phe nào hết. - Theo ý tôi, bà nhầm rồi. Chính tôi đây đã là đại úy trong quân lực Anh, có huy chương Anh dũng bội tinh, và nhiều bạn thân của tôi là người Anh. Cũng có cả chục sĩ quan và binh sĩ Anh đang ghê tởm những gì hiện đang xảy ra ở Palestine đến độ hợp tác với chúng tôi. Tóm tắt đây không phải là một vấn đề chính trị mà là một vấn đề bác ái. - Chính vì bác ái, nhân đạo mà ông sắp hy sinh mạng sống của ba trăm trẻ sao? - Xét chung, mỗi người trong chúng ta có một mục đích ở đời. Nhưng đối với những kẻ đang chết dần mòn ở Caraolos, thì không có mục đích nào cả. Ngược lại, chiến đấu cho tự do của chính mình là một mục tiêu đáng cho con người theo đuổi. Ở Âu châu, chúng tôi có chừng hai trăm năm chục ngàn người đang ước ao được sống ở Palestine. Bất cứ ai trong những kẻ Do Thái "mất nơi cư trú" như người ta thường gọi một cách lịch sự ấy, cũng đều vui sướng được lên chiếc tàu này, còn hơn là phải ở lại trong trại. - Ông lý luận giỏi lắm, ông Ben Canaan. Tôi không đủ sức để bàn cãi với ông. Tôi, tôi không có sẵn một loạt câu trả lời sẵn sàng. Nhưng tôi nghĩ rằng...
Ari ngắt lời nàng, mỉa mai:
- Thế mà tôi đã đánh giá quá cao khuynh hướng tình thương ở người nữ điều dưỡng. - Tất cả thế gian này đầy những khổ đau. Tôi có thể phục vụ hữu ích trong cả ngàn chỗ khác, và không cần dính vào chẳng biết là thứ âm mưu gì nữa. - Bà nên bắt đầu bằng cách tới thăm Caraolos đã. Khi ấy bà sẽ thấy rõ mọi sự, rồi quyết định sau. - Không, ông Ben Canaan. Nếu ông định đặt bẫy lừa tôi hay thách thức tôi, ông sẽ mất thì giờ vô ích. Tôi không phải là người ngây thơ không biết gì. Tôi đã từng làm việc trong những nhà thương ngoại ô, trong những phiên gác đêm, mọi người băng bó những người bị thương nặng ngay dưới đất, phòng nhận bệnh không còn cái bàn cái giường nào trống. Ngay cả ở Caraolos, ông cũng không thể cho tôi chứng kiến những cảnh nào ghê gớm hơn được.
Ari thốt lên một tiếng thở dài và giơ hai tay lên tỏ dấu bất lực.
- Trong trường hợp này, quả tôi không còn gì để nói thêm. Rất tiếc đã quấy nhiễu bà.
Chàng đứng dậy: Anh Parker, anh sẽ có tin tức của tôi trong vài ngày nữa.
Ari quay người, bước ra.
Trong nhiều phút, Parker và Kitty im lặng. Ấn tượng sâu xa gây ra do Ari con người có cá tính mạnh mẽ từ từ lắng xuống trong tâm tư họ. Sau cùng, Kitty tháo giày và nằm dài trên giường.
- Anh Mark ạ, anh quả có lý khi nói chúng ta sẽ trải qua một buổi tối hào hứng! - Anh tin rằng em đã khôn ngoan khi đứng ngoài chuyện này. - Còn anh, tại sao anh lại để anh bị lôi cuốn vào?
Mark nhún vai:
- Bởi vì đó là một phần công việc của anh. Vụ này có thể trở thành một tin tức hàng đầu. - Nếu anh từ chối thì sao? - Thì cũng khóng có gì thay đổi hết. Chắc họ sẽ mời một ký giả khác tới. Họ nhiều phương tiện, phương sách lắm. Nếu họ đã chọn anh, là chỉ vì anh có mặt tại chỗ.
Kitty có vẻ suy nghĩ:
- Anh Mark, anh nói thật với em đi, em có phải đã cư xử như một con bé ngốc khóng? - Sao...? Cũng không khác hàng trăm đàn bà khác trước em thôi.
Mark nói một cách tàn nhẫn. Chàng muốn chứng tỏ cho nàng biết chàng không hề mắc lừa: gây hấn khó khăn của Kitty vừa rồi chỉ là một phản ứng chống lại sự quyến rũ thể chất của Ari đối với nàng. Kitty nói nho nhỏ:
- Anh đừng ác thế. Cứ cho hắn là một người đàn ông ngoại hạng đi. Anh quen hắn ta trong trường hợp nào? - Anh gặp hắn lần đầu ở Bá Linh, vào mùa Xuân 1939. Hắn được Mossad gởi đến với nhiệm vụ, nếu có thể được đưa tối đa người Do Thái ra khỏi nước Đức trước khi chiến tranh bắt đầu. Vào thời đó Ari khoảng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi. Sau đó anh gặp lại hắn trong cuộc chiến, ở Jérusalem với quân phục Anh quốc. Khi ấy hắn đang lo nhiệm vụ bí mật gì anh cũng không biết nữa. Kể từ lúc chiến tranh chấm dứt, người ta cho biết thấy hắn ở khắp Âu châu, lo việc mua vũ khí và lo cho người Do Thái trở về Palestine. - Hiện giờ anh có thực tin là anh ấy có thể thành công không? Chương trình của anh ta có vẻ quái dị khó tin quá.
Mark xoa cầm:
- Theo ý anh, có thể thành công. Hắn giỏi lắm. Ngoài ra anh có cảm tưởng là tài năng của hắn không phải chỉ giới hạn trong địa hạt chính trí mà thôi. Hình như với em hắn cũng biết cách.
Tức giận, Kitty nhảy ra khỏi giường:
- Tôi cấm anh... - Vậy hả?
Đột nhiên cả hai người phá lên cười. Mark và Kitty, bạn thân từ bao năm... Ý nghĩ rằng hai người có thể giận nhau thật hết sức khôi hài. Kitty lại ngồi xuống.
- Anh Mark, nói cho em biết thực ra cái Mossad Aliya Bet là cái gì vậy? - Chữ aliya có nghĩa là lên, thăng lên. Sự đến Palestine của một người Do Thái bao giờ cũng được chỉ bằng chữ aliya: trở về xứ tổ, hắn vươn lên khỏi thân phận trước đây. Mossad có nghĩa là hệ thống, tổ chức. Còn bet, mọi người dùng chữ aleph hay chữ A để chỉ sự nhập nội hợp pháp, bet hay chữ B để chỉ nhập nội bất hợp pháp. Như vậy Mossad Aliya Bet dịch ra là Tổ chức Nhập nội Bất hợp pháp.
Kitty vừa nói vừa cười:
- Trời! Quả thực hébreu thực là một ngôn ngữ hợp lý.
Trong hai ngày sau đó, Kitty cảm thấy bị xúc động, đứng ngồi không yên. Dù chẳng có gì quan trọng, nàng cũng không muốn tự thú nhận là nàng đang nóng lòng muốn gặp lại người đàn ông Palestine cao lớn đẹp trai ấy.
Ngày hôm sau buổi viếng thăm của Ari, với một vẻ lãnh đạm giả vờ, Kitty hỏi Mark chừng nào gặp lại Ari. Ngày hôm sau nữa, nàng lúng túng đề nghị một cuộc đi chơi Famagouste. Rồi ngay tối hôm đó, một mình trong buồng, nàng tự chủ và quyết định xóa nhòa "anh chàng hung bạo" ấy ra khỏi tâm trí. Sau khi đi đi lại lại trong buồng, nàng tắt đèn, ngồi thu mình trong một ghế bành, vừa hút điếu thuốc thứ hai mươi vừa cố gắng suy nghĩ.
Trước hết nàng không thích - không thích một tí nào hết - ý tưởng để mình bị lôi cuốn ngoài ý muốn vào cái thế giới bất thường của Ben Canaan. Cho tới giờ, thái độ của nàng đối với cuộc đời bao giờ cũng lành mạnh, hợp lý, gần như tính toán. Bạn bè và thân thuộc vẫn thường nói: Kitty quả thực là một cô gái khôn ngoan, chừng mực. Khi nàng yêu Tom Fremont, nàng đã chuẩn bị chinh phục chàng một cách có phương pháp, và nàng đã thành công. Sau này, nàng đã là một bà nội trợ đãm đang làm những bữa cơm cho chồng một cách chừng mực và chi tiêu ngân quỹ gia đình một cách hợp lý. Nàng đã quyết định có con vào mùa xuân - cũng lại là một quyết định hợp lý nữa. Bao giờ cũng vậy, nàng cũng kìm hãm được những thúc đẩy của sự ham muốn để theo đúng chương trình đã được đề ra.
Như vậy hai ngày vừa qua đối với nàng có vẻ là một cuộc phiêu lưu không hợp lý. Một người xa lạ như xuất hiện từ cõi hư vô đã kể cho nàng nghe một câu chuyện kỳ lạ. Nàng nhớ lại khuôn mặt đẹp đầy đàn ông tính của Ari Ben Canaan, nàng cảm thấy cái nhìn sâu sắc như đọc được tư tưởng nàng, chế riễu sự đề kháng của nàng, nàng nhớ mình đã khiêu vũ với hắn trong vòng tay hắn...
Tất cả những điều đó thật vô lý quá chừng? Không hẳn chỉ vì nàng chưa từng bao giờ yêu người Do Thái. Và tuy nhiên... Sau cùng nàng tự nhủ chỉ còn một cách để giải thoát khỏi sự ám ảnh khó chịu này: Nàng sẽ gặp lại Ari, sẽ đến thăm trại Caraolos. Như vậy, nàng sẽ có thể thuyết phục chính mình rằng không phải nàng đã cảm thấy một xúc động thần bí nào hết, mà chỉ là một vụ lệnh lạc sinh lý thể chất thôi. Nói tóm lại, nàng sẽ hạ Ari ngay bằng chưởng pháp của chàng, trên chính lãnh vực của chàng..
Sáng ngày hôm sau, Mark không ngạc nhiên may khi nàng yêu cầu thu xếp một buổi gặp gỡ với Ben Canaan cùng một buổi tới thăm Caraolos.
- Cũng được, nếu em muốn. Thẳng thắn mà nói tối hôm đó anh đã hài lòng thấy em khước từ không tham dự vào chuyện này. Rất tiếc là em lại đổi ý kiến, Ben Canaan, hắn chỉ mong có thế. Vậy anh xin em đừng có dại đột. Ngay khi em nhận lời tới Caraolos, là em đã mắc mưu rồi. Hãy nghe anh, chính anh còn muốn rút ra nữa là. Chúng ta có thể rời Chypre ngay trưa nay, sửa soạn xong hành lý là...
Thấy nàng lắc đầu, chàng năn nỉ:
- Em nhượng bộ óc tò mò một cách ngu quá trời. Anh thật không nhận ra em nữa. Em luôn luôn sáng suốt lắm mà... Chuyện gì đã xảy tới cho em vậy? - Mark ạ, em cũng biết chuyện nay có vẻ kỳ dị, nhất là lại do em, nhưng em có cảm tưởng như có một bàn tay thần bí nào thúc đẩy. Tin em đi anh, nếu em muốn viếng Caraolos, chính là để chấm dứt chuyện này chứ không phải để lao vào cuộc.
-------------------------------- 1 Hebreu: ngôn ngữ của người Do Thái thời cổ. Sau khi Do Thái mất nước, phải di dân khắp thế giới, ngôn ngữ này chỉ còn dùng trong khi cầu nguyện và chỉ các giáo sĩ mới đọc được. Sau khi phục hồi được quốc gia, từ ngữ này được phục sinh và coi như quốc ngữ của người Do Thái hiện nay.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:12:19 GMT -6
Phần I => Chương 10
Kitty đưa giấy thông hành cho người lính Anh đứng gác ở cổng trại rồi vượt qua hàng rào. Nàng hăm hở tiến vào khối 57, gần khu nhi đồng nhất.
- Xin lỗi, có phải bà Fremont không ạ?
Nàng quay lại, thấy mình đối diện với một thanh niên đang tươi cười giơ tay ra. Nàng nghĩ: "Anh chàng này chắc là dễ thương hơn ông bạn đồng hương đồ sộ của hắn".
- Tôi xin tự giới thiệu tôi là: David Ben Ami, Ari đã trao cho tôi nhiệm vụ đón tiếp bà. Anh ấy sẽ tới đây trong vòng vài phút nữa. Theo lời anh, bà sẽ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trong cuộc "hành quân Gédéon". - "Hành quân Gédéon"? - Đó là tên ngụy hóa của chương trình Ari. Chắc bà còn nhớ Kinh Thánh, sách Phán Xử? Gédéon phải mộ quân tiến lên chống lại quân Madianite. Ông ta chỉ lo chọn lựa ba trăm người thôi. Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi đã chọn trong số đó ba trăm người thôi. Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi đã chọn lựa ba trăm chiến binh trong khốn thay toàn là con nít - để chống lại người Anh.
Đã làm cho mình cứng cỏi sẵn đề phòng một buổi chiều khó khăn, Kitty hơi cảm thấy yếu lòng trước lòng tử tế biểu lộ rõ của chàng trai này. Đêm xuống, một cơn gió mát cất lên làm tung các làn bụi. Nàng mặc áo khoác và nhìn về khối nhà đối diện, nơi hình dáng cao lớn của Ari vừa xuất hiện khỏi các lều.
Hai người chào nhau trong im lặng. Kitty co thắt người lại trong chờ đợi sự va chạm mà nàng đã từng cảm thấy trong lần gặp gỡ ban đầu, ngước nhìn Ari một cách lạnh lùng. Nàng muốn làm cho Ari hiểu là nàng đến đây cốt để chấp nhận sự thách đố, và nhất quyết mình sẽ là người thắng.
Khối 57 chứa hầu hết là những người già và những người Do Thái chính thống. Hai hàng lều đầy ngẹt những người bẩn thỉu và rách rưới. Ben Ami cắt nghĩa tại vì thiếu nước nên không thể có việc rửa ráy gọi là tắm rửa. Ngoài ra thực phẩm cũng thiếu thốn. Những người bị lưu giữ suy yếu đi rõ rệt, vẻ ngơ ngác hay tức giận, họ đều như bị những bóng ma của một quá khứ ghê khiếp theo đuổi hành hạ.
Họ ngừng lại nơi cửa vào của một chiếc lều lớn được dùng làm giáo đường. Bất chợt, Kitty phân biệt được trong bóng tối một nhóm người cao tuổi đang lắc người và đọc kinh bằng tiếng hébreu. Nàng chú ý nhất tới một bậc trưởng lão, dơ bẩn một cách đặc biệt, đang lần đọc bằng một giọng the thé những lời than van.
David Ben Ami nằm lấy tay nàng kéo đi, nói nhỏ:
- Cụ già này cố nói với Thượng đế rằng ông bao giờ cũng sống một cuộc đời đạo hạnh, đã tuân theo các giáo điều, tôn trọng giáo pháp, theo đúng từng lời chỉ dạy giữa muôn ngàn thử thách khó khăn. Ông cầu xin Thượng đế cứu xét cho...
Ben Canaan ngắt lời:
- Những xác người này vẫn chưa hiểu rằng sự cứu rỗi của họ chỉ tới qua một đấng cứu thế bằng thép: một lưỡi lê gắn trên nòng súng.
Tay Ari xiết chặt, tàn bạo lấy cổ tay nàng:
- Cô có biết thế nào là một Sonderkommando không?
David phản đối:
- Đừng, anh Ari... - Sonderkommando là một người mà tụi quốc xã bắt phải làm việc ở bên trong các lò thiêu xác. Tôi mong sẽ có dịp cho cô thấy một trong những ông già của chúng tôi: Ông đã ở Buchewald và một ngày nọ chính ông đã phải lấy những xương tàn của các con ông từ lò thiêu xác để chở đến xưởng làm phân bón bằng xe bù-ệt. Thưa bà Fremont, bà có cái gì ghê hơn ở trong các nhà thương ngoại ô của bà?
Nàng thoáng buồn nôn. Rồi một cơn giận trỗi dậy làm cho nàng thắng được phút yếu đuối đó. Nàng nói, gây gổ:
- Tôi thấy quả thực ông không chịu lùi trước bất cứ cái gì. Tất cả các phương tiện đều tốt cho ông... -... Để chứng tỏ cho bà thấy những kẻ này đang tuyệt vọng đến thế nào? Rất đúng!
Đối diện nhau, hai người nhìn thẳng vào mắt nhau khiêu khích. Sau cùng Ari nhún vai nói:
- Bà muốn tới thăm khu nhi đồng hay bà muốn đi về ngay? - Tôi tới khu đó vì đằng nào tôi cũng tới đây rồi.
Họ tới khu nhi đồng bằng cách vượt cây cầu bắc qua hàng rào kẽm gai. Bệnh viện: Phòng người lao; phòng còi đẹt, đều đầy ngẹt người, khu bệnh tổng quát, nơi những người bệnh da vàng kinh niên lẫn lộn với các kẻ lở chốc không thể chữa nổi.
Một căn nhà dài khác các cửa đóng kín sau đó những thiếu niên ngơ ngác nhìn quanh quẩn không biết mỏi. Họ đi vào giữa hai dãy lều, David chua chát nói nhỏ:
- Khu trường học.
Cả một thế hệ trẻ đã cắp sách đi học trong các ghetto, các trại tập trung cùng những đổ nát hoang tàn. Nhiều đứa bé mồ côi không biết đến cả ý nghĩa của hai chữ "gia đình". Những chiếc đầu cạo trọc quá nhiều chấy rận, những khuôn mặt in những dấu vết của một nỗi sợ hãi không thể xóa nhòa, những thân thể như chĩu nặng vì những bộ đồ rách rưới. Và khắp mọi nơi chỉ thấy nụ cười khẩy im lìm của một tuổi thơ sống sót nhờ phép nhiệm mầu, nhờ mưu kế và gian xảo.
Ra khỏi khu, Kitty dừng lại nói:
- Tôi nhận thấy các ông có một ban nhân viên y tế hữu hạng, và phòng nhi đồng được tiếp tế đầy đủ.
Ari nói giọng đầy gây gổ:
- Không phải là do người Anh đâu. Họ chẳng cung cấp cái gì cả. Tất cả cái gì chúng tôi có đều do từ đồng bào của chúng tôi. - Vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là các ông không thiếu gì cả, dù đó là Trời hay Quỷ cho. Tôi tới đây chỉ vì tuân theo lương tâm, lương tâm của một công dân Hoa Kỳ. Bây giờ tôi an lòng rồi. Vậy tôi đã có thể ra về.
David bắt đầu nói:
- Xin bà Fremont hãy nghe...
Ari là:
- Vô ích David, chú phí nước bọt vô ích. Có những người chỉ trông thấy người Do Thái là đã thấy khó chịu rồi. Phiền chú đưa bà Fremont về.
David và Kitty bước đi. Nàng vội vã, lo lắng sớm rời khỏi trại, gặp lại Mark và quên tất cả chuyện đáng thương này. Đột nhiên nàng dừng lại. Trong chiếc lều rộng nàng vừa đi qua, đưa ra một chuỗi cười trẻ thơ, một âm thanh bất thường trong khung cảnh buồn thảm này, tò mò Kitty lắng tai nghe. Bên kia vách lều, một thiếu nữ đang đọc cao giọng. Nàng có giọng rất êm ái và dễ thương. David nói:
- Đó là một cô gái đặc biệt. Nàng đã làm được một công việc phi thường với những đứa bé đáng thương này.
Kitty tiến lên, vén tấm bạt che lối vào lều. Thiếu nữ đang quay lưng lại. Nàng đang ngồi trên một thùng gỗ. Lũ trẻ ngồi bao quanh. Hai mươi cặp mắt sáng nhìn ngắm Kitty và David với một sự tò mò ngay thẳng. Thiếu nữ đứng dậy tươi cười chào hai người.
Đột nhiên Kitty sững người, mắt nhìn không chớp như bị xúc động mạnh, không thốt một tiếng, nàng quay lưng bước ra. Đứng trước lều, nàng do dự như đang chịu một phân vân đau dớn. Sau cùng nàng thì thào.
- Thiếu nữ này... Tôi muốn nói chuyện với em đó... Nhưng một mình thôi...
Ari đã tiến lại chỗ hai người. Chàng nói với David:
- Đưa cô bé đó đến trường. Chúng tôi đợi trong phòng đầu.
Ari đưa Kitty vào căn buồng của một nhà tiền chế, đóng cửa lại và thấp ngọn đèn dầu. Kitty bất động, tái xanh, giữ im lặng. Ari nói thẳng:
- Cô gái này chắc làm bà nhớ tới một người nào.
Nàng vẫn tiếp tục im lặng. Chàng quay đầu lại, nhìn qua cửa sổ thấy David và thiếu nữ đang đi qua sân. Nhún vai, chàng bước ra ngoài.
Cửa lại mở ra. Chậm chạp và rụt rè, thiếu nữ bước vào. Kitty, tâm hồn căng thẳng, dò xét cái khuôn mặt vừa xa lạ vừa quen thuộc một cách kỳ dị ấy, cố chống lại ước muốn ôm cô gái vào trong tay. Nàng nói, ngập ngừng:
- Tôi là Katherine Fremont. Em có biết tiếng Anh không? - Dạ có, thưa bà.
Nàng dễ thương làm sao? Kitty không chống lại được thêm nữa. Bằng một cử chỉ vụng trộm, nàng vuốt má thiếu nữ rồi lại vội vã bỏ tay xuống.
- Tôi... tôi muốn... tôi vui sướng được quen biết với em. Tên em là gì? - Karen Hansen Clément. - Em bao nhiêu tuổi? - Thưa bà, đúng mười sáu tuổi. - Hãy gọi tôi là Kitty. Hình như em coi sóc trẻ con trong trại... - Em chỉ cố làm chúng giải khuây thôi. - Tôi thấy việc làm đó thật đẹp. Em hiểu chứ, tôi là điều dưỡng, tôi có ý định... Tôi sắp tới làm việc ở đây, trong trại này, khi ấy... Tôi muốn biết chuyện đời của em. Ước muốn đó không làm phiền em chứ? - Không hề gì đâu, thưa bà... Xin lỗi, thưa cô Kitty. Em gốc từ Đức, nói cho đúng hơn là từ Cologne. Nhưng em đã rời bỏ thành phố ấy từ lâu lắm rồi...
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:18:39 GMT -6
Phần I => Chương 11
Cologne năm 1938...
Quả thực đời là tươi đẹp khi ta là một cô gái bảy tuổi, bố là giáo sư nổi danh Johann Clement và ngày hội sắp đến làm sôi nổi toàn tỉnh Cologne! Cũng ghi thêm rằng ngoài ngày hội ra, đời sống cũng không hề thiếu quyến rũ. Nhất là những buổi đi chơi dọc bờ sông hay trong rừng với ba và maximilien, con chó thông minh nhất Cologne, mặc dù hình dáng khôi hài và tiếng sủa ngu không chịu được của nó. Đôi khi dẫn cả Hans theo: một đứa em trai nhỏ, không phải bao giờ cũng mang lại vui thích.
Còn má, má không muốn đi dạo nữa kể từ khi mang thai. Mong rằng đó sẽ là một đứa em gái: một đứa em trai đã là quá đủ cho một cô gái rồi.
Ba - giáo sư Johann Clement - là một nhân vật hết sức quan trọng. Ở Viện Đại học, mọi người đều bỏ mũ khi ông đi qua, mỉm cười nghiêng mình: "Kính chào Herr Doktor". Buổi tối, ở nhà, thường có nhiều giáo sư khác cùng các bà vợ và có đến từ mười lăm đến hai mươi sinh viên ngồi chật ních trong phòng làm việc của ba. Họ ca hát và bàn cãi, và nhất là họ uống rất nhiều bia. Đôi khi họ chỉ ra về vào lúc rạng đông. Đúng, quả thực là một đời sống hạnh phúc.
Dầu vậy, đó là một thời kỳ (những năm 1937-1938) xảy ra nhiều biến cố kỳ lạ mà một cô gái bé không thể hiểu rõ. Mọi người sợ nói to, họ thì thào... nhất là ở Đại học. Nhưng dĩ nhiên là vào lúc có ngày hội hè, ít ai nghĩ đến những chuyện đó. Nhất là một cô gái bảy tuổi.
Nhưng giáo sư Clement lại nghĩ rất nhiều tới các biến cố đó. Bằng cách duy trì sự sáng suốt của ông giữa cơn điên cuồng chung. Nước Đức chỉ còn là một cơn lốc vĩ đại những xúc động nguyên thủy, những căm thù dữ dội, những cơn nhảy dựng lên điên cuồng. Trong cao trào dâng lên điên cuồng tập thể này, chỉ còn tồn tại dăm ba hải đảo khá cao khá kín để tránh những đợt sóng ngầm dữ tợn. Một trong những ốc đảo đó, Johann Clement nghĩ, hẳn phải là các Đại học.
Hiển nhiên là ông biết sự bài Do Thái không hề tách rời khỏi lịch sử nhân loại, nó là một thành phần của cuộc đời, đến độ gần như một sự thực của khoa học. Duy chỉ có mức độ bạo tàn và hình thái bộc lộ là thay đổi tùy theo thế kỷ thôi. Tại nước Đức dẫu sao những người Do Thái, kể từ khi có các tư tưởng phát xuất từ Cách mạng Pháp thâm nhập cũng được hưởng một vị trí tốt đẹp hơn rất nhiều so với các đồng bào họ tại các nơi khác ở Đông Âu. Đến nỗi rằng đa số những người Đức Do Thái quyết liệt cảm thấy mình là Đức y hệt như các đồng bào công giáo và tin lành. Johann Clement chắc sẽ nhún vai nếu mọi người muốn ông khước từ đi quốc tịch của ông.
Bây giờ nếu có một đợt tai họa cũ kỹ này tràn ngập toàn thể xứ sở, ông cũng cho rằng đó không phải là một lý do để sợ điên lên và chạy trốn. Ngoài ra, ông tin tưởng nhất quyết rằng người dân Đức, được hưởng một di sản văn hóa rộng lớn, chắc chắn rồi sẽ loại bỏ được các tay chủ mới, những con người bất bình thường, mà trong những hoàn cảnh hết sức đặc biệt đã cho phép lên cầm quyền nhất thời.
Tin tưởng này vốn tồn tại với cả cảnh tượng có từ năm năm nay, các chưởng đàn áp phóng liên tiếp vào cộng đồng Do Thái: sau một bài diễn văn nảy lửa, một loạt luận cứ kết án xấu xa xuất hiện trên báo chí và sách vở truyền đơn, sau vụ tẩy chay các cửa hàng, xí nghiệp Do Thái, các y sĩ và trạng sư Do Thái, còn vụ đánh đập ngoài đường phố, và sau sự khủng khiếp do bọn Sơ-mi-Nâu 1 gây ra, đó là các trại tập trung.
Cơ quan mật vụ Gestapo, đoàn SS, các cơ quan được gọi là An Ninh, Phản Tình Báo, Bảo An. Dầu vậy, giáo sư Clement, cũng như hầu hết những người Do Thái Đức, vẫn cứ tin tưởng là mình được an toàn. Xét cho cùng, ông lo lắng điều gì mới được? Ông tự nhận mình là người Đức chính cống, người Đức một trăm phần trăm sao!
Ngày chủ nhật hôm đó, Karen cảm thấy nàng sẽ chẳng bao giờ quên được. Toàn thể gia đình tụ họp trong căn nhà nhỏ của bà ở Bonn. Ngay cả chú Ingo cũng đến, dù chú ở rất xa, tận Bá Linh. Mọi người bảo trẻ con ra vườn chơi, còn người lớn đóng kín cửa ở trong phòng khách.
Trên đường về, ba và má không hề môi nói tiếng nào. Vừa về đến nhà, hai người đã bắt Hans và Karen lên giường. Nhưng cô bé, tò mò về những chuyện bàn luận bí mật đã có, ngồi dậy, đi chân không lẻn đến tận phòng bố mẹ. Vặn nắm cửa cẩn thận từng li một, nàng mở hé được cánh cửa. Qua khe, nàng nhìn và nghe được tất cả.
Má có vẻ bối rối dữ dội.
- Johann anh, em xin anh, phải nghĩ đến chuyện ra đi. Chúng ta cũng sẽ bị, không thoát được. Chưa chi bây giờ em đã thấy sợ đi ra đường cùng các con.
Ba, ba vẫn bình tĩnh như thường lệ.
- Chắc tại em có mang nên thần kinh em bị căng thẳng... Làm em nghĩ rằng tình hình mỗi lúc trầm trọng hơn. - Em nghe anh nói hoài từ năm năm nay rồi: Tình hình rồi sẽ khá hơn. Vậy mà mọi sự mỗi ngày một tệ hơn. - Ngày nào anh còn ở Đại học thì... - Thôi, em xin anh! Anh đừng có tự giam mình trong tháp ngà nữa! Anh mở mắt ra coi. Chúng ta không còn một người bạn, các sinh viên không còn đến nhà. Mọi người quá sợ hãi đến độ không dám nói với chúng ta nữa!
Johann Clement châm cối thuốc và thở ra.
- Em nghe đây, Myriam. Ba anh và trước đó là ông nội anh đã giảng dạy ở đây, Cologne này. Căn nhà này, với tất cả những người ở đây, đồ đạt ở đây, là tất cả đời anh. Đôi lúc đã có khi anh tự hỏi không biết anh có bắt em và các con phải chịu một thử thách quá nặng nhọc hay không... Nhưng anh không sao quyết định đi tị nạn được. Có một cái gì ở trong đây - Ông vỗ ngực, chỗ trái tim - ngăn cản anh ra đi. Hãy kiên nhẫn, Myriam, hãy kiên nhẫn một chút... Mọi sự tồi tệ đó sẽ qua đi... Anh biết là nó sẽ qua đi...
Ngày 19 tháng 11.1938
200 nhà nguyện Do Thái bị đốt
8.000 cửa hàng Do Thái bị cướp và phá tan tành.
50 người Do Thái bị giết
3.000 người Do Thái bị đánh đập
20.000 người Do Thái bị bắt giam.
Kể từ ngày hôm nay, cấm:
Người Do Thái không được làm bất cứ nghề gì kể cả buôn bán.
Cấm trẻ con Do Thái không được học trường công, vào vườn hoa, sân thể dục thể thao, bể bơi.
Toàn thể dân Do Thái ở Đức bị phạt chung một số tiền là một trăm năm mươi triệu đô la.
Tất cả những người Do Thái bắt buộc phải đeo một băng vải bao cánh tay màu vàng có hình ngôi sao David.
Một tuần sau Karen vừa đi ra đường chơi đã chạy vội về nhà, mặt đỏ bừng, hai tay úp lên tai còn vang dội những tiếng la: "Đồ Do Thái! Đồ Do Thái bẩn thỉu!".
Đối với một người có một niềm tin sâu xa, sự sụp đổ đột ngột tan tành của niềm tin ấy quả là một thảm họa ghê khiếp. Càng ghê khiếp hơn nữa cho Johann Clement bởi vì đã ngoan cố tin tưởng đến cùng, ông đã đưa những người thân vào tình trạng lâm nguy đến tính mệnh. Bây giờ, kinh hãi với sự khám phá ra vực thẳm mở ra dưới chân, ông lại chỉ nghĩ đến chạy trốn.
Trong khoảng thời gian vài giờ, sự bình tĩnh thản nhiên của ông đã biến mất, thay thế bằng một sợ hãi xuất hiện thường trực. Mỗi khi có người gõ cửa, điện thoại reo, tiếng chân bước nặng nề lên cầu thang, một nỗi khiếp sợ không đâu lại xiết chặt lấy ông.
Vì Myriam có thể sinh bất cứ lúc nào, ông không thể để nàng phải chịu nỗi vất vả cực nhọc của một cuộc hành trình dài. Vì thế ông quyết định gởi vợ cùng các con cái sang Pháp, tạm trú tại nhà một đồng nghiệp ở Paris. Một khi nàng đã sinh xong và phục hồi sức khỏe, nàng sẽ tiếp tục cuộc hành trình sang Mỹ.
Sau đó, một khi gia đình đã an toàn, ông sẽ tổ chức cuộc ra đi của chính ông. Ông biết rằng trong các thành phố chính của Đức có rất nhiều hệ thống bí mật đặc biệt lo vụ tổ chức đào thoát cho các nhà thông thái học giả. Mọi người còn chỉ cho ông cả một địa chỉ ở Bá Linh nữa: một nhóm người Do Thái xứ Palestine, được gọi là Mossad Aliya Bet.
Hành lý đã chuẩn bị xong. Myriam và các con sẽ lên xe hỏa vào sáng ngày mai. Trong buồng, hai vợ chồng ngồi trên giường im lặng nhìn nhau, hết sức cầu mong hy vọng rằng vào phút chót, một phép mầu nào đó sẽ mang lại cho họ một triển hạn sau cùng.
Nhưng phép mầu không thấy đâu, chỉ thấy một thảm họa. Vào nửa đêm, Myriam bắt đầu chuyển dạ. Vì những người Do Thái không được phép vào bệnh viện, nàng phải sinh tại nhà, sinh khó. Đứa bé sơ sinh là một bé trai rất xinh đẹp. Nhưng người mẹ, kiệt sức, cần phải nhiều tuần lễ dưỡng sức nữa.
Johann Clement cuống lên. Ông trông thấy gia đình bị kẹt cứng không thể thoát nổi cuộc thảm sát đang đe dọa xảy tới. Nhảy vội lên chuyến tàu đi Bá Linh, ông nhảy bổ tới trụ sở của Mossad.
Một căn nhà đồ sộ sang trọng ở một đường yên tĩnh trong khu cư trú sang trọng của thành phố Bá Linh. Trước cửa, trong các cầu thang, trên các hành lang lên lầu, một đám đông đàn ông đàn bà ngơ ngác hốt hoảng, đi tìm một cách tuyệt vọng một lối thoát khả dĩ ra khỏi nước Đức, Clement phải nối đuôi xếp hàng. Tận hai giờ sáng, ông được đưa vào gặp một thanh niên xứ Palestine rất trẻ, vẻ mệt nhoài hiện rõ. Trên mặt bàn bằng gỗ trắng, một tấm bảng nhỏ đề tên: Ari Ben Canaan.
Clement chưa kịp trình bày rõ trường hợp mình, Ben Canaan đã ngắt lời ngay:
- Thưa giáo sư, được rồi: chúng tôi sẽ thu xếp việc chạy loạn của giáo sư. Xin giáo sư hãy trở về nhà và chờ đợi: Chúng tôi sẽ thông báo sau. Chúng tôi còn phải tìm cách kiếm thông hành, một chiếu khán cho giáo sư đã... Chúng tôi phải hối lộ những khoản tiền cho những người chấp nhận nhắm mắt bỏ qua cho chúng ta... Vậy phải từ tám đến mười ngày...
Clement cắt ngang:
- Tôi không đến đây để lo cho tôi. Tôi chưa thể ra đi trong lúc này, cả vợ tôi cũng thế. Nhưng chúng tôi có ba cháu. Chính cần đưa ba cháu đi.
Ben Canaan nhắc lại, chua chát:
- Cần đưa ba cháu đi! Giáo sư không hiểu rõ tình hình. Giáo sư, với tư cách giáo sư Đại học, giáo sư là nhân vật quan trọng, nên tôi mới có thể giúp. Tôi không thể giúp gì được cho các em cả. - Phải giúp các cháu đi! Tôi nói với anh là phải giúp cho các em đi!
Sốt ruột, người thanh niên Palestine đập tay xuống bàn:
- Ngoài sức chịu đựng của tôi rồi đó! Giáo sư đã thấy đám đông đang xâm chiếm căn nhà này rồi chứ?.. Tất cả những người đang muốn chạy trốn khỏi nước Đức ấy? Từ năm năm nay chúng tôi cầu xin van lạy các ông hãy ra đi cho. Các ông không chịu nghe gì hết... Các ông cứ nói: "Chúng tôi là dân Đức, dân Đức một trăm phần trăm... Không bao giờ người ta làm hại chúng tôi hết". Bây giờ các ông đến khóc ở đây, nhưng bây giờ đã trễ quá mất rồi. Ngay cho dù các ông có ra thoát khỏi nước Đức, người Anh cũng không để cho các ông vào Palestine. Các ông muốn tôi làm cái gì bây giờ?
Clement không biết trả lời sao. Ben Canaan, sau khi trút được cơn giận, cầm một hồ sơ lật ra xem. Chàng cắt nghĩa:
- Tôi đã có được chiếu khán xuất ngoại cho bốn trăm trẻ em. Và chúng tôi đã tìm được ở Đan Mạch các gia đình ưng thuận đón nhận các em đó. Một chuyến xe hỏa đặc biệt đã được giữ trước. Tôi sẵn lòng giành một chỗ cho các cháu... - Nhưng tôi có tới ba đứa con... - Còn tôi, tôi có tới mười ngàn đứa phải lo. Nhưng tôi lại không có các thông hành tương xứng với số đó, và chắc chắn là với bàn tay không này, tôi không thể đánh đắm hạm đội Anh quốc được. Nói rõ sự thực ra như thế rồi, tôi xin phép giáo sư cho tôi khuyến cáo như sau: giáo sư nên trao phó cho chúng tôi cháu lớn nhất trai hay gái đều được cả, bởi vì các em lớn biết xoay xở hơn một em bé nhiều. Chuyến tàu đặc biệt sẽ rời Bá Linh vào chiều mai, tại ga Potsdam.
Trong một góc bến ở ga, Karen, mắt chĩu nặng mệt nhọc, đang ru con búp bê nàng thích nhất. Ông Clement quỳ xuong, dịu dàng nói với nàng:
- Con sắp làm một chuyến đi chơi xa đầy thú vị. Thú vị hơn chuyến đi chơi khu Rừng Đen năm ngoái nhiều.
Nàng hít hít mùi thuốc lá loại vàng bốc từ áo ngoài của cha ra - một mùi nàng rất thích. Nàng phản đối:
- Nhưng mà con đâu có muốn đi. Con muốn ở lại với ba và với má, với Hans, với bê-bê mới ra đời... - Karen, đừng thế. Con phải can đảm lên... chắc hẳn là con gái lớn cưng của ba không có khóc chứ. - Con không khóc đâu ba... con hứa với ba như vậy... nhưng ba ơi.. chắc con sẽ gặp lại ba ngay chứ phải không? - Ba má sẽ cố... ngay khi nào có thể được...
Một người đàn bà lại gần, lay nhẹ tay ông:
- Rất tiếc thưa ông... sắp đến giờ khởi hành. - Cám ơn bà. Tôi sẽ đưa cháu lên xe. - Thưa ông rất tiếc là không được. Các bậc cha mẹ không được phép lên các toa.
Clement gật đầu, ngăn chặn một tiếng nấc đang dâng lên nghẹn nơi cổ. Đột nhiên ông ôm chầm lấy Karen rồi buông ra ngay, lùi lại. Bằng một cử động máy móc, ông lấy pipe ra đưa lên miệng, răng cắn chặt lấy cán pipe như muốn cắn bể. Karen đặt bàn tay mũn mĩm vào tay người đàn bà, sắp rời xa. Đột nhiên nàng quay lại đưa cho bố con búp bê.
- Ba giữ lấy nó đi: Nó sẽ làm ba nhớ đến con...
Dọc theo đoàn tàu, các cha mẹ lo âu, tụ tập thành đám đông dầy dặc, mắt hướng nhìn về các cửa kính đàng sau đó các đứa trẻ đang kêu lên những lời từ giã, hôn gởi, vẫy tay. Johann Clement nước mắt dâng dâng, cố tìm hình dáng con mình.
Tàu chuyển bánh. Các cha mẹ chạy dọc theo xe, cố gắng giữ thêm vài giây nữa hình ảnh một nụ cười nhăn nhúm, hét lên những lời giã từ tan biến một cách vô ích trong tiếng động ồn ào và tiếng gió.
Johaan Clement đứng sững, tách biệt với đám đông khi chiếc toa tàu sau chót đi qua. Đằng sau khuôn kính, Karen trang trọng gởi tới ông nụ hôn sau chót. Nàng đoán được lần chia ly này là vĩnh viễn luôn sao?
Chờ tới tận khi một khúc quanh che khuất đoàn xe, ông mới ra về. Khi đi ra cửa ga, mắt ông hạ xuống, nhìn thấy con búp bê ông vẫn cầm ở tay. Âu yếm, ông bỏ nó vào túi áo khoác ngoài, thì thào:
- Vĩnh biệt con yêu dấu của ba.
-------------------------------- 1 Sơ mi nâu: các đảng viên Quốc Xã mặc sơ-mi màu nâu.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:28:25 GMT -6
Phần I => Chương 12
Aage và Meta Hansen ở một ngôi nhà xinh xắn trong vùng ngoại ô Aalborg. Hai người có tất cả những gì cần thiết để tiếp nhận một cô gái bé, nhất là họ lại không có con. Họ nhiều tuổi hơn vợ chồng Clement: tóc Aage đã hoa râm và Meta không có chút duyên dáng tươi trẻ và linh hoạt nào của Myriam. Tuy vậy họ có vẻ tốt và nồng hậu đến nỗi Karen cảm thấy những lo sợ của nàng tiêu tan. Nàng không hề phản đối khi Aage ôm nàng lên, bồng ra xe.
Đến tiền sảnh, Aage và Meta đi chậm lại để cho Karen đi trước một mình đến tận cửa đang mở sẵn: cửa dẫn vào buồng hai người đã chuẩn bị sẵn cho nàng. Cô gái bé lưỡng lự, dừng lại trên ngưỡng cửa: căn phòng vui tươi, sạch sẽ xinh xắn, đầy búp bê, đồ chơi, sách băng hình, đĩa hát trẻ con - tất cả những gì một cô gái bé có thể mơ ước. Nàng vẫn còn phân vân khi nhận thấy trên giường một khối lông nâu tròn vo đang nhúc nhích: một con chó nhỏ dễ thương. Nàng quỳ xuống vuốt ve con chó và cảm thấy một cái lưỡi đang liếm mũi mình, một cái mũi ươn ướt áp vào má mình. Khi ấy, nàng quay lại cười với hai vợ chồng Hansen đang cảm động quan sát nàng.
Mặc dầu vậy... Những đêm đầu tiên sống xa ba và má vẫn rất là khổ sở. Nhưng may thay Meta Hansen hiểu rõ nỗi buồn của cô bé gái. Bà ôm Karen vào giường, vòng tay ôm nàng, nói hết sức dịu dàng cho tới khi cơn buồn ngủ làm nguôi những tiếng nức nở của nàng.
Trong những ngày đầu, Karen phải cố gắng mới ăn được. Trong nhiều giờ liền, nàng ở lì trong phòng nhìn các đồ chơi đẹp mà không buồn đụng đến. Nguồn an ủi tốt nhất là con chó nhỏ nàng đã đặt tên là Maximilien như là con chó nàng đã có ở Cologne. Tuy vậy, sau khoảng một tuần lễ, vì lòng tốt của hai ông bà Hansen và sự quyến rũ của một vũ trụ mới mẻ, nỗi buồn của nàng tan dần.
Nàng sớm cảm thấy sự quyến luyến thành thật với ông Aage Hansen thích hút pipe và đi dạo chơi lâu, y hệt như ba. Ông làm luật sư, chắc chắn ông là người rất quan trọng vì tất cả mọi người đều chào ông. Dĩ nhiên là không thể quan trọng bằng giáo sư Johann Clement rồi, những chuyện đó cũng không lấy gì làm lạ... Vì ba quả thực là nhân vật đặc biệt hiếm có...
Bây giờ nàng nhận theo bà Meta đi chợ, đi mua hàng. Aalbord có vẻ là một thành phố thích thú đối với nàng, dầu nhỏ hơn thành phố Cologne nhiều: cũng có một con sông, không rộng bằng sông Rhin nhưng nước trong, vui vẻ, hai bên bờ có nhiều cây đẹp. Karen nghĩ rằng nàng sẽ thích xứ Đan Mạch này.
Một buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, ông Aage để nàng ngồi vào một ghế bành gần lò sưởi rồi nói:
- Cháu đã sống ở đây ba tuần lễ rồi, bây giờ đã đến lúc hai bác có chuyện quan trọng để nói cùng cháu.
Hai tay chắp sau lưng đi đi lại lại trong phòng, ông bắt đầu nói với giọng truyền cảm dễ mến đến nỗi cô gái bé hiểu hết. Ông cắt nghĩa cho nàng hiểu là nước Đức đang trải qua một thời kỳ khổ sở và bất trắc đến nỗi ba và má thích nàng ở Đan Mạch hơn trong lúc này. Cả ông lẫn Meta đều hiểu rằng cả hai người không bao giờ thay thế cho ba má, nhưng vì Thượng đế đã không ban cho họ nỗi vui về con cái, nên họ rất sung sướng được có Karen tại nhà và mong muốn Karen sẽ tìm thấy hạnh phúc dưới mái nhà này.
Karen tán đồng một cách nghiêm trang:
- Con bằng lòng ở đây với hai bác. Con muốn ở lại đây suốt trong thời gian cần thiết. - Khá lắm, cháu. Bây giờ, hai bác như mượn cháu của ba má và vì hai bác rất yêu cháu, cháu có nhận mượn tên họ của hai bác không?
Karen không trả lời ngay. Nàng mơ hồ cảm thấy ông Aage chưa nói hết các lý do. Lời yêu cầu của ông có thứ âm hưởng giống như cuộc nói chuyện giữa các người lớn - thí dụ như các buổi nói chuyện giữa ba và má sau cánh cửa buồng đóng kín. Sau cùng nàng nói:
- Nếu hai bác muốn thế, cháu xin vâng. - Tốt lắm! Kể từ giờ tên cháu là Karen Hansen...
Rồi như mọi tối, hai người cầm tay nàng, ông Aage bên phải bà Meta bên trái, đưa nàng vào tận buồng. Vừa nằm xuống kéo chăn lên đắp, nàng cầu nguyện:
"... Con cầu xin Chúa che chở cho ba má, cho em... Hans và em bé... Con cũng xin ngài cho ông bà Hansen, cho cả hai chú chó Maximillen, chú ở Cologne và chú ở đây..." - Chúc cháu ngủ yên. - Chúc hai bác ngủ yên giấc... Nhưng bác Aage ơi người Đan Mạch có ghét người Do Thái như người Đức không bác?
"Thân gởi ông bà Clement Chúng tôi không sao tin được là Karen đã đến ở với chúng tôi đã được sáu tuần rồi. Cháu thật phi thường: ở trường cháu học rất khá, học tiếng Đan Mạch nhanh lạ thường. Chúng tôi cũng phải nói thêm là Karen không thiếu tiếp xúc thực tế: cháu đã có nhiều bạn gái lắm rồi. Theo lời khuyên của nha sĩ, chúng tôi đã cho cháu nhổ một cái răng cửa đang ngăn cản chiếc thứ hai sắp mọc. Mọi sự đã xong xuôi. Chúng tôi đang tính cho cháu học nhạc và vũ. Mỗi tối khi cháu cầu nguyện..."
Karen viết thêm vào bức thư hai giòng, bằng chữ in hoa: "CON RẤT NHỚ BA, MÁ, HANS MAXIMILIEN VÀ EM BÉ..."
Mùa đông đến, Karen đi trượt băng trên mặt sông nước đông cứng hay trượt tuyết trên các ngọn đồi tuyết phủ và khi về nhà nàng ngồi trước lò sưởi lửa cháy bừng bừng, đưa hai bàn chân giá lạnh cho Aage xoa bóp mạnh mẽ nhưng âu yếm.
Rồi mùa xuân đến với hoa nở đầy và mùa hè với những ngày nghỉ hè trên các bãi biển dài vô tận của Bắc hải, những chuyến đi chơi bằng thuyền buồm, chạy chơi trong các cồn cát. Đời sống với ông bà Hansen quả thật thích thú, tràn ngập vui sướng.
Một ngày mùa thu, Aage vừa tới khi Karen đã đi học vũ, ông cho mời Meta vào phòng làm việc. Ông có vẻ bối rối nhiều:
- Tôi vừa nhận được tin của cơ quan Hồng thập tự cho biết là toàn thể gia đình Clement đã biến mất. Như bị bôi nhòa, không có dấu vết gì. Không thể nào xin ở nhà cầm quyền Đức bất cứ một tin tức nào. Tôi đã tìm hết cách thử rồi: Không được trả lời một câu. Theo ý tôi, điều này chỉ có thể có nghĩa là gia đình Clement đã bị đưa vào trại tập trung... Hay bị sát hại rồi.
Meta nói nhỏ:
- Trời ơi!
Họ không sao quyết định nói rõ sự thực đau lòng ấy cho Karen biết được. Về phía Karen, hiển nhiên là nàng cũng lo lắng vì không còn nhận được thư từ Đức tới nữa, nhưng cũng không đủ can đảm để hỏi. Dù thế nào, nàng cũng hoàn toàn tin cậy ở hai ông bà Hansen. Và tự bản năng, nàng hiểu rằng nếu cha mẹ nuôi không nhắc đến gia đình mình nữa, thì hẳn hai vị đó phải có lý do chính đáng.
Dần dần một hiện tượng lạ xảy ra: Karen thấy mỗi khi nhớ đến cha mẹ và các em, hình ảnh những người này mỗi ngày một mờ dần. Khi một đứa trẻ tám tuổi phải xa cách cha mẹ lâu, nó cảm thấy thêm khó khăn khi nhớ lại họ. Đôi khi, Karen tự trách cứ về trí nhớ suy kém này, nhưng sau chừng một năm, nàng kể như không còn nhớ đến thời kỳ mình mang tên Clement và sống ở nước Đức.
Chiều Noel 1939, nàng kiêu hãnh đưa cho Aage và Meta món quà nàng đã làm lấy trong lớp. Bên ngoài gói quà, một tấm giấy đề:
Tặng BA và MÁ, con gái của ba má KAREN
1940, ngày 8 tháng tư
Một đêm đầy cạm bẫy, một bình minh rét mướt. Một tiếng giầy ủng thê thảm vang trên đường, hàng chục hàng trăm tàu đổ bộ chở đầy quân sĩ mặc quân phục xanh xám, bỏ neo trong các fjord 1 các vũng. Quân lực Đức tiến một cách chính xác như người máy, xâm chiếm xứ Đan Mạch.
Karen cùng các bạn học dí mũi vào cửa kính nhìn phi cơ bay đầy trời và kế tiếp nhau đáp xuống phi trường Aalborg. Dưới đường, mọi người sợ hãi chạy tứ tung.
"Đây là đài phát thành Copenhagne: Sáng này vào lúc 4g15, quân lực Đức đã vượt biên thùy của chúng ta ở Saed và ở Kzussa. Xin đồng bào hãy tiếp tục chờ nghe..."
Và những người dân Đan Mạch, sững sờ, đã tiếp tục chờ nghe một cách tuyệt vọng. Sau cùng xướng ngôn viên đọc bản tuyên ngôn của đức vua Christian: nước Đan Mạch đầu hàng, không bắn một phát súng. Sự thất trận nhanh chóng của Ba Lan cùng Hòa Lan, cuộc rút lui cấp tốc của đạo quân Anh ở Dunkerque cho biết quá rõ là mọi kháng cự đều vô ích.
Meta Hansen chạy đến kiếm Karen ở trường. Rồi một va-li đã chuẩn bị sẵn, bà định chạy trốn cùng nàng đến một trong những hòn đảo trong eo biển Đan Mạch. Aage trấn tĩnh bà, thuyết phục hãy cứ ở yên đã, ít nhất là trong lúc này. Quân Đức cần nhiều tuần lễ, có lẽ nhiều tháng nữa, mới tổ chức xong các cơ cấu hành chánh.
Ngay từ ngày hôm sau, chính quyền và quân lực Đức hứa hẹn rất nhiều. Nào là người Đan Mạch cũng là giòng Azyen như chính người Đức vậy - như những người anh em vậy - và Đệ Tam Reich chiếm đóng xứ này cốt chỉ để bảo vệ, chống lại cộng sản mà thôi. Dĩ nhiên Đan Mạch tiếp tục điều khiển mọi công việc nội trị của mình, cả vương quốc nhỏ bé này. Nói tóm lại, được trở thành một "quốc gia được bảo hộ kiểu mẫu".
Dân Đan Mạch yên tâm. Xúc động đầu tiên qua đi, một đời sống bề ngoài bình thường lại tiếp tục. Đức vua Christian, được toàn dân kính mến, lại tiếp tục dạo chơi hàng ngày bằng ngựa, mỗi sáng rời điện Amalienborg để băng qua thành phố Copenhague tươi tốt. Dầu sao những thần dân của ông cũng không lầm lẫn: thái độ kiêu kỳ, gần như khinh bỉ của đức vua đối với những người Đức lưu thông trong các đường phố, là có một ý nghĩa chính xác. Rất nhanh, kháng chiến tích cực sớm trở thành khẩu hiệu quốc gia.
Tám tháng sau, vào đầu năm 1941 sự căng thẳng giữa những kẻ chiếm đóng và dân chúng của "xứ bảo hộ kiểu mẫu" đã lên tới mức độ phải là điếc và mù mới không thấy. Nhà vua tiếp tục làm những kẻ chiếm đóng khó chịu, còn dân chúng cố coi họ như không có, hay còn chế riễu cả vẻ hào hùng đẹp đẽ bề ngoài của họ nữa. Các binh sĩ và sĩ quan của Wehrmacht 2 dù có cố trình diễn chăng nữa, cũng chỉ gây được những tiếng cười cố nén đi khi họ đi qua. Và người dân Đan Mạch càng cười, người Đức càng tức giận.
Dĩ nhiên là dân Đan Mạch sớm mất các ảo tưởng. Kế hoạch tổ chức "Tân Âu châu" đã ấn định một vị trí chính xác cho các động cơ sản xuất trong các xưởng Đan Mạch, ấn định bơ và trứng trong các trại, đến tận cả vấn đề lãnh thổ nữa: Đối với chính quyền Hitler, quốc gia này chỉ là một bánh xe nữa trong guồng máy chiến tranh vĩ đại của Đức. Một mặt khác, dân tộc anh em Na Uy đã nêu một gương rất đẹp, dân Đan Mạch ngay từ mùa hè 1941 đã thành lập một phong trào kháng chiến nhỏ nhưng cương quyết và có hiệu năng.
Ngày nào dân Đan Mạch còn nhận hợp tác, Herr Doktor Best toàn quyền của "xứ bảo hộ kiểu mẫu", còn chủ trương một chính sách ôn hòa. So sánh với các quốc gia bị chiếm đóng khác, các biện pháp áp dụng cho dân Đan Mạch có vẻ chịu đựng được. Trước sự ngạc nhiên tức giận của người Đức, sự khoan dung tương đối này không hề ngăn cản sự phát triển các hệ thống bí mật. Các đoàn viên của các hệ thống này chắc chắn là không hy vọng họ tìm được một cách khác để đánh địch thủ là cách phá hoại. Theo một tỷ lệ mỗi ngày một tăng dần.
Tuy vậy Herr Doktor không hề hốt hoảng. Khôn ngoan, tích cực, ông cho tìm kiếm trong các dân Đan Mạch những người cảm tình viên của chủ nghĩa quốc xã, tổ chức họ thành các đơn vị bán quân sự. Những Hipos này (viết tắt của các chữ Hilfs-Polizei nghĩa là phụ tá cảnh sát), nhờ sự che chở của các quan thầy, đã sớm trở thành cả một tai họa - những toán khủng bố, chuyên môn trong việc trả thù các đồng bào của mình. Mỗi một lần có phá hoại, chúng trả đũa bằng "một cuộc tảo thành phục thù" giống như những vụ sách nhiễu tàn tệ nhất của bọn reire thời Trung Cổ.
Tuy vậy ở Aalborg đời sống tiếp tục hầu như trong quá khứ, rất yên tĩnh, của một tỉnh nhỏ. Ngoại trừ một vài đêm người ta nghe thấy một tiếng nổ gầm nơi xa hay tiếng hục hặc của các vũ khí tự động, đời sống của dân cư trong tỉnh hình như thoát khỏi sự xáo động chung.
Karen, từ một cô bé, đã trở thành một thiếu nữ. Giáo sư dạy vũ hết lòng khuyến cáo ông bà Hansen nên ghi tên cho nàng dự kỳ thi nhập học Vũ bộ Hoàng gia ở thủ đô Copenhague. Giáo sư nói Karen rất có khiếu, biết diễn tả qua điệu vũ một cảm xúc vượt quá tuổi của nàng rất xa.
Vào đầu năm 1943, Aage Hansen bắt đầu lo ngại. Cuộc chiến đấu giữa một phong trào kháng chiến mỗi ngày một mạnh một tích cực và một sự đàn áp mỗi ngày một tàn bạo hơn lên. Vậy mà ở Aalborg, tất cả mọi người đều biết nguồn gốc đích thực của Karen. Và rất có thể là bọn Hipos đã báo cho quân Đức biết. Nếu, cho tới giờ, chưa có một biện pháp nào đối với các dân Do Thái Đan Mạch, thì sự "thiếu sót" này chắc sắp được bổ khuyết. Bị thúc đẩy bởi niềm đe dọa này, hai vợ chồng Hansen quyết định bán căn nhà ở Aaiborg để dọn đến ở Copenhague, thành phố đông một triệu dân, hy vọng sẽ ít có ai chú ý tới họ.
Vào cuối mùa hè, mọi sự thu xếp xong xuôi. Họ có cái may mắn tìm được một căn nhà dễ thương, trong một con lộ lớn chạy dọc theo một chiếc hồ nhân tạo. Aage kiếm được địa vị khá rất dễ dàng trong một văn phòng chưởng khế. Và nhất là họ đã thành công trong việc kiếm được cho Karen một loạt giấy tờ giả đầy đủ chứng minh rằng nàng là con hai người.
Đối với Karen, được đi Copenhague, quả thật là một chuyến du hành đến xứ thần tiên. Từ bức tượng "cô gái nhân ngư" dễ thương ở cửa hải cảng đến những nhà hàng đẹp đẽ ở đường Langeline, đại lộ chính của thủ đô, từ những khu vườn huy hoàng của Hoàng Thành đến các sông đào ngoằn nghòe, nước yên lặng phản chiếu những đầu hổ chạm trổ của các mặt tiền cao và hẹp của các nhà kiểu Phục hưng, từ đoàn xe đạp đi tiếp nối đến sự náo nhiệt của Chợ Cá, tất cả hợp thành một cảnh sắc thần tiên luôn luôn đổi mới. Chưa kể đến Tivoli, công viên của huyền thoại với các hí viện với cây cỏ xanh rì, các nhà hàng ăn, các thảm hoa muôn màu dài hàng cây số, các sân chơi, các ban nhạc và nhiều thác nước chảy vui tai. Đôi khi Karen tự hỏi tại sao nàng lại có thể sống ở một nơi nào khác Copenhague!
Dù thế, trong năm thứ ba bị ngoại xâm chiếm đóng, thành phố Copenhague khá giữ được là một đảo bình yên và hạnh phúc. Đêm căng thẳng, tiếng nổ, đám cháy, tiếng súng liên thanh cho thấy sự gay go của cuộc chiến giữa các toán đặc công của kháng chiến và các đơn vị đàn áp. Tình hình mỗi ngày thêm. Sau cùng, vào sáng sớm ngày 29 tháng 8 năm 1973, một loạt tiếng nổ lớn vang rền tới đảo Seeland, thủ đô Đan Mạch. Một giờ sau toàn thể dân chúng Copenhague đều hay tin: Hạm đội Đan Mạch vừa tự phá hủy trong Đại và Tiểu Belts, các eo nối liền biển Ban-tích với Bắc Hải, tự phá hủy để làm cản đường giao thông của địch.
Điên lên vì tức giận, quân Đức bao vây các dinh thự chính phủ và hoàng cung. Sau một trận giao tranh ngắn ngủi và dữ dội, vệ binh Đan Mạch phải đầu hàng. Rồi, như một đám mây bao phủ các tướng lãnh Wehmacht, đại tá S.S. cùng ủy viên của Gestapo đổ ào vào xứ để tổ chức lại quốc gia này "cho đúng đường lối". Sự đình chỉ họp thường lệ của quốc hội đánh dấu sự cáo chung của nền "bảo hộ kiểu mẫu".
Phong trào kháng chiến trả đũa bằng cách tăng cường phá hoại. Xưởng vũ khí, nhà máy, kho đạn nổ tứ tung. Quân Đức bắt đầu nóng giận: hoạt động của các "quân khủng bố" làm tê liệt một cách nghiêm trọng đến tiềm năng quân sự của toàn vương quốc.
Một buổi sáng kia chính quyền Đức ra lệnh tất cả những người Do Thái kể từ giờ phải đeo một băng vải vàng có hình ngôi sao David quanh cánh tay. Ngay chiều hôm đó, Đài Phát thành Kháng chiến loan báo:
"Đức Hoàng thượng Christian, để đáp lại lệnh của Đức bắt người Do Thái mang ngôi sao David, công bố rằng tất cả những người dân Đan Mạch đều bình đẳng, không phân biệt nòi giống hay tôn giáo. Do do Đức Hoàng thượng sẽ đeo ngôi sao David đầu tiên và Ngài hy vọng dần dần tất cả các thần dân Đan Mạch trung thành đều sẽ bắt chước Ngài"
Ngay hôm sau, chín phần mười dân chúng Copenhague đều đeo băng tay vàng. Hai mươi bốn giờ sau, quân Đức cho thu hồi lệnh đã ban.
Vào cuối mùa hè, Aage nhận được một tin ghê gớm. Ông thố lộ với vợ:
- Theo một nguồn tin hết sức chắc chắn, trong một hay hai tháng nữa quân Đức sẽ bắt tất cả những người Do Thái. Mọi người chưa biết ngày nào tụi Gestapo sẽ tung mẻ lưới lớn, nhưng mọi người biết chắc thể nào bọn chúng cũng làm.
Đứng gần cửa sổ, Meta Hansen nhìn không rời mắt quang cảnh quen thuộc: hồ nhân tạo, cây cối, cây cầu dẫn vào thành phố cổ. Bà nghĩ tới tất cả những gì bà đã dự trù cho ngày lễ sinh nhật thứ mười ba của Karen: Một bữa ăn trên cỏ công viên Tivoli, chừng bốn mươi người khách, các trò chơi, các điệu vũ... và bây giờ...
Bà thì thào:
- Tôi sẽ không để Karen ra đi đâu. - Coi kia Meta, chúng ta không có quyền...
Bà ngắt lời chồng:
- Karen không có gì nguy hết. Đối với pháp luật nó không phải là Do Thái. Những giấy tờ chúng ta đã có chứng tỏ nguồn gốc mới của Karen: Nó là con chúng ta. - Hãy nghĩ xem nếu có vài tên "Collabo" 3 ở Aalborg báo cho quân Đức biết rõ. Giấy tờ không ích gì trong trường hợp đó. - Quân Đức sẽ không bỏ công vất vả đến như vậy chỉ vì một đứa trẻ.
Aage thốt lên một tiếng thở dài:
- Bà vẫn còn chưa biết rõ tụi chúng sao? Kể từ khi... - Được rồi, chúng ta sẽ rửa tội cho nó, nhận nó làm con một cách hợp pháp.
Aage lắc đầu:
- Bà hy vọng đánh lừa bọn chúng? Chúng ta không để Karen lâm vào tình trạng liều lĩnh như thế. Chỉ còn có một giải pháp. Ngay từ bây giờ Kháng chiến đang chuẩn bị tập họp tất cả các người Do Thái lại ở một số bãi biển, gần các eo. Mọi người đang tìm mua tất cả tàu bè có thể mua được để chở các dân Do Thái sang Thụy Điển. Stockholm cho biết là họ sẽ tiếp nhận tất cả mọi người và sẽ lo nuôi dưỡng tất cả các dân tị nạn.
Meta quay lại đối diện với chồng. Aage nhìn vợ, ngạc nhiên: chưa bao giờ ông thấy bà lại cương quyết như thế.
- Không đâu ông. Tôi sẽ không bao giờ để con ra đi hết. Tôi không thể sống không có nó được.
Hàng trăm hàng ngàn người được Kháng chiến kêu gọi tới, không ai lẩn tránh cả. Nhờ ở sự liên đới tích cực này, công cuộc điên rồ ấy đã hoàn tất thành công. Trong khoảng thới gian vài ngày, tất cả dân Do Thái được đưa một cách bí mật đến tận các bãi biển phía bắc đảo Seeland, lên hàng chục chiếc thuyền đánh cá, du thuyền... đi đến tận Thụy Điển. Các cuộc bố ráp đại qui mô do người Đức phóng ra từ bắc chí nam vương quốc đã phóng vào khoảng trống không: Không còn một người Do Thái nào trên toàn quốc Đan Mạch...
Còn Karen, nàng không rời Copenhague. Trong lúc này, nàng không có gì phải lo ngại. Nhưng quyết định giữ Karen ở lại đè nặng lên lương tâm Meta. Mỗi một tin đồn mới - và lúc nào cũng có tin đồn mới - bà lại cảm thấy một sự sợ hãi ghê gớm. Nhiều lần quá sợ hãi, bà định chạy trốn cùng Karen tới nhà họ hàng trong vùng đồng quê Jutland. Ba sợ nhất ban đêm: càng ngày càng dấn thân thêm vào hoạt động bí mật, nhiều khi gần sáng Aage mới về, và những vụ đi vắng lâu này lại càng làm bà lo lắng khổ thêm.
Vào những ngày đầu tháng chín 1944, Kháng Chiến kêu gọi toàn thể công dân tham dự tổng đình công. Ở Copenhague, các ụ cản xuất hiện ngăn các đường phố, treo đầy cờ Hoa Kỳ, Anh, Nga hay Đan Mạch. Quân Đức tuyên bố tình trạng thiết quân luật. Lệnh đình công không thể duy trì, cả giới nghiêm lẫn đội quân tuần tiểu cũng không thể làm giảm bớt đà phá hoại.
Ngay cả các vụ hành quyết không xét xử cũng chỉ làm tăng thêm sự sốt ruột tức giận của các chiến sĩ trong bóng tối đang cảm thấy ngày giải phóng gần kề.
Vào đầu mùa đông, một đợt triều dâng các dân Đức tị nạn tràn vào Đan Mạch. Chạy trốn từ các thành phố Đức bị không quân Anh Mỹ dội bom không ngừng, các kẻ xâm lăng mới này cư xử như mình đang ở một nước bị trị, kéo vào ở bừa các nhà dân Đan Mạch, chiếm hết các dự trữ thực phẩm và quần áo. Các người dân Đan Mạch, không thể trục xuất họ ra được cũng như không có cách nào chống lại các hành vị chiếm đoạt ấy, đã đối xử với họ một cách khinh khi - một thứ khinh khi im lặng, lạnh lùng, nặng nề.
Mùa đông chấm dứt, mặt trời bắt đầu thức tỉnh vạn vật còn thiếp ngủ. Vào tháng tư, các tin đồn mỗi ngày một chắc truyền từ người này sang người khác.
Và rồi, ngày 4 tháng 5 năm 1945, các chuông nhà thờ kéo vang trới, từ nhà thờ Copenhague đến những nhà thờ làng bé nhỏ...
- Ba ơi! Má ơi! Chiến tranh đã hết! Chiến thắng!
-------------------------------- 1 Fjord: nơi biển ăn sâu vào núi ven biển. 2 Wehrmacht: chữ dùng chỉ chung Quân lực Đức vào thời đó. 3 Collabo: gọi tắt chữ "collaboratem" để khinh bỉ (người hợp tác với quân thù).
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:32:15 GMT -6
Phần I => Chương 13
Những kẻ chiến thắng tiến vào Đan Mạch: Mỹ, Anh và Đan Mạch Tự do. Đó quả thực là một tuần lễ huy hoàng mà những Herr Doktor Best, các tay mật vụ của Gestapo cùng các "collabos" phải lãnh chịu tất cả mọi tủi nhục. Vị vua già Christian, đi xuyên qua thủ đô đang nô nức vui vẻ, đến chủ tọa lễ khai mạc nghị viện đã phải im tiếng từ bao năm. Ngài đọc bài diễn văn của triều đình bằng một giọng kiêu hãnh nhưng hết sức mệt mỏi, còn người dân cố kìm giữ một niềm xúc động.
Đối với Aage và Meta Hansen, tuần lễ tươi vui của giải phóng này cũng là một tuần lễ buồn rầu. Bảy năm trước đây, lòng thương người rộng lượng của họ đã cứu được một cô bé bảy tuổi ra khỏi hiểm nguy. Họ đã tiếp nhận nàng, yêu nàng, đã nuôi nấng nàng thành thiếu nữ đẹp, duyên dáng và vui sống. Bảy năm trời, họ đã già đi rất nhiều. Và bây giờ lòng tốt của họ lại sắp bị đền đáp bằng một phần thưởng cay đắng. Dầu vậy, họ chỉ ao ước một điều: được ở gần Karen, nhìn nàng sống, nghe giọng nói của nàng, trải qua nhiều giờ, thật nhiều giờ trong phòng nàng, cố gắng một cách tuyệt vọng với các kỷ niệm, thật nhiều kỷ niệm để có thể đủ mà nhớ lại cho tới ngày cuối cùng: ngăn cản Karen trở về với gia đình của nàng? Đối với hai vợ chồng, đó là điều không thể nghĩ tới được: lòng ngay thẳng của họ tuyệt đối không cho phép.
Karen, ngay cả nàng nữa, cũng biết cái gì sắp xảy ra và rất xúc động. Tuy vậy nàng giữ im lặng. Không phải việc của nàng nói tới vấn đề đáng buồn này. Aage, người mà nàng biết rõ lòng ngay thẳng, sẽ là kẻ duy nhất sẽ chọn lựa lúc thích đáng để nói tới. Trong hai tuần lễ sau ngày giải phóng, không khí trong nhà mỗi ngày một thêm buồn thảm. Rồi sau cùng, một buổi tối, sau một bữa cơm im lìm, Aage quyết định.
- Chúng tôi sẽ thử tìm lại ba má của con, Karen. Chỉ còn mỗi việc đó.
Ông đặt khăn ăn xuống, đứng dậy và vội vã bước ra. Karen nhìn theo ông trước khi chạy lại Meta, ấp úng:
- Con yêu bác... con yêu cả hai bác.
Rồi nàng chạy về phòng, đóng cửa lại.
Nằm dài trên giường, khóc nức nở, nàng giận mình sao lại là nguyên nhân cho một nỗi buồn như vậy. Nàng còn giận nàng vì một lý do khác nữa: niềm ước muốn dữ đội muốn tìm lại quá khứ. Trời ơi: biết làm sao bây giờ?
Một vài ngày sau, Aage đi cùng nàng đến trụ sở Ủy ban quốc tế tị nạn.
- Đây là con gái nuôi của tôi...
Người đàn bà tiếp họ mới chỉ nhận chức chưa bao lâu. Nhưng chưa chi bà đã không chịu nổi: biết bao người, bấy nhiêu tấn thảm kịch trong đó bà thường chỉ giữ một vai trò bạc bẻo. Thật quá thê thảm cho tất cả những con người tốt này, Sau khi che chở, nuôi dưỡng cho một đứa bé thoát khỏi nanh vuốt của quốc xã để rồi phải chịu một chia ly đau đớn.
- Xin ông hãy chờ đợi. Tại Âu châu, hiện có hàng triệu người đã rời nơi cư trú. Chúng tôi không thể biết được chúng tôi phải mất bao nhiều lâu mới làm cho họ đoàn tụ được với gia đình.
Tuần lễ thứ nhất, rồi tuần lễ thứ hai, đến tuần lễ thứ ba trôi qua. Tháng sáu tháng bảy - những tháng đau khổ dằn vặt cho Aage và Meta. Rồi mỗi ngày họ lại càng hay thường mở cửa phòng Karen để nhìn tất cả những gì đã cấu tạo thành vũ trụ ấu thơ của nàng: đôi giày trượt băng, giày khiêu vũ, ảnh các bạn học cùng lớp, ảnh người bạn trai nàng ưa nhất.
Sau cùng họ được gọi đến Ủy ban Tị nạn.
Người đàn bà phụ trách nói với giọng lãnh đạm cố ý:
- Chúng tôi đành phải chấp nhận rằng những công trình tìm kiếm đầu tiên của chúng tôi đã không đưa đến kết quả nào. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là bỏ công việc tìm kiếm. Nhưng chắc sẽ mất nhiều thời giờ và hết sức khó khăn nếu tôi ở vị trí của ông bà, tôi sẽ nhất định cấm cô ấy sang Đức một mình, dù đi cùng với ông Hansen đi nữa, cũng là điều không thận trọng. Dầu thế nào đi nữa căn cứ vào tình trạng hỗn độn hết sức hiện nay ở Đức, ông bà cũng chẳng thể khám phá ra những gì khác hơn chúng tôi đã tìm ra.
Bà ngừng lại để nhìn Aage, Meta và Karen một cách nghiêm trang:
- Dầu sao chúng tôi cũng xin khuyến cáo ông bà và em đây đừng nên lạc quan quá sớm. Kể từ khi tình hình mỗi ngày một sáng sủa hơn, chúng tôi càng nhận được hết sức nhiều báo cáo cho biết nhiều biến cố bi thảm xảy ra trong Reich 1 cùng các lãnh thổ đã bị Reich chiếm đóng. Chúng tôi biết chắc chắn rằng nhiều người Do Thái đã bị ám sát. Nhưng bây giờ chúng tôi bắt đầu e rằng con số nạn nhân có thể lên tới hàng triệu.
Vợ chồng Hansen được thêm một triển hạn mới, nhưng cũng thêm một ý nghĩ ghê sợ: Phải chăng họ sắp có được niềm vui là giữ lại được Karen chỉ vì lý do là tất cả gia đình nàng đã bị tiêu diệt? Bị dằng xé bởi những tình cảm mâu thuẫn như thế, họ đã phải sống những ngày thật đáng thương. Sau cùng, chính Karen đưa ra một giải pháp.
Mặc dù một tình thương sâu xa đối với cha mẹ nuôi, nàng vẫn chưa bao giờ gạt bỏ được cảm tưởng là có một hàng rào ngăn vô hình giữa nàng và hai người. Trong những ngày đầu tiên bị Đức chiếm đóng, Aage dặn nàng là không bao giờ được nhắc nhở xa gần gì đến gốc tích Do Thái. Ông nhấn mạnh: "Bất cứ một ám chỉ nhỏ thôi cũng đủ làm con lâm nguy". Dĩ nhiên là nàng đã nghe theo lời dặn này: Không bao giờ nàng nghĩ tới chuyện không nghe lời người mà nàng thương và kính trọng này.
Tuy thế nàng không thể không tự hỏi tại sao nàng lại khác những người Ki tô giáo và tại sao sự khác biệt này lại đe dọa đến tính mạng nàng. Vào thời ấy, nàng chưa đặt ra những câu hỏi như thế và cũng không thể có giải đáp. Hơn nữa, vì không có tiếp xúc nào với người Do Thái, nàng tuyệt đối cảm thấy mình giống như mọi người và vui sướng vì thế. Tuy vậy, trong tiềm thức, bức rào cản vẫn tồn tại.
Sự kiện đáng chú ý là chính vợ chồng Hansen, do sự thận trọng thái quá, đã lại làm cho nàng phải chọn lựa. Karen sắp mười bốn tuổi, tuổi mà những thiếu nữ Đan Mạch làm lễ kiên tín. Thế mà dù rằng suốt bao nhiều năm nay nàng đã sống cuộc đời của một thiếu nữ Đan Mạch Ki tô giáo, hai vợ chồng Hansen do dự trong việc đưa nàng tiến thêm một bước nữa vào con đường chấp nhận tôn giáo Tin lành. Sau khi suy nghĩ sâu xa, đi đến kết luận là họ không có quyền giải quyết một vấn đề có tính cách cá nhân đến như vậy. Nhất là một khi Thượng đế đã giải quyết vấn đề này bằng cách cho Karen sinh ra trong một gia đình Do Thái. Vì thế họ cắt nghĩa cho nàng hiểu là lễ kiên tín là để xét lại sau: Chiến tranh chưa chấm dứt, thời điểm không chắc chắn, tốt hơn nên chờ đợi.. Nhưng Karen, với sự nhạy cảm của cô gái mới lớn, đoán được lý do đích thực của sự rắc rối này.
Hơn nữa nàng đau khổ về thân phận của mình. Gia đình, tuổi thơ ấu cùng tôn giáo của nàng đều là các bí mật mà nàng hết sức muốn hiểu cho sáng tỏ. Dĩ nhiên là nàng có thể chọn giải pháp để: sống cuộc đời dễ chịu của một thiếu nữ Đan Mạch, học hành đến nơi đến chốn, khiêu vũ và sau cùng lấy một chàng đẹp trai để sinh ra đời những đứa con khỏe mạnh tóc vàng mắt xanh. Nhưng con đường này bắt buộc nàng phải chôn vùi vĩnh viễn các câu hỏi nóng bỏng ám ảnh nàng, từ bỏ một lần cho xong không tìm các lời giải đáp nữa. Nàng thấy mình không thể làm như thế. Trong lúc này đời sống của nàng được xây dựng trên những hoàn cảnh tạm thời, tương lai bị khép kín bởi một bức tường mà ngay cả tình yêu thương của hai ông bà Hansen cũng phải nhượng bộ.
Ngay trước khi chiến tranh chấm dứt, Karen đã hiểu rằng hòa bình sẽ lôi nàng ra khỏi tổ ấm. Với một sự khôn ngoan đáng ngạc nhiên của một cô bé ở tuổi nàng, Karen đã chuẩn bị đón nhận sự chia ly. Sống với tư cách Karen Hansen chỉ còn là một trò chơi: hiển nhiên là nàng phải lấy lại ngay con người thật Karen Clement. Bởi thế đến khi Giải phóng, nàng đã cảm thấy sẵn sàng đương đầu với định mệnh của mình.
Một vài tháng sau khi chiến tranh chấm dứt, nàng đã có đủ can đảm nói với bố mẹ nuôi là nàng sắp rời bỏ hai người. Người đàn bà ở cơ quan Ủy ban Tị nạn chẳng đã cắt nghĩa rằng Karen sẽ có nhiều may mắn tìm lại gia đình hơn nếu nàng đến ở trong một trại dành cho những người mất gia cư bên Thụy Điển. Sự thực ra không phải là như thế, mà là tại Karen không thể chịu đựng được ý nghĩ là nàng đang làm kéo dài cơn hấp hối của các bậc ân nhân.
Đêm hôm đó nàng khóc nức nở khi nghĩ đến đau buồn của hai ông bà Hansen. Còn về sự bất trắc của định mạng nàng, nàng lại ít nghĩ tới. Một tuần lễ sau, khi đã hứa và thề là sẽ viết thư luôn cùng bày tỏ nỗi hy vọng - có thể nói mỏng manh - là sẽ trở lại, Karen Clement cô gái mười bốn tuổi bắt đầu đi phiêu bạt trong luồng sóng của những kẻ sống sót sau chiến tranh.
-------------------------------- 1 Reich: Đế quốc Đức.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:38:08 GMT -6
Phần I => Chương 14
Tháng đầu tiên là cả một cơn ác mộng. Bị lôi đột ngột ra khỏi sự săn sóc ấm cúng của hai vợ chồng Hansen, Karen chỉ chống nổi với sự xúc động mỗi ngày một khác của một thực tại ghê tởm bằng một sự cương quyết dữ tợn.
Sau thời kỳ sống trong trại ở Thụy Điển, nàng được chuyển sang Bỉ, sống trong một lâu đài chồng chất hàng trăm người khốn khổ, tứ cố vô thân: những kẻ đã thoát được thế giới tập trung của quốc xã, những kẻ tị nạn chính trị không sao trở về được quê hương, những kẻ sống thoát khỏi các cuộc chiến giữa các phe đảng. Mỗi ngày mang thêm lại những tin đồn không thể kiểm chứng, những câu chuyện kinh hãi. Tất cả đều là những xúc động cho Karen: Bây giờ mọi người biết là chiến tranh đã để lại hai mươi lăm triệu xác chết...
Một thời gian sau, công cuộc tìm kiếm đưa nàng tới trại La Ciotat cách Marseille (Pháp) vài cây số. Trại gồm những dãy nhà bằng bê tông chìm trong một biển bùn muốn thuở. Trại đầy nghẹt người, thiếu thốn đủ mọi thứ và đa số những người trong trại hầu như bị ám ảnh bởi cái chết. Đối với họ, toàn thể Âu châu đã trở thành một mồ chôn công cộng.
Diệt chủng, sự quyết tâm tiêu diệt cả một dân tộc: một điệu vũ ma quái, do sáu triệu bóng ma thể hiện! Karen, hãi hùng, nghe nói đến những tên Frank, Himmler, Rosenberg, Streicher, Kaltenhrunner và Heydrich. Còn nhiều tên nữa, không nổi danh bằng nhưng không kém phần ghê tởm: Ilse Kock sưu tầm những chụp đèn bằng da người có xâm hình, Dieter Wisliczeny thích đi đầu những đoàn người hắn dẫn vào nơi tử địa. Kramer thích đánh bằng roi da những phụ nữ trần truồng. Và nhất là tay sát nhân nổi tiếng nhất trong bọn sơ mi nâu: Eichmann, người Đức sinh ở Palestine nói thạo tiếng Ả rập, bậc cao thủ trong nghe giết người tập thể.
Đôi khi nàng hối tiếc cái ngày nàng đã thử mở cánh cửa mang tên Thảm kịch Do Thái. Một cánh cửa vĩ đại đằng sau xếp hàng hàng núi xác chết. Chưa chi Karen đã được biết chắc về cái chết của rất nhiều cô chú, cậu mợ cùng các anh chị em họ.
Và còn những câu chuyện lại tiếp tục kéo tới, chuyện nào cũng đầy những chi tiết chính xác không thể không tin được! Karen muốn bịt hai tai lại để khỏi phải nghe nữa. Nhưng dầu vậy, nàng vẫn muốn biết...
Thật là kinh khủng. Mọi người nói với nàng về những kẻ lưu đầy thà lao mình vào hàng rào điện, thích chết ngay lập tức hơn là chết một cách chậm chạp ghê rợn trong các phòng hơi ngạt. Mọi người nói với nàng về hàng ngàn ngàn người chết vì bệnh đậu lào, vì đói, thân thể chỉ còn da bọc xương, vứt chồng chất lên nhau trong các mồ chôn tập thể: "Ở vài nơi, mọi người xếp những đống củi xen kẽ giữa các xác người rồi tưới xăng lên trên đốt tất cả. Những lò thiêu xác như thế cháy rất nhanh". Mọi người nói với nàng về những mưu chước bẩn thỉu quốc xã đã dùng để lừa các bà mẹ để tìm chỗ giấu con cái: Người Đức nói quả quyết là những đứa nhỏ sẽ được gởi tới "các thuộc địa đang khai hoang" tụi S.S. báo cho những người bị giam rằng họ sắp được đi tẩy chấy rận và cẩn thận đến độ còn phân phát cho họ những miếng xà bông nữa. Nhưng các phòng tẩy chấy rận lại được nối liền với các ống dẫn hơi ngạt và xà bông chẳng qua là những cục đá. Mọi người nói với nàng về những bà mẹ, bị bắt buộc cởi quần áo trước khi vào phòng hơi ngạt, đã đem giấu các đứa con dưới quần áo ở nơi giá áo, một mưu kế vừa thảm thương vừa vô ích bởi vì tụi S.S biết trước việc này và đã khám phá ra được các đứa bé đó.
Mọi người nói với nàng về Hauptstumfuhrer S.S., Gebauter, chuyên viên bóp cổ người bằng tay không và thích dự cơn hấp hối của các trẻ con bị ngâm vào thùng nước đá. Người ta còn nói với nàng về tên Heingen, kẻ đã phát minh ra trò chơi bắn xuyên qua một dẫy người bằng một viên đạn, và kẻ khác tên Warzok đã treo ngược đầu các tù nhân để rồi đánh cá với các đồng bạn, về thời gian sống còn của các kẻ đáng thương này. Hay tên Obersturmbannluhrer Rok, rất sẵn sàng biểu dương sức mạnh của mình bằng cách túm lấy bất cứ ai trong trại đem xẻ đôi ra. Một kẻ đặc biệt nữa là tướng Frans Jaeckeln, kẻ tổ chức những vụ giết người tập thể ở Babi Yar trong vùng ngoại ô Kiev - một cấp chỉ huy rất có khả năng bởi vì trong khoảng thời gian có hai ngày, hắn đã bắn chết được ba mươi ba ngàn người, trước sự vui mừng của dân xứ Ukraine.
Mọi người nói đến Viện Cơ Thể học mà giáo sư Hirt đã lập ra ở Strasbourg để thí nghiệm trên những kẻ bị bắt giam, những "thí nghiệm" mà tính cách bạo dâm có nhiều hơn là tính cách khoa học. Mọi người nói về Wilhaus, chỉ huy trưởng trại Janowska, đã bắt một người soạn nhạc viết một bản "Tango của Tử thần": một bản nhạc du dương để ban nhạc đáng thương của trại chơi trong khi những tay đao phủ thủ ngập đầu ngập cổ trong công việc thủ tiêu hai trăm ngàn dân Do Thái. Chỉ huy trưởng Wilhaus này quả thực là con người nhiều sáng kiến! Thí dụ như hắn đã nghĩ ra cách ném các đứa bé lên trời, càng cao càng tốt để xem hắn bắn được bao nhiêu viên đạn vào thân thể đứa bé đó trước khi nó rơi xuống. Trong trò tập luyện khéo léo này, hắn có một đối thủ xứng đáng là chính bà vợ hắn, một tay súng khá, lúc nào cũng sẵn lòng đọ tài với chồng.
Mọi người nói với nàng về, nói với nàng về... Ngơ ngẩn mắt đỏ ngầu rướm lệ, Karen suy nghĩ dưới gánh nặng của tất cả những chuyện ám ảnh đó. Cha mẹ nàng, các em nàng, đã chết ở Dachau hay Buchenwald! Ở Chelmo nơi có một triệu kẻ chết hay ở Maidennek nơi chỉ có bảy trăm năm chục ngàn người bị giết thôi? Ở Treblinka với hàng dãy xe vận tải đóng kín xử dụng như phòng hơi ngạt, hay ở Poniatov, Krivoi Rog? Thiên hạ đã xử bắn họ trong các đồng lầy Krasnik, thiêu cháy trên các dàn hỏa Klooga, ném cho chó ăn ở Diedzyn, đóng thập tự ở Struthof? Nhiều tên trại, nhiều tên trại nữa... Karen không còn ăn uống được nữa, không sao ngủ được nữa...
Manthausen, Oranienbourg, Bergen-Belsen, Bliziny.. Fassenberp, Natzweiler, Ravensbriick...
Và còn tên này nữa, tàn ác hơn mọi tên khác, đỉnh cao và vực sâu của hãi hùng... AUSCHWITZ!
Auschwitz với ba triệu xác người.
Auschwitz, nơi có những kho chứa đầy tràn các cặp kính lấy từ những người chết, những kho tồn trữ tóc người để cung cấp cho các xưởng làm nệm, hàng đống lớn răng vàng nhổ từ miệng những kẻ chết ngạt ra để tài trợ cho Viện Khoa học Aryen do Himmler thành lập. Auschwitz, nơi mà tên chỉ huy trưởng dùng sọ người hình dáng đẹp làm đồ chặn giấy, Auschwitz, nơi cổng vào có bảng đề hàng chữ: "Lao động giải phóng con người!".
Kiệt lực, mê sản vì những hình ảnh hãi hùng bất tận ấy Karen không còn ý chí muốn sống nữa. Nhưng rồi bỗng nhiên, một phản ứng đưa nàng trở về với ánh sáng.
Đó là vào hôm nàng tươi cười xoa chiếc đầu bù của một đứa bé mồ côi. Karen khám phá ra rằng nàng còn có thể mang lại cho trẻ thơ những gì chúng đang thiếu thốn: một tình thương thành thật. Kể từ đó, nàng luôn luôn có hàng đám trẻ con bao quanh. Hình như tự bản năng, nàng biết cách làm thế nào chúi mũi một đứa nhỏ, đặt một chiếc hôn lên một ngón tay đau, lau khô các giọt nước mắt. Nàng biết cả ngàn câu chuyện, hát bằng nhiều thứ tiếng và tự đánh dương cầm cầm nhịp. Bởi thế trẻ con hết sức yêu mến nàng.
Nàng tận tụy với nhiệm vụ mới, nàng hăng hái nhiệt thành đến nỗi quên bớt được nỗi buồn riêng. Nhờ có một lòng kiên nhẫn vô bờ bến, nàng không hề tiếc công, tiếc thì giờ.
Ngày sinh nhật thứ mười lăm của nàng qua đi âm thầm: Tại trại Ciotat, mọi người không cử hành bất cứ lễ nào. Vì vậy, nàng cũng tự trấn tĩnh được mình. Ngoài sự bướng bỉnh do thiên bẩm, nàng còn bấu víu được vào hai hy vọng ba nàng là một người có tiếng tăm, một nhà thông thái quốc tế biết đến. Vậy mà người Đức, vì muốn đánh lừa dư luận thế giới, đã thành lập ở Theresienstade bên Tiệp Khắc một trại kiểu mẫu trong đó những kẻ bị lưu đầy không bị hành hạ cũng như không bị giết. Nếu ba nàng được gởi tới đó, chắc ông có thể sống sót. Hy vọng thứ hai, có thể nói là mỏng manh hơn, xây dựng trên sự kiện là một số nhà thông thái Đức đã được đưa ra ngoại quốc một cách bí mật bởi các tổ chức bí mật, đôi khi ngay sau lúc đã bị bắt giam rồi.
Một buổi sáng kia, chừng năm mươi "người mới" nhập trại. Hai mươi bốn giờ sau, đời sống trong các khối nhà tiều tụy hầu như đã thay đổi. Những "người mới" này là những dân Do Thái xứ Palestine, do Mossad Alyia Bet và Palmach gởi đến để lo việc tổ chức trong trại.
Vào cuối tuần lễ ấy, đây là lần đầu tiên kể từ khi rời Copenhague, Karen tìm thấy đủ can đảm để vũ trước một cử tọa nhi đồng hăng say. Kể từ hôm đó, nàng trở thành báu vật của trại. Danh tiếng nàng vang tới tận Marseille: Đêm Noel nàng được mời đến vũ với tư cách "ngôi sao" trong một vũ điệu của Suite du casse - No sette.
Cuối phần trình diễn, một thanh niên Palestine tên là Galil gì đó chỉ huy toán Palmach trong trại La Ciotat yêu cầu nàng đợi gặp anh ở cửa ra.
- Tôi có tin buồn báo cho em. Chúng tôi vừa nhận được báo cáo đầu tiên: Mẹ cùng các em của em đều đã chết ở Dachau.
Bàng hoàng, suýt nữa Karen chìm đắm vào một nỗi buồn vô phương cứu chữa. Tất cả nghị lực đột ngột bỏ rơi nàng.
Tuyệt vọng, nàng nghĩ rằng cái kiếp không may làm người Do Thái đã thúc đẩy nàng đi tới chỗ làm chuyện điên khùng là rời bỏ Đan Mạch.
Nàng chỉ đủ sức để thố lộ mọi sự với Galil sau nhiều ngày.
- Tôi không còn đủ sức ở lại đây, để chờ đợi rồi người ta cũng loan tin ba tôi chết...
Galil cắt ngang lời nàng:
- Không có vấn đề em ở lại mãi mãi nơi này, Karen. Theo tôi nghĩ, chỗ của em không phải ở Âu châu mà ở xứ Israel. Dầu sao, đó cũng là nơi duy nhất một người Do Thái có thể sống với một cuộc đời xứng đáng với phẩm giá con người.
Karen lắc đầu:
- Tôi không muốn nghe nói tới người Do Thái hay Do Thái giáo nữa. Việc làm người Do Thái chỉ mang lại cho tôi những bất hạnh không tên tuổi. Tôi muốn trở lại làm con nuôi ông bà: Karen Hansen, trước khi tôi đến đây - một cô gái Đan Mạch có cha mẹ, có gia đình, có tổ quốc.
Nhưng nói cho thực ra, nàng vẫn còn do dự. Nhưng mỗi đêm nàng lại thấy xuất hiện những bóng ma, vẫn các hình ảnh hãi hùng ấy. Để thoát khỏi tất cả những thứ đó, nàng chỉ còn một cách, một cách dễ dàng: viết thư cho ông bà Hansen loan báo là nàng sắp trở về với ông bà vĩnh viễn.
Thế rồi một buổi sáng, Galil chạy vội vào phòng lôi nàng đến khu quản trị trại.
- Tôi xin giới thiệu với em bác sĩ Brenner vừa mới tới. Xin bác sĩ hãy nói với Karen... - Tôi vui mừng được mang lại cho cô một tin chắc chắn. Tôi cũng xin nói là tôi đã được quen biết với ba cô từ ngày xưa. Chúng tôi đã thường trao đổi thư từ đều đặn và gặp gỡ nhau trong các buổi đại hội khoa học. Sau khi chiến tranh kết liễu được vài tuần, tôi đã gặp ông ấy ở Theresienstade, và ông ấy vẫn mạnh khỏe.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 6:40:45 GMT -6
Phần I => Chương 15
Một tuần lễ sau, Karen nhận được một bức thư của ông bà Hansen. Ủy ban Quốc tế Tị nạn đã hỏi về nàng, đồng thời hỏi luôn xem ông bà Hansen có tin tức gì, trực tiếp hay gián tiếp về mẹ và các em nàng không.
Mọi người có thể phỏng đoán - hay ít nhất Karen phỏng đoán như thế - là vụ dò tin này là do ông Clement yêu cầu. Bức thư kế của ông bà Hansen xác nhận giả đoán trên là đúng: Họ đã phúc đáp Ủy ban, nhưng không may là trong khoảng thời gian đó, Ủy ban lại mất liên lạc với Clement.
Nhưng các điều đó không thay đổi gì sự kiện là ông Clement vẫn còn sống: Karen không còn hối tiếc nỗi khốn khổ đã phải chịu trong các trại ở Thụy Điển, Bỉ, và La Ciotat nữa. Nàng đã không chịu đau khổ vô ích.
Lại thấy vui sống, nàng quyết định tìm hiểu mọi khía cạnh dị biệt của vấn đề Do Thái. Nàng đã nhận thay rằng trại La Ciotat sống nhờ những trợ cấp từ Hoa Kỳ gởi tới. Vậy mà trong cái trại đầy các loại quốc tịch khác nhau này, nàng lại không thấy có một người Do Thái quốc tịch Hoa Kỳ nào...
Khi nàng mang vấn đề này ra hỏi, Galil nhún vai nói:
- Tôi cho em một định nghĩa sau về phong trào phục quốc Do Thái: đó là một người thứ nhất đi xin tiền một người thứ nhì để đem cho một người thứ ba với mục đích là gởi được một người thứ tư về Palestine.
Karen nói:
- May thay chúng ta có những người bạn biết đoàn kết. - Nhưng chúng ta cũng có cả các kẻ thù biết đoàn kết nữa.
Karen khởi công học tiếng hébreu. Khi nàng đã đạt được những tiến bộ vừa đủ, nàng phiêu lưu vào khu những người Do Thái chính thống để quan sát tận nơi sự kỳ lạ của họ. Do đó nàng được biết rằng Do Thái giáo căn cứ trên một số lớn các luật sắc, khi thì thành văn, khi thì truyền khẩu, và xét toàn thể thì phức tạp không thể ngờ được. Những luật sắc này bao phủ mọi hoàn cảnh, mọi vấn đề, đến tận các việc nhỏ nhặt nhất như cách thế ban phép lành cho một con lạc đà. Càng ngày càng thấy hỗn độn hơn, Karen cầu cứu đến Kinh Thánh, một trong những sách nàng ưa đọc nhất. Bây giờ nhiều đoạn hình như có một ý nghĩa mới, một ý hướng cho tới giờ nàng không hiểu tới.
"Ôi, đấng Vĩnh Cửu, ngài hãy nhìn từ trên trời cao thẳm xuống coi chúng con trở thành một đối tượng của khlnh khi và chế diễu trong bao quốc gia. Người ta đã tập họp chúng con lại như đàn súc vật để đưa chúng con đến lò sát sinh, để giết và tiêu hủy chúng con. Mặc dầu vậy, mặc dù các thử thách đó, chúng con vẫn không quên danh Ngài, chúng con cầu xin Ngài đừng quên con dân của Ngài..."
Karen đưa hai tay ôm lấy đầu. Tại sao Thượng đế lại cho phép các kẻ thù của con dân Ngài tiêu diệt sáu triệu đàn ông, đàn bà và trẻ con? Tại sao Ngài lại không chịu lắng nghe những lời kêu gọi bi thảm của con dân? Có lẽ cuộc đời sẽ mang lại cho nàng một giải đáp, trong một tương lai gần hay xa...
Các dân cư ngụ trong trại La Ciotat tất cả đều bừng bừng một niềm ước vọng: rời Âu châu để về sống ở Palestine. Duy chỉ có sự hiện diện cần mẫn của các Palmachnik mới ngăn cản được họ khỏi nổi loạn thôi. Họ ít chú trọng đến cuộc chiến thầm lặng và cam go đang diễn ra vì họ và vấn đề của họ giữa Anh quốc và Mossad. Họ cóc cần biết sự cương quyết dữ tợn của Anh giữ lấy Trung Đông, dầu hỏa, kênh Suez cùng trung thành với nguyên tắc truyền thống là hợp tác với người Ả Rập..
Một năm trước đây, đảng Lao động cầm quyền đã khơi trong đám người bơ vơ vất vưởng này một hy vọng ngắn và đầy hứa hẹn. Các đảng viên Lao động Anh đã từng hứa là sẽ biến Palestine thành một đất bảo hộ kiểu mẫu, mở rộng các biên thùy xứ này cho dân du nhập, không một hạn chế nào hay sao? Thêm một lần nữa, còn cả vấn đề xây dựng Palestine thành một quốc gia tự trị kiểu dominion trong Khối Thịnh Vượng Chung.
Những lời hứa hẹn tốt đẹp này, dân Do Thái sớm biết tới bề trái: y hệt chính phủ của đảng Bảo thủ, chính phủ của đảng Lao động mỗi ngay một xiêu vì sự cám dỗ của vàng đen chảy dưới cát của các sa mạc Ả Rập. Các quyết định liên quan tới Palestine được trì hoãn lại, lui lại "một hạn kỳ sau" ra hết ủy ban mới này ủy ban mới nọ xét lại. Nói tóm tắt, Luân Đôn kéo dài mọi sự như đã từng làm trong quá khứ cách đây mười lăm năm.
Tuy vậy không có vận động nào đánh lạc hướng xoa dịu được những người Do Thái ở La Ciotat. Hơn bao giờ hết, Palestine là Đất Hứa của họ, hơn bao giờ hết họ muốn đi tới đó và ở lại đó. Hơn nữa số người như họ không ngừng gia tăng. Đi đi lại lại khắp Âu châu, những cán bộ của Mossad kêu gọi những người Do Thái sống sót, đưa họ vượt qua các biên giới đã mở rộng vì những khoản tiền hối lộ phân phối khéo léo, bằng những giấy tờ giả mạo, và hướng dẫn họ tới trại điều hành phân phối đặt ở miền Nam nước Pháp.
Đồng thời một ván cờ lớn được chơi trên bàn cờ ngoại giao quốc tế. Ngay từ lúc đầu, Ba Lê và La Mã đứng về phía ủng hộ những người di dân, ủng hộ công khai các nỗ lực của Mossad. Nhưng nước Ý, vì vẫn còn bị đạo quân Anh chiếm đóng, chỉ được hưởng một tự do hành động tương đối. Thành thử nước Pháp trở thành trung tâm tiếp đón chính.
Rất nhanh, trại La Ciotat và các trại khác ở Pháp đã đạt tới khả năng chứa đựng tối đa. Nhưng điều này không hề ngăn cản người Anh duy trì lệnh cấm triệt để mọi gia nhập nội Palestine. Mossad trả đũa bằng cách tổ chức nhập nội bất hợp pháp. Từ Thụy Điển đến đảo Sicile, từ Bồ Đào Nha đến Hy Lạp, các cán bộ Mossad lùng kiếm trong các hải cảng, lấy nhiều tiền trong ngân khoản lạc quyên ở Mỹ châu, mua các tàu biển để phá hàng rào phong tỏa của người Anh. Về phía Anh, họ xử dụng các sứ quan các tòa phó lãnh sự nhỏ bé nhất, làm các trung tâm tình báo, và gián điệp.
Và các tàu cũ kỹ của Mossad, sửa chữa vá víu lung tung, chở đầy đến tận mạn những người di dân hy vọng và lo âu, đã nhổ neo một cách can đảm trực chỉ các bờ biển Palestine - để rồi bị các tàu của Anh hoàng chặn lại ngay khi đi vào hải phận xứ này. Và các hành khách đi tàu lại một lần nữa thấy mình ở trong các hàng rào kẽm gai.
Bây giờ Karen, biết cha còn sống, cũng cảm thấy ước muốn sống ở Palestine. Ước muốn càng mạnh vì lý dó, không còn ngờ gì nữa, cha nàng sẽ tìm tới gặp lại nàng ở nơi mà chưa chi nàng gọi là "đất nước chúng ta".
Dù nàng mới chỉ có mười lăm tuổi, mỗi ngày nàng một thêm tham dự vào nhóm các Palmachnik, những người thanh niên ham hoạt động đã đốt lửa lên trong trại, kể những câu chuyện thần tiên về cái xứ sở mà sữa và mật chảy tràn, hát những điệu đông phương lời mượn thẳng từ Thánh kinh ấy. Một lớp trẻ lành mạnh, cười đùa và bàn cãi thâu đêm và kêu gọi nàng: "Lại vũ đi Karen! Lại vũ với chúng tôi!".
Sau chừng một tháng, nàng được cử làm trưởng một đoàn một trăm trẻ con với nhiệm vụ là chuẩn bị chung về tinh thần và thể xác sẵn sàng cho một ngày chiếc tàu của Mossad đến mang chúng đi và thử đưa chúng về tận Palestine, xuyên qua hàng rào phong tỏa của hạm đội Anh.
Vả lại, chính thức ra mà nói, người Anh không có cấm việc di nhập vào lãnh thổ đặt dưới quyền bảo hộ của họ. Họ chỉ "điều chỉnh" việc đó thôi. Trên thực tế là giới hạn mỗi tháng là một ngàn năm trăm người, con số càng có vẻ khôi hài hơn nữa khi họ chỉ thuận chiếu khán cho những người nhiều tuổi hoặc quá ít tuổi để có thể chiến đấu. Trong các trại, đàn ông để râu mọc và nhuộm tóc xám để có vẻ già hơn, nhưng việc đánh lừa này ít khi thành công.
Vào tháng tư 1946, chín tháng sau khi rời Copenhague, Karen nhận được lệnh mong chờ:
- Coi sóc kỹ lũ nhỏ, nắm vững lại chúng nó nếu cần. Trong vài ngày nữa sẽ có một chiếc tàu của Mossad tới. Em và đoàn trẻ của em sẽ được đi cùng chuyến này.
Karen có cảm tưởng tim nàng sắp nhảy ra ngoài lồng ngực, nàng thì thào:
- Trong vài ngày nữa... Tên chiếc tàu là gì anh?
Galil trả lời:
- Ngôi sao David.
Karen mỉm cười cùng người thanh niên.
|
|