|
Post by sheen on Feb 24, 2024 9:57:41 GMT -6
Phần III => Chương 14
Từ khi Akiba và Dov Landau bị bắt, các Macchabée đã cắt đứt hoàn toàn liên lạc với Haganah. Ari phải lùng mãi mới ra Bar Israël và thuyết phục được hắn - bằng cách nâng bổng hắn lên mà lắc như rung cây - dẫn chàng tới gặp Ben Moshé.
May mắn thay Ben Moshé, mặc dù hoàn toàn nghi ngờ Haganah là đã phản bội, cũng biết rõ lòng chính trực của Ari để trình bày dự tính của Macchabée: họ định giải thoát hai tù nhân bằng một cuộc tấn công đại qui mô vào nhà tù Acre. Ben Moshé đưa Ari coi kế hoạch hành quân: cả một hồ sơ đầy đủ trong đó khu vực phụ cận cũng như bên trong của nhà tù đều được vẽ đủ, ước tính đến từng thước (hầu hết là nhờ ở các tin tức được các Macchabée đã từng bị giam giữ trong đó cung cấp), mỗi bước đi của toán biệt kích đều được tính sát tới từng giây, các cơ sở phải hủy, các địa điểm cần phải chiếm, các chướng ngại phải phá bằng lựu đạn, mìn, chất nổ đều được ghi chính xác. Đó là một hồ sơ mà bất cứ một Bộ tham mưu hiện đại nào có được cũng lấy làm hãnh diện. Ari nghiên cứu tất cả rất lâu. Ben Moshé hỏi: Anh nghĩ sao?
- Tất cả đều hoàn toàn, trừ một điểm. Tôi hiểu các anh định làm thế nào để tiến vào nhà tù và rút ra. Nhưng sau đó, để rút lui ra khỏi thị trấn... - chàng lắc đầu - không được đâu anh. - Tôi biết hy vọng rút lui thoát của chúng tôi rất mỏng manh... - Theo ý tôi thì không có tí hy vọng nào rút nổi cả. Các anh đều sẽ trở thành anh hùng, nhưng anh hùng tử trận. Quả thực rõ ràng là kế hoạch này sẽ mang lại cho các anh một trăm hay hai trăm anh hùng tuẫn quốc nữa mà thôi. Trong khi nếu các anh để tôi tính đường rút, chúng ta sẽ có may mắn là năm mươi phần trăm. - Tôi cũng chẳng mong gì hơn. Anh cắt nghĩa ý kiến đi xem sao.
Ari suy nghĩ rất nhanh.
- Trước hết, tôi đề nghị một khi đã vào được nhà tù, các anh sẽ cố thủ trong đó từ mười lăm đến hai mươi phút để giải thoát tất cả các tù nhân. Những người này sẽ chạy tứ tán về mọi hướng, làm người Anh phải đuổi theo họ, nghĩa là làm phân tán lực lượng của người Anh đi. - Hoàn toàn đồng ý. - Các toán xung kích của chúng ta cũng thế, sau khi hành động xong cũng chia làm nhiều toán nhỏ, mỗi toán tự lực ra khỏi thị trấn bằng một lộ trình riêng. Tôi sẽ có thể mang theo chú Akiba của tôi, còn phía anh mang theo Dov. - Vẫn đồng ý. - Tôi chuồn về phía Kfar Masaryk và sẽ đổi xe ở đó. Rồi qua các đường núi, tôi sẽ đến Carmel ở phía Haïfa để ẩn trú ở Daliyat, một làng của dân Druse mà tôi có nhiều bạn tin cậy được. Người Anh không bao giờ nghĩ tới việc lên kiếm tôi ở trên đó đâu.
Ben Moshé gật đầu. Ông biết rằng có thể tin cậy được ở người Druse. Ari nói tiếp:
- Còn anh, anh có thể chạy dọc duyên hải đến Nahariya. Đến đó, quân của anh sẽ chém vè. Theo ý tôi, chỗ trốn tốt nhất cho Dov Landau là kibboutz Mishmar trong vùng đồi biên thùy Syrie, một vùng đầy rẫy hang động. Dov sẽ an toàn ở đó.
Đứng bất động, Ben Moshé chăm chú nhìn các sơ đồ đang trải trên bàn. Không được xử dụng tự do các nơi ẩn trú này, cuộc tấn công nhà tù sẽ chỉ là một cuộc hành quân tự sát tuyệt đẹp mà thôi. Với sự trợ giúp của Ari, nhân vật nhiều thế lực của Haganah, cuộc tấn công này khả dĩ có thể thành công. Nhưng vấn đề chính ra lại là liệu ông có dám liều nhận sự hợp tác này hay không? Sau cùng, ông tuyên bố:
- Được rồi đồng ý. Tôi trao cho anh việc chuẩn bị các đường rút. Nhưng anh đừng quên điều này: tôi quyết định như vậy chỉ vì anh là Ben Canaan mà thôi.
Ngày N trừ 4
Không còn một vụ biểu tình nào của người Ả-rập, cũng không có một cuộc tấn công nào của các Macchabée. Thị trấn Acre đã có phong dáng của một pháo lũy trong đó đi đi lại lại hàng trăm cảnh sát Anh mặc thường phục.
Ngày N trừ 3
Thủ tướng Anh quốc mời Akiba và Dov Landau ký đơn xin ân xá. Hai tù nhân đều khước từ.
Ngày N
Đó cũng là ngày phiên chợ của Acre. Ngay từ sáng sớm, các nông dân của hai mươi làng Ả-rập chung quanh đều đổ xô về thị trấn. Công trường lớn chưa chi đã đầy ngổn ngang những xe bò, xe lừa cùng hàng hóa.
Các Macchabée gốc từ các quốc gia phương Đông và Phi châu, đã ngụy trang thành những người Ả-rập, lợi dụng đám đông lộn xộn trà trộn len vào Acre. Mỗi người, đàn ông cũng như đàn bà đều giấu dưới quần áo vài thỏi chất nổ, ngòi nổ, các cuộn dây điện, lựu đạn, vũ khí cá nhân. Họ trà trộn vào đám đông ngay trong vùng phụ cận của nhà tù.
11 giờ: giờ G trừ 2
Bây giờ đã có tới hai trăm năm mươi Macchabée đi lại trong Acre.
11 giờ 15: giờ G trừ 1g45
Ngoài thị trấn, trên đồi Napoléon, một đơn vị thứ hai của Macchabée tập trung lại ba xe cam-nhông chở đầy các lính Anh giả tiến vào Acre và dừng lại dọc theo cầu tầu, gần ngay cạnh tường thành nhà ngục. Các "người lính" xuống đất, từng toán bốn người một đi khắp các nẻo đường như để tuần tiễu. Số quân nhân thực đông đến nỗi không ai để ý tới việc một trăm người này tới.
12 giờ trưa: giờ G kém 1 giờ
Ari Ben Canaan, mặc quân phục thiếu tá quân lực Anh, cho lệnh tài xế xe mình, một chiếc xe kiểu tham mưu, tiến về cầu tầu. Chàng xuống đất đi bộ tới tận đầu đằng kia. Đứng tựa vào một khẩu thần công cổ của Thổ, chàng châm một điếu thuốc lá và ngắm dưới chân mình những làn sóng đập vỡ tan trên những tảng đá đầy rêu.
12 giờ 10: giờ G kém 50 phút
Các cửa hàng đã đóng cửa. Bị khí nóng ngột ngạt, các quân nhân Anh (thật) hoạt động thật uể oải. Từ trên tháp cầu kinh cao, vị muzzein kêu gọi các tín đồ cầu nguyện.
12 giờ 12: giờ G kém 48 phút
Từ từ, len lén, các Macchabée đến tập trung ở các điểm xuất phát.
Toán thứ nhất ở tiệm cà-phê Abou Christos (cha của Đấng Ki-tô), ven bờ vịnh.
Toán thứ hai, quan trọng hơn, ở giáo đường Hồi giáo. Những người này trà trộn với những người Ả-rập đang quì gối cầu kinh trong sân rộng.
Đơn vị thứ ba lẩn trong đám lạc đà, lừa, Ả-rập đang thiếp ngủ trên đất bao phủ khoảng cát rộng của Khan, công trường vĩ đại được dùng làm nơi nghỉ chân cho các đoàn lữ hành cũng như dùng làm nơi họp chợ.
Đơn vị thứ tư tập họp ở bến tầu, gần chỗ thả neo của các thuyền đánh cá.
Đơn vị thứ năm ở ngay trên cầu tầu.
Còn về một trăm lính Anh giả, họ lợi dụng khả năng tự do di chuyển do bộ quân phục Anh mang lại để chiếm cứ các mái nhà phẳng, chặn các đường hẻm, cản các đường lớn, như thế nào để kiểm soát tất cả các lối vào nhà tù.
12 giờ 45: giờ G kém 15 phút
Ben Moshé và Nahoum Ben Ami nhận thấy tất cả mọi người đã đến vị trí. Họ nhìn về phía nhà tù: một trong bốn "người đồng lõa bên trong" cho dấu hiệu là tất cả mọi sự đều đã sẵn sàng.
Trên vòng đai ngoài của Acre, một đơn vị chót - những người không ngụy trang gì hết - đã đặt mìn xong mọi con đường và bố trí xong các ổ liên thanh. Đơn vị này sẽ chặn đứng, hay ít ra cũng làm chậm trễ các lực lượng Anh tăng viện nếu có.
Trên cầu tầu, Ari ném điếu thuốc xuống nước. Đi rảo bước, chiếc xe hơi lăn bánh theo sau, chàng hướng về điểm tấn công. Đồng thời cũng tiến tới điểm đó là nhiều toán nhỏ của hai trăm năm chục đàn ông đàn bà ăn mặc như Ả-rập của đơn vị xung kích.
Mọi người đã chọn điểm tấn công là một hamman ở sát tường thành phía nam của nhà tù. Ở cuối nhà tắm hơi này, có một cái sân để khách hàng tắm nắng. Từ sân này, một cầu thang dẫn lên tới tận mái nhà chạm sát vào tường thành. Các Macchabée đã khám phá ra rằng quân Anh, từ các đài quan sát và trạm gác trong ngục, có thể coi chừng tất cả các đường tiến sát, từ tất cả mọi chiều hướng đến, ngoại trừ cái sân và mái nhà của hamman. Vậy đó sẽ là điểm tấn công.
1 giờ trưa: giờ G
Ben Moshé, Ben Canaan, Nahoum Ben Ami ra lệnh. Cuộc tấn công vào nhà tù bắt đầu.
Dẫn đầu một toán tiền phong năm mươi người mang chất nổ, Ari lao vào hamman. Trước sự đột nhập này, các khách hàng Ả-rập đang ngồi xổm trong đám hơi nước dầy đặc đã la hét sợ hãi. Để cho đợt thứ hai lo nhốt cái đám người trần truồng thô tục đang la hét này, Ari rảo bước dẫn quân tiến vào sân. Leo các bậc thang, họ băng qua mái nhà để đặt chất nổ vào tường nhà tù. Sau vài giây để gắn ngòi nổ, họ lui xuống sân rồi nằm bẹp xuống.
Đúng 1 giờ 15, một tiếng nổ làm rung chuyển cả thị trấn. Khi khói chậm chạp tan ra, một lỗ lớn đã thủng trong tường nhà tù.
Ngay khi có tiếng nổ, bốn đồng lõa bên trong hoạt động ngay. Người thứ nhất ném một trái lựu đạn vào trung tâm điện thoại để cắt đứt ngay liên lạc với bên ngoài. Người thứ hai, cũng bằng cách ấy, phá hủy khu kiểm soát phân phối điện lực chính: không còn ánh sáng, không còn hệ thống báo động nữa. Người thứ ba bắt sống quản ngục, trong văn phòng có sẵn chìa khóa tất cả các phòng giam. Còn người thứ tư lao về phía lỗ thủng để hướng dẫn các Macchabée trong các hành lang rắc rối của nhà tù.
Các lực lượng của Ari trước hết nhằm chiếm kho vũ khí và chặn cứng khu các lính gác tù để làm tê liệt hoàn toàn mọi kháng cự. Hai mục tiêu này đã đạt được trong vòng một phút.
Vượt qua lỗ thủng ở tường, các đơn vị khác kế tiếp nhau thực hiện những nhiệm vụ đã được chỉ định trước. Trong các hành lang và các lối đi vòm cong, tiếng người chạy rầm rập, điểm nhịp bằng những tiếng lựu đạn nổ và tràng tiểu liên. Nhờ đã chuẩn bị kỹ lưỡng kế hoạch hành quân, các Macchabée mất đúng sáu phút để làm chủ hoàn toàn nhà ngục. Trong thời gian này, các lực lượng yểm trợ bên ngoài kìm giữ các quân sĩ và cảnh sát Anh mà tiếng nổ lớn đã báo động, đang cố gắng tiến vào nhà tù.
Chưa chi các cửa nhà giam đã vỡ tan dưới các nhát rìu và báng súng. Các tù nhân được giải thoát, Do-thái và Ả-rập lẫn lộn, được hướng dẫn chạy thật nhanh về lỗ thủng ở tường để rồi chạy phân tán ra ngoài theo đủ mọi hướng.
Đi cùng năm người nữa và đẩy quản ngục đang điên lên vì sợ, Ari lao về các xà-lim tử tội. Một trái mìn từ tính thanh toán luôn chiếc cửa bọc thép chặn lối vào hành lang. Một trái lựu đạn nữa làm bốn lính gác các tội nhân án treo cổ bỏ chạy luôn. Bằng một tay run rẩy, quản ngục mở khóa các xà-lim. Akiba và Dov được dìu, bế xốc đi thật nhanh, vượt qua lỗ thủng, băng qua hamman ra ngoài. Mọi người kéo Dov lên một cam-nhông đầy lính Anh giả, mở máy chạy ngay ra con đường đi Nahariya. Hai phút sau, trong chiếc xe tham mưu, Akiba và Ari phóng hết tốc lực theo một hướng khác.
Đúng từ lúc khởi đầu trận đánh trên mái nhà tắm Thổ, gần lỗ thủng ở tường, Ben Moshé thổi một tiếng còi ra lệnh lui quân. Khi Macchabée sau cùng rời khỏi nhà tù, đó là phút thứ hai mươi mốt sau khi có tiếng nổ đã đục thủng lỗ nhà tù Acre.
Chiếc xe trên có Dov bị săn đuổi dọc duyên hải bởi một đoàn quân Anh. Chạy đến trung tâm thị trấn Nahaiya hoàn toàn Do-thái, chiếc xe dừng lại. Nahoum Ben Ami và Dov bôn tẩu bằng chân về kibboutz Ha Mishmar, trong khi các Macchabée khác mở rộng ra hàng quân chặn hậu để làm trì hoãn các quân truy kích. Toán quân này thành công trong việc kìm quân Anh lại để cho Nahoum và Dov chạy thoát được vào vùng đồi, nhưng đó là một trận chiến tự sát: toàn thể mười bẩy thanh niên nam nữ của toán này, không có lấy một người nào sống sót.
Chiếc xe tham mưu chở Ari và Akiba đã lao vào một con đường dẫn vào nội địa, hướng về kibboutz Kafar Masaryk. Khi leo lên dốc đồi Napoléon, một toán Macchabée chặn lại. Viên chỉ huy toán này cắt nghĩa:
- Anh phải đi đường tắt. Cách đây một quãng, đường gài mìn rồi. Hơn nữa, đại đội quân Anh đang định phá xuyên qua vị trí chúng tôi về hướng Acre.
Ari hỏi: Đường tắt nào bây giờ?
Viên chỉ huy Macchabée nhún vai: Tôi cũng không biết nốt. Bản đồ không có ghi.
- Không cần. Anh tài xế ạ, anh thấy anh có đủ sức chạy bọc quân Anh bằng cách băng đồng không? - Ta cứ thử xem.
Họ tránh được chủ lực Anh, nhưng khi chiếc xe định leo lên mặt đường, chừng một tiểu đội trông thấy liền vừa nổ súng vừa rượt theo. Ari đẩy mạnh Akiba nằm xuống sàn xe. Chiếc xe bị lảo đảo vì bị trúng đạn, suýt nữa lật. Bám chặt vào tay lái, tài xế phải chạy chậm lại để lấy lại thăng bằng rồi cài số de để leo lên mặt đường. Những giây phút bỏ mất vì việc này đã cho phép hai quân Anh trang bị tiểu liên lại gần. Bắn qua cửa kính sau, Ari hạ được một người. Đồng thời, người lính thứ hai nổ súng.
Akiba thét lên một tiếng. Một loạt đạn thứ hai bắn xuyên vào xe. Rồi bánh xe đã lăn được trên mặt nhựa đường, xe chồm lên hắt Ari ngã chúi vào Akiba.
Sau vài cây số, tài xế cho xe chạy chậm lại, lo lắng hỏi: Không sao cả chứ?
Ari lầu nhầu: Cả hai chúng tôi đều bị thương rồi.
Chàng ngắm nghía chân phải. Viên đạn đã lọt vào phía sau chân và không chui ra. Nhưng dầu sao, đau đớn còn ở mức chịu được.
Chàng quì xuống lật ngửa Akiba ra, xé chiếc áo đẫm máu của ông ra. Ngực ông già bị một vết thương lớn.
Akiba không bất tỉnh. Bằng một tay hãy còn cứng cỏi, ông kéo đứa cháu lại gần.
- Nặng lắm phải không cháu? Cháu có tin là chú có thể thoát chết được không? - Không, thưa chú. - Nếu vậy cháu hãy đưa chú đến một nơi nào kín đáo... cháu hiểu chứ... - Cháu hiểu lắm...
Ở Kfar Masaryk, chừng mười người đã đợi sẵn. Mọi người giấu chiếc xe tham mưu và đưa hai kẻ đào tẩu lên một xe vận tải. Akiba đã ngất đi. Ari chỉ có đủ thì giờ rắc một ít bột sulfamide lên cẳng chân bị thương và băng bó sơ sài. Khi người tài xế đề nghị trao phó Akiba cho người trong kibboutz này để cho một y sĩ săn sóc, Ari lắc đầu:
- Ông chỉ có hy vọng một phần ngàn là thoát chết. Nếu để ông chết ở đây, tất cả Palestine đều hay. Chúng ta không được để cho quân Anh biết là Akiba đã chết.
Họ lại ra đi, người tài xế và một Macchabée nữa ngồi trên ca-bin xe. Ari và Akiba ngồi phía sau xe. Ari nghiến chặt răng. Chân bắt đầu làm cho chàng đau đớn ghê gớm.
Cuộc hành trình hầu như bất tận. Sau cùng, qua những dốc chót của ngọn Carmel, họ tới vùng cao nguyên cô độc của lãnh thổ sắc dân Druse.
Đứng ở lối vào khu rừng nhỏ cạnh một chiếc xe lửa kéo, Moussah, người Druse và cũng là đoàn viên của Haganah, ra dấu cho họ dừng lại. Ari bước xuống một cách vụng về, một tay xiết chặt lấy chân bị thương. Quần áo chàng đẫm máu Akiba. Moussah vội chạy lại để đỡ chàng. Ari nói: Tôi không sao hết. Hãy giúp tôi đưa ông Akiba ra. Ông chết rồi.
Họ mang xác người chiến sĩ già vào chiếc xe lừa. Ari quay lại hai đoàn viên Macchabée.
- Phải giấu kín cái chết của ông Akiba. Các anh chỉ được báo cho Ben Moshé hay Nahoum Ben Ami biết mà thôi. Bây giờ các anh mang chiếc cam-nhông này đi, chùi rửa thật sạch không còn vết tích nào. Moussah sẽ giúp tôi chôn cất chú tôi.<br /> Vào lúc hoàng hôn, chiếc xe leo tới đỉnh cao nhất của ngọn Carmel. Xe dừng lại gần một khu rừng nhỏ, gần đền thờ đấng tiên tri Elie từ hai ngàn năm trăm năm nay vẫn nhìn đến thung lũng Jesreel. Moussah và Ari xuống xe và bắt đầu đào một nấm mồ. Ari nói nhỏ: Phải cởi bộ quần áo đỏ khốn kiếp này ra cho ông.
Sau khi đã được lột bỏ y phục của tử tội, xác Akiba được hạ huyệt rồi phủ đất và cành lá lên trên. Kín đáo, Moussah lảng ra xa.
Ari cầu nguyện rất lâu trước mộ của chú mình. Jacob Rabinsky đã sống trong phẫn nộ để rồi tìm thấy cái chết trong bi thảm. Bây giờ sau cùng ông đã được thứ bình an mà ông không bao giờ được hưởng trong cuộc đời. Ông sẽ an nghỉ ngàn thu trên ngọn núi mà từ đó con người có thể nhìn thấy vùng đất Chúa đã hứa cho người Hébreu.
- Vĩnh biệt chú Akiba... cháu cũng chưa kịp báo cho chú biết là bố của cháu đã tha lỗi cho chú rồi...
Chàng đứng dậy. Đột nhiên chàng loạng choạng. Moussah chạy tới kịp thời để đỡ lấy Ari ngất xỉu trong tay mình.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 9:59:37 GMT -6
Phần III => Chương 15
Kitty ra khỏi văn phòng bác sĩ Lieberman, người đã một lần nữa đã thử thuyết phục - một cách vô ích - nàng rút đơn từ chức lại. Buổi tối, ngay sau bữa cơm chiều, nàng phải dự một buổi lễ giã từ do thiếu niên trong trại tổ chức để tiễn nàng và Karen, buổi lễ mà nàng hơi e ngại - nhất là từ lúc loan báo tin Macchabée đã tấn công nhà tù Acre. Trong vụ này, các Macchabée đã mất ba mươi lăm thanh niên nam nữ - hai mươi người tử trận trong đó có Ben Moshé, mười lăm bị bắt làm tù binh. Không ai biết rõ số người bị thương mà các bạn đồng đội mang theo. Đó là một giá khá cao để cứu lấy hai mạng người... ngoại trừ khi quan niệm rằng Akiba và Dov là một cái gì khác hơn là hai mạng người. Nhìn dưới khía cạnh chính trị, dĩ nhiên trận tấn công cướp tù này là một thành công tuyệt đẹp.
Nàng bước lên các bậc thang của bệnh viện và tiến vào văn phòng của mình. Nàng có ý định xét lại một lần chót các phiếu y lý của các trẻ em đau thần kinh. Nhưng chưa chi nàng đã bỏ dở công việc. Những đứa trẻ đáng thương này, nàng có quyền từ bỏ chúng khi chúng đang cần đến nàng như vậy không? Muốn thoát ra khỏi những thắc mắc lương tâm sẽ làm cho chuyến ra đi của nàng khó khăn hơn, Kitty mở ngăn kéo kiếm thuốc trị loại thắc mắc đó: sổ thông hành của nàng và của Karen, hai vé máy bay Lydda - Nữu-ước.
Đột nhiên nàng cảm thấy sau lưng mình có một hiện diện kỳ lạ. Nàng quay lưng lại, cố gắng hét một tiếng kêu. Trên ngưỡng cửa, một người Ả-rập bộ ria to bự bóng loáng, mặc một y phục Tây phương kẻ sọc, đội một chiếc mũ fez đỏ có quấn một băng vải trắng. Hắn nói bằng một giọng thân hữu:
- Tôi xin lỗi. Tôi không hề muốn làm bà sợ. Tôi vào được không?
Ngạc nhiên thấy người đó nói tiếng Anh, Kitty gật đầu. Người Ả-rập bước vào và đóng cửa lại.
- Chắc bà là bà Fremont? - Vâng, tôi đây.
Tôi là Moussah. Tôi là dân Druse. Chắc bà đã nghe thấy mọi người nói tới chúng tôi.
Kitty biết mơ hồ rằng dân Druse là một môn phái Hồi giáo sống ở phần phía trên ngọn Carmel. Nàng cũng nhớ rằng sắc dân này không hề chia xẻ sự hận thù của dân Ả-rập đối với người Do-thái.
Người đàn ông nói thêm: Tôi là đoàn viên của Haganah.
Nàng thốt lên trong một hơi thở: Anh Ari nhưng ...
- Anh đang trốn ở Daliyat, làng tôi. Chính anh đã chỉ huy cuộc tấn công vào nhà tù Acre. Anh yêu cầu bà lại ngay. Tôi cũng phải nói bà hay là anh bị thương nặng. Bà có nhận đi cùng tôi không? - Chắc chắn có rồi. - Bà đừng mang theo thuốc men. Chúng ta phải hết sức thận trọng. Người Anh đã lập rất nhiều chặng kiểm soát và nếu họ khám phá ra thuốc men, họ nghi ngờ ngay. Ari khuyên nên lấy một xe cam-nhông và mang theo chừng hai ba mươi em. Chúng tôi nói với người Anh là chúng tôi mời các em tới dự một đám cưới cử hành vào ngày mai ở làng tôi. Nếu bà có thể tập hợp các em... chúng nên mang theo túi ngủ...
Kitty ngắt lời: Chúng tôi sẽ sẵn sàng trong mười phút nữa.
Vừa đi như chạy, nàng bổ tới văn phòng bác sĩ Lieberman.
Chuyến đi dài: chừng tám mươi cây số qua những con đường núi mà xe chỉ leo được rất chậm. Giữa đám trẻ con đang vui mừng vô lý, ngồi giữa Karen và Moussah cầm lái, nàng nghĩ tới những viên đạn đã tiến vào sâu trong bắp chân... Ari không thể nào đứng lên nổi... đau đớn ghê khiếp... mất máu nhiều. Để săn sóc người bị thương nàng chỉ có vài thứ thuốc trong túi cứu thương mà nàng mặc kệ lời cảnh cáo của Moussah: vài cuộn băng, teinture d’iode, sulfamide, tất cả giấu trong túi đựng bao tay.
Đến trạm kiểm soát thứ nhất, quân Anh bắt tất cả mọi người xuống xe. Các quân lính tháo tất cả các túi ngủ ra, đâm dăm ba nhát lưỡi lê, xét dưới gầm xe, tháo các bánh sơ-cua ra coi. Họ khám động cơ, lục soát từng trẻ em một. Kitty nghiến răng chặt coi đồng hồ: mất thêm một tiếng rưỡi rồi...
Các quân sĩ ở trạm kiểm soát thứ hai ở chân ngọn Carmel cũng không kém tỉ mỉ cẩn thận. Kitty gần như hết sức chịu đựng thì chiếc xe được phép ra đi để leo lên những đường núi hẹp ngoằn ngoèo đưa lên đỉnh. Moussah cắt nghĩa:
- Tất cả những làng Druse đều ở trên cao hết. Chúng tôi là một sắc dân thiểu số nên bắt buộc phải chọn các cao địa để dễ chống cự với các cuộc tấn công của dân Ả-rập.
Một giờ rưỡi sau họ tiến vào Daliyat, một tổ phụng hoàng nằm tít trên một cao nguyên chung quanh dốc ngược.<br /> So với các làng Ả-rập ở dưới đồng bằng, Daliyat, với các ngôi nhà trắng xóa, có vẻ xinh xắn sạch sẽ đến độ đáng ngạc nhiên. Các dân đinh cũng khác và khá hơn các dân Hồi giáo khác ở Palestine. Nhiều đàn ông ăn mặc theo kiểu Tây phương. Phụ nữ xinh xắn, một số trẻ con rất đẹp, khỏe mạnh và linh hoạt.
Chiếc xe rẽ từ từ qua đám đông quan khách tụ tập nơi này để dự đám cưới sẽ cử hành vào ngày mai. Xe dừng trước phòng chính lễ, các trẻ con nhẩy xuống đất, và mang theo túi ngủ. Chúng chạy đến lập trại ở một khoảng đất kế cận. Kitty và Karen ngồi lại trong ca-bin xe. Moussah lại cho xe chạy qua đường phố chính rồi quẹo vào một ngõ nhỏ dốc ngược. Moussah nói:
- Còn trăm thước chót này chúng ta sẽ đi bộ. Đường này dốc quá thắng xe không đủ sức chịu.
Moussah đưa Kitty và Karen đến ngôi nhà cuối làng có chừng mười người Druse võ trang đứng gác. Phía trong, hai người nữa đứng canh trước một cánh cửa. Kitty quay lại Karen:
- Em đợi cô ở đây đi. Nếu cô cần, cô sẽ gọi. Anh Moussah, xin anh đi với tôi.
Trong phòng hầu như tối hoàn toàn. Kitty nghe thấy một tiếng rên. Nàng tiến về phía cửa sổ, mở tung các cánh.
Ari nằm dài trên một chiếc giường đồng lớn. Các thanh giường đã cong vì tay Ari níu vào, đủ cho biết chàng đã đau đớn đến mức nào. Kitty lật chăn. Quần áo Ari cùng chăn nệm đều đẫm máu.
- Anh Moussah giúp tôi cởi quần anh Ari ra hộ.
Moussah không giấu nổi một cái giật mình. Kitty trách:
- Đâu không phải lúc thẹn thò về những chuyện như thế. Thôi, tôi cũng cởi nổi một mình rồi. Bây giờ anh dang ra đừng đứng đó làm vướng tôi thì có.
Sau khi cắt bỏ vải quần, Kitty xem xét vết thương. Mầu da hầu như bình thường, mạch đập tương đối cao. So sánh hai chân, nàng nhận thấy chân bị thương chỉ hơi sưng thôi. Yên tâm, nàng tìm lại ngay được tính cứng rắn nghề nghiệp.
- Anh Moussah, mang ngay lại đây cho tôi xà-bông, nước, khăn sạch. Tôi sẽ thử thăm dò vết thương.
Khi nàng thận trọng đưa tay thăm dò quanh vết thương, Ari mở mắt.
- Kitty! Cám ơn Trời... cô đã đến được... - Anh đã làm gì để chữa trị? - Chiều qua, tôi đã rắc bột sulfamide. Tôi cũng quấn băng ép, nhưng vào lúc đó, máu không ra nhiều... - Tốt. Tôi bắt buộc phải kiếm đạn trong chân anh - anh sẽ đau ghê lắm đó. - Cô làm đi!
Nhưng khi nàng mới ấn mạnh ngón tay trên vết thương, Ari đã rên lên. Mặt ướt đẫm mồ hôi, chàng nắm lấy thành giường. Kitty vội rút tay lại. Nhưng Ari vẫn tiếp tục run lên. Cơn đau chỉ dịu đi sau nhiều phút. Kitty cúi xuống lau trán cho chàng.
- Anh có đủ sức nói không? - Đủ. Bây giờ đỡ hơn rồi. Thứ đau đớn này - lúc nó xuất hiện, lúc nó biến đi... Bao nhiêu là rắc rối vì cái cẳng bị hư này! Tôi thật là thảm hại. Cô có hiểu tại sao không?
Nàng lo âu nói:
- Hiểu và không hiểu. Một viên đạn có thể rắc rối lắm. Không thể biết nó đi qua đâu hay nấp vào chỗ nào. Tình trạng chung của anh không có gì đáng lo: mạch và nhịp thở bình thường, không bị choc, chân chỉ sưng ở phần chung quanh vết thương thôi. Như vậy là không có xuất huyết bên trong: viên đạn không chạm tới động mạch. Cũng không bị nhiễm độc nữa. Nói chung, anh may mắn đó. Điều duy nhất làm tôi thắc mắc không hiểu là thứ đau đớn ghê gớm của anh thôi. - Đúng thế. Cứ hai hay ba tiếng, tôi lại ngất xỉu đi một lần. - Anh nắm lấy các thành giường đi. Tôi phải xem lại vết thương.
Nhưng sau vài giây, nàng lại phải thôi. Thét lên một tiếng, Ari cong tung người lên rồi sụm xuống, không thở nổi. Lần này các co quắp run rẩy kéo dài tới mười phút mới hết. Ari rên rỉ:
- A, khốn nạn quá! Kitty, cô hãy cắt nghĩa cho tôi hiểu tại sao một viên đạn tầm thường lại có thể làm đau đớn đến như thế được...
Kitty lắc đầu: Tôi không phải là y sĩ. Tôi có thể đoán lầm lắm. Tôi không dám đưa ra một định bệnh nào...
Ari hổn hển: Thì cô cứ nói cô đã phỏng đoán ra sao cũng được. - Nếu anh muốn, cũng xin vâng... Viên đạn đã chạm vào xương. Đạn không làm vỡ xương bởi vì anh còn đi được sau khi bị thương, nhưng chắc nó đã gây ra một vết rạn nứt hay làm sứt một mảnh xương. Có lẽ như thế là đủ cắt nghĩa tại sao đau đớn như vậy. Nhưng tôi, tôi tin có lẽ là viên đạn trượt trên xương rồi nằm áp sát ngay vào một dây thần kinh. - Trong trường hợp như thế, phải làm gì? - Lấy viên đạn ra với bất cứ giá nào. Nỗi đau đớn này sau cùng có thể làm anh chết hay ít nhất cũng có thể làm tê liệt. Nhưng không thể có vấn đề chở anh xuống dưới đồng bằng. Chúng ta sẽ bị nguy hiểm hơn, nhất là sự xuất huyết bên trong. Do đó, phải tìm cách gọi y sĩ đến đây - trong nội vài giờ nữa thôi, nếu muốn tránh tình trạng trầm trọng hơn.
Ari ngửng đầu lên nhìn Moussah. Người dân Druse này giơ tay làm một cử chỉ biểu lộ bất lực.
Kitty đứng dậy. Bằng một bàn tay run rẩy, nàng châm một điếu thuốc lá nói:
- Trong trường hợp như thế này, tôi chỉ thấy còn một cách: anh ra đầu hàng người Anh để được săn sóc đúng cách.
Ari ra dấu, Moussah đi ra.
- Lại gần tôi đi, Kitty.
Chàng cầm lấy tay nàng:
- Cách giải quyết của Kitty không đi tới đâu hết. Người Anh sẽ treo cổ tôi. Chỉ có em là cứu được tôi thôi, Kitty.
Cổ họng khô lại, Kitty rút tay và lùi lại tựa người vào tường. Ari, bây giờ rất điềm tĩnh, nhìn nàng một cách nghiêm trang.
- Em không làm được đâu... Em không phải là y sĩ... - Em phải làm bằng được, còn cách nào nữa đâu. - Em không có dụng cụ... - Tôi nhắc với em lần nữa là đâu có cách nào khác. - Nhưng em không làm được... đau đớn sẽ giết chết anh mất... Anh sẽ không chống lại nổi đâu... Anh Ari, em sợ lắm.
Nàng ngồi gục xuống ghế. Hiển nhiên là Ari có lý: nếu người Anh nắm được kẻ đã điều khiển trận đánh cướp tù, họ sẽ treo cổ ngay. Nàng là hy vọng độc nhất của chàng: dầu sao, không làm gì hết, cũng là đưa chàng đến chỗ chết.
Nàng đã quyết định. Nhìn thấy một chai rượu mạnh trong phòng, nàng đưa lại cho Ari.
- Anh hãy bắt đầu bằng cách uống chai này. Khi cạn chai, em sẽ đưa cho anh chai khác. Anh hãy uống say thật cẩn thận, chúng ta chỉ có mỗi loại thuốc mê này thôi. Và em cũng phải nói anh sẽ đau đớn kinh khủng lên được. - Cám ơn Kitty.
Nàng ra mở cửa.
- Anh Moussah! Chúng ta có thể kiếm thuốc men ở đâu? - Ở kibboutz Yaggour. - Một chuyến đi về sẽ mất bao nhiêu lâu? - Đi thì nhanh. Về, đường khác vì quân tuần tiễu Anh, không thể đi trên đường lộ được. Bắt buộc phải đi bộ và leo dốc núi thì lâu lắm. Cho dù đi ngay bây giờ, cũng phải quá nửa đêm mới về tới đây. - Được. Tôi sẽ lập một danh sách những gì cần thiết. Anh lo sao cho người bạn anh lên đường ngay lập tức. Nói với anh ta là phải nhanh lên.
Khi sắp viết danh sách thuốc men, nàng do dự. Người giao liên có thể trở về đây rất trễ. Hơn nữa, phòng y tế của kibboutz sẽ không có những thuốc mê thuốc tê nàng cần. Điều đó có nghĩa là nàng không thể chần chừ chờ đợi lâu hơn được nữa. Bởi thế nàng chỉ biên vào giấy yêu cầu cung cấp hai lít máu, trụ sinh, morphine, băng và một nhiệt kế. Moussah trao tờ giấy cho một người đứng canh, người này lập tức lên đường.
- Karen, cô sẽ cần tới em. Nhưng cô báo trước cho em biết là vụ này sẽ khó khăn, hết sức khó khăn đấy. - Em sẽ chịu đựng được bất cứ cái gì để giúp cô. - Tốt lắm, cưng. Anh Moussah, vì anh chẳng có bao nhiêu thuốc men trong làng nên chúng tôi sẽ thử làm việc với những gì chúng tôi đã mang theo được. Nhưng tôi cần có một đèn pin và... coi nào... vài lưỡi dao cạo chưa dùng lần nào hay một con dao nhỏ mài thật sắc. - Tôi có thể tìm kiếm được các thứ đó. - Tốt. Anh đun sôi những dao cạo và dao nhỏ đó trong nửa giờ cho tôi.
Moussah ra mở cửa ngoài, ra các chỉ thị Kitty dặn.
- Bây giờ anh trải chăn ra đất cho tôi. Giường nhún nhẩy quá không được, cần phải giữ người bị thương hoàn toàn bất động. Karen, ngay sau khi anh Ari đã được đưa xuống đất, em tháo những ra bẩn này đi. Chắc anh Moussah sẽ có thể đưa em ra mới thay thế.
Moussah nói: Dĩ nhiên rồi. Bà còn cần gì nữa không?
- Có chứ: tôi cần sáu hay bảy người để chuyển anh ấy xuống đất cùng để giữ chặn anh trong khi tôi mổ vết thương.
Các lệnh của nàng được thi hành nhanh chóng. Sau khi uống hết nửa chai rượu thứ hai, Ari đã say không nói được nữa. Mọi người khiêng chàng xuống chăn trải dưới đất. Kitty chèn thêm một cái gối dưới đầu và nhét một khăn tay vào giữa hai hàm răng. Rồi sau khi rửa tay, nàng rửa chỗ vết thương và bôi teinture d’iode. Nàng nói:
- Tôi sẵn sàng rồi. Cần nhất các anh phải giữ anh ấy thật chắc, không để nhúc nhích tới một phân nào.
Moussah đã mang vào tám người nữa: một người giữ đầu, hai người giữ hai tay, hai người nữa giữ chân lành, hai người chót giữ chân bị thương. Karen thì đứng, cầm đèn pin, chai rượu và băng bông. Kitty quỳ gối xuống.
Rạch một nhát chính xác, nàng mở các bắp thịt ngay bên trên lỗ đạn một đường dài năm phân. Ari giật mình mạnh đến nỗi những người dân Druse phải dùng hết sức của mình đè xuống.
Nhìn thấy môi Kitty tái đi và mắt lờ đờ, Karen vội nắm lấy tóc nàng và đưa ly rượu vào miệng. Kitty suýt sặc, nhưng nàng tỉnh trí lại được và uống thêm một ngụm thứ hai nữa. Ari đã ngất đi. Một tay Kitty vạch vết thương, tay kia nàng thăm dò bên trong. Nàng cảm thấy một vật cứng thoáng chạm vào móng tay trỏ. Sau một nỗ lực chót, nàng nắm được viên đạn và kéo ra ngoài.
Ngồi phịch xuống đất, nàng ngơ ngẩn nhìn viên đạn.
Nàng nấc lên một tiếng rồi đột nhiên phá lên cười như điên rồi òa lên khóc. Nàng hầu như không nghe tiếng nói vững vàng của Karen:
- Nhanh lên, đưa chú Ari lên giường. Cẩn thận, đừng để bất cứ cái gì chạm vào vết thương hết.
Cũng vẫn chính Karen rắc bột sulfamide vào vết thương và băng bó lại. Ngồi xụp trong một góc, Kitty vẫn khóc nức nở.
Karen yêu cầu tất cả đàn ông ra khỏi phòng, rót cho Kitty một ly rượu nữa rồi sau cùng, cũng mở cửa ra khỏi phòng.
Chậm chạp, Kitty đứng dậy. Lại gần giường, nàng xem mạch, vạch các mi mắt lên coi, quan sát màu da.
Đúng... không còn nghi ngờ gì nữa, chàng sẽ qua khỏi.
Quì xuống, nàng đặt đầu mình lên bộ ngực rộng của Ari đang còn hôn mê, thì thào giữa hai tiếng nức nở:
- Anh Ari... anh Ari...
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:01:43 GMT -6
Phần III => Chương 16
Tới sáng ngày hôm sau, thuốc men vẫn chưa về đến nơi. Bị đau đớn hành hạ, Ari không ngừng trăn trở và rên xiết. Kitty không rời chàng lúc nào, đã kiệt lực.
Nàng gọi Moussah đang đứng chờ ở lối vào nhà.
- Anh sắp phải đưa các trẻ con trở về Gan Dafna. Trong làng còn có ai biết nói tiếng Anh nữa không? - Có chứ. Tôi sẽ nói với hắn túc trực gần bà. - Cám ơn, bây giờ anh có thể kê thêm một chiếc giường khác hay một đi-văng không? Tôi ít nhất cũng một tuần nữa mới có thể rời bệnh nhân được. - Tôi sẽ cho kê dọn ngay.
Trong phòng Karen ngồi trên một ghế dài, đã thiếp ngủ. Kitty dịu dàng đánh thức nàng dậy. Thiếu nữ hỏi:
- Anh ấy ra sao? - Không được khá cho lắm. Anh đau đớn nhiều. Karen cưng, em phải trở về Yad El ngay bây giờ cùng với các trẻ em. Cô xin em, đừng có cãi cô. Em cắt nghĩa cho bác sĩ Lieberman hiểu là cô phải ở lại đây... - Nhưng cô ơi, mai chúng ta phải lên tầu rồi mà... - Em hủy chỗ đi. Đổi lui lại một thời gian... Cô cũng chẳng biết bao giờ cô mới rời nổi thương binh của chúng ta. Bây giờ một việc khác: em ghé qua Safed báo cho bác Bruce Sutherland biết và yêu cầu bác đợi cô ở Haïfa. Nhắc bác mang giùm cho cô ít quần áo.
Karen hôn nàng rồi ra đi.
Sau cùng, tới buổi chiều, thuốc men cũng lên tới nơi. Người giao liên đã phải nhiều lần lẩn trốn trong nhiều giờ để tránh các toán quân Anh đã được tung ra để lùng kiếm các Macchabée bị thương. Kitty tiếp cho Ari một lít huyết và rất nhiều liều trụ sinh để ngừa mọi nhiễm độc, chích một mũi morphine để làm dịu cơn đau ghê gớm.
Trong bốn mươi tám tiếng sau đó, nàng duy trì Ari trong tình trạng ù lì nhưng dễ chịu bằng morphine. Rồi nàng bắt đầu chích thưa dần đi. Bây giờ Ari, nhờ sức mạnh sẵn có và thần kinh hữu hạng, đã bắt đầu bình phục dần dần. Sáng ngày thứ năm, Ari đột nhiên tỉnh táo, đòi ăn và xin ngay một con dao cạo và gương soi. Bằng một giọng nữ điều dưỡng, nàng nói:
- Tôi nghĩ là cuối tuần này, chúng ta có thể thôi dùng morphine. Đến khi đó, anh sẽ bắt đầu tập đi với chân bị thương - một cách cẩn thận bởi vì vết thương chưa liền, dám lại toác ra nếu anh bắt bắp thịt cố gắng quá sức. - Khi nào thì tôi lại có thể đi được? - Khó biết lắm, ngày nào chúng ta chưa chiếu điện được chân anh. Có thể xương chỉ bị rạn thôi: nếu có mảnh, anh sẽ đau đớn như cũ. Dẫu thế nào, anh cũng không thể rời làng này ít nhất là trong một tháng nữa.
Nàng cúi xuống để kéo lại chăn.
- Anh có vẻ khỏe hẳn rồi đó, tôi đi dạo một vòng. Nửa giờ nữa tôi sẽ trở lại... - Đợi chút đã, Kitty. Tôi... tôi muốn nói... cô đã săn sóc tôi khéo léo như một nàng tiên. Thế rồi đột nhiên cô lại cáu giận. Tại sao vậy? Tôi đã làm gì cô? - Không có gì hết. Tôi chỉ kiệt sức thôi. Tôi đã coi sóc anh trong năm ngày năm đêm liền...
Ari ngắt lời nàng:
- Không phải thế. Tôi cảm thấy có một cái gì khác. Hãy nói cho tôi biết đi... cô hối tiếc là đã tới đây phải không?
Kitty nói nhỏ: Anh đã đoán đúng.
- Nhưng sao mới được chứ, Kitty? Vậy cô ghét tôi sao? - Những điều tôi làm chưa đủ để chứng tỏ là tôi không ghét anh sao? Nhưng... thôi xin anh... tôi mệt thật rồi... - Cắt nghĩa đi Kitty.
Nàng thở dài:
- Được rồi, nếu anh muốn thế. Tôi hận tôi, tôi khinh tôi vì đã lo lắng cho anh nhiều đến như thế. Rồi, nói vậy anh đã hài lòng chưa?
Ari lắc đầu:
- Đàn bà rắc rối! Tại sao cứ gặp nhau là chúng ta kình nhau như hai địch thủ đấu boxe vậy, lúc nào cũng sẵn sàng đánh ra, né tránh? Tại sao vậy?
Kitty nhìn chàng rất lâu.
- Có lẽ tại tôi không chịu chấp nhận tuân theo các quan niệm quá đơn giản của các anh: "Anh thích tôi, tôi thích anh, vậy chúng ta hãy ngủ với nhau". Trang 444 cẩm nang của Palmach: Con trai con gái phải tránh tất cả mọi thẹn thùng giả tạo. Hỡi phụ nữ Palestine, hãy thẳng thắn và trực tiếp: khi nào gặp người đàn ông mình ưa, hãy vào giường hắn. Rất tiếc, nhưng tôi không thể là, không bao giờ có thể tân tiến như Jordana hay cái cô bất tử Dafna của anh... - Cô im đi nào! Tại sao cô lại dám quả quyết là phụ nữ chúng tôi lại lăng loàn như thế? Jordana trước sau chỉ yêu có một người: nàng có quyền khước từ hiến thân cho người nàng yêu không, một khi chỉ đến cuối tuần lễ đó thôi, cả hai đều có thể đã chết cả rồi? Cô tin ở tôi đi, tôi thích sống trong bình an với Dafna giữa ruộng vườn hơn là trương mình ra cho quân Ả-rập ám sát.
Kitty nhún vai.
- Làm thế nào được. Tôi, tôi không quan niệm cuộc đời như một sứ mệnh cao cả bao giờ. Tôi cần được tin chắc rằng tôi là kẻ tối cần thiết cho người tôi yêu. - Tôi đã không chứng tỏ tôi cần em đến mức nào sao?
Nàng nở một nụ cười ngắn ngủi, chua chát.
- Ồ, có chứ! Anh đã cần đến tôi ở đảo Chypre để đưa giấy tờ giả do Dov Landau chế tạo ra ngoài trại. Anh lại cần đến tôi ở Palestine này để lấy một viên đạn lạc vào chân ra. A! Anh quả là người tài ba: ngay cả lúc đau gần chết, anh còn nghĩ ra mưu kế khôn ngoan cho tôi đi du hành giữa một bầy trẻ trong một chiếc cam-nhông. Thực ra, anh đâu cần tôi, anh chỉ cần một y tá giỏi đủ khả năng vượt qua các trạm kiểm soát của quân Anh mà thôi. Tôi biết là tôi chỉ nên trách tôi mà thôi. Xét cho cùng, nếu tôi đã đi yêu một cái máy không hiểu đến nghĩa của chữ "yêu" nữa, thì lỗi chính là tại tôi mà thôi.
Nghiêng người xuống Ari, nàng không nghĩ tới việc giữ những giọt nước mắt tức giận đang lăn dài xuống má.
- Có thể rằng một ngày nào đó anh sẽ cần đến một người nào. Và lúc đó sẽ ghê khiếp cho anh bởi vì anh không thể nào yêu cầu nổi người ta giúp anh một cách thành thật. - Có phải cô lúc nãy nói là sắp đi dạo một vòng phải không? - Tôi có nói thế và tôi sắp làm bây giờ đây. Tôi sẽ còn đi dạo rất lâu, không hề muốn trở lại nữa. Điều dưỡng Katherine Fremont xin cáo từ ông Ben Canaan. Trong vài ngày nữa, Palmach sẽ đến đây lo cho ông. Từ giờ đến đó, ông không có chết đâu.
Nàng quay lưng và đi ra. Một giờ sau nàng rời làng.
Nàng chỉ trở lại Gan Dafna sau khi đã sống hai ngày ở Haïfa cùng Bruce Sutherland. Khi nàng sặp mở cửa phòng làm việc, nàng ngạc nhiên thấy Jordana đang đứng đợi nàng, vẻ ngượng ngùng.
Kitty lạnh lùng hỏi: Cô muốn gì? Sáng nay tôi bận lắm.
- Chúng tôi đã được biết chị đã làm những gì cho anh Ari. Tôi chỉ muốn nói là tôi rất biết ơn chị... - Tôi thấy là các cơ quan tình báo của cô đã liên lạc được với các dân làng Druse. Về phần tôi, tôi rất tiếc là đã phải lui ngày khởi hành đi Mỹ của tôi lại quá nhiều ngày. Nhưng cô đừng cho là tại phía cô: nếu một con chó bị thương đi nữa, tôi cũng lo cho nó như thế.
Vào cuối tháng tám 1947, Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cho công bố hai khuyến cáo, một được đa số ủy ban ủng hộ, một là của nhóm thiểu số cũng trong ủy ban này. Cả hai dự án này đều chủ trương nên chia Palestine: sẽ có một Quốc gia hoàn toàn Do-thái, một Quốc gia hoàn toàn Ả-rập, và một vùng quốc tế bao gồm đô thị Jérusalem cùng các thánh địa.
Người Do-thái khẩn khoản xin ủy ban, ngoài các vùng đã có dân cư, phân phối cho thêm sa mạc Néguev nữa. Bên Ả-rập đã có cả triệu cây số vuông sa mạc mà chưa tìm cách khai thác bao giờ. Còn người Do-thái, họ hy vọng sẽ mang lại được một hình thức sinh động nào đó cho mấy ngàn cây số vuông này, bằng cách tưới mồ hôi và nước mắt lên cát và sỏi đá. Ủy ban điều tra chấp nhận. Tuy thế, dù có được lớn thêm bằng sa mạc Néguev, phần lãnh thổ của Do-thái theo dự án thuận lợi cho họ nhất, cũng vẫn là một sự vô nghĩa lý trên cả ba bình diện chính trị, kinh tế của quân sự: ba dẫy đất duyên hải nối liền với nhau bằng các hành lang hẹp - một vùng đất thành lập kỳ cục, khó khai thác, khó bảo vệ, một thứ thỏa hiệp không ra làm sao cả. Nhưng các đoàn thể phục quốc Do-thái, đã thấm mệt vì đã chiến đấu trong nửa thế kỷ rồi, tuyên bố là họ sẽ chấp nhận dự án này.
Còn người Ả-rập, họ tuyên bố răng chia Palestine là có chiến tranh ngay.
Nghị quyết sau cùng sẽ được bàn cãi vào giữa tháng chín, khi có phiên họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở Nữu-ước.
Thể theo sự nài nỉ thân hữu của bác sĩ Lieberman, Kitty đã lui ngày ra đi lại nhiều tuần nữa. Bây giờ, sắp đến lúc chia ly. Sáng ngày mai, Bruce Sutherland sẽ đưa nàng cùng Karen đến phi trường Lydda để lên máy bay đi La-mã. Các hành lý cồng kềnh đã được gửi đi theo đường biển.
Ngồi một mình trong văn phòng, Kitty đọc lại vài phiếu của những đứa trẻ mới tới trại trong những tháng gần đây...
"ROBERT DUBUAY, 16 tuổi. Quốc tịch gốc: Pháp. Tìm thấy ở Bergen-Belsen. Lúc giải thoát, Robert mười ba tuổi, nặng 28 ký. Phải chứng kiến cảnh xử tử bố mẹ và một đứa em. Chị Robert (sau này tự tử) bị bắt phải làm điếm cho các quân S.S. trong trại. Robert tỏ ra nhiều triệu chứng thù hận sâu xa, và e rằng sẽ bị..."
"SAMUEL KASNOWITZ, 12 tuổi, gốc Estonie. Theo như được biết tới giờ, không còn thân nhân nào sống sót. Sau khi trốn tránh trong hầm của một gia đình Ki-tô giáo, đã phải chạy vào rừng sống một mình trong vòng hai năm..."
Tất cả những phiếu này đều giống nhau. Ác mộng... các cơn khủng hoảng tinh thần... tính gây hấn... Kitty xếp các phiếu trả lại hồ sơ. Bằng một cử chỉ đột ngột, nàng đứng dậy, tắt đèn, vừa ra khỏi phòng vừa chạy.
Dùng đèn pin soi đường, nàng đi qua bãi cỏ lớn. Mọi người đã đào thêm các địa đạo. Gần khu nhà ngủ của các trẻ em, mọi người đã tăng cường thêm bê-tông cho các hầm trú.
Nàng mở cửa nhà mình. Trong một góc, các va-li đã sẵn sàng cái nào cũng đã cột nhãn đầy đủ.
- Karen... em ở đâu, cưng?
Có một mẩu giấy nhỏ để trên bàn bếp.
"Bạn bè tổ chức một chầu nhẩy nhót giã từ quanh lửa trại. Em sẽ về khá sớm. Hôn cô. Karen."
Kitty châm một điếu thuốc và đi đi lại lại trong phòng. Sau một vài phút, bị trời nóng khó chịu, nàng ra khỏi nhà. Trong không khí yên tĩnh, thoang thoảng một mùi hương hoa hồng. Nàng đi theo con đường nhỏ chạy giữa các ngôi nhà nhỏ, nhà nào cũng có thảm cỏ, hàng rào và cây cối. Lúc sắp quay trở lại, nàng nhận thấy có ánh sáng đèn sau cửa sổ nhà Lieberman.
Nàng nghĩ: "Chắc hẳn ông ấy đang khổ sở lắm". Hai đứa con của ông, một trai một gái, đã rời trường Đại học để nhập ngũ trong Lữ đoàn Néguev, một đơn vị mới thành lập của Palmach. Nàng đi tới tận cửa nhà, giơ tay gõ. Bà quản gia, cũng già và cũng dễ thương như ông trưởng trại, mời nàng vào phòng làm việc. Vị bác sĩ già đang tìm cách đọc một lời ghi bằng tiếng hébreu trên một chiếc bình cổ xưa. Máy phát thanh đang chơi một điệu nhạc của Schumann. Khi Kitty bước vào, viên bác sĩ đặt chiếc kính phóng đại xuống. Nàng nói: Shalom.
Viên bác sĩ già mỉm cười. Đây là lần đầu tiên nàng chào ông bác sĩ bằng tiếng hébreu.
- Shalom, Kitty. Đây là một tiếng rất dịu để giã từ người bạn cố tri... - Và cũng là một tiếng rất dịu để đón chào một người bạn... để chúc bạn một ngày tốt đẹp. - Kitty... coi kìa... - Vâng, bác sĩ ạ. Shalom... Tôi sẽ ở lại đây, Gan Dafna này. Chính nơi này mới là nơi tôi phải sống.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:04:53 GMT -6
Phần IV => Chương 1
Mùa thu 1947
Liên Hiệp Quốc
Flushing Meadow (Nữu-ước)
Vụ biểu quyết chia xẻ xứ Palestine sẽ rất là gay go, thê thảm
Muốn thắng, cần phải đạt được đa số hai phần ba. Vậy mà các quốc gia Ả-rập, nếu chính họ chỉ có mười một phiếu, lại có thể lợi dụng các vị trí chiến lược cùng tài nguyên dầu hỏa để gây một áp lực mạnh với rất nhiều quốc gia khác. Chưa kể đến sự họ có thể lợi dụng cuộc tranh chấp giữa Nga Xô và Hoa-kỳ, đồng minh chính của Anh quốc, để vận động thêm. Còn phía Do-thái, dĩ nhiên là họ có nhiều thân hữu trong các quốc gia trung lập, các quốc gia Bắc Âu và Mỹ la-tanh. Họ cũng có thể trông cậy ở nước Pháp, dù rằng quốc gia này phải rất gượng nhẹ với các thuộc địa Hồi giáo Bắc Phi, cho tới giờ vẫn chưa mặc cả sự ủng hộ Do-thái bao giờ. Nhưng từ đó tới chỗ hội đủ hai phần ba tổng số phiếu, còn cả một khoảng cách ghê gớm nữa. Hơn nữa, chính Anh quốc cũng chống lại sự chia cắt bởi vì nước Anh hy vọng sẽ được Liên Hiệp Quốc trao quyền ủy trị xứ này một lần nữa. Anh quốc chắc sẽ không do dự trong việc gây áp lực tối đa với một số nước nhỏ ở Âu châu có nền kinh tế tùy thuộc ở đồng Anh kim.
Như vậy trận đánh mở ra vào ngày 29 tháng 9 có vẻ như bất trắc cho người Do-thái. Tuy vậy, sau chừng một tiếng đồng hồ, Chaim Weizmann và Barak Ben Canaan, các trưởng phái đoàn Do-thái, bắt đầu hy vọng. Mặc dù số phiếu trắng khá cao, các phiếu ủng hộ chia cắt Palestine thắng thế rõ rệt. Các quốc gia của Khối Thịnh Vượng Chung, ngoại trừ nước Pakistan theo Hồi giáo, đều bỏ phiếu thuận, chứng tỏ chính sách của Anh quốc đã thất bại. Cũng như trường hợp của đại diện Nga Xô - đây là một ngạc nhiên vui sướng bởi vì Weizmann đã dự trù Liên Xô sẽ bỏ phiếu trắng, căn cứ trên sự kiện tại quốc gia này, các chủ nhân ông của điện Cẩm-linh đã cấm chỉ tất cả mọi tuyên truyền cho chủ nghĩa phục quốc Do-thái. Không ai thèm muốn địa vị của đại diện Anh quốc, mặt tái xanh, loan báo rằng "chính phủ của Đức Vua mong muốn không bầy tỏ ý kiến". Các phiếu sau cùng, của Uruguay và Vénézuela, đã mang lại cho Do-thái đa số cần thiết.
Ở Tel-Aviv, mọi người điên lên vì vui mừng. Ít nhất cho một thời gian ngắn. Ben Gourion và các lãnh tụ khác của "Trung ương" đều biết rằng cần có một phép mầu lớn hơn nữa mới có thể giành được độc lập cho quốc gia Israël tương lai, cái quốc gia chung quanh chưa chi đã vang lên hàng triệu tiếng la hét của người Ả-rập: "Hãy giết chết bọn Do-thái!"
Ở Caire, ở Damas, ở Arabie Séoudite, các tiếng nói căm thù cất lên hô hào thánh chiến. Azzam Pacha, tổng thư ký của Liên đoàn Ả-rập, tuyên bố công khai như sau:
"Chúng ta sẽ mở ra một cuộc chiến tranh diệt chủng. Mọi người sẽ được thấy những cuộc tàn sát như của dân Hung nô đã thực hiện trước đây."
Ngay hôm sau ngày biểu quyết của Liên Hiệp Quốc, một cuộc tổng đình công đã biến thành dấy loạn. Ở Jérusalem, dân chúng tàn phá trung tâm thương mại của khu Do-thái trước con mắt lãnh đạm của quân lực Anh. Còn Liên Hiệp Quốc, chẳng những không nghĩ tới chuyện thành lập một lực lượng quốc tế để tới trám chỗ cho lực lượng Anh sắp sửa rút đi đến nơi, lại chỉ bàn cãi thảo luận không ngừng.
Còn những người Do-thái, họ tỏ ra thực tế hơn. Bây giờ quốc gia tương lai của họ có một căn bản hoàn toàn hợp pháp. Nhưng nếu họ muốn tuyên bố độc lập sau khi quân Anh di tản khỏi Palestine, nửa triệu dân thiếu trang bị của họ sẽ phải cô độc đương đầu với chừng năm mươi triệu dân Ả-rập cuồng tín.
Người Ả-rập không hề có ý định chờ đợi sự tuyên bố độc lập này của người Do-thái. Tạm dành quân chính quy lại, người Ả-rập cho thành lập nhiều "đạo quân giải phóng", gồm có những người được gọi là tình nguyện, để xâm chiếm Palestine. Đồng thời, một nhóm buôn lậu hoạt động tích cực để thành lập rất nhiều kho vũ khí tồn trữ trong nội địa xứ này.
Trong lúc đó, "Trung ương" Do-thái kiểm kê lại lực lượng bên mình. Bản tổng kết rất bi quan: về chiến binh trang bị và huấn luyện đầy đủ, họ chỉ có trước sau bốn ngàn người của Palmach. Các Macchabée chỉ chiêu tập được chừng một ngàn người, và còn xa mới kiếm được sự thỏa thuận hợp tác của họ. Tuy thế Avidan có thể trông cậy ở nhiều yếu tố phụ nữa. Trước hết là các nhân sự dự trữ của Haganah, gồm rất nhiều ngàn người đã được huấn luyện quân sự đầy đủ trong quân lực Anh thời đệ nhị thế chiến. Kế đó các dân vệ của các kibboutz mà ông đã kiên nhẫn và tỉ mỉ tổ chức suốt hai mươi năm trường. Và sau hết là một hệ thống tình báo tuyệt hảo. Ngược lại, các lực lượng Do-thái rất thiếu hụt vũ khí: các cơ sở phục quốc Do-thái rải rác khắp thế giới chỉ mua được một số lượng giới hạn, hạm đội Anh tiếp tục phong tỏa duyên hải Palestine, và tệ hơn nữa là Hoa-kỳ lại vừa ra lệnh cấm gửi mọi loại vũ khí sang Trung Đông. Một biện pháp chỉ có nhằm vào người Do-thái thôi. Còn các quốc gia Ả-rập họ có thể mua vũ khí ở nhiều nước và tùy ý chuyên chở về nước dưới hiệu kỳ quốc gia.
Nói tóm tắt về phía Ả-rập có một ưu thế hết sức rõ rệt về người cũng như vũ khí. Hơn nữa phía Ả-rập lại có, đây là trường hợp kỳ lạ, một lãnh tụ quân sự xứng đáng với danh từ là Abdoul Kadar, cháu của vị mufti.
Nhưng sự kiện nghiêm trọng nhất là thái độ của người Anh. Luân-đôn còn hy vọng rằng "Trung ương" Do-thái sẽ cầu cứu tới họ, từ bỏ việc chia cắt và xin người Anh ở lại Palestine. Do đó phát xuất một chiến thuật hết sức lợi cho phía Ả-rập. Trên lý thuyết, mỗi khi di tản khỏi một vùng nào, người Anh phải trao các đồn Taggart cho chức quyền nào đại diện cho đa số dân trong vùng liên hệ. Trên thực tế, các chỉ huy trưởng địa phương đã thích trao các pháo đài này cho người Ả-rập hơn, ngay cả trong các khu vực hoàn toàn chỉ có người Do-thái.
Chưa chi các cuộc chạm súng đầu tiên đã xẩy ra chung quanh các nông trường cô lập. Rồi Abdoul Kadar, được tấn phong làm "tư lệnh" vùng Jérusalem, đã cho áp dụng một chiến thuật kép để hy vọng đạt chiến thắng dễ dàng. Một mặt, không dám dàn trận tấn công các kibboutz phòng vệ kỹ lưỡng, ông bao vây tuyệt lương cho đói, một mặt khác, ông cho tăng cường các cuộc tấn công chống lại sự vân chuyển đường bộ của Do-thái.
Bởi thế, ngay từ lúc đầu khởi chiến, người Do-thái đã bắt buộc phải cố thủ trong các vị trí mà việc tiếp vận vũ khí đạn dược đã đặt ra những vấn đề không sao giải quyết nổi. Tình trạng này còn lâm nguy hơn nữa khi Kadar quyết định tuyệt lương của một trăm ngàn dân Do-thái trong Jérusalem. Vậy mà con đường duy nhất nối liền khu Do-thái mới này với Tel-Aviv lại băng qua vùng núi Judée, vùng mà các làng Ả-rập khống chế tất cả mọi hẻm núi, mọi đèo. Để bảo vệ cho các đoàn xe của mình, Do-thái bắt buộc phải chế tạo ra các "chiến xa", các xe bọc thêm một vài tấm thép và trang bị đại liên. Nhưng biện pháp này đã tỏ ra không đủ để chống lại các vụ phục kích, và con đường máu ấy đã ngổn ngang các xác xe bị đốt cháy. Trong Jérusalem, bắt đầu đã có nạn đói, mọi người chỉ di chuyển trong các xe buýt bọc sắt và trẻ con nô đùa trong tầm súng của các tay bắn sẻ Ả-rập. "Trung ương" hoài công kêu gọi người Anh, nhấn mạnh tới sự bạo tàn của kẻ địch đang tâm bỏ đói cả thường dân. Người Anh vẫn cứ làm như điếc và án binh bất động.
Như vậy, chiến tranh đã bắt đầu ngay khi người Do-thái chưa tuyên bố độc lập.
Ari Ben Canaan vết thương chưa đủ lành để đứng ra chỉ huy một trong ba lữ đoàn của Palmach như ý Avidan muốn. Không phải cứ lê chân đau mà chàng theo nổi những đơn vị ưu tú lúc nào cũng di động qua mọi địa thế khó khăn nhất.
Ngược lại chàng nhận, nhân danh Haganah, công việc bảo vệ thung lũng Houleh, khu hết sức là lâm nguy bởi vì vùng này một phía là Liban và Syrie, và xa hơn một chút xuống phía nam, lại tiếp giáp với Transjordanie: ba quốc gia Ả-rập - ba kẻ thù.
Tình hình trong khu gồm ba điểm: điểm thuận lợi nhất - các nông trường Do-thái, công sự phòng thủ vững chắc, nằm ở các vị trí có thể tương trợ nhau dễ dàng, thừa đủ sức đẩy lui các cuộc tấn công của các đơn vị không chính quy địch. Điểm đáng lạc quan - đa số dân vùng này là Do-thái và người Anh hứa sẽ trao đồn Esther cho Do-thái, vị trí chìa khóa nằm ở biên thùy Liban. Điểm thứ ba đáng lo - hai vị trí cô lập: khu Do-thái ở Safed và trung tâm thanh niên Gan Dafna, đều khó có thể bảo vệ nổi. Nhưng không phải vì thế mà phía Do-thái chịu di tản khỏi hai vị trí trên. Ở Safed, viên chỉ huy địa phương của Haganah, được Bruce Sutherland ủng hộ, nhất quyết đánh nhau tới khi bắn hết viên đạn cuối cùng. - Nhưng mọi người cũng phải cung cấp cho tôi những viên đạn cuối cùng ấy chứ! Và cả súng để bắn chúng nữa. Dĩ nhiên là muốn đánh đấm ra trò, phải tăng viện cho tôi... phải cung cấp đại liên cho tôi... Ari chỉ biết hứa hẹn mơ hồ với cấp chỉ huy này. Khi còn ngồi lại một mình, chàng thoáng một lúc ngã lòng. Cứ cho rằng mọi sự tiến diễn thuận lợi nhất chăng nữa, sau khi quân Anh ra đi, chàng cũng chỉ mang thêm được chừng năm mươi người của Palmach đến tăng cường bảo vệ cho Safed mà thôi. Từ đầu đến cuối xứ Palestine, vấn đề này chỗ nào cũng đặt ra tương tự. Năm mươi người chỗ này, hai mươi lăm người chỗ kia... đạn dược phân phối nhỏ giọt. Ngày nào bên Ả-rập biết rõ tình trạng thê thảm này, họ sẽ nhào tới.
Còn về Gan Dafna... Nếu người Anh giữ lời hứa và trao đồn Esther lại cho Haganah, nếu mouktar của làng Abou Yesha chung thủy với tình thân hữu đã có với gia đình Ben Canaan thì việc bảo vệ trung tâm Gan Dafna chưa là vấn đề khẩn cấp. Trong trường hợp ngược lại...
Jordana Ben Canaan tiến vào văn phòng của Kitty.
- Rất tiếc làm phiền chị. Mọi người vừa cho biết anh David Ben Ami sắp đến thanh tra hệ thống phòng thủ của chúng ta và sau đó sẽ hội họp với các cấp chỉ huy của trung tâm. Tôi mong chị sẽ tới tham dự buổi họp này.
Kitty nói, cố giấu kín ngạc nhiên: Được lắm.
Jordana nói tiếp:
- Như chị đã biết, tôi là người chỉ huy của cái người ta thường gọi là lực lượng quân sự trong trại. Do chức vụ này, chị và tôi, chúng ta bắt buộc phải hợp tác chặt chẽ với nhau. Tôi cũng muốn nói để chị rõ là tôi hoàn toàn tin cậy ở chị và tôi cũng cho rằng sự hiện diện của chị ở Dafna này là một điều may mắn lớn cho toàn thể chúng tôi.
Mỗi lúc thêm ngạc nhiên, Kitty tò mò nhìn Jordana, thiếu nữ này nói thêm:
- Theo ý tôi, chúng ta phải dẹp bỏ mọi tình cảm cá nhân của chúng ta. Làm được thế, tinh thần mọi người trong trung tâm sẽ vững hơn. - Dĩ nhiên rồi. Nhưng cô Jordana ạ... tình hình chính xác về chúng ta ra sao hiện giờ? - Trong lúc này thì không tệ lắm. Dĩ nhiên chúng ta chỉ nhẹ thở ngày nào đồn Esther được trao lại cho Haganah. - Nếu biến cố diễn ra theo một chiều khác thì sao? Giả thử người Anh trao đồn Esther cho người Ả-rập... và con đường qua Abou Yesha bị đóng kín? - Trong trường hợp thế, viễn tượng của chúng ta sẽ rất là đen tối.
Kitty đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
- Mong cô hiểu cho là tôi không hề muốn xen vào những vấn đề không liên quan tới tôi. Nhưng chỉ vì... chúng ta hãy nhìn thẳng vào thực trạng: chúng ta dám bị vây hãm lắm phải không cô? - Rất có thể lắm. - Thế mà ở đây chúng ta có nhiều em bé mới sinh. Chúng ta chắc phải lập một kế hoạch tản cư cho chúng cùng các trẻ em nhỏ tuổi chứ. - Di tản chúng đi đâu bây giờ? - Tôi đâu có biết... Trong một kibboutz hay một moshav nào đó an toàn hơn chẳng hạn.
Jordana nhún vai.
- Tôi không biết nơi nào cả, thưa chị. Dầu thế nào "an toàn hơn" cũng chỉ là một từ ngữ hết sức là tương đối. Chiều rộng trung bình của Palestine chưa tới sáu mươi lăm cây số. Điều đó có nghĩa là không có một kibboutz nào được coi như an toàn hết. Mỗi ngày, lại có thêm một nông trường bị xâm nhập... - Ta có thể đưa chúng về các thành phố. - Jérusalem kể như hoàn toàn bị bao vây. Và chính ở Haïfa và ở khu vực giữa Haïfa và Tel-Aviv hiện là nơi đánh nhau ác liệt nhất. - Vậy... không còn nơi ẩn trốn nào nữa sao?
Jordana không trả lời. Không còn gì để trả lời cả.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:07:45 GMT -6
Phần IV => Chương 2
GAN DAFNA
ĐÊM NOEL, 1947.
Các đám tuyết đầu tiên của mùa đông rơi xuống những con đường nhỏ sũng nước.
Karen đang mặc một chiếc quần len và một áo xăng-đai dầy. Nàng coi đồng hồ và thở dài.
- Tối nay em phải ăn cơm sớm. Tối nay, em phải gác đêm, cô.
Kitty bắt đầu cột tóc cho Karen thì đột nhiên một giọng đồng ca của trẻ con cất lên phía trước nhà. Kitty kêu lên: Cái gì vậy?
Karen nắm tay nàng kéo ra cửa sổ.
- Đó là quà Noel của cô đó. Các em nhỏ bí mật học hát bài này mất hai tuần lễ đó cô.
Kitty kéo màn cửa. Trên thảm cỏ tuyết bắt đầu phủ, năm mươi "đứa con" của nàng tay cầm nến thắp sáng, đang hát bài thánh ca. Nàng mặc áo măng-tô, rồi mở cửa bước ra thềm. Sau lưng các trẻ, bẩy trăm thước xa hơn các ánh đèn lấp lánh như sao dưới thung lũng. Trong các bungalow kế cận, các cửa nhà mở ra và các khuôn mặt tò mò nhìn ra ngoài. Kitty cảm thấy một niềm xúc động siết chặt lấy cổ họng. Nàng không hiểu lời bài ca, những âm điệu này...
Karen nói: Merry Christmas, Kitty!
Kitty không còn kìm giữ nữa, nước mắt nàng chảy xuống má.
- Cô không bao giờ có tưởng được một ngày kia sẽ được nghe bài Silent night bằng tiếng hébreu. Đây là món quà Noel đẹp nhất của đời cô!
Karen phải ra đổi phiên canh ở địa đạo vòng đai ngoài của Gan Dafna, nơi nhìn xuống các sườn dốc của cao nguyên. Sau khi người thanh niên gác phiên trước đã ra về, Karen nhét một kẹp đạn vào súng, đóng cơ bẩm lại rồi xỏ bao tay.
Chung quanh nàng, không gian chìm sâu trong im lặng. Tuyết vẫn rơi lả tả, bao phủ dần dần sườn núi. Đột nhiên nàng nhận thấy có gì động đậy trong hàng cây phía sau nàng. Nàng thận trọng quay lại, cố giương mắt nhìn xuyên qua bóng tối hoàn toàn. Lại có cái gì động đậy. Đó chỉ là một con chó đói hay là... Nàng mở chốt an toàn, đưa súng lên vai nhắm sẵn. Một bóng đen tách ra khỏi hàng cây, tiến về phía nàng...
- Đứng lại!
Bóng đen đứng sững lại.
- Mật khẩu?
Nàng giật bắn mình khi nghe thấy một giọng quen thuộc gọi tên nàng.
- Karen! - Anh Dov!
Nàng leo ra khỏi địa đạo và chạy tới để rơi vào vòng tay chàng.
- Dov! Em không thể ngờ được... Lại đây anh!
Cả hai người cùng nhẩy xuống địa đạo. Dov cắt nghĩa:
- Tôi đợi em cả giờ rồi. Tôi đã đứng chờ trước nhà rồi theo em tới đây...
Hai tay run rẩy nàng xiết chặt lấy vai, cánh tay Dov.
- Anh lạnh ngắt rồi này. Anh cũng không mặc áo len nữa. Anh sắp lạnh cóng đến nơi giờ... - Không đâu. Tôi thấy dễ chịu lắm.
Mặt trăng hiện ra giữa một khoảng trống của đám mây làm hai người sau hết đã có thể nhìn thấy nhau. Dov nói:
- Tôi... tôi tưởng Karen đã ở Mỹ rồi chứ. - Em và cô Kitty đều không thể nào đi được. - Chắc em đang tự hỏi tại sao tôi lại trở lại đây. Đã từ lâu rồi, tôi muốn nhìn lại Gan Dafna, nhưng chỉ vì... khi bỏ trốn khỏi đây, tôi có ăn trộm một số nữ trang. Chắc tất cả mọi người đều coi tôi như một tên ăn cắp... - Ồ, không có đâu! Ngày nào anh còn sống, hiện diện nơi đây. - Tôi sẽ bồi hoàn lại tất cả. - Điều đó không quan trọng đâu anh. Không ai giận anh vì chuyện đó hết.
Dov đã ngồi xụp xuống đất, nói nhỏ:
- Khi tôi còn ở trong tù, và ngay sau khi ẩn trú trong các hang động gần Mishmar, lúc nào tôi cũng nói đi nói lại với tôi một điều: Dov, không ai oán ghét mi hết. Không ai thù mi hết. Chỉ có tự mi làm khổ mi mà thôi. Khi em lại thăm tôi tại nhà tù Acre, đột nhiên tôi không muốn chết nữa. Cũng không muốn giết cả các kẻ thù nữa.
Dov ngừng nói một chút, rồi tiếp tục với giọng thấp hẳn xuống:
- Em biết không... tôi nói với em hồi ấy tôi có một cô bồ, là tôi nói dối đấy. Tôi bịa chuyện ra như vậy để... Karen chịu ra đi... - Em biết thế mà anh. - Karen biết thực sao? - Ít nhất thì em cũng đã cố thuyết phục em như thế. Em muốn tin hết sức ở tình thương của anh đối với em.
Nàng đưa tay chạm vào má Dov.
- Anh run lên vì lạnh rồi anh. Em van anh, vào sưởi trong nhà đi. Anh có thể nói hết mọi sự với cô Kitty, cô biết những gì giữa hai ta mà. Ngay khi mãn phiên gác, chúng ta sẽ đến gặp bác sĩ Lieberman. Cẩn thận nghe anh, anh dám bị các người canh khác chặn lại. Mật khẩu đêm nay là: Mừng lễ vui.
Trước khi đi, Dov do dự.
- Karen... anh muốn hôn em.
Nàng nhón chân lên và hai đôi môi nứt nẻ vì lạnh chạm vào nhau rất nhanh. Dov thì thào: Anh yêu em, Karen.
Nói xong, Dov nhẩy ra khỏi địa đạo chạy về phía cổng vào Gan Dafna.
Vào đầu năm 1948, người Ả-rập mỗi ngày tỏ ra liều lĩnh táo bạo hơn. Người Anh càng rút quân dần ra miền duyên hải, bỏ hết vị trí này đến vị trí khác, các vụ chạm súng nho nhỏ lúc trước bây giờ biến thành các trận đánh dàn trận hẳn hoi.
Chưa chi cuộc chiến đã lan rộng ra toàn thể xứ sở. Nhưng các kibboutz, mặc dù bị bao vây, quấy phá, tấn công, vẫn cố thủ vững và còn tấn công trả đũa lại. Ngược lại, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn lên trong các thành phố. Ở Safed, bên Ả-rập tập trung nhiều lực lượng quan trọng để chờ đợi ngày đại tá Hawks, chỉ huy trưởng yếu khu này, mang trung đoàn quân Anh của mình ra duyên hải. Trong lúc chờ đợi, người Ả-rập chỉ ngăn chặn mọi đường tiến vào khu Do-thái của thành phố này: ai cũng biết đại tá Hawks thân với người Do-thái.
Ở Haïfa, nơi người Anh chiếm cứ vững chắc các bến tầu, chặng chót của chuyến rút quân khỏi Palestine, người Do-thái chiếm ưu thế về cao địa: cư ngụ trên các sườn ngọn Carmel, họ khống chế khu Ả-rập. Nhưng bất hạnh một điều là mỗi khi họ chiếm được một điểm chiến lược, người Anh lại bắt họ rời bỏ trong vài giờ sau.
Trong vùng pha trộn các nhà cửa cũ kỹ tồi tàn của Jaffa với các tòa nhà cao tối tân của Tel-Aviv, các cuộc ám sát đột kích và đánh nhau ngoài đường phố xẩy ra không ngừng. Nhưng những trận đánh dữ dội nhất lại diễn ra chung quanh các khu Do-thái ở đô thị Jérusalem. Tại phần này của Cổ thành, hoàn toàn bị cô lập bởi các đơn vị không chính quy Ả-rập tăng cường thêm nhiều đơn vị của Liên đoàn Ả-rập Transjordanie, thực phẩm và nước uống thiếu thốn đã tạo ra một tình trạng mỗi ngày một thêm thê thảm. Dưới làn đạn súng cối và súng trường của các tay thiện xạ Ả-rập nấp trên các nóc nhà, dân Do-thái chỉ có thể di chuyển bằng xe bọc thép. Bên Ả-rập kêu ầm lên là đã chiến thắng khi họ chặn được một đoàn xe của Hồng Thập Tự do trung tâm y khoa ở ngọn Scopus gửi đến. Ngày hôm đó, họ tàn sát bẩy mươi bẩy y sĩ Do-thái không võ trang theo đúng Quy ước Genève. Việc tàn sát ghê tởm này xẩy ra ngay trước mắt quân đội Anh mà người Anh không can thiệp.
Đại tá Hawks sắp bắt đầu di tản khỏi khu Safed. Ari đã trao cho Zev Gilboa đại diện bên Do-thái trong buổi lễ bàn giao chính thức đồn Esther cho các lực lượng Do-thái.
Vài giờ sau Ari được biết rằng Zev và quân sĩ của anh khi tới đồn đã bị tiếp đón bằng một loạt đạn bắn ra ào ào. Trái với lời đã hứa hẹn long trọng, quân Anh đã trao đồn Esther cho người Ả-rập.
Nhẩy vội lên xe jeep, Ari phóng như bay về Safed. Hất viên trung úy có nhiệm vụ loan báo chàng đến sang một bên, Ari đi thẳng vào văn phòng đại tá.
- Các ông đã phản bội chúng tôi!
Hawks cãi bằng một giọng não nề:
- Không phải lỗi tại tôi. Tôi thề với anh là không phải tại tôi. Tối qua, lúc 10 giờ, tôi được lệnh rút quân ngay lập tức ra khỏi đồn ấy. - Các ông có thể báo trước cho tôi được chứ. - Tôi không thể báo cho các anh biết trước được - tôi không có quyền làm như vậy. Tôi là quân nhân, anh Ben Canaan, tôi phải tuân lệnh thượng cấp của tôi. Anh hãy tin ở tôi đi, đêm qua tôi nhắm mắt không nổi. - Một lời xin lỗi thật đẹp cho một kẻ mang trách nhiệm về số phận của Gan Dafna trong lương tâm - giả thử là đại tá có một lương tâm.
Hawks tái mặt:
- Anh sẽ không để tụi trẻ trên đó, trên cao nguyên cô lập đó chứ? Anh bắt buộc phải đưa chúng xuống dưới đồng bằng... - Đáng lẽ đại tá phải nghĩ tới chuyện đó sớm hơn chứ. Không có đồn Esther, chúng tôi bắt buộc phải cố thủ ở Gan Dafna, nếu không muốn mất toàn thể thung lũng Houleh.
Hawks cúi đầu xuống, hai tay xiết chặt lấy thành bàn. Hiển nhiên viễn ảnh ba trăm đứa trẻ bị tàn sát làm ông xúc động dữ dội. Ari nói tiếp:
- Có lẽ còn có cách để sửa sai bớt tai hại đại tá đã làm. Ít nhất một phần nào. - Tôi sẽ làm tất cả những gì anh muốn... - Với tư cách chỉ huy trưởng khu Safed, chắc đại tá có quyền đi lên Gan Dafna để khuyến cáo chúng tôi di tản trung tâm này chứ? - Chắc chắn vậy. - Được, vậy ông sẽ làm chuyến thăm viếng đó. Ngày mai đại tá lên Gan Dafna với một đoàn năm mươi xe cam-nhông có chiến xa hộ tống. Chính thức, đại tá có ý định mang trẻ em xuống thung lũng. - Tôi không hiểu. Anh muốn tản cư trung tâm? - Không. Nhưng đại tá khỏi lo tới chuyện đó. Đại tá cứ mang đoàn xe lên Gan Dafna đi.
Hawks không đủ can đảm để đặt ra các câu hỏi khác. Ngày hôm sau, đoàn xe vĩ đại lên đường đến cao nguyên, băng qua sáu làng Ả-rập, vượt qua trước mặt các lính canh Ả-rập ở đồn Esther, để tới Gan Dafna vào lúc gần trưa. Trong một tiếng đồng hồ liền, Hawks cố gắng thử thuyết phục bác sĩ Lieberman di tản trung tâm. Nhưng đã được Ari báo trước, Lieberman cương quyết từ chối. Mỗi lúc thêm phân vân khó hiểu, Hawks đành ra về với các xe cam-nhông trống không.
Trong lúc đó Ari dạo chơi trong làng Abou Yesha, thố lộ với các bạn bè Ả-rập là đại tá Hawks đã trút xuống Gan Dafna hàng tấn vũ khí đủ loại, nhất là súng cối và đại liên. Chàng cắt nghĩa:
- Ít ra thì đại tá cũng phải giúp chúng tôi như vậy. Vả lại đại tá cũng chưa bao giờ giấu giếm cảm tình với dân Do-thái chúng tôi. Ông giúp vũ khí như vậy để đền bù lại vụ ông phải trao đồn Esther cho bên Ả-rập các anh.
Ngay tối hôm đó, cả vùng đều "biết" là Gan Dafna bây giờ đã trở thành "pháo đài" khó mà chiếm cho nổi. Câu chuyện này lại càng đáng tin hơn nữa vì sau đó không hề có một vụ tản cư nào. Hiển nhiên hơn nữa là chắc chắn người Do-thái đâu dám để trẻ con ở lại một vị trí không bảo vệ được bao giờ.
Ngược lại, buổi hội kiến của Ari với mouktar làng Abou Yesha đã đưa đến một kết quả tai hại. Sau khi gợi lại rất lâu những kỷ niệm chung, Ari cảnh báo bạn: nếu làng này chấp nhận cho các quân không chính quy Ả-rập biến làng thành một căn cứ hành quân, Haganah sẽ bắt buộc phải tấn công tiêu diệt làng.
Xúc động vì cái giật mình đau đớn của Taha, Ari đặt một tay lên vai bạn: Anh Taha... tôi xin anh hãy giúp tôi.
- Anh quên rằng tôi chỉ là một tên Ả-rập - một tên Ả-rập dơ dáy sao. - Chỉ có anh, mình anh mới nhét cái ý nghĩ phi lý ấy vào đầu anh thôi. - Có lẽ anh sẽ nói tôi là anh em với anh chăng? - Từ bao giờ tôi vẫn coi anh là anh em với tôi. - Thực vậy hả? Vậy này, nếu sự thật là như thế, hãy cho tôi Jordana. Anh hãy thuận cho tôi Jordana để nàng trở thành vợ, thành mẹ của các con tôi...
Taha chưa kịp nói hết câu, Ari đã bằng một cú đấm chớp nhoáng, đánh Taha ngã lăn ra đất. Taha chồm dậy, rút dao găm cài ở thắt lưng ra, tiến tới phía Ari. Sững người, Ari không làm một cử chỉ nào để bảo vệ mình. Taha giơ dao lên, toan đâm, nhưng rồi buông dao. Tiếng kim khí va vào sàn đá làm Ari bừng tỉnh. Chàng thì thào:
- Trời! Tôi đã làm gì? Tôi đã làm gì?
Chàng giơ tay ra như để xin thứ lỗi... Taha quay đi, nói bằng giọng cứng rắn:
- Anh đã cho biết điều tôi cần muốn biết. Bây giờ anh đi đi, đồ Do thái!
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:10:18 GMT -6
Phần IV => Chương 3
Rất nhiều biến cố sẽ đánh dấu những tháng đầu năm 1948
Ở Âu châu, các cán bộ của "Trung ương" nhờ sự ủng hộ của Jan Masaryk, tổng trưởng ngoại giao Tiệp-khắc, đã mua được một số lượng vũ khí. Để có thể đưa số vũ khí này về Palestine vượt qua hàng rào phong tỏa do hải quân Anh duy trì, họ phải thành lập ở Vienne một công ty hàng không. Công ty này mua ở kho quân cụ thặng dư của Hoa-kỳ một chiếc oanh tạc cơ Liberator cũ và mướn một phi hành đoàn: sáu người Do-thái cựu chiến binh đệ nhị thế chiến, bốn người Nam Phi và hai người Mỹ. Về bãi đáp, họ chọn nơi khuất nẻo trong thung lũng Jezreel có sẵn một căn cứ khu trục cũ không lực Hoàng gia Anh. Nằm giữa một vùng hoàn toàn Do-thái, phi đạo này khó bị người Ả-rập biết. Còn về sự có thể bị các phi tuần Anh bắt gặp, thì đành tin cậy ở tài năng khéo léo của các phi công lái chiếc Liberator... và tin ở may mắn. Dầu thế nào, đây cũng là một cuộc chạy đua với thời gian. Nhận các vũ khí ở năm hay sáu nước khác nhau, hết sức bí mật đưa về Vienne, đã mất tối thiểu hai tuần rồi. Xét sự tiến diễn mỗi ngày thêm thê thảm của tình hình ở Palestine, mọi người chỉ có thể hy vọng rằng chuyến vũ khí đầu tiên sẽ về đến nơi không quá trễ.
Bên phía Ả-rập, hăng hái điên cuồng trong những ngày đầu đã bắt đầu nhường chỗ dần cho chán nản thất vọng. Một cuộc tấn công đại qui mô vào một kibboutz cô lập hoàn toàn chỉ có dân Do thái chính thống giáo cư ngụ, đã chấm dứt bằng một thảm bại đẫm máu trước mắt rất nhiều phụ nữ Ả-rập đã tụ tập lại để tham dự vào vụ hôi của kibboutz. Vài ngày sau, trên đường đi từ Tel-Aviv tới Jérusalem, Lữ đoàn 2 của Palmach đã chiếm được, sau một trận cận chiến dữ dội, ngọn đồi trước đây đã cho phép quân Ả-rập chặn đường tiến của các xe cộ. Ngày hôm sau, một đoàn xe vĩ đại chở đầy thực phẩm đạn dược, mặc dù địch kháng cự dữ dội, đã tới tiếp tế được cho Tân Jérusalem bị bao vây từ nhiều tháng rồi.
Trong "Bộ tư lệnh tối cao" Ả-rập, thiên hạ sửng sốt. Những tên Do-thái đáng nguyền rủa kia chẳng những không tự vệ mà thôi, lại còn lao ra tấn công nữa! Hiển nhiên là chính nghĩa của cuộc thánh chiến cần gấp một chiến thắng. Cần hết sức khẩn cấp!
Bị triệu gọi cấp tốc đến tổng hành dinh Ả-rập đặt ở Naplus, Mohammed Kassi, chỉ huy các quân không chính quy thung lũng Houleh nhận được lệnh - "nhân danh Ngài mufti" - tấn công ngay lập tức Gan Dafna, chiếm trung tâm này, san bằng đến tận móng. Dù Kassi có viện dẫn thế nào tới "cả ngàn khẩu súng, trăm đại liên, hai mươi đến ba mươi súng cối" đại tá Hawks đã biếu cho trung tâm này, dù đã thề chính mắt mình trông thấy một ngàn Palmachnik tới tăng cường cho các đơn vị thiếu nhi Gan Dafna, Kassi rút cục chỉ nhận được hai cái tát nên thân.
- Một là mi tiêu hủy được Gan Dafna, hai là xác mi phanh thây cho kên kên ngoài đồi rỉa thịt.
Kassi không biết làm sao hơn là tuân theo lệnh.
Để mở đầu, Kassi cho một trăm quân chiếm cứ Abou Yesha. Quen thuộc sống hòa thuận với các láng giềng Do-thái từ mấy chục năm nay, dân làng không giấu vẻ bực tức với sự chiếm cứ này. Rất nhiều người trong họ đã xuống tận kibboutz Ein Or để báo cho Ari biết. Đồng thời các kỳ mục khẩn khoản yêu cầu Taha đòi hỏi đạo quân kia phải rút đi. Nhưng mouktar Taha đã khép mình trong một câm nín hoàn toàn, và với thái độ này, các fellah quen nhận chỉ thị chính xác, đành chịu chết không biết hành động ra sao nữa. Rồi một hôm quân của Kassi bắt gặp bốn dân làng đang mang thực phẩm lên Gan Dafna. Những những dân xấu số này bị chặt đầu đem bêu ngay giữa chợ. Kể từ ngày đó, Abou Yesha thôi không còn chống đối nữa.
Do đó con đường độc đạo dẫn lên Gan Dafna đã bị cắt đứt. Kassi, từ đồn Esther cao, cho bắn súng cối không ngừng vào trung tâm.
Tình trạng này, người Do-thái đã tiên liệu ngay từ khi thành lập trung tâm. Lầu chứa nước uống được một bức tường bao cát che kín, các máy phát điện, các kho dự trữ thực phẩm thuốc men và đạn dược, cũng như các kho vũ khí, đều được đào trong các hầm núi rộng rãi có đủ cả các phòng ngủ và lớp học nữa. Một vài giờ sau đợt pháo kích đầu, toàn thể trung tâm đã được tổ chức để sống một cuộc sống khá dễ chịu trong hang động. Còn về việc liên lạc với Yad El, đường điện thoại đã bị cắt, mọi người xử dụng gương Scott (gương kim khí phản chiếu ánh sáng và truyền các tín hiệu Morse).<br /> Dưới thung lũng, ở kibboutz Ein Or, Ari chỉ có thể xiết tay lại mà chờ đợi thôi. Nếu Gan Dafna có đủ dự trữ để cố thủ cả tháng, thì ngược lại, trận đánh đầu tiên sẽ làm tiêu mất "huyền thoại" là trung tâm này "được võ trang ghê gớm". Và tới khi đó địch sẽ nhào lên và sau đó trẻ con bị tàn sát...
Lục lọi vơ vét khắp nơi, Ari chỉ kiếm được chừng một chục khẩu súng trường kiểu 1883 của Tây-ban-nha, hai mươi ba tiểu liên nội hóa và một súng chống chiến xa Hung-gia-lợi dư mức độ phế thải và năm băng đạn. Zev Gilboa và hai mươi Palmachnik nữa mang các vũ khí này lên tận cao nguyên bằng cách leo lên sườn dốc đứng ban đêm.<br /> Sau mười ngày pháo kích liên tục, đa số nhà cửa trong trung tâm sụp đổ. Một phát đạn nổ tung cả lối vào hầm, làm hai trẻ em bị chết, những người đầu tiên bị chết của cuộc công hãm Gan Dafna.
Cũng ngày hôm đó, Ari được Tel-Aviv cho biết là Bộ tư lệnh cho phép được tản cư trẻ em ra khỏi các vị trí bị địch quân đe dọa và tấn công. Quyết định tối hậu để cho các cấp chỉ huy các kibboutz tùy nghi thẩm định, và trong trường hợp của Gan Dafna, quyền này tùy thuộc khu trưởng, các trẻ em sẽ được đưa về miền duyên hải. Rất dễ đọc được ẩn ý của Bộ tư lệnh qua những dòng chữ của điệp văn này: rõ ràng là, trước tình trạng lâm nguy gia tăng trầm trọng, Haganah đã dự trù tới việc có thể di tản trẻ em bằng đường biển để cứu chúng khỏi vụ tàn sát lớn có thể xẩy ra.
Ari cho triệu tập các đơn vị trưởng và những người này đồng ý khuyến cáo cho tản cư gấp trẻ em ít tuổi. Bây giờ vấn đề là làm cách nào đưa được chúng ra khỏi trại. Tổ chức một đoàn xe sẽ đòi hỏi động viên tới tất cả lực lượng xử dụng được trong vùng - và có làm như vậy, một sự tập trung quân như thế cũng không đủ bảo đảm thành công cho chiến dịch di tản. Vậy mà vấn đề ở đây không phải là thắng hay thua một trận đánh. Vấn đề ở đây quan trọng hơn nhiều: mạng sống của mấy trăm trẻ em.
Tới đây, một lần nữa Ari lại nghĩ ra một kế hoạch táo bạo đến điên rồ. Được rồi, nếu các phương cách thông thường không dùng được, chàng sẽ liều đánh cá lớn với số mệnh - chàng lại thắng cuộc.
Sau khi đã trao cho David Ben Ami thành lập một "lực lượng cứu ứng", Ari leo lên cao nguyên - một chuyến đi ghê khiếp bởi vì bất cứ một nỗ lực nhỏ nào của chân cũng làm chàng đau đớn vì vết thương cũ chưa lành. Lên được tới Gan Dafna vào lúc rạng đông, chàng cho triệu tập ngay tất cả các trưởng nhiệm sở của trung tâm. Chàng tuyên bố, không giáo đầu gì hết.
- Ở đây các bạn có hai trăm rưỡi trẻ em dưới mười hai tuổi. Chúng ta sẽ tản cư các em đó vào tối mai. Đêm nay, bốn trăm người lấy từ tất cả nông trường trong thung lũng sẽ leo lên đây dưới sự hướng dẫn của David Ben Ami. Nếu họ không bị địch khám phá ra và tấn công, sáng mai họ sẽ tới đây. Đêm mai họ sẽ lại xuống núi - hai trăm rưỡi người mỗi người cõng theo một trẻ, một trăm rưỡi còn lại sẽ giữ nhiệm vụ bảo vệ cho tất cả. Tôi cũng cần nói thêm rằng một trăm rưỡi người bảo vệ này sẽ được xử dụng tất cả các vũ khí cộng đồng nặng của toàn khu chiến Houleh
Mọi người đưa mắt nhìn nhau như Ari vừa nói vừa quàng xiên xong. Bác sĩ Lieberman phản đối:
- Xuống núi kiểu đó rất nguy hiểm, dầu là thực hiện ban ngày đi nữa. Ban đêm, trên lưng hay trong tay bồng một đứa trẻ... chắc chắn sẽ có tai nạn xảy ra... - Đó là một thứ may rủi mà chúng ta đành phải chấp nhận.
Zev Gilboa nhận xét thêm:
- Đó không phải là may rủi duy nhất đâu. Đoàn người bắt buộc phải đi băng qua gần Abou Yesha. Quân Ả-rập sẽ nghe thấy họ...
Ari ngắt lời:
- Chúng ta sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để quân Ả-rập không nghe thấy họ. Dầu thế nào, chúng ta cũng chẳng thể còn cách nào khác nữa.
Ngay lập tức các lời phản đối cất lên nhao nhao.
- Im lặng! Chúng ta đâu có ở trong quốc hội! Các bạn sẽ phải giữ bí mật tuyệt đối: không được có một hành động cuống quít sợ hãi nào hết. Rồi, bây giờ bắt đầu làm việc!
Sáng ngày hôm sau, bốn trăm người tình nguyện đã lên đến nơi, và theo lệnh Ari, họ phân tán ẩn núp vào các bờ bụi chung quanh trung tâm. Do đó, các quan sát viên Ả-rập đứng sau các lỗ châu mai của đồn Esther đều không trông thấy được họ.
Đúng 17g55, các trẻ em phải di tản được tập họp để ăn cơm chiều: không đứa nào nhận thấy là bữa nay có một vị hơi đắng do thuốc ngủ hòa tan gây ra. Lúc 18g15, mọi người đưa chúng vào giường. Mười phút sau, chúng đã ngủ say sưa.
Đến 18g32, mặt trời lặn xuống sau đồn Esther. 18g40, Ari lại họp các trưởng nhiệm sở.
- Yêu cầu các bạn lắng nghe tôi thật cẩn thận. Vụ di tản sẽ khởi sự trong vài phút nữa. Mỗi bạn sẽ ở đúng vị trí tôi sẽ chỉ định. Cuộc hành quân đặc biệt này sẽ diễn ra theo một thời biểu hết sức chính xác: bất cứ một sai lệch, tùy hứng nào cũng dám đưa đến những hậu quả nghiêm trọng. Tôi sẽ không chấp nhận bất cứ một bàn cãi nào. Tất cả mọi sự phản đối, khước từ thi hành lệnh đều sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Đến 18g45, Jordana ra lệnh cho các thiếu nhi ở lại trung tâm lập bốn vòng vây chung quanh trung tâm. Hơn lúc nào hết, lúc này hết sức cần tránh sự xâm nhập của địch có thể khám phá ra bí mật hoạt động trong trại. Zev Zilboa cùng hai mươi Palmachnik của anh tiến ra vùng đồi để thi hành "nhiệm vụ bảo vệ đặc biệt".
Lúc 19 giờ, mọi người chuẩn bị cho các trẻ em vẫn ngủ say sưa: mặc quần áo ấm cho chúng, đặt một băng keo lên miệng để ngăn cản chúng kêu khóc. Lúc 17g30, Ari ra ngoài để đưa bốn trăm người tình nguyện trở vào.
Một đường dây người được thành lập tới tận cửa lối vào các hầm trú để chuyền tay nhau các trẻ em. Các người tình nguyện sẽ mang chúng trên lưng trong một thứ như các yên biến cải không cản trở gì hết cử động chân tay họ. Lúc 20g30, sau khi kiểm soát lại một lần chót hệ thống dây nhợ, đoàn người dài bắt đầu di chuyển, hộ tống bằng một trăm năm mươi người võ trang. Dưới sự hướng dẫn của Ari, họ lần lượt vượt qua bờ cao nguyên để rồi tan biến vào trong bóng đêm.
Từ đó là sự chờ đợi khắc khoải, im lìm, bất tận. Không thể nào ngồi yên nổi một chỗ, Kitty đi lang thang giữa các căn nhà. Nửa đêm, một giờ sáng, hai giờ... Đột nhiên một loạt súng nổ ở xa vọng lại. Nàng hét lên một tiếng.
- Các đứa nhỏ của tôi! Chúng giết các đứa nhỏ của tôi!
Nàng lao mình chạy vào bóng đêm. Jordana phải ôm cứng lấy nàng và sau cùng phải đấm cho nàng một cái vào giữa lưng ngã sóng soài ra đất.
- Nghe tôi đã nào chị Kitty! Tiếng súng đó là của Zev Gilboa cùng các Palmachnik đang tấn công đánh lạc hướng địch ở phía bên kia Abou Yesha để quân Ả-rập khỏi chú ý tới lộ trình của đoàn người chúng ta.
Jordana đỡ Kitty đứng dậy, rót cho nàng một ly rượu.
- Cầm lấy uống đi chị! Tôi rất tiếc là đã phải đánh chị... - Cô làm phải đó. Tại tôi mất bình tĩnh quá.
Ba giờ sáng... bốn giờ... năm giờ rưỡi, họ đều ra hết bên ngoài, trong bình minh lạnh cóng, để tiến ra ngoài vòng rào trại về đài canh và quan sát cheo leo bên bờ vực.
Chậm chạp, sương mù tan dần để lộ rõ thung lũng phía dưới. Ống nhòm dán vào mắt, người quan sát nhìn chăm chú sườn núi. Không có gì hết... không có một cái gì động đậy...
- Nhìn kìa!
Trong các khu vườn của nông trường Yad El, một tấm gương đang gửi những dấu hiệu Morse, các chấm, vạch, các chấm rồi các vạch...
Người quan sát có vẻ phân vân.
- Họ nói... tôi chẳng hiểu họ nói gì hết... họ nói như sau: X 14 16.
Mọi người ngơ ngẩn một thời gian ngắn. Tấm gương lại nhắc lại bản điệp văn. Rồi bỗng giọng Jordana cất lên, đầy vui mứng chiến thắng:
- Họ đã xuống tới nơi, hoàn toàn bình yên vô sự. Exodus 14 16: Con hãy giơ gậy của con lên và giơ tay về phía biển: hãy rẽ nước ra và con dân Israël sẽ băng qua không ướt gót.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:12:07 GMT -6
Phần IV => Chương 4
Bốn ngày sau, nhận thấy địch giảm bớt rõ rệt các áp lực đối với các nông trường trong thung lũng, Ari hiểu là địch sắp tấn công Gan Dafna đến nơi. Bởi thế chàng lại leo lên trung tâm thanh niên để thân chinh điều khiển công việc phòng thủ.
Đối diện với mấy ngàn người Ả-rập của Mohammed Kassi đạn dược dự trữ thừa thãi và được các súng cối của đồn Esther yểm trợ, chàng chỉ dàn ra được hai mươi Palmachnik của Zev và các đơn vị thiếu nhi của trung tâm. Vũ khí rất sơ sài, dự trữ đạn dược không có, nhưng ngược lại bên chàng có hai yếu tố tốt: trí thông minh và kinh nghiệm chiến trường của chàng. Bây giờ vấn đề là chờ xem hai yếu tố này liệu có đủ để quân bình với ưu thế vật chất quá lớn của địch không.
Nếu quân Ả-rập vẫn giữ chiến thuật quen thuộc của họ là tấn công trực diện, họ sẽ phải qua một hẻm núi đổ dốc xuống chạy dài tới những căn nhà đầu tiên của Gan Dafna. Ari ra lệnh cho các toán tuần thám đêm gài mìn hai bên sườn hẻm núi và cho đào ở các đỉnh hơi xa đó một vài công sự để đến khi cần thiết, chàng sẽ cho bố trí ở đó các Palmachnik, hai khẩu đại liên và tất cả số lượng lựu đạn và chất nổ chàng có. Nếu các trái mìn, điều khiển từ xa, nổ đúng lúc thì các kẻ tấn công - hay những kẻ sống sót thì đúng hơn - sẽ bị đẩy lui về phía giữa hẻm núi và khi ấy sẽ bị các đại liên và lựu đạn thanh toán nốt.
Ba ngày sau khi chàng tới Gan Dafna, một liên lạc viên do các tổ báo động tiền đồn báo về cho chàng biết là quân Ả-rập đang rời đồn và lao xuống đồi. Ngay lập tức lệnh báo động được ban hành. Một im lặng nặng nề bao phủ trung tâm. Tất cả các cặp mắt đều hướng về khoảng đất nhô cao nằm giữa đồn Esther và Gan Dafna, giới hạn trường quan sát của những người phòng vệ trại.
Sau chừng nửa giờ, một vài cái đầu nhô lên khỏi khu đất cao. Rồi sau đó là địch ào lên: một đợt biển người thứ nhất là hét, vung chân múa tay, vung kiếm và súng, tràn thẳng vào hẻm núi. Trên đỉnh bên trái, Zev Zilboa, hoàn toàn nấp kín, phất một ngọn cờ vàng. Trong Gan Dafna, Ari ấn một cái cần xuống.
Tất cả các trái mìn nổ cùng một lúc. Khi các làn khói đã tan, người ta trông thấy những kẻ sống sót đang chạy dưới hẻm núi - lao thẳng vào các đạn đại liên và các chùm lựu đạn ném như mưa xuống.
Đợt tấn công thứ nhất đã bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng đợt thứ hai và thứ ba đã ào tới. Không còn mìn để giật cho nổ, và một phát súng cối may mắn của đồn bắn ra đã phá hủy mất một trong hai khẩu đại liên của trung tâm. Khẩu thứ hai, nóng quá cháy nòng súng, không mấy chốc cũng bị loại ra khỏi vòng chiến. Zev và các Palmachnik rời bỏ các vị trí trên hẻm núi để rút vào bên trong trung tâm phòng thủ. David Ben Ami trong hầm trú làm bằng các túi cát cho điều chỉnh đường nhắm của khẩu súng chống chiến xa cũ kỹ. Mọi người đã biến cải các viên đạn: bây giờ mỗi một băng trong năm băng đạn hiện có hai ngàn mảnh. Nếu khẩu súng chịu hoạt động, các loạt đạn của nó sẽ tàn sát ghê gớm.
Đội Ả-rập thứ nhất đã lao tới hàng rào. Họ còn cách có bốn mươi thước - ba mươi thước - hai mươi, mười.
- Bắn!
Khẩu súng cũ nhẩy chồm lên, khạc đạn. Xuyên qua làn khói, David trông thấy những chùm người rụng xuống và những kẻ khác đang loạng choạng tìm đường chạy...
- Bắn!
Đến loạt thứ ba, nòng súng rơi ra khỏi giá súng. Khẩu súng già đã chấm dứt sự nghiệp của mình bằng cách giết chết chừng ba trăm quân Ả-rập và bẻ gãy hẳn đà tấn công của địch. Đến nỗi đợt tấn công thứ tư bị đẩy lùi ngay khi một trung đội thiếu nhi nổ súng.
Cuộc rút lui của địch chưa chi đã biến thành cảnh mạnh ai người ấy chạy. Zev Gilboa hiểu ngay tình trạng đó và quyết định khai thác chiến thắng ngay lập tức. Dẫn đầu nhóm Palmachnik chạy đuổi theo mấy trăm quân Ả-rập đang hốt hoảng, Zev đã băng qua khu đất nhô cao và tiếp tục tiến thẳng về đồn Esther. David kêu lên bất bình.
- Chắc Zev mất trí rồi đó!
Ari nói: Đi với tôi! Phải chặn cái anh chàng điên ấy lại.
Sau khi đã ra lệnh cho Jordana thu nhặt vũ khí của các xác địch nằm ngổn ngang trước vòng rào, chàng vừa đi vừa chạy, theo sau là David.
Gần đồn Esther, là cả một vụ kinh hoảng hỗn độn. Nhận thấy các Palmachnik đang đuổi theo quân mình các pháo thủ trong đồn đã bắn vội đến nỗi đạn họ bắn ra nổ ngay giữa đám quân bên mình. Các Palmachnik lợi dụng tình trạng này để tiến thêm nữa. Zev, dẫn đầu, vượt qua hàng rào kẽm gai thứ nhất, còn cách tường đồn chừng 40 thước thôi. Chàng quay lại ra lệnh cho quân mình: Nấp đi!
Còn chính chàng nằm xuống đất, quạt một băng tiểu liên vào các lỗ châu mai. Đằng sau chàng, các Palmachnik đã bắt đầu lùi một cách thận trọng. Hiểu rằng bắn nữa vô ích, Zev cũng quay lại và cố rút lui bằng cách trườn mình giữa các tảng đá. Một viên đạn bắn trúng chàng, Zev chồm lên định chạy nhưng lại bị bắn trúng lần nữa, gục xuống hàng rào kẽm gai không gỡ ra được nữa.
Ở một trăm thước thấp hơn phía dưới, ngồi sau một hòn đá, Ari thận trọng thò đầu ra. Không thể nào lên tới chỗ Zev được: trước hàng rào kẽm gai là cả một khoảng trống không có chỗ nào nấp được. Chàng quay lại David:
- Chú đưa tôi vài trái lựu đạn rồi đưa anh em trở về trung tâm. - Anh điên sao? Anh không định... - Thi hành những gì tôi nói.
Trước khi biến sau khoảng đất nhô cao, David quay lại. Chàng nhìn thấy hình dáng lom khom của Ari chạy từ tảng đá này sang tảng đá khác.
Quân Ả-rập quan sát cảnh Ari tiến lên nhưng không bắn. Rõ ràng là họ đợi cho tới khi chàng ra tới khoảng trống để bắn cho chắc. Rồi chắc bên Do-thái sẽ gửi một người khác... một người khác nữa lên...
Ari đã lên đến cách kẽm gai chừng hai mươi thước. Zev, bây giờ đã trông thấy Ari, la lớn tuyệt vọng yêu cầu bạn hãy trở lại. Ari lắc đầu. Zev hét lên:
- Đi đi! Đằng nào tôi cũng chết. Bụng tôi bị banh ra rồi... Anh có thể tin ở tôi, ruột tôi tung ra mắc đầy vào kẽm gai rồi. Tôi sống được mười phút nữa là nhiều nhất. Đi đi, đừng ngốc thế!
Ari lấy trong túi ra hai trái lựu đạn, chặn cứng chốt lại để lựu đạn khỏi nổ tung khi va chạm, rồi la lớn bằng tiếng Đức:
- Chú ý này Zev! Tôi sẽ ném cho chú hai trái lựu đạn!
Chàng vươn người lên, tung hai trái lựu đạn lên rồi lại ngồi xụp xuống. Một trong hai trái rơi xuống chân Zev. Zev nhặt lên được ôm sát vào bụng đang mở banh ra...
- Tôi bắt được rồi! Bây giờ anh rút lẹ lên!
Ari lao mình chạy xuống, đột ngột, đến nỗi quân Ả-rập để trôi qua mất nhiều giây đồng hồ. Khi họ đưa súng lên được thì đã quá trễ rồi: Ari đã biến mất đằng sau chỗ đất nhô cao.
Zev còn lại một mình. Quân Ả-rập đã thôi bắn, hy vọng sẽ có người Do-thái khác tới tiếp cứu cho bạn đồng đội bị thương. Dầu thế nào, họ cũng muốn bắt sống Zev.
Khi ấy Zev, máu đã trào ra gần kiệt, tháo chốt lựu đạn rồi đưa lên ép sát vào đầu.
Khi nghe tiếng lựu đạn nổ, Ari đứng sững ngay lại. Chàng cảm thấy người tê tái đi. Sau cùng, khi đã chế ngự được cơn buồn nôn đang làm rung động toàn thân, chàng bắt đầu bò trở về Gan Dafna.
Một lúc sau, có một mình trong hầm trú của bộ chỉ huy trại, chàng cố gắng một cách vô ích chú trọng tới những kết quả tốt đẹp thu lượm được trong ngày. Chàng giật nẩy mình khi nghe thấy cửa hầm mở. Kitty loan báo.
- Các người Ả-rập bị thương đã được cho mang xuống Abou Yesha. Chúng tôi chỉ giữ lại những người anh muốn thẩm vấn mà thôi. - Còn những người bị thương của chúng ta? - Hai em ở trong tình trạng tuyệt vọng. Những người khác sẽ qua khỏi. Tôi mang lại đưa anh những đồ vật cá nhân của anh Zev Gilboa. Chẳng có gì nhiều...
Ari nói với một chút chua cay:
- Một kibboutznik theo định nghĩa là một người nghèo. Tất cả những gì hắn có đều thuộc về đất nước, kể cả mạng sống của hắn. - Mới tối hôm qua thôi anh Zev còn nói chuyện với tôi về chị ấy. Anh thố lộ với tôi là vợ anh sắp có một đứa con nữa.
Ari càu nhàu: - Zev đã cư xử như một thằng ngu. Hắn tưởng hắn có thể chiếm đồn một mình! Tôi khó kiếm được người thay thế cho Zev.
Kitty tức giận phản đối:
- Anh chỉ biết nói thế thôi à? Khó mà thay thế được cho Zev! Anh không thèm nói một tiếng về chị Zev... - Kitty! Khi chồng cô gục xuống ở Guadalcanal liệu tiểu đoàn trưởng của anh có đọc một bài điếu văn không? - Nhưng đó là trường hợp khác! Còn anh, anh biết anh Zev từ ba năm rồi. Anh biết cả chị Zev sinh trưởng cách nhà anh có năm mươi thước nữa. - Vậy tôi hỏi cô, tôi làm gì khác được bây giờ? - Ít nhất anh cũng phải thương cho thiếu phụ tội nghiệp đó.
Trong khoảng thời gian một giây, môi Ari hơi run lên. Nhưng sau đó, chàng đã tìm thấy sự cứng rắn thường nhật.
- Một người chết giữa chiến trường là một cảnh tượng thông thường ngày nay. Bây giờ, xin cô để yên cho tôi làm việc...
Bị bao vây từ ngày có cuộc biểu quyết lịch sử của Liên Hiệp Quốc, thành phố Safed sau cùng cũng được giải tỏa nhờ ở sự can thiệp của một vũ khí kỳ dị, chưa từng có bao giờ, một thứ con hoang của súng bắn đá và bích kích pháo địa đạo. Hình dáng nó kỳ cục đến nỗi tướng Sutherland cũng phải tự hỏi không biết dùng nó vào việc gì. Đó chỉ là một cái ống lớn người ta tọng qua miệng cả một thồi đầy chất nổ. Trên lý thuyết, viên đạn kỳ lạ này phải bay xa được vài trăm thước. Trên thực tế, mọi người còn đang sợ rằng vừa ra khỏi nòng, nó dám rơi huỵch ngay xuống, giết chết hết những người xử dụng nó. Nhưng vì đạn dược của quân phòng vệ đã cạn, đành phải dùng đến Davidka - "Tiểu David". Đến lúc cùng này thì...
Để an toàn, mọi người sẽ khai hỏa nó bằng một sợi dây dài để cho những người xử dụng có thể nấp được chỗ chắc chắn. Mọi người hướng nòng súng - một cách rất đại khái - về đồn cảnh sát, tổng hành dinh của quân Ả-rập.
Bây giờ các chuyến vũ khí đã về nhiều. Dần dần chuyển từ thủ sang công, bên Do-thái mỗi ngày ghi nhận cái nhiều chiến thắng rõ rệt hơn, ý nghĩa hơn. Được một loạt thành công khuyến khích, Haganah quyết định chiếm lấy hải cảng Haïfa. Trong ba ngày liền, các lực lượng Do-thái vấp phải một sự chống trả dữ tợn, thông minh, phối hợp chặt chẽ. Rồi đến đêm thứ ba, các cấp chỉ huy của Ả-rập bỏ trốn. Hai mươi bốn giờ sau, Do-thái chiếm được hải cảng.
Tới lúc đó mọi người được chứng kiến một hiện tượng đáng ngạc nhiên, chắc là do nỗi khiếp sợ từ Safed lan truyền tới: các thường dân Ả-rập tuyên bố rằng họ muốn rời bỏ thành phố, rời cả xứ mà đi nữa. Ở Acre, rồi ở Jaffa, nơi Do-thái chiếm được mà không phải chiến đấu gay go cho lắm, cũng xẩy ra hiện tượng đó. Tại khắp nơi, các đám dông dầy đặc hối hả, điên sợ chạy về phía biên thùy Liban mà không ý thức được rằng chẳng hề có ai truy kích họ.
Mọi sự đang tiến diễn như thế thì tới tháng năm, tháng mãn nhiệm kỳ ủy trị của người Anh tại Palestine.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:14:44 GMT -6
Phần IV => Chương 5
EL-AVIV, NGÀY 14 THÁNG 5. 1948
Các lãnh tụ "Trung ương" và của phong trào phục quốc Do-thái trên toàn thế giới nhóm họp trong tòa nhà của Mier Dizenff, kẻ sáng lập cũng là vị đô trưởng đầu tiên của Tel-Aviv. Ngoài đường, các quân canh trang bị tiểu liên phải khó khăn mới ngăn chặn được một đám đông đang lo âu chờ đợi.
Trên toàn thể thế giới, hàng triệu người dán sát tai vào máy phát thanh để chờ nghe những lời sắp được cất lên từ tòa nhà này. Một giọng trầm của xướng ngôn viên loan báo:
"Đây là Tiếng nói Israël. Chúng tôi vừa nhận được một văn kiện liên quan tới sự chấm dứt ủy trị của người Anh. Chúng tôi xin đọc..."
Một bản văn khô khan, kiểu cách, không một dấu vết xúc động nào. Rồi đột nhiên giọng xướng ngôn viên thay đổi hẳn:
"Xứ sở Israël là nơi của dân tộc Do-thái, là nơi đã đào tạo ra tính chất tinh thần, tôn giáo và dân tộc của Do-thái. Chính nơi này dân tộc Do-thái có thể hoàn tất được nền độc lập của mình mà sáng tạo ra một nền văn minh có tầm mức trên hoàn vũ. Chính tại nơi đây các nhà lãnh đạo chính trị và các bậc tiên tri của dân tộc Do-thái đã viết ra Thánh Kinh...
"Ngày hôm nay, chúng tôi long trọng tuyên cáo sự tái sinh của Quốc gia Do-thái ở Palestine, quốc gia sẽ mang tên gọi là Israël. Mở rộng cho tất cả những người Do-thái trên toàn thế giới, Quốc gia của chúng ta sẽ hoạt động, tranh đấu để thăng tiến tất cả nhân dân theo những nguyên tắc của tự do, hòa bình và công lý đã do các bậc tiên tri công bố tự xưa kia, trong bình đẳng hoàn toàn, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo, và trong niềm kính trọng chân thật Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.
"... Chúng tôi kêu gọi tất cả các nhân dân Ả-rập ở Israël, chúng tôi mời họ nhận chỗ của mình trong công cuộc phát triển Quốc gia với tư cách công dân tự do trên căn bản đại diện dân chủ trong mọi cơ cấu tổ chức của Quốc gia Israël.
"Chúng tôi xin mở bàn tay thân hữu với tất cả những quốc gia láng giềng, những quốc gia mà chúng tôi hết sức mong mỏi được sống chung hòa bình.
"Xác tín niềm tin của chúng ta đối với Đấng Thượng đế Toàn năng, chúng tôi đã ký bản tuyên ngôn này, với sự chấp thuận của Quốc hội Lâm thời, trên đất nước của tổ quốc chúng ta, tại châu thành Tel-Aviv, ngày thứ năm tháng Yar năm năm ngàn lẻ tám tức là ngày 14 tháng 5 năm 1948 của lịch Ki-tô giáo".
Trong các đường phố của Tel-Aviv vui mừng hân hoan, già trẻ nắm tay nhau nhẩy một điệu hora cuồng nhiệt. Họ không thể biết rằng cũng vào giờ đó, các oanh tạc cơ Ai-cập đã cất cánh để tới tiêu hủy các thành phố của họ và nhiều đạo quân Ả-rập đã vượt qua biên thùy.
Dân Do-thái phải một người chống lại trăm người. Mặc dầu thế...
Họ đẩy lui được quân Ả-rập đã tiến chiếm sa mạc Néguev. Họ chặn đứng được quân Syrie muốn biến hồ Tibériade thành một mare nostrum nội địa. Họ đánh bại quân Irak (nói cho thực, đạo quân này không muốn chiến đấu). Không lực của họ - lúc khởi đầu chỉ có hai chiếc Piper-Cub khốn khổ dùng vào việc tiếp tế cho các nông trường bị cô lập và ném những quả bom chế tạo thô sơ qua cửa sổ xuống đầu những toán quân không chính quy Ả-rập - đã bắn hư chiếc tuần dương hạm Ai-cập đang quay các khẩu đại pháo định bắn vào Tel-Aviv. Ngay cả đối với Liên đoàn Ả-rập vẫn chiếm đóng khu Do-thái ở Jérusalem, họ cũng cải thiện được các vị trí của mình. Bây giờ họ đã chiếm được nhiều vị trí chế ngự con đường duy nhất tiến vào thánh địa. Nhưng bất hạnh thay là khi rút quân, quân Anh đã trao lại Liên đoàn Ả-rập đồn Latrun, một đồn đôn xây cất để chặn cứng lối vào hẻm núi Bab El Wad. Được xây cất chắc chắn, được bảo vệ bởi các Bédouin do Glubb Pacha 1 huấn luyện theo kiểu Anh, Latrun đã chống lại được tất cả các cuộc tấn công của Do-thái. Ít ra là tạm thời, Jérusalem vẫn bị cô lập.
Còn về hải quân Israël, gồm nhiều tầu trinh sát nhỏ chạy nhanh, đã đạt được một chiến thắng khá đẹp khi chiếm được chiếc tầu hơi Vesuvius, do người Syrie thuê để chuyên chở vũ khí từ Naples về Beyrouth. Chiếc tầu hơi này vừa nhổ neo thì một tầu nhỏ mang cờ Ý đuổi theo và yêu cầu ngừng lại. Hai mươi người mặc quân phục tiến lên tầu dưới quyền chỉ huy của một người cao lớn râu hung trông rất giống, giống kỳ lạ,với Barak Ben Canaan.
- Chúng tôi vừa nhận được tin có một trái bom nổ chậm đã được đặt dưới hầm tầu ông. Xin thuyền trưởng cho tập hợp tất cả thủy thủ đoàn, chúng tôi sẽ khám phá ra thủ phạm và tôi hứa thuyền trưởng là tên đó sẽ chỉ cho chúng ta chỗ giấu bom.
Các thủy thủ Ả-rập phải trình diện lần lượt từng người một trong một phòng khách được đặt dưới quyền xử dụng của ông "cẩm Ý-đại-lợi". Việc thẩm vấn kéo dài khá lâu để đủ cho chiếc tầu (mà thuyền trưởng gốc Naples là đồng lõa) ra khỏi hải phận nước Ý. Khi ấy, các cán bộ của Mossad, súng lục cầm tay, nhốt luôn thủy thủ đoàn cùng viên sĩ quan Syrie đi cùng. Chiếc tầu nhỏ trở về bờ, nhưng vài giờ sau, còn cách hải phận Palestine khá xa, quân Do-thái bắt thủy thủ đoàn xuống ca nô, cho viên hạm phó một bản đồ và địa bàn rồi cắt dây luôn. Hai mươi bốn giờ nữa, hai chiếc tầu nhỏ chạy nhanh mang hiệu cờ cướp biển truyền thống - một sọ người trên hai chiếc xương tréo - áp vào hai sườn chiếc tầu hơi, chuyển vũ khí sang cùng với toàn thể cán bộ của Mossad, rồi tiến về cảng Haïfa. Còn chiếc tầu hơi, bình tĩnh trở lại Naples để viên hạm trưởng chạy vội vào Cơ quan Phụ trách Hải vận khai rằng thủy thủ đoàn đã nổi loạn và bỏ tầu trốn đi.
Ari được lệnh gọi tới Tổng hành dinh đặt tại Tel-Aviv.
Tòa nhà được dùng làm Tổng hành dinh, trước được dùng làm nhà cho các gia đình thuê lại từng căn, chưa chi đã có vẻ là một Bộ Quốc Phòng thực sự. Trên mái, phất phơ bay lá cờ ngôi sao David, trước lối vào, tại tiền sảnh và các hành lang đều có các quân sĩ mặc quân phục của quân lực mới cầm tiểu liên đứng gác. Ari đi qua các phòng trong đó các cuộc hành quân được trình bầy tiến diễn theo từng giờ trên những tấm bản đồ vĩ đại trên tường. Chàng đi qua trung tâm truyền tin, nơi các máy vô tuyến và điện thoại liên lạc với tất cả các đơn vị, các phòng tuyến và nông trường trên toàn quốc. Mọi người đã xa vời Tổng hành dinh cũ của Haganah chỉ gồm có một cái bàn, vài hồ sơ và khả năng chuyên môn là dọn trụ sở cấp tốc.
Chàng được Avidan tiếp - bây giờ ông đã nhường quyền chỉ huy các đơn vị cho các sĩ quan trẻ hơn để đảm nhiệm việc liên lạc giữa quân lực và chính phủ. Avidan tiếp chàng vui vẻ nồng nhiệt.
- Bác rất mừng các gặp cháu. Mọi sự có thay đổi từ một năm nay, cháu thấy không? Về phần bác, bác chưa sao quen được. Lắm lúc bác vểnh tai nghe tiếng chân người ngoài hành lang mà tưởng như quân Anh trở lại và sắp ném bác vào tù ngồi. - Tin tức mới có tốt không bác? - Tốt và không tốt. Vấn đề lớn vẫn là Jérusalem, hay nói cho chính xác hơn, vấn đề đồn Latrun. Sau hết... bác cho gọi cháu về đây để yêu cầu cháu quét sạch cho xong vùng của cháu. Điều đó có nghĩa trên thực tế là cháu phải chiếm đồn Esther.
Ari lắc đầu:
- Cháu không thể làm được ngày nào chưa có pháo binh. Cháu đã báo cáo cho bác hay như thế rồi, cách đây không lâu. Cháu cần có ít nhất ba hay bốn khẩu Davidka. - Đòi thế thì chẳng khác đòi bác cung cấp các thoi vàng khối. Cháu muốn bác lấy những khẩu súng đó từ đâu bây giờ? Bác sẽ cố xoay cho cháu một khẩu thôi...
Avidan đứng dậy đi đi lại lại trong phòng.
- Không phải bác chỉ muốn nói với cháu về đồn Esther mà thôi. Từ mười lăm ngày nay, cháu đã nhận được lệnh chiếm Abou Yesha. Thế mà tới giờ cháu phớt lạnh lệnh này.
Ari cứng người lại, phản đối:
- Với tư cách khu trưởng, cháu có thẩm quyền hơn bất cứ ai để xem xét một cuộc hành quân có là cần thiết này không. - Thôi... thôi... giữa bác với cháu, chúng ta biết nhau quá kỹ để chơi trò ú tim. Bác biết tại sao cháu do dự chiếm làng đó. - Nhưng dân làng Abou Yesha - cháu quen biết họ từ hồi nhỏ. Cháu đã đi dự đám cưới đám tang của họ. Người Do-thái chúng ta đã giúp họ xây dựng nhà cửa, và họ đã tặng chúng ta đất đai... Bác hãy tin ở cháu, họ không phải là kẻ thù của chúng ta, mà chỉ là những người nông dân chất phác chỉ muốn yên phận sống trong hòa bình mà thôi. - Bác không đồng ý với cháu. Có những làng Ả-rập từ chối không chịu cho quân Ả-rập trú ngụ. Nhưng đó không phải là trường hợp của Abou Yesha. Những kẻ mà cháu vừa hăng hái bào chữa đó đã đứng về phía chống lại chúng ta. Làng họ đã trở thành căn cứ của địch. Bác ra lệnh cho cháu phải tiêu diệt căn cứ này. Chờ đã nào, bác chưa nói hết. Cháu Ari ạ, từ mười lăm tuổi cháu đã chiến đấu rất đẹp. Chưa một lần nào bác có dịp khiển trách cháu về bất cứ một bất phục tòng nào. Và bây giờ...
Ari tái mặt. Nét mặt căng thẳng, chàng buông mình xuống một chiếc ghế, nói nhỏ:
- Tuân lệnh. Cháu sẽ làm điều gì bác bảo. - Cháu liên lạc với phòng hành quân. Bây giờ làm ngay đi.
Ari đứng dậy, tiến về phía cửa. Avidan nói:
- Suýt nữa bác quên... Kể từ ngày hôm nay, cháu là đại tá Ben Canaan.
Ari thốt lên một tiếng cười ngắn ngủi, không vui. Avidan nói: Cháu, bác rất tiếc, quả thực là bác rất tiếc.
Việc chiếm đồn Esther thật quá dễ dàng dù Ari chỉ có mỗi một khẩu Davidka. Ngược lại, yếu tố bất ngờ tác dụng tối đa: đa số quân Ả-rập trong đồn ngày hôm đó đã phân tán rải rác ở các làng chung quanh. Nhóm quân còn lại trong đồn, chừng một trăm người, khẩu Davidka vừa mới bắn tung cửa thép của đồn, đã vội vã đầu hàng.
Dân làng Abou Yesha nghe thấy các tiếng nổ và biết rằng sắp đến lượt họ. Ari cử một sứ giả tới làng: dân làng có hai mươi phút để rời làng, nếu không sẽ bị giết chết tại chỗ. Đứng từ trên một đồi cao, Ari nhìn những bạn bè từ thuở thiếu thời chồng chất nồi niêu quần áo lên xe lửa, ra đi hướng về phía biên thùy. Quang cảnh này làm chàng đau đớn.
Sau một giờ, David lại kiếm chàng.
- Anh Ari, hạn kỳ anh cho họ đã chấm dứt từ lâu rồi. - Hãy cho họ thêm một khoảng thời gian nữa. - Những kẻ nào muốn đi đã đi rồi. Chỉ còn lại Taha và chừng một trăm kẻ điên rồ nữa tưởng rằng có thể đánh lui chúng ta. Anh Ari, anh phải cho lệnh tấn công đi thôi.
Ari quay đi, bước ra xa vài bước. David bước theo.
- Anh có muốn tôi chỉ huy thay thế cho anh không? - Muốn chứ. Cám ơn chú.
Taha và những "kẻ điên rồ" chống cự can đảm nhưng trong tuyệt vọng. Phải mang cả Davidka đến lúc đó mới diệt được những ổ kháng cự sau cùng. Ngồi gục trên đỉnh đồi, Ari muốn bịt hai tai lại để khỏi nghe thấy tiếng đạn nổ, những căn nhà xụp đổ tan tành. Đêm xuống, David trở lại gặp chàng.
- Xong rồi anh. Bên phía Ả-rập không còn ai sống sót. Chúng ta thiệt hại nặng... mười bốn nam và ba nữ. Thêm chừng chục người bị thương nữa.
Ari nói nhỏ: Những dân làng khốn khổ ấy sẽ ra sao? Họ đi đâu... Kiếm ăn bằng gì?
Ari đứng dậy. David nắm lấy cánh tay bạn.
- Xin anh đừng đi về phía đó làm gì. Không ích gì. - Chú hãy cho tôi biết... căn nhà nhỏ trắng, gần suối... - Anh hãy cố giữ lấy hình ảnh căn nhà đó ngày xưa.
Đột nhiên Ari vùng ra. Chàng ném một cái nhìn xuống các mái nhà làng, nói bằng một giọng không âm sắc.
- Chú xuống làng nữa đi. Phải thanh toán cho xong. Phải phá hủy Abou Yesha.
-------------------------------- 1.Glubb Pacha: một sĩ quan Anh, làm cố vấn, huấn luyện rồi sau chỉ huy luôn Liên đoàn Ả-rập, tên thật la Sir Jir John Bagot.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:20:14 GMT -6
Phần IV => Chương 6
David thức giấc. Chàng đã thiếp ngủ đi trong vòng tay Jordana. Khi chàng rón rén đẩy chăn ra, Jordana mở mắt ra. Chàng hỏi: Sao em không ngủ tiếp đi?
- Em sẽ có thừa thì giờ để ngủ khi xa anh.
Dịu dàng âu yếm, David cúi xuống nàng, thì thào:
- Anh yêu em... Nhưng anh vẫn phải ra đi như thường. Bác Avidan đang chờ anh.
Một giờ sau, Avidan đưa thiếu tá David vào văn phòng thiếu tướng Ben Zion, trưởng khối hành quân.
- Rất vui sướng được biết thiếu tá. Hình như thiếu tá có một đề án hay muốn trình bày cùng chúng tôi. - Vâng, thưa thiếu tướng. Vấn đề Jérusalem. Thiếu tướng cũng biết như tôi tình hình bi thảm đến mức nào rồi. Kể từ khi các trạm bơm nước bị phá hủy, dân ta cùng quân sĩ chỉ sống được nhờ ở các hầm chứa nước của Salomon, một thứ nước cũ đến hai ngàn năm. Mọi sự như vậy là tại đồn Latrun do quân Ả-rập chiếm đã ngăn cản chúng ta tiếp tế. - Thiếu tá chẳng cho tôi biết thêm được gì mới lạ. Latrun là vấn đề số 1 của chúng ta hiện giờ.
David nói tiếp:
- Tôi biết rõ vùng Latrun như biết nhà tôi vậy. Tôi say mê khảo cổ và vì thế tôi đã thăm viếng vùng đó tới cả trăm lần. Từ nhiều tháng nay, tôi suy nghĩ nhớ lại từng thước đất ở vùng ấy và đã đi đến kết luận sau: ta có thể đi vòng quanh đồn Latrun.
Zion ngạc nhiên nhắc lại: Đi vòng quanh. Thiếu tá muốn nói gì vậy?
- Lấy đường lộ làm chuẩn, nếu vạch một nửa vòng tròn quanh tâm điểm là Latrun, thiếu tướng sẽ thấy một lộ trình dài là 16 cây số. - Rồi sao nữa? Mười sáu cây số này chỉ là một đường vạch trên bản đồ thôi. Không hề có một con đường nào và các đồi núi thì lởm chởm thẳng đứng... - Chính vấn đề là ở chỗ này, thưa thiếu tướng. Có một con đường. Một phần của đường này là một con đường cổ xưa có từ thời đế quốc La-mã. Một con đường xưa đến hai mươi thế kỷ, bị cây cối đá vụn phủ kín, nhưng vẫn là một con đường. Đường này băng qua các đường trên một chiều dài là 8 cây số. Và tôi biết rõ là 8 cây số còn lại còn xử dụng được.
Mọi người im lặng. Avidan và Zion đưa mắt hỏi nhau rồi Avidan nói: - Cứ cho là có con đường này đi. Và cứ cho là chú có thể kiếm lại được nó đi. Như vậy thì chúng ta tiến thêm được gì không? Tôi vẫn chưa trông thấy dự án hấp dẫn của chú đâu hết. - Tôi đề nghị chúng ta sẽ làm một con đường mới trên con đường La-mã cũ. Như vậy chúng ta sẽ đi vòng quanh được Latrun và tiết kiệm được trận công đồn chắc chắn là đắt giá.
Ben Zion mỉa mai:
- Thế bộ thiếu tá thực hiện được công cuộc đó trước mũi Liên đoàn Ả-rập được sao? - Tại sao lại không? Tất cả những gì chúng ta đang cần, đó là một con đường đủ rộng để cho một xe cam-nhông qua được. Với hai đoàn nhân công, một xuất phát từ Jérusalem, một từ Tel-Aviv, đường sẽ làm xong trong vòng một tháng. Còn về Liên đoàn Ả-rập, ai cũng biết là Glubb Pacha không dám đem thí liều trong một trận đánh dàn trận với chúng ta. Ông ta thích giữ quân tử thủ sau tường đồn Latrun hơn.
Một lần nữa Avidan và Ben Zion lại nhìn nhau. Anh chàng thiếu tá trẻ tuổi này có vẻ tự tin lắm... Ben Zion hỏi:
- Bây giờ thiếu tá cần gì? - Một chiếc jeep, trong một đêm. Sau đó tôi sẽ làm tờ trình sau.
Ben Zion vẫn còn ngần ngừ khi có tiếng gõ cửa. Một trung úy đem công điện vào. Ben Zion cầm lấy, đọc lướt qua, mặt tái lại. Không nói một tiếng, ông đưa tờ giấy lại cho Avidan. Viên chiến sĩ già giật mình.
- Cổ thành đầu hàng rồi.
Ben Zion nắm chặt tay lại, kêu lên:
- Nếu chúng ta mất Jérusalem, chúng ta sẽ mất cả Quốc gia Do-thái. Rồi, thiếu tá Ben Ami, thiếu tá đi lựa một chiếc jeep nhanh lên.
Chừng mười ngày sau khi thành lập các công trường làm "một con đường Diến-điện mới" 1 để đi bọc quanh được đồn Latrun, điện thoại viên tổng đài Gan Dafna khẩn cấp gọi bà Katherine Fremont. Kitty cầm điện thoại lên nghe rất lâu, đặt vài câu hỏi rồi gác máy. Rồi đi từng bước chậm chạp, Kitty đi về phía văn phòng chỉ huy của Jordana.
Jordana ngửng đầu lên và mỉm cười với nàng. Nhưng trước vẻ mặt buồn của Kitty, nụ cười của Jordana im lặng.
Sau cùng, Jordana tìm thấy đủ can đảm để cất tiếng.
- Anh David chết rồi phải không chị? - Đúng thế... - Cái gì đã xẩy đến cho anh ấy? - Anh Ari vừa gọi điện thoại cho tôi. Hình như anh David đã thành lập một nhóm xung kích gồm các Palmachnik và Macchabée. Dĩ nhiên là anh đã hành động không có sự chấp thuận của thượng cấp. Tôi đoán là anh không chống lại nổi với sự quyến rũ của các bức tường cũ của Cổ thành. Nhóm của anh đã tấn công để lấy lại... họ đã thành công trong công việc chiếm lại được ngọn Zion, nhưng đó chỉ là một chiến công tuyệt vọng, một nhiệm vụ tự sát.
Im lìm, Jordana như hóa đá. Kitty thì thào:
- Liệu tôi có thể làm được gì bây giờ? Tôi không còn biết nói gì...
Người con gái sabra đứng dậy. Đầu ngẩng cao, nàng nhìn Kitty, nói bằng một giọng mạnh mẽ:
- Chị khỏi phải lo cho tôi.
Không ai được trông thấy nàng nhỏ một giọt nước mắt.
Một tháng đúng sau ngày khám phá ra con đường La-mã xưa, con đường chạy bọc đồn Latrun đã hoàn tất. Ngay đêm đó, một đoàn xe đầu tiên đã tới được đô thị Thánh. Cuộc vây hãm Jérusalem kể như đã chấm dứt.
-------------------------------- 1.Con đường Diến Điện: trong đệ nhị thế chiến, quân Nhật chiếm hết miền duyên hải Trung hoa, dồn quân lực Trung hoa vào nội địa, chiếm cứ Đông dương, cắt hết đường tiếp vận của Trung quốc. Để tiếp vận cho quân lực Tưởng giới Thạch, bên Đồng minh phải làm một con đường đi từ Miến điện sang tới Trùng khánh, thủ đô lâm thời của Trung quốc. Con đường này làm rất công phu, có nhiều đoạn chạy toàn trên các đỉnh núi hoang vu.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:22:13 GMT -6
Phần IV => Chương 7
Sau khi người Do-thái đã thành công trong việc chận đứng được xâm lăng của các đạo quân Ả-rập, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc bắt hai bên chấp nhận một cuộc ngưng chiến tạm thời. Nói thực ra, cả hai bên đều mong có ngưng chiến này. Bên Ả-rập, tủi nhục vì các thất trận liên tiếp, muốn lợi dụng ngưng chiến để tổ chức lại lực lượng. Bên Do-thái, để kiếm thêm vũ khí và gia tăng tiềm năng tấn công.
Dẫu sao, ở ngay bên trong Bộ tư lệnh tối cao của Israël, còn có nhiều khó khăn. Quyền hành của chính phủ lâm thời đối với Palmach, Macchabée và Chính thống giáo cực đoan vẫn còn bấp bênh lắm. Nhưng Palmach còn hiểu được vài lý lẽ: các lữ đoàn của Palmach bị đe là sẽ bị loại trừ ra khỏi lực lượng xung kích nếu họ cứ tiếp tục bàn cãi lệnh thượng cấp nên sau cùng đã chịu sát nhập vào quân lực. Các Macchabée cũng chịu đưa các đơn vị đặc công của họ vào quân lực chính quy với điều kiện là được duy trì các cấp chỉ huy cũ. Bướng bỉnh bất trị nhất là các Chính thống giáo, rất cuồng đạo, hiểu các lời trong kinh thánh một cách máy móc, nhất định ngoan cố chờ Đấng Cứu thế tới.
Nhưng dù thế nào, sự thống nhất tối cần thiết cho quân lực sắp sửa hoàn tất thì một biến cố thê thảm làm vấn đề phải đặt lại. Ở Hoa-kỳ, các cảm tình viên của Macchabée đã thu thập được một số lượng vũ khí tối tân và đã mua một máy bay chở hàng đặt tên là Akiba. Đồng thời, hàng trăm thanh niên tình nguyện cũng chuẩn bị lên đường tới với các tiểu đoàn Macchabée. Các điều kiện đình chiến dĩ nhiên là cấm cả hai bên tăng viện rồi, nhưng cả Ả-rập lẫn Do-thái đều coi nhẹ điều khoản này, cùng nỗ lực một cách bí mật nhiều hay ít để củng cố các vị trí của mình.
Được các điệp viên bên Âu châu báo cho biết, chính phủ Israël đòi chiếc Akiba cùng mọi vũ khí do máy bay này chuyên chở phải được đặt dưới quyền chính phủ: xét cho cùng thì các Macchabée cũng thuộc về quân lực. Các Macchabée không chịu, viện lý là theo những người tặng thì các vũ khí này đặc biệt chỉ gửi tới cho các đơn vị của họ mà thôi. Chính phủ liền viện lý mình là kẻ thích ứng hơn ai hết để đưa các vũ khí ấy nhập nội bí mật theo một cách thế như thể nào để bề ngoài vẫ giữ được vẻ tôn trọng các điều khoản ngưng chiến. Ngay lập tức, các Macchabée trả lời là họ độc lập với cơ quan lãnh đạo trung ương và không hề muốn tôn trọng ngưng chiến. Mỗi ngày qua, cuộc tranh luận lại càng trở thành cay độc hơn.
Trong thời gian đó, Akiba đã cất cánh. Chính phủ, dù biết rằng mình rồi cũng được xử dụng vũ khí cùng các thanh niên tình nguyện do phi cơ này chuyên chở, cũng vẫn phải yêu cầu các Macchabée hủy bỏ chuyến bay đó. Vụ này đã lộ ra ngoài, và việc phi cơ này đáp xuống lãnh thổ Palestine sẽ là một vi phạm trắng trợn đình chiến. Như ta có thể đoán biết trước, các Macchabée không thèm nghe lời.
Phi trường mà chiếc Akiba sẽ hạ cánh hôm đó lại có nhiều quan khách: các viên chức cao cấp của Israël, các lãnh tụ của Macchabée, các quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Chính phủ cho gửi tới phi công lời cảnh cáo chót qua vô tuyến điện: Phải quay lại, không được đáp xuống Palestine. Phi công không chịu nghe, các khu trục liền được lệnh cất cánh: chiếc Akiba bị chặn đường, bắn hạ.
Vài trận đánh dữ dội liền xẩy ra giữa lực lượng chính phủ và lực lượng Macchabée. Sau cùng, các lãnh tụ Macchabée liền rút các đơn vị của mình ra khỏi quân đội. Xét cho cùng, thảm kịch này thanh lọc được một bầu khí đã trở thành quá khó thở. Dưới chế độ ủy trị, các Macchabée đã đóng góp rất nhiều vào việc làm cho quân Anh phát ngán xứ Palestine. Nhưng bây giờ người Anh đã đi rồi, chiến thuật khủng bố vô giới hạn đã mất đối tượng. Đồng thời các Macchabée lại tỏ ra không sao chấp nhận được kỷ luật tối cần thiết khi hành quân. Mặc dù đã chứng tỏ được một lòng can trường đáng kính phục và một hy sinh tuyệt đối, họ lại tỏ ra phản động với bất cứ một quyền bính nào không phát xuất từ các cấp chỉ huy của họ. Bởi thế sau vụ Akiba, họ thu mình vào trong một cách cô đơn gầm gừ, tạo thành một nhóm cực đoan chỉ biết tới có một giáo điều: đó là bạo lực tàn nhẫn, giải pháp duy nhất cho tất cả mọi vấn đề.
Trong thời gian này, những người hòa giải của Liên Hiệp Quốc, bá tước Bernadotte và người Hoa-kỳ phụ tá là Ralph Bunche, cố gắng một cách tuyệt vọng để hòa giải Do-thái, Ả-rập. Nhưng vô ích: bốn tuần lễ thương thuyết không thể nào xóa bỏ được ba mươi năm hận thù chồng chất. Sau cùng, người Ả-rập lại khởi chiến không cần đợi đến khi hết hạn kỳ đình chiến.
Về phía Ả-rập đây là một lầm lẫn ghê gớm bởi vì quân Israël phản công ngay lập tức. Sau khi đã làm các chuyên viên quân sự trên toàn thế giới ngạc nhiên về khả năng kháng cự, lần này Do-thái làm mọi người sững sờ trước sự tấn công chớp nhoáng của họ.
Để mở đầu, không lực Israël oanh tạc Le Caire, Damas và Amman để làm cho người Ả-rập hiểu rằng tốt nhất đừng có nên gửi phi cơ bay tới vòm trời Tel-Aviv và Jérusalem nữa. Một cảnh cáo thật là minh bạch lắm bởi vì từ đó không gian trên các thành phố Do-thái vắng bóng phi cơ địch. Trên bộ, các kibboutz vùng Ein Gev, sau khi đã chống lại một cuộc vây hãm trong nhiều tháng, đã đẩy lui được quân Syrie và chiếm lại được bờ bên phía Israël của hồ Tibériade. Tại vùng Trung Galilée, Ari Ben Canaan dẹp tan được quân không chính qui của mufti và chiếm được Nazareth, vị trí then chốt của tỉnh. Trong miền "hành lang" của Jérusalem, lữ đoàn 2 của Palmach mở rộng thêm được phòng tuyến và tiến về phía Bethléem. Trong thung lũng Sharon, các lực lượng Do-thái, xử dụng hàng trăm xe jeep, đã chiếm được các thành phố thuần Ả-rập là Lydda và Ramle, những đồn địch nằm trên đường về Jérusalem, chiếm phi trường Lydda, đẩy lui quân đội Irak, mở một gọng kìm để bao vây Latrun.
Tới lúc đó quân Ả-rập, hoảng sợ vì cả loạt thảm bại trong vòng mười ngày, khẩn thiết kêu gọi đình chiến lần thứ hai.
Lần này Bernadotte và Bunche ít nhất cũng có một lý do để hy vọng. Vua Transjordanie là Abdullah đã hiểu gió thổi về chiều nào rồi. Sau khi hòa đàm mật với chính phủ Do-thái, ông chấp nhận giữ Liên đoàn Ả-rập đứng ngoài cuộc chiến, và nhờ thế quân lực Do-thái mới có thể tập trung chống lại Ai-cập. Để đổi lại, bên Israël cam kết sẽ không tấn công các vị trí của Liên đoàn trong cổ thành của Jérusalem và ở Samarie. Thỏa hiệp này có chấm dứt huyền thoại được duy trì cẩn thận cho tới giờ là liên minh "cho tới chiến thắng sau cùng" của các quốc gia Ả-rập. Xẩy ra sau đó nhiều vụ biện giải đầy sóng gió, nhiều lời kết tội tàn tệ, chửi rủa, bôi nhọ khôi hài kỳ cục. Sau cùng Abdullah bị các tín đồ Hồi giáo cực đoan bắn hạ khi ông rời khỏi giáo đường Omar trong Cổ thành. Một lần nữa các chính trị gia Ả-rập lại dùng đến các phương pháp họ ưa thích, đó là âm mưu và ám sát.
Bây giờ quân lực Israël đã được tập trung lại, có thể dồn hết sức mạnh của mình để chống lại Ai-cập. Trong những ngày đầu của chiến dịch, quân lực Israël chiếm được trong sa mạc Néguev pháo lũy quan trọng Suweïdan mà địch đã xử dụng từ bao nhiêu tháng nay để đe dọa những dân khai hoang sa mạc. Xa hơn một chút, tại Faloujah, một "cái túi" Ai-cập, đã được quân lực Do-thái bỏ qua không đánh chiếm vì còn vội tiến nhanh khai thác chiến thắng. Đạo quân Ai-cập đồn trú tại điểm này sau đó đã rút được đi nhân một dịp ngưng chiến. Trong những sĩ quan của đạo quân Faloujah, có một đại úy trẻ tuổi sau này sẽ giữ vai trò chính yếu trong vụ truất phế vua Farouk, đó là đại úy Gamal Abdel Nasser.
Một vài giờ trước khi có "ngưng bắn" cục bộ này, tuần dương hạm Farouk, niềm kiêu hãnh của hải quân Ai-cập, đã định pháo kích một vị trí của Israël. Nhưng chính chiến hạm này lại lãnh đủ: ngay lập tức, một tiểu đĩnh chở đầy chất nổ, bánh lại chặn cứng, phóng hết tốc lực lao vào nổ tung đánh chìm luôn chiếc Farouk.
Mùa thu 1948, bằng một trận đánh bất ngờ, quân Israël chiếm được thành phố được phòng vệ rất kỹ là Beersheba. Muốn tránh một cuộc tấn công chính diện chắc chắn tổn thất nhiều, quân Israël đã mượn một con đường khuất nẻo có từ thời Abraham để bọc ra phía sau pháo lũy Ai-cập. Bị đánh bọc hậu, các chiến binh anh dũng của Farouk vứt vũ khí để chạy nhanh hơn.
Đến đây là mạnh ai người ấy chạy. Lao về phía trước truy kích quân Ai-cập, quân Israël để dải đất Gaza ở lại phía sau không đánh, tiến luôn vào Sinaï, băng qua bán đảo này, tiến gần đến kênh Suez. Lo sợ cho con kênh, người Anh yêu cầu Tel-Aviv ngưng ngay các cuộc hành quân lại, và để nhấn mạnh sự khẩn thiết của đòi hỏi này, quân Anh cho ngay một phi đội khu trục Spitfire bắn xuống các tiền quân của Israël. Vụ này gần như một biểu tượng: những phát đạn sau cùng của chiến tranh. Giải phóng của Do-thái là nhằm vào người Anh. Không lực Israël liền bắn hạ sáu phi cơ Anh, rồi sau đó cái Quốc gia trẻ trung này, nhượng bộ trước áp lực quốc tế, đành chấp nhận để tàn quân Ai-cập tẩu thoát về châu thổ sông Nil. Những tàn quân này đã lợi dụng cơ hội đó để tập họp lại, và với một sự can đảm không mấy có ngoài chiến trường, họ dám tổ chức một "Diễn binh Chiến thắng" vĩ đại ở Le Caire!
Israël đã chiến thắng! Một mình chống lại cả một liên minh các kẻ địch, dân tộc Do-thái, sau khi trả giá bằng máu và nước mắt, đã hoàn toàn chinh phục dứt khoát được xứ sở mà lương tâm toàn thế giới đã phân phối một cách hợp pháp cho họ. Lá cờ Ngôi sao David, sau khi hai ngàn năm khuất bóng, lại phất phơ bay từ Hồng hải tới Địa trung hải.
Trong những hậu quả không thể tránh được của chiến tranh là thảm kịch những người tị nạn Ả-rập tìm nơi ẩn trú nương thân ở các nước láng giềng. Các cuộc thảo luận về vận mạng của các kẻ đáng thương này chưa chi đã sa lầy ngay vào sự hỗn độn đạo đức giả, quốc gia chủ nghĩa mù quáng, quyền lợi phe đảng cùng các toan tính bẩn thỉu - cả một trái bom nổ chậm mà Liên Hiệp Quốc cố gắng gỡ ngòi một cách vô ích. Barak Ben Canaan, được chính phủ trao phó việc lập một tờ trình về tình hình có vẻ không lối thoát này, đã viết như sau trong phần kết luận của bản văn:
"Vấn đề do các dân Ả-rập tị nạn của Palestine đặt ra đã trở thành vũ khí chính trị chính của các quốc gia Ả-rập. Họ không bỏ sót một điều gì không làm để mô tả cảnh khổ của những nạn nhân chiến tranh này, và họ cũng không từ một điều gì không làm để ngăn cản tất cả mọi giải pháp giải quyết cho những kẻ khốn khổ đó. Người Ả-rập muốn các trại tị nạn tồn tại và tiếp tục tồn tại để chứng tỏ với thế giới sự độc ác của những người Do-thái. Chắc chắn là nhiều quan khách tới viếng các trại đó đều xúc động vì bao nỗi khốn cùng của các nơi này.
"Vậy mà chính những người Ả-rập đã tạo ra vấn đề này: tháng 11-1947, ngay khi Liên Hiệp Quốc đã biểu quyết chia cắt Palestine, các nhà cầm quyền Do-thái đã không ngừng yêu cầu các dân Hồi giáo Palestine hãy bình tĩnh, giữ một thái độ thân hữu cùng tôn trọng những quyền lợi hoàn toàn hợp pháp của người Do-thái. Sáu tháng sau, Quốc gia Israël, trong bản tuyên ngôn độc lập, đã long trọng đưa tay kết giao với các quốc gia Ả-rập láng giềng và vào ngay lúc chính các quốc gia này sắp sửa xâm phạm biên thùy Israël.
"Sự kiện nhiều ý nghĩa là: đa số những người Ả-rập Palestine đã chạy đi ngay trước khi có xâm lăng. Ở Jaffa, ở Haïfa, ở Galilée, hàng bao ngàn người Ả-rập đã lên đường tiến về biên giới trong khi những trận giao tranh chưa có gì là gay go, quan trọng.
"Nguyên nhân đầu tiên của hiện tượng này hiển nhiên là lòng sợ hãi. Trong mấy chục năm nay, một số lãnh tụ tham vọng và thiếu lương tâm của Ả-rập đã khai thác sự ngu dốt, mê tín cùng lòng cuồng đạo của các fellah, đã nhồi nhét vào đầu họ ý tưởng về một cuộc tàn sát tập thể. Chính thứ sợ hãi vô lý này đã đưa những người Ả-rập Palestine vào con đường lưu đầy. Sự sợ hãi này có thể biện minh bằng các sự kiện không? Chắc chắn là không. Ngoại trừ một trường hợp đặc biệt - một nhầm lẫn đáng tiếc đã gây ra một vụ tàn sát không tha thứ được - không có một làng Ả-rập trung lập nào lại bị quân Israël tấn công hay phải chịu một biện pháp khó khăn nào.
"Nguyên nhân thứ hai của tình trạng hiện tại - một nguyên nhân đã được nhiều tài liệu chứng tỏ là đúng - là sự khai thác bóc lột quá đáng mà các lãnh tụ Ả-rập đã làm và hiện còn đang làm. Các lãnh tụ này muốn thường dân Ả-rập rời khỏi Palestine. Trước hết bởi vì sự hiện diện của những thường dân này sẽ làm ngáng trở công cuộc dự trù là diệt chủng dân tộc Do-thái. Thứ hai bởi vì họ cần một phương tiện để minh chứng "xử sự phi nhân" của Do-thái, những kẻ đã cưỡng bách những kẻ khốn khổ đó phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn ra đi.
"Liên Hiệp Quốc đã thành lập một quỹ hai trăm triệu đô-la để tái lập nghiệp cho những người tị nạn của Palestine. Không hề thiếu đất mầu mỡ và thiếu dân trong mười triệu cây số vuông của thế giới Ả-rập. Miền thung lũng sông Tigre và Euphrate chẳng hạn, bao hàm nhiều vùng có thể nói là mầu mỡ nhất trong những vùng đất cần khai hoang. Trong lúc này, các vùng đó chỉ chứa một nhóm nhỏ bé Bédouin. Vùng thung lũng nói trên không thôi thừa sức nuôi mười triệu người, trong khi tổng số những người tị nạn mới có chừng nửa triệu.
"Một mặt khác, Israël, một xứ ít mầu mỡ rộng có mười ngàn cây số vuông mà thôi, mà một nửa là đất sa mạc, đã phải tiếp nhận nửa triệu người tị nạn Do-thái từ khắp các nước Ả-rập chạy về. Và chúng ta còn phải chuẩn bị tiếp nhận thêm từng ấy nữa...
"Các lãnh tụ Ả-rập quả quyết rằng Quốc gia Israël nuôi những tham vọng đế quốc. Tôi mong mỏi rằng mọi người sẽ cắt nghĩa cho tôi hiểu làm sao một quốc gia chưa có tới một triệu dân lại có thể theo đuổi một chính sách bành trướng lãnh thổ đối với 50 triệu dân khác được.
"Thực ra, toàn thể các dân tộc Ả-rập cần phải có một thế kỷ hòa bình. Và cũng cần phải có những lãnh tụ không phải là những cheik có hàng ngàn ngàn nô lệ, không phải là những kẻ cuồng đạo tù hãm trong các ý tưởng thời trung cổ, không phải là tập đoàn quân phiệt, mà là những người đủ can đảm, đủ sáng suốt để tấn công cái nghèo khó, sự ngu dốt và các bệnh tật địa phương. Nhưng bất hạnh thay, những người hiếm hoi thuộc thành phần này đều bị ám sát chết mỗi khi xuất hiện. Những lãnh tụ Ả-rập hiện nay không muốn giải quyết vấn đề dân tị nạn, và cũng chẳng hề muốn có hòa bình."
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:28:52 GMT -6
Phần V => Chương 1
NOME (ALASKA)
THÁNG MƯỜI 1948
Tất cả phi cơ của công ty Arctic Circle Airways trước sau chỉ có ba chiếc phi cơ chở hàng mua từ kho thặng dư phế thải của quân đội, và Stretch Thompson đã mua trả góp.
Cựu phi công chiến đấu ở Alaska, Stretch đã nổi tiếng là một anh chàng giầu óc tưởng tượng, nhất là cần tránh thứ tạp dịch buồn chán, các công việc đều đều. Trong những chuyến bay đêm, chàng đã có thì giờ để suy nghĩ đến các vấn đề không vui gì do việc giải ngũ sau này đặt ra. Một tối kia, chàng đã tìm ra giải pháp: Cua!
Dọc theo các bờ biển có hàng triệu con cua vua rất to khỏe, có nhiều con có tới 40 phân đường kính. Một người khôn khéo chắc hẳn phải tìm được cách làm cho các nhà tiêu thụ khoái khẩu với cái thứ thịt trắng và chắc, mà nghĩ cho kỹ, đâu có thua sút gì tôm hùm của tiểu bang Maine. Chỉ có việc lượm thứ của trời cho lúc nhúc ấy, chèn nước đá vào rồi chuyên chở - dĩ nhiên bằng máy bay rồi - về Hoa-kỳ. Một chút quảng cáo nữa là các nhà buôn sẽ đổ xô tới thứ thức ăn trời cho này. Và trong vài năm, chàng sẽ giàu - chàng, Stretch Thompson, vua của cua vua.
Chắc đã có một trục trặc nào đó trong vụ tính toán này, có lẽ tại nhân loại chưa được tiến hóa lắm để thưởng thức món ăn Bắc cực này. Dù thế nào chăng nữa, việc bảo trì phi cơ, xăng nhớt và tiền công cho phi công cứ nhất định vượt quá tổng số thu do việc bán cua mang lại. May thay, Stretch lại không phải là người chịu thua nghịch cảnh. Nhờ có mồm mép khác thường và tính toán khôn khéo, chàng đương đầu được với bầy chủ nợ mà vẫn duy trì được, với sự tăng cường bằng giây kẽm, vải đeo dính và các lời chửi thề tùm lum, ba phi cơ trong tình trạng bay được. Và cứ đều đều, vào lúc trời tối sầm lại tới nơi tới chốn, thì lại có một chuyến chở mướn công cao tới cứu vãn.
Một yếu tố may mắn khác, đó là sự chung thủy của phi công trưởng (và thường cũng là phi công duy nhất), anh chàng Foster MacWilliams, một tay nghệ sĩ đích thực trong việc điều khiển cái cán chổi. Tài khéo léo của Foster đã nổi danh đến nỗi không ai dám nhận lời cá với chàng như sau: cá một trăm đô-la thôi, chàng sẽ đáp được chiếc C 47 xuống đầu một khối băng sơn dù trong tình trạng say rượu gần chết đi nữa. Nhưng bất hạnh thay là Foster MacWilliams lại có một tâm hồn lang thang: nếu chàng mê bay, thì chàng lại rất kinh hãi những phi trình ấn định trước cùng các thời biểu phải tôn trọng. Đến nỗi rằng chưa bao giờ chàng quyết định được đến làm cho một công ty hàng không lớn. Ngược lại, các phi trình bất nhất, các phi vụ thường là nguy hiểm của Arctic Circle Airways lại hoàn toàn vừa ý chàng.
Một ngày nọ, khi chàng tiến vào hăng-ga ở đầu phi đạo, trụ sở và bất động sản duy nhất của công ty, Stretch Thompson nhìn chàng với vẻ suy tư.
- Này cụ, cụ có khoái sống trong một xứ nhiều mặt trời hơn - và đồng thời nhận đủ tất cả số lương chưa được lãnh cho tới giờ không? - Này bồ Stretch, bồ vẫn cứ nhăn nhó đều đều đó phải không? - Lần này tôi không có đùa đâu, thưa cụ. Chuyện làm ăn cẩn thận đấy. - Bồ không bán tống bán tháo cái đại công ty này rồi chứ? - Cụ đoán sao mà hay vậy.
MacWilliams có vẻ sững sờ ngạc nhiên.
- Này, ai có thể gồng lên mà mua những con chim cu về già của chúng ta vậy? - Tôi không có yêu cầu người mua thuật sự mô tả lại tiểu sử. Tôi chỉ biết ngân phiếu thơm lắm và tính tôi thì dễ, thế là hài lòng rồi.
Foster MacWilliams xoa cằm:
- Vụ này có vẻ tới đúng lúc đấy, bồ Stretch. Tôi cũng bắt đầu ngấy lạnh, sương mù và cua rồi. Theo như bồ tính, bồ thiếu tôi bao nhiêu tất cả? - Tính cả tiền thưởng, chắc không xa bốn ngàn đôn là mấy. - Một khoản xinh đấy chứ? Với khoản này, tôi sẽ có thể tặng tôi một chầu rượu chè gái ghiếc từ đây xuống tới Nam Mỹ. Lý do là tại lúc này tôi đang khoái xuống cái miền đó. Hình như thiên hạ trả công khá lắm cho những tên chuyên chở chất nổ băng qua dẫy Andes.
Stretch nói: Nhưng hiện chỉ có một trục trặc nhỏ, cụ Foster.
- Tôi nghĩ rằng chắc hẳn là phải có trục trặc. - Tôi đã phải ký thuận sẽ trao ba chiếc máy già của chúng ta tại sân bay của người mua. Tôi đã tìm thấy người lái chiếc số 1 và chiếc số 2... còn mỗi chiếc số 3 là chưa có ai. - Điều đó có nghĩa là bồ lại trông cậy ở tôi một lần nữa rồi đó. Xong rồi. Chúng ta phải trao chiếc phi cơ vừa bay vừa ho hen của chúng ta ở xó nào đây. - Ở Israël. - Israël? Chỗ nào vậy? Chưa bao giờ nghe ai nói tới cái tên này cả.
Stretch gật gù: Tôi cũng thế cụ ạ. Tôi đang kiếm cái tên đó trên bản đồ thì cụ tới.
Cả hai người chúi mũi vào bản đồ thế giới, dò từ trên xuống dưới từ trái sang phải. Sau một giờ đồng hồ, cả hai người bỏ cuộc. Foster lắc đầu: Thiên hạ giỡn với bồ rồi bồ ơi.
Họ đi làm một chầu khắp các quán rượu ở Nomé, nhưng ngoại trừ một ông quản già phát biểu rằng "cái tên đó có nhắc tới một cái gì đó", còn không được ai nghe nói đến cái xứ mang tên Israël bao giờ. Sau cùng, vào lúc hàng quán đóng cửa, có người đề nghị hãy tới đánh thức hiệu sách duy nhất trong thị trấn Nomé dậy mà hỏi.
Chủ hiệu sách hét lên:
- Israël hả? Đó là tên mới của Palestine, ngu ơi là ngu! Có vậy mà các anh tưởng hay lắm đến đấm cửa nhà người ta vào lúc nửa đêm như vậy hả!
Trở về hăng-ga, hai người lại dò tìm trên bản đồ thế giới. Sau cùng Stretch khám phá ra một cái xứ nhỏ xíu. Foster làm một điệu bộ ra vẻ buồn tiếc, lầu nhầu:
- Này, hấp dẫn đấy chứ! Đất với nước gì mà chỉ to hơn một tảng băng lớn mà thôi. Tôi dám bay băng qua luôn mà không biết lắm!
Ba tuần sau, Foster MacWilliams đáp chiếc máy bay số 3 của nguyên công ty Arctic Airways xuống phi trường Lydda. Stretch Thompson, tới từ tám ngày trước, đang chờ sẵn để lôi chàng về một văn phòng cửa có đề: Palestine Central Airways: S. Thompson, Tổng Giám đốc.
- Chuyến đi vui chứ! Tôi rất khoái được gặp cụ đó, cụ Foster ạ. - Xong này. Này, đang lúc bồ vui vẻ thơ thới hân hoan, bồ hãy tử tế làm ơn thanh toán tất cả số lương bồ còn thiếu tôi đi. Tôi định "vi hành" sang Paris để vui chơi trong một tháng trước khi đi Rio. - Có ngay. Tấm séc của cụ đã sẵng sàng từ lâu rồi, trong tủ sắt kia.
Foster nhìn tấm séc, mắt xoe tròn.
- Bốn ngàn năm trăm đôn! Lạ quá ta... - Năm trăm đôn phụ trội ấy, đó là để chứng tỏ rằng tên Stretch Thompson này không phải là thứ không có nghĩa với bạn. - Bồ quả là một vĩ nhân đấy... từ xưa tôi vẫn ca bạn như thế mà. - Vậy hả? Này, cụ Foster, chỗ này là nơi hấp dẫn đấy. Toàn dân Do-thái không à - cụ tin ở tôi đi, đổi hẳn không khí xứ Alaska được. Cụ có thấy tấm biển để cửa văn phòng không? Chính tôi tìm ra cái tên hay như thế đó: Palestine Central Airways. Được chứ? Cụ biết không, dân ở đây chẳng có bao kinh nghiệm trong việc tổ chức một công ty hàng không cỡ quốc tế, họ đã yêu cầu tôi giúp cho họ một tay và tôi đã không nỡ từ chối. Nhưng tôi đã nói với họ ngay tại chỗ rằng: "Nếu quý vị muốn có một công ty toàn hảo, quý vị phải có được một phi công trưởng toàn hảo - và tôi hiện lại đang có được một tay phi công hữu hạng nhất chưa từng thấy từ xưa nay".
Foster vội vã đứng ngay dậy: Tôi sẽ cố gắng lại chào bồ trước khi ra đi...
- Cái gì mà cuống lên thế? Đâu có lửa cháy ở đây phải không? - Tôi đã đang ở trên trường đi Paris rồi... - Tôi có một đề nghị với cụ... - Chắc chắn là tôi không thích cái gọi là đề nghị ấy của bồ đâu. - Thì ít nhất cụ cũng làm một đường lịch sự tối thiểu để nghe tôi nói cho xong đã chứ. - Tôi sắng lòng nghe bồ thật kỹ, nhưng tôi nói trước cho bồ biết là không thuyết phục được tôi đâu. Tôi sẽ đi Paris, nếu cần bơi qua biển cũng bơi. - Được rồi, được rồi. Bây giờ cụ nghe đây. Như tôi vừa nói đó, ở đây toàn Do-thái không. Thế mà họ lại còn cho là chưa nhiều. Chính vì thế họ mới mua công ty của chúng ta - để chuyên chở thêm nhiều Do-thái nữa về đây. Hình như có cả trăm cả ngàn Do-thái khác trên khắp thế giới đang sốt ruột chờ đợi người tới đón họ về. Việc của chúng ta là chuyên chở họ. Cụ hiểu rõ chứ... hàng trăm phi vụ, tầu đầy nứt người và những kẻ ở đây cứ trả tiền đều đều, đếm đầu hành khách mà trả tiền mặt... Trước kia bọn mình giữa đêm bò dậy đi bay với số công còn mạt hơn thế nhiều. Cụ Foster, cụ ở lại với tôi đi, tôi bảo đảm là cụ sẽ lăn trên đống vàng. Nói thế nào nhỉ... cụ sẽ tắm trong vàng luôn! Cụ biết tôi đó... tôi đâu phải là kẻ không biết ăn ở phải đạo với anh em... - Tôi thích tắm trong một đại khách sạn ở Paris hơn. Tôi... thôi, chào bồ Stretch. Khi nào tôi tới Rio, sẽ gửi thư về hỏi thăm cố tri. - Thưa ông MacWilliams, xin lĩnh ý ông. Rất hân hạnh đã được gặp ông. - Kìa bộ... bồ giận tôi rồi đó... - Đâu có gì. Khi tôi nghĩ đến những thời gian thích thú chúng ta đã sống với nhau ở Nomé... - Quả là những thời gian đáng ghi nhớ vì đó là những lúc bị lạnh làm nứt nẻ tùm lum. Nhưng đó cũng không phải là lý do để bồ nhăn nhó với tôi như thế. Bồ làm như bồ bị ai đâm cho một nhát dao vào lưng không chừng.
- Cụ nói thế cũng gần đúng đó. Thú thật với cụ, tôi đang kẹt cứng. Tôi vừa nhận được điện tín khẩn: có một nhóm Do-thái đang đợi mốc meo trong một xó gọi là Aden, cần đi kiếm họ mang họ về đây gấp. Hai chàng phi công mà tôi kiếm được lại cho tôi rơi rồi. - Bồ đừng có trông ở tôi. Tôi xin nhắc với bồ là tôi sắp đi Paris mà. - Xong rồi: em sẽ đi Paris. Ở vị trí của cụ, chắc tôi cũng làm như thế. Hai chú phi công mà tôi nói với cụ ấy... khi hai chú biết đi cái phi vụ này dám bị tụi Ả-rập nó quạt cho dăm ba băng kẹo đồng, hai chú chàng đã dông thiệt lẹ...
Foster đã ra đến cửa, đột nhiên quay lại. Stretch nói tiếp:
- Tôi không thể trách cứ gì được hai chú đó. Dĩ nhiên là các phi vụ đó nguy hiểm hơn việc chuyên chở chất nổ băng qua dẫy Andes rồi...
Foster liếm môi. Stretch hiểu răng ông bạn đã cắn câu rồi, cắn luôn cả mồi lẫn lưỡi câu.
- Này Stretch ạ, tôi sẵn lòng đi cái phi vụ đó cho bồ, chỉ để gỡ kẹt cho bồ thôi nghe. Và đúng một vụ đó thôi. Trong thời gian đó, bồ gắng mà kiếm lấy những tên phi công nào không có vướng dây thun trong cổ nghe. Rồi, bây giờ cái xó có tên Aden nằm ở đâu đây? - Tôi cũng cóc biết nữa. Mời cụ theo tôi, chúng ta lùng bản đồ coi.
Khi cất cánh rời phi trường Lydda, Foster MacWilliams, phi công tưởng của hãng Palestine Central Airways, không ngờ là mình đã khai nguyên cho một câu chuyện phiêu lưu không kém gì "Ngàn lẻ một đêm".
Chuyện phiêu lưu này bắt nguồn từ ba ngàn năm hơn về trước, nói cho chính xác, thì bắt nguồn từ thời nữ hoàng Saba. Vào thời đó, phần phía nam bán đảo Arabie còn là một xứ phì nhiêu. Các dân cư, chuyên viên trong nghệ thuật xây cất đập nước, bình chứa và giữ nước, đã làm miền này thành cả một khu vườn tuyệt đẹp.
Sau chuyến nữ hoàng Saba tới viếng thăm hoàng đế Salomon, một nhóm người Hébreu đến lập nghiệp tại Saba để thiết lập những đường dây thương mại băng qua sa mạc và dọc theo Hồng hải. Số dân này phát triển thịnh vượng trong nhiều thế kỷ. Các dân Do-thái này, dù vẫn qui tụ thành từng làng, đã hòa nhập với đời sống địa phương đến nỗi về sau có nhiều người trở thành cố vấn nhiều ảnh hưởng ở triều đình.
Rồi đến những năm khủng khiếp, cát xâm chiếm tất cả, tàn phá tất cả đất đai mầu mỡ. Các ouadi khô héo dần, nước mưa tan biến qua các khe đất nứt nẻ. Dưới ánh mặt trời chói chang, cuộc chiến đấu kiếm nước trở thành tranh đấu để sống còn. Vương quốc Saba và các quốc gia kế cận tan rã thành muôn vàn bộ lạc vừa nghèo vừa hận thù, luôn luôn gây chiến với nhau.
Khi đợt sóng Hồi giáo đầu tiên bị càn quét trên thế giới, không ai nghĩ tới chuyện tấn công những người Do-thái ở Sabra. Mọi người tôn trọng họ, để mặc họ sống theo tập tục tôn giáo của họ. Mahomet cũng đã từng ra lệnh là phải đối xử tử tế với người Do-thái.
Nhưng sự bình đẳng dành cho người Do-thái, than ôi, đã rất chóng qua. Cũng như trong tất cả các xứ Hồi giáo khác, những người Do-thái của cựu vương quốc Saba, bây giờ trở thành Yemen, bị coi như là những kẻ "bất tuân đạo". Nhưng dẫu sao sự khinh bỉ của dân Ả-rập dành cho các dân Do-thái này vẫn hàm chứa một bao dung. Trong các quốc gia Ả-rập, các cuộc bạo hành Do-thái chưa bao giờ có tính cách tổ chức diệt chủng như ở Âu châu. Chỉ xẩy ra vài vụ tàn sát bùng lên như lửa rơm rồi tàn ngay.
Ngược lại, lại có đủ thứ cấm đoán và hạn chế để đưa người Do-thái xuống hàng công dân bậc nhì. Một người Do-thái không được quyền cất cao giọng trước một người Hồi giáo, không được cất nhà cao hơn các nhà Hồi giáo kế cận, không được chạm tới hay vượt qua phía tay mặt người Hồi giáo. Họ cũng bị cấm không được đi lạc đà vì như vậy đầu họ sẽ cao hơn đầu người Hồi giáo đi bộ. Trong hầu hết các thành phố, người Do-thái phải sống trong các mellah, một thứ ghetto kiểu Đông phương.
Trong khi toàn thể nhân loại tiến bộ thì vùng Yemen vẫn cứ bất biến, sơ khai, xa xôi cách trở, như ở ngoài thời gian. Một sa mạc rừng núi hoang dã, chỉ có những con đường mòn cho lạc đà. Một miền duyên hải không thể ở nổi, và phía trong nội địa, là các biên thùy không ai buồn vạch cho chính xác. Không nhà thương, không trường học, không báo chí và không cả máy điện thoại nữa. Dân chúng thất học đúng trăm phần trăm.
Iman, dòng dõi của Mahomet và đại diện của Đấng Allah, cai trị với quyền hành tuyệt đối. Nếu ông kiểm soát việc lấy vàng và sản xuất cà-phê, các nguồn tài nguyên duy nhất của cái xứ khốn kiếp này, ông chẳng mang lại cho thần dân điều gì hết, đến cả một nền hành chánh tối thiểu cũng không. Chủ nhân ông độc ác và sở hữu hàng mấy trăm nô lệ, ông xử án tùy hứng, lúc thì ra lệnh cắt mũi một gái điếm, lúc thì ra lệnh chặt tay một tên ăn trộm. Ông lo lắng là làm sao đừng để bất cứ một nền văn minh nào xâm nhập vào cái vương quốc ghê khiếp của ông.
Đối với dân Do-thái, Iman giữ thái độ truyền thống của bạo chúa khoan dung.
Ông không hề muốn đuổi họ đi: thủ công nghiệp cha truyền con nối từ nhiều thế kỷ, dân Do-thái là những thợ kim hoàn, thuộc da, thợ mộc, đóng giầy hữu hạng, xử dụng các phương pháp mà đa số người Ả-rập không sao học nổi. Dĩ nhiên là những kẻ hữu ích đáng được hưởng một sự che chở tối thiểu.
Sự kiện khó tin là các Do-thái xứ Yemen, mặc dù bị cô lập với thế giới bên ngoài hơn ba ngàn năm, vẫn giữ được cho mình là Do-thái. Mặc dầu nếu chịu cải đạo sang Hồi giáo, đời sống họ sẽ dễ chịu hơn nhiều. Nhưng họ vẫn cứ ngoan cố bám lấy kinh Torah, luật giáo đường, ngày sabbat cùng tất cả mọi ngày lễ khác. Đây quả là một chiến công phi thường trong một xứ không biết tới máy in, tất cả mọi sách vở đều phải chép bằng tay. Để bảo vệ niềm tìm của tổ tiên, họ chống lại tất cả mọi áp lực. Khi Iman bắt tất cả những con mồ côi trong các làng để cho theo đạo Hồi, thì dân Do-thái cưới vợ gả chồng cho chúng ngay sau khi bố mẹ chết, bất kể bao nhiêu tuổi, bởi thế có những đứa bé mới có vài tháng đã có vợ hay có chồng rồi.
Xét về phương diện thể xác, y phục, tinh thần, các Do-thái Yemen đầu thế kỷ 20 giống hệt như các bậc tiên tri trong Cựu ước. Vẫn theo chế độ đa thê, họ mang bùa phép để tránh tà ma, gió độc. Còn về Kinh Thánh, thì theo ý họ, bản văn ra sao thì theo đúng như vậy, không được cắt nghĩa biện giải chi hết: mỗi lời mỗi chữ ra sao thì phải hiểu nguyên văn và cụ thể như thế.
Suốt ba mươi thế kỷ, họ không ngừng hướng về Jérusalem. Kiên nhẫn, có một lòng chung thủy tuyệt đối, họ tin tưởng rằng Đấng Vĩnh cửu rồi sẽ ra dấu cho họ thức tỉnh. Thỉnh thoảng, một nhóm nhỏ rời bỏ được Yemen để "trở về" Palestine để rồi thành lập ở đó một cộng đồng sơ khai nhỏ bé.
Rồi tới một ngài kia, Đấng Vĩnh cửu đã ban dấu hiệu như các nhà tiên tri đã từng hứa hẹn từ xưa.
Sự kiện khá kỳ dị là mọi sự bắt đầu từ việc Iman gửi một đoàn quân Yemen nhỏ bé sang chiến đấu cùng quân Ai-cập để chống lại Quốc gia Israël mới thành lập. Không có sự can thiệp có tính cách lý tưởng này của Iman, chắc người Do-thái Yemen chẳng bao giờ biết được quốc gia họ đã phục sinh. Ngay lập tức, các rabbin tuyên bố rằng đức vua David đã trở lại Jérusalem và chính toàn dân Do-thái Yemen cũng sắp được trở về "Vùng Đất Hứa", "trên những cánh chim phượng hoàng".
Vị Đại Rabbin xin được Iman cho tiếp kiến để yêu cầu quốc vương này cho phép người Do-thái rời Yemen. Iman bĩu môi: vì đủ lý do chính trị và kinh tế, ông thích giữ người Do-thái ở lại hơn. Vị rabbin đề nghị quốc vương nên đọc lại vài chương trong cuốn Exodus của Cựu ước kinh.
Sau khi nghe theo lời khuyên này, Iman chìm đắm vào một suy tư dài và đau đớn. Mười tai ách của Ai-cập... mới vài tháng trước đây một trận dịch đậu lào đã giết chết một phần tư dân số. Không còn ngờ gì nữa, đây là cảnh cáo thứ nhất của đấng Allah.
Ông cho rằng thận trọng hơn nên để cho người Do-thái ra đi - dĩ nhiên là với một điều kiện: nhường lại là ông mọi nhà cửa ruộng nương và gia súc, trả một sắc thuế tính theo đầu người, phải lưu lại mấy trăm tay thợ khéo léo nhất trong mọi nghề.
Sau đó là cuộc di dân của người Do-thái Yemen. Mang theo một vài của cải họ có thể mang trên lưng - của cải mà dân du mục Bédouin - sa mạc - viện cớ là tiền mãi lộ tước đoạt hết ngay - họ lên đường tiến về thuộc địa Aden của Anh quốc, địa điểm giao liên giữa Đông và Tây, nơi tập họp của mọi đoàn người từ nội địa tiến ra. Bị bất ngờ, người Anh mới đầu tự hỏi không biết họ phải làm gì đây với đám người như ở trong thời kinh thánh tiến ra này. Sau cùng, xúc động vì niềm tin ngây thơ cùng sự khốn cùng của đám người Do-thái này, người Anh thuận cho phép họ được cắm trại trên lãnh thổi của thuộc địa trong khi chờ đợi Israël cho người đến kiếm họ. Quả thực vậy, làm thế nào xua đuổi những kẻ đáng thương quần áo tơi tả, gần chết đói chết khát, mất hết sạch gia sản mà vẫn còn tập họp theo từng làng, với những thùng đựng thánh tích của các giáo đường nghèo nàn của họ.
Đoàn cán bộ chí nguyện đầu tiên của Israël thành lập một trại tạm trú ở gần cảng Aden. Nhưng chưa chi trại nơi này đã đầy tràn trước làn sóng tràn ngập của những di dân khác tới. Các khó khăn bao hàm trong tổ chức loại này bây giờ còn tăng gấp bội lên vì sự kiện các dân Do-thái Yemen này, một đám dân bán khai, không biết tới cả một vòi nước, ống tháo nước, bóng điện ra làm sao. Trong khoảng thời gian có vài ngày mà phải cố bắt kịp sự chậm tiến kỹ thuật tới ba ngàn năm, họ sợ từ chiếc xe hơi đến ống chích. Phụ nữ la hét kinh hoàng khi các y sĩ cùng các nữ điều dưỡng định lột bỏ những quần áo rách rưới đầy chấy rận của họ. Họ cũng không chịu để cho ai chẩn bệnh, vùng vẫy chống thuốc chủng, nhảy xô vào các người trợ y đang bế con họ, những đứa quá thiếu ăn, tới phòng thuốc.
May mắn thay là các dân Israël, chính họ, họ cũng thuộc Kinh Thánh, nên đã khám phá ra rất nhanh cách giải quyết các vấn đề này. Chỉ việc chọn trong Kinh Thánh những đoạn thích hợp rồi đưa cho các rabbin Yemen coi. Thế là xong. Bởi vì cái đó "đã ghi trong Thánh Kinh", thì các dân Do-thái Yemen nghiêng mình tuân theo ngay.
Việc phi cơ đến gây ra cả một sự sôi nổi. Nhóm di dân thứ nhất, được đưa đến phi đạo, khám phá ra ngay cánh chim phượng hoàng vẽ trên thân tầu. Có nhiều cái gật đầu tán thành: quả đúng là Thượng đế đã gửi cái này tới như Ngài đã từng loan báo qua bậc tiên tri Isaïe. Nhưng khi mọi người yêu cầu họ lên tầu, họ lại từ chối: vị rabbin của họ vừa nhớ ra rằng hôm đó là ngày thứ bẩy, ngày sabbat. Trưởng trại dù cố hết sức lên mà cắt nghĩa rằng còn cả bao ngàn người nữa đang đợi đến lượt ra đi, không thể để chim phượng hoàng này đợi tới một ngày, cũng vẫn vô ích. Họ ngồi xổm xuống dưới đôi cánh lớn của con chim bạc rồi tuyên bố rằng họ không có nhúc nhích đi đâu hết cho tới khi hết ngày sabbat. Họ đã kiên nhẫn chờ được ba ngàn năm, thì chờ thêm một ngày nữa cũng không sao hết.
Foster MacWilliams, sau khi ném một cái nhìn lơ đãng lên những hành khách kỳ dị này, phải cố lắm mới nén được một câu chửi thề rồi phóng lẹ về Aden kiếm một chầu giải khát.
Sáng ngày hôm sau, miệng còn khô cứng và mắt nặng trĩu, chàng trở lại phi đạo đúng lúc để thấy các Do-thái Yemen lên máy bay. Mỗi người, đàn ông cũng như đàn bà, đều cẩn thận mang theo một chai nước - của cải duy nhất của họ trên thế gian này. Chàng buột miệng: Mẹ kiếp! Cái tên khốn kiếp Stretch...
Một giọng con gái cất lên phía sau làm chàng quay vội lại:
- Thưa có phải ông trưởng phi cơ MacWilliams đấy không ạ?
Sững sờ, chàng ngắm nghía một thiếu nữ cao lớn (thân thể có trước có sau đàng hoàng và có đúng chỗ đúng lúc, chàng phải nhận là như thế), mặc một bộ đồ xanh áo liền quần của cơ khí viên và đi dép da.
- Tên tôi là Hannah. Tôi được trao nhiệm vụ đi cùng với ông để lo cho hành khách. - A! Thế... rất hân hạnh được biết cô.
Nàng cười, để lộ hàm răng trắng ngà không một vết gợn.
- Ông có chỉ thị đặc biệt nào cho tôi không? Vì đây là lần đầu tiên tôi hộ tống cho một chuyến như thế này...<br /> - Không... không đâu. Cô chỉ việc thu xếp sao cho những con khỉ nhỏ xấu òm này đừng xâm nhập vào phòng lái là đủ. Dĩ nhiên là điều cấm đoán này không hề áp dụng cho cô. Ngược lại là khác... cô càng vào thăm tôi nhiều, tôi càng bằng lòng. Tiện đây, tên tôi là Foster...
Chàng nhìn đoàn người Yemen:
- Nhưng... hình như họ không ít bớt đi được chút nào. Chúng ta mang theo chuyến này bao nhiêu đấy cô? - Gì cơ?... Theo danh sách của tôi, bốn trăm người. - Cái gì! Cô điên rồi cô ơi! Không bao giờ máy bay cất cánh nổi với số người như thế. Phải bỏ bớt đi hẳn một nửa. - Không được đâu ông. Tôi xin ông đấy... Ngày nào cũng có thêm rất nhiều người đến. Và người Anh thì cứ đòi hỏi hoài là chúng tôi phải đưa họ đi cho nhanh, càng nhanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Foster càu nhàu. Chàng cố nhớ lại những con số ấn đinh trọng lượng chuyên chở được của máy. Không còn ngờ gì nữa, chắc chắn là sắp vượt giới hạn an toàn rồi... Đúng vào lúc đó, chàng phạm lầm lỗi là nhìn vào đôi mắt của Hannah. Thôi cũng được... Chàng tính toán lại, ăn gian tí chút để tự thuyết phục rằng với một chút may mắn, chàng cũng có thể lôi được máy bay cất cánh.
Chàng lầu nhầu:
- Thôi cũng được! Dầu sao, đây cũng là chuyến bay đầu tiên và chuyến chót luôn của tôi trên lộ trình này.
Khi chàng lên tầu, chàng suýt lùi lại trước một mùi hôi thối nồng nặc. Hannah thấy mặt chàng tái đi. Nàng cắt nghĩa:
- Chúng tôi không có đủ thì giờ tẩy uế cho tất cả mọi người. Và vì chúng tôi lại không biết rõ ngày giờ có phi cơ đến...
Trong thân tầu, các dân Yemen bị nhồi nhét đúng như cá hộp. Muốn tới phòng lái, Foster phải hất ra nhiều người, gạt nhiều cánh tay sang một bên, đồng thời cố gắng chận cơn buồn nôn đang dâng lên. Ngồi được xuống ghế phi công, chàng vội mở cửa kính ngang, vừa cố giữ đầu thỏ ra ngoài, vừa cho phi cơ rồ ra trên phi đạo lấy đà cất cánh. Một cơn buồn nôn ngắn, dữ dội... Phi cơ chạy nhanh hơn... Foster cảm thấy một co thắt dạ dầy sau cùng... mũi phi cơ cất lên... rồi sau cùng các bánh xe rời mặt đất cách cuối phi đạo có vài thước. Foster há miệng cắn thẳng vào một trái chanh. Dần dần, trong không khí mát lành hơn, cơn nôn dịu dần. Sau khi bay vòng eo biển, chàng cho phi cơ hướng về phía nam Hồng hải, ở đúng giữa khoảng cách từ Arabie Séoudite phía đông và Ai-cập phía tây.
Hannah đẩy cửa buồng lại. Nàng cũng tái xanh.
- Ông có thể làm cho phi cơ bớt lắc lư không... họ đang nôn mửa hết... - Cô đi mở hết các quạt và ống thông hơi. Tôi sẽ cố bay cao hơn một chút. Khí lạnh sẽ làm cho họ dễ chịu hơn.
Cô gái biến mất. Sau chừng nửa giờ, nàng lại trở vào.
- Bây giờ họ lại rét run lên cầm cập. - Nếu tôi làm cho họ ấm lại, họ sẽ lại nôn mửa. Tùy ý cô chọn lựa.
Hannah đồng ý.
- Ông có lý... Thôi, cứ để họ run tốt hơn.
Nàng lại ra. Lần này chưa đến một phút, nàng đã quay lại.
- Họ đã đốt một đống lửa để sưởi. - Mẹ kiếp.
Để cho hệ thống tự động điều khiển phi cơ, Foster chạy vội vào khoang tầu. Một đám lửa đang cháy vui vẻ giữa sàn. Tức giận, chàng lấy chân dập tắt.
- Cô có biết tiếng của tụi man ri mọi rợ này không? - Biết chứ, bằng hébreu. - Bây giờ cô cầm lấy micro và báo cho họ biết là kẻ nào nhúc nhích, tôi sẽ quăng xuống biển ngay lập tức.
Dân Yemen, chưa bao giờ nghe máy phóng thanh hết, sợ hãi co rụm lại, kinh khiếp nhìn lên trần phi cơ. Foster ngạc nhiên hỏi: Họ sợ cái gì vậy cô?
- Họ tưởng tiếng nói từ vách trần thốt ra ấy là tiếng của Thượng đế. - Tốt quá. Cô đừng có cải chính nghe cô.
Chàng trở lại phòng lái. Trong nhiều giờ liền, không có một biến cố nào nữa quấy rầy chàng, ngoại trừ một lần Hannah vào loan báo có một vụ sinh nở.
- Ông đừng lo: mẹ tròn con vuông rồi.
Một lát sau nàng mang vào cho chàng một ly đồ uống nóng và hai người nói chuyện với nhau. Sau khi đã hỏi nàng về dân Do-thái xứ Yemen và chiến tranh Palestine, liền hỏi một câu trực tiếp hơn.
- Cô Hannah ạ... tại sao cô lại để bị lôi cuốn vào câu chuyện này mới được chứ? Dù thiên hạ có trả công hậu đến mấy, thì một công việc như thế này cũng đáng gấp đôi như thường.
Hannah cười.
- Mọi người đâu có trả lương cho tôi. Mọi người chỉ định tôi làm việc này, có thế thôi ông. Có lẽ tôi sẽ ở lại với dân Do-thái Yemen đi chuyến này để giúp họ làm một cái làng, nhưng cũng có thể tôi lại ra đi kiếm họ thêm... - Tôi chẳng hiểu gì hết. - Khó cắt nghĩa lắm ông. Tiền bạc đối với chúng tôi không có ý nghĩa gì nhiều. Trái lại, mang một kẻ đáng thương này về tổ quốc quả là một nhiệm vụ cao đẹp. Rõ ràng đây là hoàn cảnh hoàn toàn đặc biệt...
Foster nhún vai. Xét cho cùng, chàng cóc cần. Chàng sắp chuồn sang Paris đến nơi rồi...
Chàng chỉ bờ biển thẳng ngay phía trước.
- Chúng ta bay đến Israël rồi!
Hannah nói: Tôi phải loan báo cho họ biết. Họ chờ đợi giây phút này từ bao ngàn năm rồi...
- Họ sẽ đập vỡ máy bay của chúng ta mất... để tôi đi cho, tốt hơn.
Chàng lại để cho hệ thống tự động điều khiển phi cơ rồi bước ra khoang tầu. Ngay từ những lời của Hannah, có một cơn vui mừng điên cuồng xâm nhập các dân Yemen. Các tiếng la hét vui mừng, những vòng tay ôm cuồng nhiệt - vài người còn phác một điệu vũ nữa. Một phụ nữ Yemen già nắm lấy tay Foster hôn lia lịa. Chàng cố gỡ mới thoát được những cánh tay muốn ôm lấy mình để trở lại phòng lái. Hai giờ sau, khi phi cơ hạ xuống phi đạo Lydda, chàng nghe thấy tiếng hát của những Yemen cất lên át cả tiếng động cơ đang giảm dần tốc độ.
Lắc đầu, chàng đứng nhìn họ bước ra khỏi thân tầu, quỳ xuống vừa khóc nức nở vừa hôn đất phi đạo. Hannah nói:
- Thôi, xin chào ông Foster. Chúc ông vui vẻ ở Paris.
Foster đứng nhìn nàng xen vào hàng ngũ những người di dân cùng với các thiếu nữ khác giống nàng một cách lạ lùng. Chàng giật mình khi nghe tiếng Stretch.
- Chào cụ! Phi cơ bay vững chứ? - Như chim phụng hoàng vậy! Một chuyến đi không có chuyện gì rắc rối cả.
Khi Stretch lôi đi, Foster còn ngoái lại. Hannah cười với chàng, vẫy tay. Chàng cũng làm như thế. Stretch nói:
- Cụ có thể đi Paris được rồi đó. Tôi đã kiếm được phi công... - Cũng được, càng tốt. Nhưng này bồ... trong trường hợp bồ bị kẹt... tôi sẽ gỡ cho bồ lần nữa, nhưng một lần... thực đó, lần chót nữa thôi.
Stretch gãi đầu: Để tôi coi nào... tôi có thể dàn xếp vụ này đấy. Cụ sẽ thử giùm tôi chiếc phi cơ tôi mới tậu.
Stretch khoái chí nghĩ thầm: "Bồ sẽ tiếp tục với tôi bồ ơi. Bồ Foster ơi, phen này tôi nắm được bạn rồi và sẽ nắm chắc đó nghe".
Chiến dịch "Tấm thảm thần" đã mở đầu như thế. Stretch Thompson, ông vua thất sủng của loài cua Alaska đã tỏ ra là một tay tổ chức hữu hạng. Chàng mướn thêm nhiều phi công Hoa-kỳ nữa, những tay cựu trào đã từng chứng tỏ khả năng trong "cây cầu không vận Bá Linh"(1). Chàng tìm mua những máy bay cũ kỹ, sửa chữa vá víu lung tung, nhưng vẫn cứ tiếp tục bay được như thường. Còn về Foster MacWilliams, phi công trưởng của công ty và cũng là tay chuyên môn về đường bay Aden: chàng không bao giờ được biết tới những lạc thú của Paris cả. Sau khi chở những Do-thái Yemen sau cùng về xứ, chàng lo việc di tản những Do-thái Irak, làm việc tối tăm mặt mũi - có thể nói chưa có phi công dân sự nào lại làm việc nhiều đến như thế. Trong khoảng thời gian ba năm, chàng bay hơn bốn trăm phi vụ, mang chừng năm mươi ngàn người Do-thái trở về quê cha đất tổ. Sau mỗi chuyến bay, chàng đều chỉ trời chỉ đât mà thề rằng đây sẽ là chuyến bay chót, rằng chàng chán ngấy đến mang tai lỗ mũi rồi... cứ thế cho đến khi chàng cưới Hannah làm vợ và vợ chồng dọn tới cư ngụ trong một căn nhà xinh xắn ở Tel-Aviv.
"Tấm thảm thần" vẫn tiếp tục. Các phi cơ mang những người Do-thái từ Kurdistan và tận cùng Thổ-nhĩ-kỳ về, rồi lại tới Aden để hồi hương cả một bộ lạc bị bỏ quên sống lùi xùi trong vùng núi Hadramout, mới biết tin thành lập nước Israël và đã lập tức lên đường ngay tiến ra biển.
Các con dân Israël từ các trại di dân từ Pháp, Ý, Nam-tư, các quốc gia miền Balkan và Bắc Âu ùn ùn kéo về. Từ các mellah Bắc Phi và các thành phố Nam Phi, từ Trung-hoa, Ấn-độ, Úc-đại-lợi, Gia-nã-đại, Anh quốc... bằng phi cơ, bằng tầu thủy, từ bẩy mươi tư quốc gia khác nhau trên thế giới, người Do-thái đổ xô về vùng đất mà chữ "Do-thái" không còn là một lời chửi rủa.
-------------------------------- 1.Cầu không vận Bá-linh: Quân Nga phong tỏa Bá-linh sau đệ nhị thế chiến để cưỡng ép Anh, Pháp, Mỹ phải rời bỏ thủ đô Đức này. Bên Đồng minh, nhất là Mỹ, đã động viên phi cơ để tiếp tế cho Bá-linh trong một thời gian dài. Sau đó, Nga đành bỏ phong tỏa.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:30:16 GMT -6
Phần V => Chương 2
Việc hồi hương làm tăng gấp đôi rồi gấp ba dân số Israël. Nền kinh tế quốc gia, đã bị thiệt hại nặng vì chiến tranh, đang lung lay vì làn sóng hồi hương. Rất nhiều dân hồi hương chẳng có gì hơn ngoài quần áo mang trên người, và không biết bao người chẳng có một chút học vấn nào. Mặc dù gánh nặng phải mang, không thể có vấn đề khước từ không cho một người Do-thái trở về đất tổ.
Tại khắp nơi, từ Galilée đến sa mạc Néguev, các làng toàn lều vải và các thị trấn bằng tôn làm xấu xí cả cảnh vật. Các cơ sở y tế, trường học, các tổ chức xã hội càng ngày càng tỏ ra thiếu hụt. Dầu vậy, không có gì làm giảm được niềm lạc quan cuồng nhiệt đang ngự trị từ đầu đến cuối xứ sở. Mỗi một ngày qua, lại có thêm các nông trường xuất hiện. Ở khắp mọi nơi, họ tấn công sa mạc với cùng thứ hăng hái nhiệt thành của các bậc tiên khu trước kia đã đối với các đầm lầy.
Trong các thành phố, tư bản Nam Phi, Nam Mỹ, Gia-nã-đại, đã thành lập các nền kỹ nghệ mới. Công cuộc tìm kiếm khoa học, tổ chức y tế, các trại thí nghiệm canh tác đã đạt tới mức độ có thể so sánh với các quốc gia Âu châu tiền tiến nhất. Mọi người xây cất các phi trường, các hải cảng, đường lộ, và mức sản xuất kỹ nghệ đã đạt tới mức độ đáng ngạc nhiên so với diện tích nhỏ bé của xứ sở. Mọi người lo xây cất nhiều nhất là nhà ở để có nơi trú ngụ cho không biết là bao nhiêu ngàn người hồi hương. Trong các vùng ngoại ô của Tel-Aviv, Haïfa, Tân Jérusalem, các nhà chọc trời hết sức tối tân bắt đầu vươn những hình dáng kỷ hà lên không trung. Tiếng búa hơi, tiếng máy đúc bê tông, máy hàn, hình như không lúc nào ngưng trên toàn cõi Israël.
Dầu vậy, đời sống vẫn còn đầy cực nhọc. Trong một xứ nghèo như vậy, đất đai cằn cỗi, một tiến bộ nhỏ bé đến đâu cũng đòi khá nhiều mồ hôi nước mắt. Thợ thuyền nhận những thời biểu làm việc nặng nề ghê gớm cho một số lương chẳng nghĩa lý gì. Tại các nông trường, việc khai hoang vẫn tiếp tục trong các điều kiện thật phi nhân. Thuế má đánh rất nặng vào mỗi cá nhân để lấy tiền cần thiết lập nghiệp cho một hay hai đồng bào hồi hương khác. Cuộc sống cam go và chịu đựng, trong một nỗ lực của cả tâm hồn lẫn thể xác, quốc gia tân lập này mới chinh phục được quyền sống.
Một công ty hàng không quốc gia gửi được phi cơ bay trên lộ trình khắp thế giới, một hàng hải thương thuyền mang cờ ngôi sao David ngang dọc trên mọi đại dương. Lòng cương nghị, ham hoạt động và hy sinh của dân tộc Israël đã làm toàn thể thế giới văn minh phải thán phục. Một quốc gia mà không ai làm việc chỉ cho lợi ích riêng tư, một xứ sở mà tất cả nỗ lực đều hướng về thế hệ tương lai, cho con cháu, cho lớp trẻ sabra chưa bao giờ phải chịu biết tới những tủi nhục làm người Do-thái, nhưng sẽ có cả ngàn lý do để hãnh diện về chủng tộc của mình.
Israël quả đã viết một chương tuyệt vời trong Lịch sử của Nhân loại.
Sa mạc Néguev chiếm một diện tích bằng một nửa lãnh thổ của Israël. Một khoảng không gian lớn hoang vu tiêu điều, ban ngày nhiệt độ lên tới 50 độ đã thiêu cháy đến cả những cao nguyên đá đen bất tận, những hẻm sâu chồng chất, những vách núi thẳng đứng. Không có tới một ngọn cỏ và loài diều hâu cũng chẳng dám bén mảng tới.
Chính trong sa mạc này đại tá Ari Ben Canaan đã tới cư ngụ kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Đại tá tình nguyện đi khám phá vùng đất nằm ép giữa ba lân bang thù nghịch của Israël: Ai-cập, Jordanie và Arabie Séoudite.
Chàng bắt đầu bằng cách đưa quân mình băng qua một vùng núi đá mà rõ ràng là Đấng Chí tôn khi tạo ra đã không nghĩ đến việc dành cho vết chân người. Chàng hoàn tất những phương pháp huấn quân tàn nhẫn và khó khăn đến nỗi đa số quân lực hiện đại đều không dám bắt chước. Những phương pháp đã cho phép chàng đào tạo ra được những đơn vị được hãnh diện mang tên gọi là "dã thú Néguev". Những quân sĩ này thù ghét sa mạc khi đang ở đó, nhưng lại mơ tưởng đến mỗi khi được về phép trong các thành phố. Mỗi người ít nhất cũng phải nhẩy dù hai mươi lần, làm các chuyến di hành một trăm cây số, và hoàn toàn nắm vững kỹ thuật cận chiến đã do các đoàn đặc công Anh nghĩ ra. Quân lực Israël không có phân phát Anh dũng bội tinh: sĩ quan hay binh sĩ mỗi người đều được coi can trường như các bạn đồng đội khác. Những kẻ nào trên tay áo mang phù hiệu của "dã thú Néguev" đều được mọi người kính nể hết sức đặc biệt.
Ari đã đặt Tổng hành dinh của binh chủng mình tại Elath. Nơi đây đã thành một thành phố nhỏ, có hệ thống ống dẫn nước uống, các cơ xưởng để khai thác lại những mỏ đồng thời xưa. Ở Elath, mọi người coi đại tá Ben Canaan như một con người kỳ lạ. Chàng không cười bao giờ và nét mặt nghiêm khắc của chàng chỉ đôi khi mới dịu xuống mà thôi. Mọi người đồn rằng một nỗi buồn nào đó đang gặm nhấm tim con người đại tá trẻ tuổi này.
Trong hai năm liền, chàng không chịu rời sa mạc lần nào.
Còn Kitty Fremont, nàng cũng lao mình vào công cuộc quốc gia là lo việc hồi hương và lập nghiệp cho những người Do-thái tản mác khắp thế giới trở về. Tổ chức các trung tâm tiếp đón thanh thiếu niên ở Aden, Bagdad, Ma-rốc, chiến đấu trong các trại tạm cư để giải thoát cho những nạn nhân sau cùng của Hitler, nàng đã hoàn tất cả một công việc vĩ đại. Toàn quốc Israël đều coi nàng như "Thân hữu", tước hiệu mà từ trước tới giờ họ mới chỉ ban cho một người nữa thôi, đó là thiếu tá P.P. Malcolm, người đã sáng lập các đạo đặc công dạ chiến cho quân lực Israël. Bây giờ đã nói thạo hébreu, nàng đi thám sát thăm viếng các trung tâm thanh thiếu nhi khác, thành lập theo mẫu trung tâm Gan Dafna.
Thời gian càng qua nàng càng hay nhận thấy một hiện tượng vừa thích thú phấn khởi nhưng cũng vừa buồn bã cho nàng. Các con trai con gái nàng biết xưa kia ở Gan Dafna bây giờ đã lớn, lấy vợ lấy chồng cả, đến nỗi rằng nàng đã trông thấy các con cái của chúng trong các trong các trung tâm và trường học. Mười năm trước đây, Kitty đã giúp đỡ phong trào phục quốc Do-thái vượt qua giai đoạn tìm kiếm để đạt đến mức hoàn tất một hệ thống giáo dục mỗi ngày một hoàn thiện hơn cho phép đứa trẻ nẩy nở được cả về phương diện thể xác lẫn tinh thần. Bây giờ nàng ý thức được rằng nhiệm vụ của nàng đã xong. Cả Karen lẫn Israël đều là còn cần đến nàng nữa. Tâm hồn buồn bã, nàng quyết định sẽ trở về Hoa-kỳ, không còn nghĩ đến chuyện trở lại nữa.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:31:58 GMT -6
Phần V => Chương 3
Đến năm tám mươi ba tuổi, Barak Ben Canaan qui ẩn, trở về điền viên.
Sau cùng, ông đã có thể để hết ngày giờ săn sóc căn trại ở Yad El. Nếp sống yên lành này, ông đã ước mơ từ nửa thế kỷ rồi. Tuổi tác hầu như không ảnh hưởng gì đến thân hình to lớn, sức khỏe cùng trí óc sáng suốt của ông. Hạnh phúc của ông bên cạnh Sarah, sẽ là hoàn toàn nếu ông không buồn vì sự bất hạnh của Jordana và nỗi buồn của Ari. Jordana không sao nguôi được, không sao quên được cái chết của David Ben Ami. Sau khi đã sang du lịch Âu châu, phiêu lưu dăm ba cuộc tình duyên không mang lại gì hơn cho nàng là niềm chua chát, Jordana đã cắp sách đi học lại ở Jérusalem, hy vọng lấp đầy cuộc sống trống rỗng của mình bằng sách vở và học hành.
Còn về Ari, kẻ tự nguyện lưu đày trong sa mạc Néguev, Barak hiểu rõ lý do đó, nhưng ông không thể lôi kéo chàng trở về được.
Một ngày kia, bưu tín viên mang đến một thiếp mời đáng kể nhất: chính Ben Gourion tự tay viết lấy mời bạn cố tri Barak cùng vợ là Sarah đến dự trong khán đài danh dự buổi diễu binh kỷ niệm năm thứ ba của nền độc lập. Sarah nói:
- Tôi hy vọng ông sẽ nhận lời. Hơn nữa ông cũng nên làm vui lòng tôi bằng cách nhân dịp này đến khám bệnh ở một bác sĩ có khả năng. Những cơn đau dạ dày của ông gần đây, có lẽ chỉ cần một liều thuốc thường thôi cũng chữa được.
Buổi diễn binh trong Haija cờ xí rợp trời thật là tuyệt vời. Barak, đứng cạnh Ben Gourion, nhìn quân lực mới diễn ra, mỗi đơn vị đều có hiệu kỳ đi trước, y hệt các bộ tộc của Israël thời xưa. Các quân sĩ gốc Yemen đã quên được tình trạng bán nô lệ của mình xưa kia, các sabra kiêu hãnh và khỏe mạnh, các phi công Mỹ và Nam Phi, nhẩy dù đội mũ đỏ, lực lượng biên phòng, thiết giáp, pháo binh. Sau cùng, dưới tiếng gầm của các phi cơ khu trục, một đoàn quân râu rậm, mặt cháy nắng mặt trời, đơn vị đại diện cho binh chủng "Dã thú Néguev" đã diễn qua và giơ tay chào rất lâu thân phụ của vị chỉ huy binh chủng mình.
Hai ngày sau, vừa mới trở về Yad El, Barak bị một cơn ho dữ dội. Kiệt lực, ông ngồi rũ xuống ghế bành. Sarah trách:
- Ông phung phí sức quá đấy. Bao lễ lạc, diễn văn... ở tuổi ông, đâu có được. Để tôi pha cho ông một chén trà.
Nhưng khi bà vừa định quanh đi, Barak nắm lấy tay, kéo ngồi lên lòng mình. Ngửng đầu lên, Sarah ngạc nhiên khi thấy chồng tránh không nhìn mình. Bà lo lắng hỏi: Ông đã tới khám bác sĩ rồi chứ? Bác sĩ nói sao?
- Bà đã đoán đúng. Quả thực, tôi vẫn chưa học được cách nói dối bà. - Tôi hứa sẽ hết sức bình tĩnh, hoàn toàn bình tĩnh... - Được... Bà cần nhất là đừng có cuống lên... nhất là chính tôi, tôi cũng sẵng sàng... tôi đã ngờ là như thế từ lâu. Phải báo cho Jordana và Ari biết...
Sarah thốt lên một tiếng kêu.
- Có phải... không phải ung thư chứ? - Đúng ung thư mình ạ. - Thế... mình còn được bao lâu nữa? - Một vài tháng... nhiều tháng thần tiên nữa, Sarah ạ.
Có thể nói là cơn bệnh như đột nhiên tàn phá hết ngay sức lực của ông già khổng lồ này. Trong có vài tuần, Barak chỉ còn da bọc xương, lưng còng, da xám xì, nhưng nhất định không chịu vào bệnh viện. Sarah đã đặt giường ông trước cửa sổ phòng khách để ông có thể ngắm qua các cánh đồng, những quả đồi biên thùy Liban. Ari trở về để gặp bố, đang nhìn bằng một cặp mắt buồn rầu làng Abou Yesha, mà không còn nữa.
- Shalom, bố. Con về ngay lập tức ngay khi có thể. Những thứ lẩm cẩm mẹ kể cho con là cái gì vậy bố. Y sĩ rất có thể nhầm... - Không đâu con. Những con đừng có lo cho bố làm gì. Bố đã đủ già để bình tĩnh chấp nhận cái chết. Nói về con đi, tốt hơn. Mọi sự ra sao ở Néguev. - Không được tốt đẹp cho lắm. Bọn Ai-cập đã thành lập các toán fedayeen - "quyết tử quân" - cho xâm nhập vào lãnh thổ chúng ta để cướp phá và ám sát. - Mọi người cũng đã nói bố về chuyện đó. Nói cho thật, bố suy nghĩ nhiều nhất đến con mà thôi. Con hiểu chứ, đây là lần đầu tiên trên đời bố mới được thú không làm gì cả - nghĩa là có thể nghỉ ngơi được. Bố mới nhận rõ ra rằng bố đã không phải là một người cha tốt. Bố gần như bỏ rơi hai con, con và Jordana - bố dành cho các con quá ít thì giờ... không, đừng có cãi, Ari. Ngày hôm nay bố biết là chúng ta đã trả một giá quá cao cho nền độc lập của chúng ta. Chúng ta đã đào tạo con cái chúng ta thành một dòng Tarzan, chỉ mang lại cho con cái một cuộc đời đầy máu và nước mắt... - Không có giá nào là quá cao cho Israël đâu bố. Dầu thế nào, đâu có phải bố đã lấy David của Jordana đi. Chết cho đất nước chúng ta vẫn hơn là chết như ông nội vì những hòn đá của một đám dân cuồng sát ào vào ghetto chứ? - Dĩ nhiên là thế rồi... nhưng bố, bố trách bố về nỗi buồn con đang phải chịu. Này Ari, con có biết bây giờ Jordana đã trở thành bạn rất thân của Kitty Fremont rồi không?
Ari cố giữ khỏi giật mình. Chàng đứng dậy, với một vẻ lãnh đạm giả vờ vụng về đi đi lại lại trong phòng.
- Bố ạ, nghe con... - Bố không có nghe con đâu. Sao con mù quáng giữa thế? Con không nhìn thấy trong mắt người thiếu phụ ấy, con không thấy Kitty cần đến con ra sao chăng? Có phải con chôn mình trong sa mạc để chinh phục nàng hơn phải không? Ari ạ, con đã chạy trốn như một tên ăn cắp, từ hai năm nay, con ẩn trốn. Cái gì ghê gớm đến nỗi đã làm con không chạy theo Kitty được, không cho con thú nhận là con yêu nàng, rồi con sẽ đến chết vì tình yêu nàng?
Ari cúi đầu.
- Một ngày nọ Kitty có nói với con là nàng chỉ yêu con với một điều kiện: con cần nàng đến độ quỳ xuống chân nàng mà cầu xin. - Thế thì con hãy quì xuống cầu xin đi! - Không thể làm được. Con đâu có được học quì học bò trước ai đâu. Bố không chịu hiểu là con không phải là người nàng ước mơ sao?
Barak thở dài: Trong trường hợp như thế, bố thương cho con lắm. Bố thành thật tiếc cho con lắm.
Ba ngày sau, mọi người chôn cất Barak Ben Canaan trên ngọn đồi Tel Hai, đúng nơi mà cách đây một nửa thế kỷ, ông và em là Akiba đã đặt bước chân đầu tiên lên xứ Palestine.
Mọi người đã mang di hài của Akiba về đây để ông yên nghỉ vĩnh viễn giữa những vệ quân khác, những kẻ đầu tiên đã cầm vũ khí chống lại dân Bédouin. Từ nhiều tuần lễ rồi, một cái huyệt bên cạnh Akiba đã được dành hẳn cho Barak. Hơi cách xa huyệt một chút, một mộ chí trên tạc hình sư tử ghi hàng chữ sau: "Hy sinh cho tổ quốc là một điều tốt đẹp". Ari nhớ lại những lời nói chót của bố: "Tốt nhất là có được một tổ quốc để ta hy sinh".
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:33:30 GMT -6
Phần V => Chương 4
Dov Landau đã tham dự vào những cuộc hành quân sau cùng chống lại quân Ai-cập. Chàng đã chiến đấu xuất sắc trong vùng lửa đạn nên đã được cấp bậc đại úy. Sau nhiều tháng ở với các Dã thú Néguev, chàng được tuyển cho theo học Viện Kỹ thuật Haija, chuyên về ngành nghiên cứu canh nông. Những người nào trước kia biết chàng ở Gan Dafna, bây giờ thấy sự biến đổi ở nơi chàng, phải cho là phép mầu. Vừa ham hoạt động, vừa dễ chia xẻ với các niềm bất hạnh của kẻ khác, Dov đã trở thành một thanh niên vui vẻ, lễ độ, một người bạn vừa dễ chịu vừa thông minh.
Rất đẹp trai, và mặc dù không được khỏe cho lắm, chàng cũng không để phí thì giờ để ngắm các cô gái đẹp. Đối với chàng, trên đời chỉ có một người yêu duy nhất: Karen Clement.
Karen cũng đã gia nhập quân đội. Bây giờ là một nữ điều dưỡng tốt nghiệp, nàng làm việc trong một bệnh viện ở thung lũng Sharon, và cứ rảnh thì giờ thì đến Jérusalem để sống với Kitty hoặc tới Haïfa để gặp Dov. Kitty sau cùng đã chịu hiểu rằng Karen, đã trở thành một thiếu nữ rất xinh đẹp, đã quá ăn sâu bén rễ ở Israël để có thể theo nàng về Hoa-kỳ. Nàng chịu nhận tình trạng đó, nhất là bây giờ nàng không quá cần đến sự hiện diện của Karen như xưa nữa. Hàng trăm đứa trẻ mà nàng đã săn sóc - "những đứa con của nàng" - như nàng thường nói, đã dần dần lấp kín khoảng trống mà xưa kia chỉ có một mình Karen mới có thể lấp đầy.
Để có thể đáp ứng với các cuộc tấn công của các fedayeen, Israël đành giải quyết bằng cách thiết lập dọc theo những vùng biên thùy bị đe dọa cả một hàng rào người. Israël cho thành lập các nông trường biên giới trong đó các thanh niên chí nguyện tới sống, làm việc và chiến đấu trong những điều kiện hết sức là gay go với một số lương có ba mươi đô-la một năm. Dầu vậy số thanh niên tình nguyện đi vẫn cao hơn số nhu cầu cần thiết.
Nông trường nguy hiểm nhất là kibboutz Nahal Midbar nằm trong dải đất Gaza, cách những trại tỵ nạn Ả-rập Palestine, nơi mộ các tay giết người của Ai-cập, có mười cây số. Kibboutz này do hai mươi hai thanh niên và mười sáu thiếu nữ thành lập, trong đó có nữ điều dưỡng Karen Clement.
Dov vừa mới vượt qua vòng rào của kibboutz Nahal Midbar, đã thấy Karen chạy ra đón, nàng vấp vào một tảng đá và chàng chỉ có đủ thì giờ mở vòng tay là nàng đã ngã vào lòng chàng.
Họ tay trong tay đi dạo dọc theo một con đường chạy ngoằn ngoèo trên cát. Karen ra dấu cho người đang canh, người này cười ra về. Ngay ở trong sa mạc đi nữa, những người yêu nhau cũng cần một tối thiểu cô đơn. Dov bắt đầu nói:
- Anh phải báo cho em hay một tin quan trọng. Một người đề nghị cho anh hoàn tất việc học tại Viện Kỹ thuật Massachusetts. Dĩ nhiên là anh chưa nhận. Hai năm xa cách, dài ghê gớm lắm. Anh phải bàn với em đã.
Karen, can đảm lắm, cố gắng mỉm cười.
- Hai năm, đâu có phải là lâu gì anh. Đối với sự nghiệp anh...
Dov ngắt lời:
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Anh sẽ không đi Mỹ hay bất cứ đâu mà không có em. Chúng ta sẽ lấy nhau, ngay lập tức. Dĩ nhiên là ở bên đó đời sống chẳng toàn mầu hồng đâu: mọi người chỉ cho một học bổng nghèo lắm, như vậy anh bắt buộc sẽ phải làm việc thêm, nhưng em cũng đi làm thì bọn mình sẽ sống được lắm.
Karen không trả lời ngay... nàng nói nho nhỏ:
- Bây giờ em chưa có thể đi được. Ở đây mọi người vừa mới bắt đầu xây cất những căn nhà đầu tiên. Các anh ấy phải làm việc hai mươi giờ một ngày... Mọi người đang cần đến em ở đây. Anh đi một mình đi, anh Dov! Em sẽ đợi anh mà, anh biết thế mà. - Không đâu! Đổi cả thế giới, anh cũng không chịu sống hai năm xa em đâu. Hai ngày thôi không thấy em, anh đã không chịu nổi rồi.
Đột ngột, Dov ôm lấy Karen, hôn nàng như mưa và nàng hôn trả lại cuồng nhiệt không kém. Chưa chi các bàn tay của hai người đã lạc lõng trên thân thể nhau; họ quấn lấy nhau, buông thả dần cho nhau... Karen thở hổn hển nói:
- Vâng anh Dov! Bây giờ đi anh yêu...
Dov cố gỡ ra. Hai tay nắm lại, chàng đứng dậy:
- Bọn mình mất bình tĩnh rồi, Karen. Không nên như vậy... đừng khóc em, anh van em.
Karen nức nở:
- Chúng ta sẽ làm sao đây? Chúng ta sẽ trở thành sao đây, anh? Em không thể tiếp tục sống mãi như thế này được. Khi anh không có đây, em có cảm tưởng em không còn sống nữa và khi anh đến, cả hai đứa đều đau khổ... em cần có anh biết bao, cần đến muốn hét lên được, anh. - Thế Karen tưởng anh sướng hơn sao? Đó là lỗi tại anh... nếu chúng ta không để bị lôi cuốn đi như thế... - Nhưng em yêu anh mà, anh Dov. Em đâu có xấu hổ vì muốn hiến thân cho anh. - Anh sẽ không làm bất cứ gì thương tổn đến em... làm cho em phải hối tiếc... Ô, Karen, em yêu, anh không còn biết...
Trong một khoảng thời gian dài, hai người im lặng, cố gắng chống lại lòng thèm muốn nhau đang làm toàn thân họ run rẩy. Sau cùng, Karen nói bằng một giọng tiếc nuối: Thôi chúng ta về kibboutz đi anh.
|
|
|
Post by sheen on Feb 24, 2024 10:38:16 GMT -6
Phần V => Chương 5
Để cử hành lễ phục sinh, tất cả sẽ tụ họp ở Yad El, tại nhà của Sarah Ben Canaan. Có Kitty Fremont, Bruce Sutherland, Dov Landau và Jordana. Thiếu tướng Ari Ben Canaan đến sau chót. Khi trông thấy Kitty, Ari cố giấu xúc động: rất lâu, viên sĩ quan quân lực Israël và người nữ điều dưỡng Hoa-kỳ nhìn nhau trong một im lặng đầy những lời mà không một người nào dám thốt lên. Sarah và Jordana đã lảng tránh vào bếp. Sutherland cầm lấy tay Dov kéo ra vườn. Vị tướng già Anh nói đối với Dov:
- Thiếu tá hãy nói cho tôi biết một chút về dự án dẫn thủy ấy. Hình như thiếu tá định tát hết nước hồ Houleh sang hồ Tibériade phải không. Đây không phải là một công cuộc nhỏ bé đâu...
Còn lại có hai người, Kitty và Ari tiếp tục im lặng. Có lẽ người nào cũng tìm cách mở đầu cho câu chuyện bình thường. Sau cùng nàng nói: Anh có vẻ khỏe lắm, anh Ari.
- Tôi cũng định nói cô như vậy. Thế... dạo này Karen ra sao? Nàng không đến sao? - Có chứ. Chúng tôi đang chờ, con bé có thể đến bây giờ. - Vậy hả... tốt lắm... tôi đang tự hỏi... cô có thích đi dạo một chút trước bữa cơm tối không? Chúng ta có thể đi ngoài cánh đồng... - Vâng.
Trong con đường nhỏ, Ari liếc nhìn nàng. Nàng đẹp quá! Còn đẹp hơn những hình ảnh nàng trong kỷ niệm của chàng nữa.
Kitty thốt lên một tiếng thở dài.
- Tình hình ở Néguev chắc ghê khiếp lắm phải không anh, với các cuộc tấn công của bọn fedayeen. Thẳng thắn mà nói: tôi run lên khi tưởng tượng đến cuộc sống của Karen ở Nahal Misbar. Chỗ đó có vẻ nguy hiểm lắm...
Ari đồng ý.
- Một nơi thê thảm lắm. Nhưng Karen trẻ tuổi, và tuổi trẻ của chúng ta chịu đựng được tất cả mọi sự.
Kitty thầm nghĩ: "Quả thực chàng chẳng thay đổi gì. Chắc chàng không bao giờ thay đổi hết".
Ari nói tiếp: Mọi người nói với tôi là cô định trở về Mỹ. Tại sao cô lại rời bỏ chúng tôi?
- Ồ, có gì đâu. Tôi tin chắc rằng không có tôi, Israël vẫn vững như thường. Anh thấy Dov đó, hắn đã trở thành một thanh niên hoàn toàn. Có hắn, tôi không cần phải lo cho Karen nữa. Sau cùng, bây giờ tôi có thể nghĩ đến thân tôi. Tôi bắt đầu nhớ quê hương sau bao nhiêu năm xa cách.
Vì Ari không trả lời, nàng quay về phía nhà.
- Tôi nghĩ là Karen chắc sắp về đến nơi. Tôi muốn con bé thấy tôi ngay khi về tới nơi. - Kitty... hãy ngừng lại một chút đã... tôi muốn nói tôi rất chịu ơn về những gì Kitty đã làm cho Jordana. Kitty đã là một nguồn an ủi lớn cho nàng, trong cơn đau buồn. - Jordana khổ sở lắm. Không ai có thể biết Jordana đã yêu David đến mức độ như thế nào đâu. - Kitty có tin rằng một ngày kia Jordana sẽ thắng nỗi buồn đó không? - Tôi chịu không biết được anh ạ. Tuy thế, cứ sống mãi trong xứ này, tôi đâm ra lạc quan. Tôi cho là rồi Jordana cũng sẽ được biết tới hạnh phúc.
Một câu hỏi câm nín như treo lơ lửng giữa chàng và nàng. Liệu chính hai người một ngày kia có được biết đến hạnh phúc không?
Đột nhiên nàng nói: Chúng ta về thôi anh.
Hai giờ sau, khi Sarah gọi hai người tới ngắm bàn ăn đã bầy biện cho buổi lễ, Kitty sốt ruột.
- Quỉ bắt con bé đó đi cho rồi! Bao giờ cũng lỉnh kỉnh chậm trễ... nó biết chúng ta mong đợi nó kia mà. Ít nhất cũng phải điện thoại cho biết tại sao về trễ chứ.
Sutherland lắc cái đầu: Đừng có nóng nẩy thế, Kitty. Vào ngày lễ, phải mất cả giờ mới gọi được điện thoại.
Ari đề nghị:
- Để tôi qua nhà làng một chút. Lấy quyền ưu tiên gọi kibboutz của Karen, tôi sẽ biết nàng ra đi và theo lộ trình nào.
Ari đã đi. Mọi người sang cả phòng ăn. Trên bàn lớn, các cây nến đã được thắp sáng. Các chén bạc cổ đã được bầy ra thay thế cho ly tách. Ở giữa bàn là một cái đĩa chân cao bằng vàng đựng các thực phẩm tượng trưng: cái xoong loan báo mùa xuân trở lại, xương cừu để tưởng nhớ đến các vụ tế thần ở đền Salomon, cỏ đắng tượng trưng cho sự cay đắng phải làm nô lệ xưa kia ở Ai-cập. Trước mỗi đĩa là matèc, bánh mì không men bởi vì lệnh truyền rời Ai-cập ban ra đột ngột đến nỗi các bộ tộc Israël không có đủ thì giờ làm dậy men nữa.
Họ trở lại phòng khách, Jordana là người đầu tiên trông thấy Ari, mặt tái xanh, ngơ ngác, ủ rũ tì người vào thành lò sưởi. Trông thấy Ari như vậy, Kitty hét lên: Karen! Karen đâu?
Ari phải cố gắng ghê gớm mới nói được nên lời: Karen chết rồi. Bị bọn fedayeen ám sát đêm hôm qua trong miền Gaza.
Sutherland bước tới quá chậm để đỡ Kitty ngất đi.
Kitty đã hồi tỉnh. Đẩy Jordana đã nghiêng người xuống mình ra, nắm lấy cổ tay Sutherland, nàng đứng dậy.
- Dov đâu? Tôi phải gặp hắn.
Nàng tìm thấy Dov trong phòng bên cạnh. Ngồi xụp trong một chiếc ghế, mắt bất động, chàng không buồn ngừng đầu lên nữa. Mãi khi Kitty vòng tay ôm, chàng mới để nỗi buồn xâm chiếm mình tự do. Hai người khóc trong vòng tay nhau tới khi không còn nước mắt nữa.
- Dov... nghe cô đây... cô không biết nói gì... cô sẽ ở lại xứ này cùng với mọi người...
Dov gỡ khỏi tay Kitty.
- Cám ơn cô... em sẽ can đảm, xin hứa với cô như thế. Em muốn dù chết đi rồi, Karen vẫn kiêu hãnh được về em.
Hai người quay lại khi nghe thấy tiếng cửa mở. Giọng của Sarah cất lên, run rẩy:
- Tôi xin lỗi, nhưng Ari ở có một mình trong vựa lúa...
Băng qua sân, Kitty trông thấy những ánh sáng bắt đầu được thắp lên trong các nhà khác trong làng. Phục sinh đã bắt đầu, tụ họp trong các gia đình quanh bữa cơm ngày lễ. Trong vựa thóc tối tăm nàng không tìm ra ngay được Ari đang nằm dài trên một kiện rơm, lưng quay ra phía cửa vào. Nàng cúi xuống, chạm vào vai chàng.
- Anh Ari... đừng nên quên ngày lễ.
Đến lúc ấy, nàng mới nhận ra hai vai chàng đang rung lên trong một nức nở không thành tiếng. Chậm chạp, Ari quay lại, thì thào:
- Suốt đời tôi... suốt đời tôi chỉ trông thấy những người thân yêu của tôi bị giết chết. Những người thân yêu của tôi. Tôi chết cùng với họ. Mỗi lần tôi như chết cùng với họ. Tôi chỉ còn là một cái xác không... - Anh Ari... không nên... - Tại sao chúng ta cứ bắt buộc phải tranh đấu để sống còn? Tại sao thế?
Chàng đứng dậy, chệnh choạng. Hai tay nắm chặt lại, chàng như chất vấn Hóa công:
- Chúa ơi, tại sao chúng không chịu để chúng con sống bình an? - Anh Ari... em cũng thế, em đã làm anh đau khổ. Em đã xua đuổi anh... Anh Ari, liệu một ngày kia anh có thể tha thứ cho em không?
Ari đi qua nàng, nói nhỏ:
- Tôi không còn là tôi, Kitty cần nhất đừng có nói với ai là Kitty đã trông thấy tôi trong tình trạng vừa rồi nhé. - Thôi, chúng ta trở lại với mọi người đi.
Đột nhiên Ari quay lại, tiến về phía nàng, buông mình quì xuống. Chàng vòng tay ôm lấy ngang người nàng, đầu chàng tìm một nơi nương tựa trên thân thể nàng. Đến khi ấy, nước mắt chàng mới trào ra.
Quá xúc động, Kitty đưa tay vuốt tóc chàng. Ari nói qua tiếng nức nở: Đừng bỏ anh, Kitty. Đừng có ra đi, Kitty!
Những lời nói nàng đã chờ đợi từ biết bao lâu rồi! Nàng thầm nghĩ: "Vâng, em sẽ không rời bỏ anh, ngày hôm nay cũng như hai hay ba tuần lễ tới, ngày nào anh còn cần có em. Cho tới ngày mà anh lại trở thành thiếu tướng Ari Ben Canaan, vị anh hùng không xúc động bao giờ mà cuộc đời chỉ là để cho thảm kịch và đấu tranh. Đến lúc đó, anh đâu cần tới em nữa".
Nàng giúp chàng đứng dậy. Chưa chi, Ari đã tìm lại được sức mạnh của mình. Nhưng trước khi trở vào nhà, chàng cầm lấy cánh tay nàng.
- Kitty, cho đến nay chưa bao giờ tôi có can đảm để thú nhận... bây giờ là lúc em phải biết rõ điều này: tôi chưa bao giờ yêu Dafna được bằng yêu em. Dĩ nhiên là cuộc sống mà tôi có thể mang lại cho em thì... - Em biết, anh Ari. Em chấp nhận cuộc sống như thế. - Tôi không giống như tất cả mọi người, tôi biết rõ như vậy và hối tiếc tại sao mình lại là như thế. Có thể sẽ nhiều năm tháng qua nữa tôi mới lại nói được tôi cần có em trước hết, thứ yếu mới đến đất nước tôi. Liệu em có thể hiểu được như thế không, Kitty? - Em hiểu chứ, em sẽ hiểu anh mãi mãi.
Tất cả mọi người đã hội họp trong phòng ăn. Đàn ông đều đội mũ tròn đen úp lấy đầu. Khi Ari định tiến lại chỗ ngồi danh dự, Sutherland rụt rè chạm vào cánh tay chàng. - Thứ lỗi cho sự đường đột của tôi. Tôi là người Do-thái cao niên nhất trong căn phòng này, liệu tôi có thể xin thiếu chủ vinh hạnh được hướng dẫn cầu nguyện chăng? - Chúng tôi rất hân hạnh.
Sutherland ngồi vào chỗ dành cho người trưởng gia đình. Mỗi người đều mở cuốn Haggadah, sách lễ phục sinh.
Sutherland ra dấu mời Dov Landau mở đầu.
Bằng một giọng run run, Dov đọc:
- Tại sao đêm nay lại khác với tất cả các đêm khác trong năm?
Đêm nay khác với tất cả các đêm khác trong năm bởi vì đêm nay chúng ta ca tụng giây phút quan trọng nhất trong Lịch sử của dân tộc chúng ta. Đêm nay, chúng ta mừng cho cuộc khởi hành chiến thắng từ nô lệ tới tự do của đất nước chúng ta.
THẾ UYÊN dịch THE EXODUS SONG
The Exodus Song
This land is mine, God gave this land to me This brave, this ancient land to me And when the morning sun reveals her hills and plain Then I see a land where children can run free
So take my hand and walk this land with me And walk this lovely land with me Though I am just a man when you are by my side With the help of God I know I can be strong
So take my hand and walk this land with me And walk this golden land with me Though I am just a man when you are by my side With the help of God I know I can be strong
To make this land our home If I must fight, I'll fight to make this land our own Until I die this land is mine
Pat Boone
|
|